Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Đảng bộ quận 9, thành phố hồ chí minh lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1997 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 161 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**********

PHẠM MẠNH TRÁNG

ĐẢNG BỘ QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI
GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 1997-2011

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**********

PHẠM MẠNH TRÁNG

ĐẢNG BỘ QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI
GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 1997-2011
LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Chuyên ngành: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mã số: 60 – 22 – 56
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM NGỌC TRÂM



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

1.

CP: Chính phủ.

2.

GDP: Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm nội địa.

3.

HDI: Human Development Index - Chỉ số phát triển con người.

4.

IMF: International Monetary Fund - Quỹ Tiền tệ Quốc tế

5.

Quỹ 71: Quỹ Quốc gia về việc làm (Quỹ 71).

6.

Quỹ 140: Quỹ xóa đói giảm nghèo.


7.

Quỹ 157: Quỹ hỗ trợ học sinh, sinh viên.

8.

Quỹ 156: Quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho người có đất

bị thu hồi.
9.

Quỹ CEP: Quỹ trợ vốn tự tạo việc làm cho người lao động nghèo.

10.

UBND: Ủy ban nhân dân.

11.

UN: United Nation – Liên Hiệp quốc.

12.

WBG: World Bank Group - Ngân hàng Thế giới.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Đảng bộ Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh lãnh
đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1997-2011” do tôi nghiên

cứu. Các số liệu, dẫn chứng của đề tài có nguồn gốc, trích dẫn rõ ràng.
Nếu khơng đúng, tơi xin chịu hoàn toàn mọi trách nhiệm.


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Phạm Ngọc Trâm –
người hướng dẫn khoa học. Thầy đã vơ cùng tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn
thành luận văn. Thầy đã giúp tơi học hỏi rất nhiều điều, cũng như truyền đạt những
kinh nghiệm quý báu của Thầy để tôi trưởng thành hơn trên con đường học tập,
nghiên cứu khoa học trong thời gian tới.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả quý Thầy, Cơ đã tận tình dạy dỗ, truyền
đạt kiến thức trong suốt quá trình học tập của lớp Cao học Lịch sử Đảng 2010-2012
(Đợt 2).
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu nhà trường, Khoa Lịch sử,
Phòng Sau Đại học, các Khoa, Phòng liên quan, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh đã tạo mọi điều kiện cho chúng tơi học tập, hồn thành chương trình cao
học và bảo vệ luận văn thạc sỹ.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng bản thân có kiến thức cịn hạn chế, chưa
có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu khoa học nên luận văn cịn nhiều thiếu sót. Tơi rất
mong được sự góp ý của q Thầy, Cơ, các bạn học viên để luận văn hoàn thiện
hơn.


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

13.

CP: Chính phủ.


14.

GDP: Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm nội địa.

15.

HDI: Human Development Index - Chỉ số phát triển con người.

16.

IMF: International Monetary Fund - Quỹ Tiền tệ Quốc tế

17.

Quỹ 71: Quỹ Quốc gia về việc làm (Quỹ 71).

18.

Quỹ 140: Quỹ xóa đói giảm nghèo.

19.

Quỹ 157: Quỹ hỗ trợ học sinh, sinh viên.

20.

Quỹ 156: Quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho người có đất

bị thu hồi.
21.


Quỹ CEP: Quỹ trợ vốn tự tạo việc làm cho người lao động nghèo.

22.

UBND: Ủy ban nhân dân.

23.

UN: United Nation – Liên Hiệp quốc.

24.

WBG: World Bank Group - Ngân hàng Thế giới.


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1
NỘI DUNG ............................................................................................... 8
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN
QUAN ĐẾN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI
GIẢM NGHÉO Ở QUẬN 9 ........................................................................ 8
1.1. Khái niệm và tiêu chí xác định đói nghèo............................................. 8
1.1.1. Quan niệm của thế giới ................................................................... 8
1.1.2. Quan niệm về đói nghèo của Việt Nam ............................................. 15
1.2. Quan điểm mác-xít về đói nghèo và chủ trương, chính sách xóa đói
giảm nghèo của Việt Nam ......................................................................... 21
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
đói nghèo .................................................................................................. 21

1.2.2. Chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam từ đổi mới đến nay… 26
Chương 2. QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN 9 (1997-2011) ......... 39
2.1. Đặc điểm tình hình quận 9 ................................................................. 39
2.1.1. Tổng quan ...................................................................................... 39
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội quận 9....................................................... 41
2.1.3. Thực trạng đói nghèo ở quận 9 ........................................................ 44
2.1.4. Đặc điểm hộ nghèo ở quận 9

........................................................ 45

2.2. Đảng bộ quận 9 lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
(1997-2008) ................................................................................................ 52
2.2.1. Chính sách xóa đói giảm nghèo của thành phố và quận 9 .................. 52
2.2.2. Cơng tác lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của
Đảng bộ Quận (1997-2008) ........................................................................ 57
2.3. Đảng bộ quận 9 lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
(2009-2011) ................................................................................................ 81
2.3.1. Chính sách xóa đói giảm nghèo của thành phố và quận 9 .................. 81
2.3.2. Cơng tác lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của
Đảng bộ Quận (2009-2011) ........................................................................ 84


Chương 3. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH
NGHIỆM TRONG Q TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH XĨA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN 9
(1997-2011) .................................................................................................. 88
3.1. Nhận xét, đánh giá quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo của Đảng bộ quận 9 (1997-2011) ............................................. 88
3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân .................................................................. 88

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân ................................................................. 99
3.2. Bài học kinh nghiệm của q trình lãnh đạo thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo của Đảng bộ quận 9 ........................................................... 104
3.3. Những đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo trên địa bàn quận 9 trong thời gian tới ............................... 107
3.3.1. Đặc điểm tình hình và những vấn đề đặt ra cho cơng tác lãnh đạo
thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới ....................... 107
3.3.2. Những đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo trên địa bàn quận 9 ...................................................... 109
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

................................................ 115

PHẦN PHỤ LỤC ...................................................................................... 125


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam đã từng nói: “…Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước tơi được hồn tồn độc lập, dân tơi được hồn tồn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành...” [51; 161]. Tư tưởng
đó của Người cũng chính là mục tiêu của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [22; 70]. Để xây dựng xã
hội đó, Đảng và Nhà nước phấn đấu thực hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách
khác nhau, trong đó, xóa đói giảm nghèo là một chính sách quan trọng vì mục tiêu
an sinh xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại hội VIII của Đảng, năm 1996, lần đầu tiên xác định xóa đói giảm nghèo
là một chương trình quan trọng, một mục tiêu lớn trong chính sách của Đảng. Đại
hội nêu rõ: “Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng
căn cứ cách mạng, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ
xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ,
đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả” [23; 115].
Trong q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, mục tiêu xóa đói giảm nghèo
được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đạt nhiều kết quả to lớn. Đến
nay, đất nước ta được đánh giá là hoàn thành tốt tiến độ và vượt các mục tiêu thiên
niên kỷ đặt ra về xóa đói giảm nghèo. Những thành quả của xóa đói giảm nghèo đã
tạo nên bộ mặt tốt đẹp cho xã hội, xây dựng lòng tin và nâng cao quyết tâm thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày nay, xóa đói giảm nghèo là một mục tiêu trong chính sách xã hội
được Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với mục tiêu tăng trưởng kinh tế: “Kết hợp
các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực,


2

địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh
tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và
bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội” [25; 101]. Cho nên, xóa đói giảm
nghèo ln là một yêu cầu quan trọng mà các địa phương phải chú trọng giải quyết
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội.
Thành phố Hồ Chí Minh là một đơ thị năng động nhất của cả nước. Thành
phố luôn đi đầu trong thực hiện nhiều chủ trương quan trọng của Đảng, trong đó có
cơng tác xóa đói giảm nghèo. Thành phố là địa phương đầu tiên đề ra chính sách

xóa đói giảm nghèo vào năm 1992. Trong quá trình phát triển, Thành phố cũng là
địa phương sáng tạo với những hình thức tổ chức, những cuộc vận động rộng lớn vì
người nghèo. Ngày 9-4-2001, Thành phố phát động cuộc vận động Vì người nghèo
trên địa bàn toàn Thành phố, mở đầu cho phong trào vận động Vì người nghèo trong
cả nước [98]. Từ đó, mơ hình xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn Thành phố đã chính
thức được nhân rộng ra cả nước. Cuộc vận động đã xuất hiện nhiều tấm lòng hảo
tâm, nhiều tấm gương vượt khó, tập thể điển hình, cá nhân tiêu biểu hưởng ứng tích
cực cuộc vận động. Chính tinh thần sẻ chia, yêu thương, đùm bọc nhau đã làm cho
chương trình có sức lan tỏa mạnh mẽ và thành cơng vượt bậc, làm cho biết bao mái
nhà, hoàn cảnh, số phận đã được thay đổi, vươn lên.
Là một địa bàn ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh, đầu những năm
1990, trong các quận, huyện của Thành phố, địa bàn Quận 9 có số hộ nghèo cao
nhất. Nhưng kể từ khi thành lập Quận (năm 1997), cùng với sự phát triển nhanh
chóng của Thành phố và thực hiện cuộc vận động Vì người nghèo cũng như chính
sách xóa đói giảm nghèo, Đảng bộ và nhân dân Quận 9 đã đưa kinh tế - xã hội của
Quận phát triển không ngừng, cùng với đó là những thành tích xóa đói giảm nghèo
to lớn – năm 2011 chỉ còn 5,03%. Thành quả đó khẳng định vai trị lãnh đạo của
Đảng bộ Quận 9 trong lãnh đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, trong đó
có chính sách xóa đói giảm nghèo.


3

Tuy nhiên, cơng tác xóa đói giảm nghèo đối với Việt Nam nói chung, đối
với Quận 9 nói riêng vẫn đang là một trong những vấn đề nóng bỏng, mang tính
thời sự sâu sắc vì cơng tác xóa đói giảm nghèo chưa mang tính bền vững, hiện
tượng tái nghèo khá phổ biến. Đồng thời, từ năm 2011 một chuẩn nghèo mới được
áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 đã làm cho tỷ lệ nghèo tăng lên. Tình hình đó tiếp
tục đặt ra những thách thức lớn cho cơng tác xóa đói giảm nghèo đối với Quận 9,
địi hỏi Đảng và chính quyền địa phương phải thực hiện chính sách xóa đói giảm

nghèo mang tính khoa học hơn và tổ chức triển khai một cách quyết liệt hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, đồng thời để hồn thành chương trình cao
học, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1997-2011” để làm luận văn tốt nghiệp
của mình. Luận văn đã đánh giá quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
trong thời gian qua tại Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh cũng như rút ra những bài
học kinh nghiệm góp phần thực hiện chính sách này tốt hơn trong thời gian tới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đem lại cuộc sống tốt đẹp cho
nhân dân là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Do đó, từ khi đất nước đổi mới
(năm 1986) đến nay có nhiều cơng trình nghiên cứu về việc thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo, trong đó nổi bật là những cơng trình sau:
Diễn biến mức sống dân cư, phân hóa giàu nghèo và các giải pháp xóa đói
giảm nghèo trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam nhìn từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh, do PGS. TS. Nguyễn Thị Cành chủ biên, Nxb Lao động - Xã hội,
năm 2001. Cơng trình nghiên cứu một cách tổng quan về thực trạng mức sống dân
cư, phân hóa giàu nghèo trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam. Tác
phẩm giúp cho chúng tôi nhận thức rõ hơn mức sống và tình hình phân hóa giàu
nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh.
Ngơ Văn Lệ (2003), Thực trạng kinh tế - xã hội và những giải pháp xóa đói
giảm nghèo ở người Khmer tỉnh Sóc Trăng, NXB. Đại học Quốc gia thành phố Hồ


4

Chí Minh. Cơng trình này nghiên cứu thực trạng đời sống kinh tế - xã hội của người
Khmer tỉnh Sóc Trăng, làm rõ những tích cực, hạn chế và những ngun nhân của
tình trạng đói nghèo. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp góp phần xóa đói giảm
nghèo cho người Khmer tỉnh Sóc Trăng.
Một số vấn đề cấp bách trong q trình Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

của người Khmer ở Đồng bằng Sơng Cửu Long của PGS. TS. Võ Văn Sen chủ
biên, năm 2010. Tác phẩm phản ánh thực trạng kinh tế - xã hội của người Khmer ở
Đồng bằng Sơng Cửu Long, trong đó làm rõ tình hình đói nghèo. Cơng trình đã đưa
ra nhiều giải pháp góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách của
người Khmer ở Đồng bằng Sơng Cửu Long.
Thực trạng đói nghèo và một số giải pháp xóa đói giảm nghèo đối với các
dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên của tác giả Bùi Minh Đạo - NXB Khoa học Xã hội,
năm 2005. Đề tài làm rõ về thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của các dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên. Từ đó, tác giả đưa ra những quan điểm và giải pháp xóa đói
giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số khu vực này. Cũng nghiên cứu về đề
tài xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tác giả Hà Quế Lâm cũng
có cơng trình Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay – Thực
trạng và giải pháp - NXB CTQG,2002. Cơng trình này được tác giả nghiên cứu ở
khơng gian rộng hơn, đó là thực trạng và giải pháp xóa đói giảm nghèo đối với vùng
dân tộc thiểu số trên cả nước.
Tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh
trong những năm qua cũng có hàng loạt luân văn nghiên cứu về đề tài xóa đói giảm
nghèo. Tiêu biểu như: Đảng bộ thành phố Cần Thơ lãnh đạo và thực hiện công tác
xóa đói giảm nghèo (1996-2006) của Nguyễn Thị Tú Trinh; Q trình lãnh đạo
thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ huyện Nhà Bè từ năm 1997
đến 2008 của Phạm Văn Phương; Xóa đói giảm nghèo ở huyện Châu Phú, tỉnh An
Giang hiện nay của Phạm Thanh Hải; Đảng bộ tỉnh Bình Phước lãnh đạo thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số (1997-2010)


5

của Bùi Viết Trung; Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo thực hiện cơng tác xóa đói
giảm nghèo (2001-2010) của Nguyễn Thị Túy.
Những cơng trình nghiên cứu trên đây đã giúp cho chúng tơi có cái nhìn

tồn diện hơn về tình trạng đói nghèo và q trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ
trương xóa đói, giảm nghèo của nhiều Đảng bộ, hệ thống chính trị ở nhiều địa
phương. Tuy nhiên, những cơng trình trên đều nghiên cứu ở lĩnh vực vĩ mô hoặc
nghiên cứu ở những lĩnh vực nhất định, địa bàn cụ thể. Nghiên cứu về quá trình
lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ Quận 9, thành phố
Hồ Chí Minh chưa có một cơng trình nào trực tiếp bàn đến một cách tồn diện và có
hệ thống.
Với thực tế trên, luận văn được triển khai trên cơ sở kế thừa, học hỏi những
lý luận chung, những thành quả và kinh nghiệm nghiên cứu của các cơng trình đã
cơng bố, từ đó phát triển một hướng đi khá độc lập cho mình là đi sâu nghiên cứu
quá trình Đảng bộ Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1997-2011.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn:
+ Làm rõ quá trình Đảng bộ Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1997-2011.
+ Chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của
quá trình đó góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
trên địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn tới.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, tình hình có liên quan đến
việc lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ Quận 9 thành
phố Hồ Chí Minh.


6

+ Làm rõ q trình lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của
Đảng bộ Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1997-2011.
+ Làm rõ những kết quả đạt được, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của

q trình lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ Quận 9,
thành phố Hồ Chí Minh góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo thực hiện chính sách
này trên địa bàn Quận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: sự lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo của Đảng bộ Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu việc lãnh đạo thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh trong giai
đoạn 1997-2011 (kể từ khi quận 9 được thành lập cho đến nay). Cạnh đó, để đánh
giá đúng q trình lãnh đạo của Đảng bộ quận 9 trong thực hiện chính sách này,
luận văn có sự so sánh với kết quả đạt được trong thời gian trước năm 1997.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà
nước, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Đảng bộ Quận 9 trong lĩnh vực kinh tế và
xóa đói giảm nghèo.
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp lịch
sử, logíc, thống kê, phỏng vấn, chuyên gia, phân tích và tổng hợp, so sánh để làm rõ
hơn những vấn đề mà đề tài đặt ra. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, tác giả
cịn tiến hành khảo sát thực địa, điều tra xã hội học để có cái nhìn thực tiễn hơn cho
đề tài.


7

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Chương 2. Quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo

của Đảng bộ Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1997-2011
Chương 3. Nhận xét, đánh giá và những bài học kinh nghiệm trong q
trình lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ Quận 9,
Thành phố Hồ Chí Minh (1997-2011)


8

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI
GIẢM NGHÈO Ở QUẬN 9
1.1. Khái niệm và tiêu chí xác định đói nghèo
1.1.1. Quan niệm của thế giới
Khái niệm
Ngày nay, với những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ xã hội loài
người ngày càng phát triển và trở nên hồn thiện hơn. Con người có cuộc sống đầy
đủ, tiện nghi và hiện đại. Tuy nhiên, trong bức tranh thế giới đương đại mn hình
mn vẻ ấy, tình trạng phân hóa giàu nghèo, một bộ phận người sinh sống dưới
mức cơ bản đang diễn ra phổ biến. Trong số 6 tỷ người trên thế giới hiện nay, vẫn
còn 2,8 tỷ người sống dưới mức 2 USD/ngày, 1,2 tỷ người sống dưới mức 1
USD/ngày. Ở những nước nghèo nhất thế giới, tỷ lệ trẻ em không sống được đến 5
tuổi là 20%, trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là 50% [3; 51]. Rõ ràng, tình
trạng đói nghèo đang diễn ra như là bức tranh tương phản đối với sự phát triển của
thế giới hiện nay. Vấn đề đói nghèo đã và đang được các quốc gia nghiên cứu trong
chính sách phát triển đất nước. Tuy nhiên, hiểu thế nào là nghèo đói và tiêu chí nào
để xác định? Các nhà nghiên cứu đều cho rằng, nghèo đói là tình trạng một nhóm
người trong xã hội khơng có khả năng được hưởng một “cái gì đó”. Nhưng cái gì đó
được hiểu theo nhiều cách khác nhau.

Những người theo trường phái phúc lợi xã hội [40; 11] thì xem “cái gì đó”
là mức phúc lợi kinh tế cần thiết để đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu theo tiêu chuẩn
của xã hội. Đây là cách hiểu cơ bản nhất. Quan niệm này toát lên ba vấn đề:
Một là, mức phúc lợi kinh tế cần thiết để đảm bảo cho cuộc sống kinh tế tối
thiểu.


9

Hai là, mức phúc lợi đó do mỗi tiêu chuẩn xã hội quy định. Tiêu chuẩn này
thay đổi theo từng quốc gia, từng địa phương khác nhau.
Ba là, mức phúc lợi theo tiêu chuẩn xã hội cũng phụ thuộc vào từng thời kỳ
nhất định. Trong mỗi giai đoạn, khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì tiêu chuẩn
đó cũng thay đổi.
Ở đây, phúc lợi kinh tế là một khái niệm mang tính trừu tượng cao nên
thường được đồng nhất với một khái niệm khác cụ thể hơn là mức sống. Do vậy,
tăng thu nhập là cách giải quyết tình trạng đói nghèo của xã hội. Tức là, cơng việc
xóa đói giảm nghèo là phải tạo ra việc làm, tăng năng suất,… để tạo ra thu nhập cho
người dân. Đây cũng là một cách hiểu nhưng chưa bao quát đầy đủ. Bởi vì trong xã
hội, bao giờ cũng có một nhóm dân cư có mức sống thấp hơn các nhóm dân cư
khác, kể cả các nước phát triển. Ngay cả trong cùng một nhóm nghèo cũng có sự
phân chia khác nhau, có nhóm có cuộc sống vơ cùng cơ cực, khơng đủ ăn, khơng có
điện, nước để sinh hoạt,… Do vậy, cách hiểu này chỉ đưa ra cách đánh giá đói
nghèo tương đối. Hơn nữa, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, các chính sách tăng
trưởng kinh tế,… làm cho thu nhập xã hội tăng lên, kể cả nhóm nghèo trong xã hội,
nhưng bộ phận nghèo nhất vẫn còn một khoảng cách thu nhập khá xa, nhất là đối
với nhóm giàu có. Chính khoảng cách này đã tạo ra sự bất bình đẳng của xã hội. Do
đó, nhận thức vấn đề nghèo đói chỉ dựa vào tiêu chí phúc lợi kinh tế thì chỉ giới hạn
trong việc tìm kiếm một chuẩn nghèo chung mà không đánh giá đầy đủ tình trạng
nghèo đói như nguồn gốc nảy sinh nghèo đói xuất phát từ cơ chế của nền kinh tế,

những quyền lợi cơ bản trong xã hội mà họ không được hưởng,… Từ đó, việc giải
quyết vấn đề đói nghèo chỉ đi vào bề ngoài như giải quyết việc làm, tăng thu nhập,
thậm chí mang tính cứu tế, từ thiện mà thiếu đi những biện pháp giúp người nghèo
vươn lên, khắc phục căn ngun tình trạng đói nghèo.
Quan niệm về đói nghèo theo nghĩa rộng hơn, những người theo phái nhu
cầu cơ bản [40 ;12]xem xét đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận


10

tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương trong những
giai đoạn nhất định. Quan niệm này toát lên ba vấn đề:
Một là, căn cứ để xem xét nghèo đói là nhu cầu cơ bản của con người như
ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, y tế, giao thông công cộng,….
Hai là, về không gian, nhu cầu cơ bản đó phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế xã hội của từng quốc gia, địa phương khác nhau. Nhu cầu cơ bản theo tiêu
chuẩn xã hội sẽ khác nhau giữa các quốc gia phát triển, đang phát triển và kém phát
triển, giữa vùng đô thị với vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
Ba là, về thời gian, nhu cầu cơ bản phụ thuộc vào từng thời kỳ phát triển
kinh tế - xã hội nhất định. Trong mỗi giai đoạn khác nhau đó, khi kinh tế - xã hội có
sự thay đổi, tiêu chuẩn về nhu cầu cơ bản sẽ thay đổi theo, hay chuẩn nghèo sẽ tăng
lên.
Trường phái này được khởi đầu bằng quan niệm về đói nghèo của nhà kinh
tế người Anh Seebohm Rowntree từ những năm 1900. Qua cách đánh giá theo
trường phái này, hiện tượng đói nghèo được xem xét tương đối bao quát và đầy đủ
hơn. Từ đó, chính sách xóa đói giảm nghèo khơng chỉ là việc tăng thu nhập mà phải
là tổng hợp từ nhiều yếu tố khác nữa như là chính sách về giáo dục, y tế, nông
nghiệp, công nghiệp… để đưa người nghèo vượt lên chính mình, khắc phục được
căn ngun của nó.

Quan niệm này được thể hiện một cách rõ ràng nhất qua định nghĩa về đói
nghèo tại Hội nghị của Ủy ban Kinh tế - xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương
(ESCAP) vào năm 1993 như sau: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
khơng được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã
hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của
các địa phương” [60; 24]. Đây là định nghĩa định hướng cho việc nhìn nhận về vấn
đề đói nghèo cũng như đưa ra chính sách xóa đói giảm nghèo của các quốc gia.


11

Hiện nay, quan niệm về đói nghèo cịn được hiểu theo năng lực của con
người. Đây là quan niệm của trường phái năng lực [40; 13]. Trường phái này được
khởi đầu bởi nhà kinh tế học người Mỹ gốc Ấn Độ, Amartya Sen, từ những năm 80
của thế kỷ XX. Theo quan niệm của trường phái này, nhu cầu cơ bản là những điều
kiện thiết yếu. Tuy nhiên, những nhu cầu đó cũng tùy thuộc vào tuổi tác, giới
tính,… và nhiều đặc điểm cá nhân khác. Và khi những yếu tố đó thay đổi thì nhu
cầu cơ bản của con người cũng biến đổi theo. Do đó, trường phái này chú trọng đến
năng lực của con người có thể đảm bảo được cuộc sống của chính họ. Tức là chính
sách xóa đói giảm nghèo phải đi từ giải quyết những nhu cầu cơ bản như dinh
dưỡng, ở, sinh hoạt, giáo dục,… đến những nhu cầu cao hơn như sự dân chủ tham
gia vào các công việc xã hội, để giúp con người có đủ năng lực thực hiện những
quyền, nghĩa vụ của họ. Từ đó, con người tự mình thốt khỏi tình trạng đói nghèo,
vươn lên trong cuộc sống.
Quan niệm về đói nghèo của trường phái năng lực hiện được nhiều tổ chức
quốc tế như World Bank, Liên Hợp quốc,.. thống nhất và sử dụng các tiêu chí đó để
đánh giá về tình trạng đói nghèo. Như vậy, quan niệm về đói nghèo trên thế giới
hiện nay được xác định trên những khía cạnh cơ bản:
Thứ nhất là về thu nhập. Đây là tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá về tình
trạng đói nghèo.

Thứ hai là hưởng thụ các nhu cầu về giáo dục và y tế.
Thứ ba là sự tham gia vào đời sống chính trị - xã hội.
* Các thước đo xác định đói nghèo trên thế giới
Để xác định tình trạng đói nghèo, trên thế giới hiện nay cũng đưa ra các
thước đo như sau:
Thước đo về thu nhập [3 ; 48] để xác định nghèo là mức thu nhập hay tiêu
dùng của một người thấp hơn mức tối thiểu cần thiết để đáp ứng những nhu cầu cơ
bản. Tương ứng với thước đo về thu nhập là “chuẩn nghèo” hay “đường giới hạn


12

nghèo khổ” để xác định mức thu nhập hay tiêu dùng tối thiểu. Chuẩn nghèo hay
đường giới hạn nghèo khổ này phụ thuộc vào không gian, thời gian nhất định. Do
đó, mỗi quốc gia tự xác định chuẩn nghèo theo trình độ phát triển, chuẩn mực và giá
trị của xã hội mình. Đánh giá theo thước đo thu nhập, nghèo được chia thành hai
dạng:
Nghèo tuyệt đối được xem là nghèo đói thực sự. Robert McNamara, nguyên
giám đốc Ngân hàng Thế giới (World Bank), đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối
như sau: Nghèo ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại.
Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các
thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng
tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta. Trên thế giới,
chuẩn nghèo đã được WB đưa ra để xác định nghèo tuyệt đối là 1 USD và 2 USD
mỗi ngày mỗi người tính theo ngang giá sức mua năm 1993. Ngưỡng thu nhập 1
USD/ngày/người thường được sử dụng cho các nước kém phát triển như ở châu Á,
châu Phi; ngưỡng thu nhập 2 USD/ngày/người được dùng cho các nước phát triển ở
mức độ trung bình như Đơng Á, châu Mỹ Latinh.
Nghèo tương đối dùng để chỉ bộ phận dân cư có mức thu nhập dưới mức
thu nhập tối thiểu của xã hội, như bằng 40% hay 60% thu nhập tối thiểu của một

nước. Tuy nhiên, việc xác định nghèo tương đối không đánh giá được thực trạng
mức sống của con người do mức thu nhập tăng lên hay giảm đi thì tỷ lệ người
nghèo cũng không thay đổi.
Chỉ số nghèo con người (Human Poverty Index – HPI) của UN đưa ra để
đo lường mức sống của một nước [3; 48]. HDI đánh giá mức sống của một nước
trên nhiều tiêu chí khác nhau: Thu nhập, học vấn, suy dinh dưỡng trẻ em, tỷ lệ sống
của trẻ sơ sinh, tuổi thọ, dịch vụ y tế, tỷ lệ người dùng nước sạch,… HPI có hai
cách tính:


13

HPI cho các nước đang phát triển (HPI-1): Dùng để đo lường tình trạng
nghèo cùng cực theo ba khía cạnh của chỉ số phát triển con người HDI là sống thọ
và sống khỏe mạnh, kiến thức và mức sống khá.
HPI cho một số nước OECD chọn lọc (HPI – 2): dùng để đo lường tình
trạng nghèo cùng cực theo ba khía cạnh của HDI là tuổi thọ và sức khỏe, kiến thức
và mức sống, đồng thời cũng đo lường tình trạng khơng có quyền lực trong xã hội.
Như vậy, chỉ số nghèo con người HPI do UN đưa ra cho thấy quan niệm về
nghèo đói của thế giới có sự mở rộng về các tiêu chí chứ khơng chỉ đánh giá về mức
thu nhập. UN cũng cho rằng đối với các nước phát triển, chỉ số nghèo con người
HPI phản ánh tốt hơn mức độ nghèo cùng cực trong xã hội so với chỉ số phát triển
con người là HDI.
Thước đo về sự bất bình đẳng là các thước đo đánh giá về sự bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập [3; 49]. Đây là một tiêu chí quan trọng để đánh giá tình
trạng giàu nghèo và giải quyết nguồn gốc của nó. Hiện nay, các nhà nghiên cứu đói
nghèo trên thế giới dùng một số chỉ số phổ biến sau:
Chỉ số Gini được thể hiện ở dạng phần trăm của hệ số Gini, tức là bằng hệ
số Gini nhân với 100. Chỉ số Gini chỉ ra sự bất bình đẳng trong thu nhập, cụ thể chỉ
số Gini bằng 100% thể hiện bất bình đẳng tuyệt đối và 0% thể hiện bình đẳng tuyệt

đối. Tuy nhiên, hạn chế của chỉ số này là không phân rã được, nghĩa là chỉ số Gini
tổng thể khơng bằng tổng Gini của các nhóm trong tổng thể đó.
Chỉ số Theil (do nhà tốn thống kê Henry Theil xây dựng) là chỉ số dùng để
thống kê đo lường sự bất bình đẳng về kinh tế. Ưu điểm của chỉ số Theil là phân rã
được. Tức là tổng bình quân về bất bình đẳng trong một tổng thể sẽ bằng tổng sự
bất bình đẳng về thu nhập của các nhóm trong tổng thể đó. Hay có thể nói, nếu
nghiên cứu trong một nước thì một nhóm sẽ “đóng góp” vào lượng bất bình đẳng
của cả nước.


14

Tỷ số giữa thu nhập tiêu dùng của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số
nghèo nhất là chỉ số dùng để chỉ sự bất bình đẳng trong thu nhập tiêu dùng của
nhóm người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất của một quốc gia. Cách tính là lấy
tỷ số của thu nhập/ tiêu dùng trên đầu người của nhóm 20% người có thu nhập cao
nhất và thu nhập/ tiêu dùng trên đầu người của nhóm 20% người có thu nhập thấp
nhất của một quốc gia.
Thước đo này mô tả sự bất bình đẳng của hai nhóm người giàu nhất và
nghèo nhất của quốc gia. Tuy nhiên, chỉ số có hạn chế là khơng đánh giá 60% dân
số cịn lại của quốc gia để có cách nhìn tổng thể.
Tỷ số thu nhập/ tiêu dùng của x% người nghèo nhất là chỉ số đánh giá tình
trạng thu nhập của 20% số người có thu nhập thấp nhất của một quốc gia. Chỉ số
này có ưu điểm là ln đánh giá được tình trạng của số người thu nhập thấp nhất
trong xã hội bất kể có sự thay đổi của chính sách, tăng trưởng về thu nhập. Hơn
nữa, chỉ số này cịn giúp đánh giả khả năng thực sự của nhóm người nghèo nhất
trong quốc gia trước điều kiện sinh hoạt hàng ngày như chế độ sinh dưỡng, nước
sạch, y tế, giáo dục,…. Do đó, những biện pháp hỗ trợ về dịch vụ xã hội, cơ sở vật
chất cho họ có thể mang lại nhiều hữu ích bên cạnh việc tăng thu nhập.
Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế và xã hội, quan niệm về đói nghèo

trên thế giới ngày càng được hiểu rộng hơn. Đói nghèo vượt xa cách hiểu chỉ là về
thu nhập mà còn được đánh giá tổng quát hơn ở sự tiếp cận các nhu cầu y tế, giáo
dục,… và rộng hơn nữa là về sự tham gia vào đời sống chính trị - xã hội. Cùng với
cách hiểu ngày càng rộng hơn, các thước đo về đói nghèo cũng được đưa ra với
cách đánh giá tương ứng theo từng quan niệm. Những quan niệm đó góp phần định
hướng cho xây dựng xã hội, từ giải quyết vấn đề thu nhập cho đến thực hiện các
chính sách về giáo dục, y tế,… và hướng tới xây dựng một xã hội thật sự dân chủ
cho mọi người.


15

1.1.2. Quan niệm về đói nghèo của Việt Nam
Đói nghèo
Quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam khá phong phú. Cùng với sự hội nhập
quốc tế, quan niệm này của Việt Nam cũng dần thống nhất với quan niệm của thế
giới. Ở thời kỳ đầu, đói nghèo được hiểu thành hai khái niệm là đói và nghèo, từ đó
cũng chia ra người đói và người nghèo, hộ đói và hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo
[40; 15].
Đói là tình trạng con người không đủ lương thực, không đủ năng lượng tối
thiểu cần thiết để duy trì cuộc sống hàng ngày.
Nghèo là tình trạng của người dân có mức thu nhập thấp đáp ứng không đủ
hoặc vừa đủ nhu cầu ăn mà không thể đáp ứng được các nhu cầu khác (ở, mặc, đi
lại, học tập, y tế,…). Khái niệm nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng
thiếu về mặt kinh tế.
Đói và nghèo là hai khía cạnh nói lên cuộc sống cùng cực của con người.
Từ vấn đề đói nghèo, con người khơng có điều kiện phát triển bình thường về thể
lực, trí tuệ, sức khỏe, ít có khả năng tiếp cận với giáo dục, y tế,…. Biểu hiện cụ thể
là người dân không đủ ăn, phải ăn thất thường dẫn đến thiếu năng lượng và các chất
dinh dưỡng cần thiết; không đủ quần áo để mặc, trẻ em không được đi học, khơng

có điều kiện chữa bệnh, người thấp bé, hay bệnh tật, tuổi thọ thấp,… và hơn nữa là
khơng có điều kiện tích lũy của cải, xây dựng nhà cửa, phát triển sản xuất, hưởng
thụ văn hóa, nắm bắt các quy định pháp luật,….
Từ khái niệm đói và nghèo, Việt Nam đưa ra các khái niệm tương ứng là hộ
đói và hộ nghèo. Cạnh đó, những địa phương có điều kiện tự nhiên khó khăn, có vị
trí về an ninh quốc phịng, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, có nguồn
lực hạn chế cần tập trung ưu tiên hỗ trợ giải quyết đói nghèo, nên Nhà nước đã dùng
các thuật ngữ xã nghèo, huyện nghèo, vùng nghèo.


16

Chuẩn đói nghèo quốc gia
Đảng chủ trương xóa đói giảm nghèo từ rất sớm. Tuy nhiên, do trước và
đầu thời kỳ đổi mới, nhân dân đa số đều nghèo nên Nhà nước chưa xác định chuẩn
nghèo. Đến năm 1993, Tổng cục Thống kê đã kết hợp với Ngân hàng thế giới sử
dụng tiêu chí mức chi tiêu tối thiểu/người/ngày tính ra đơn vị Kcalo để xác định
người dân thuộc diện nghèo, cụ thể mức tối thiểu là 2.100 Kcalo/người/ngày.
Nhưng đây khơng phải là tiêu chí phổ biến để xác định đói nghèo của Chính phủ
Việt Nam. Tiêu chí để Chính phủ và các địa phương xác định vấn đề đói nghèo của
Việt Nam được sử dụng là chuẩn nghèo do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
đưa ra [Dẫn theo 86; 26]. Chuẩn nghèo này được xác định là mức thu
nhập/người/tháng, được xác định bằng tiền hoặc quy thành khối lượng lương thực.
Tiêu chí này khơng phải là bắt buộc với tồn quốc mà tùy thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, mỗi địa phương có thể đưa ra chuẩn nghèo cao hơn phù hợp
với địa phương mình. Nhưng chuẩn nghèo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
là mức tối thiểu chung nhất để xác định người nghèo.
Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội đưa ra các chuẩn nghèo khác nhau. Cụ thể:
Giai đoạn 1993-1995: Hộ đói và hộ nghèo, xác định theo vùng thành thị và

nơng thơn nên có hai chuẩn: Chuẩn đói và chuẩn nghèo, ở thành thị và nơng thơn.
Cụ thể:
- Chuẩn đói: Mức thu nhập quy ra gạo dưới 13kg/tháng/người ở thành thị,
dưới 8kg/tháng/người ở nông thôn.
- Chuẩn nghèo: Mức thu nhập quy ra gạo dưới 20kg/tháng/người ở thành
thị, dưới 15kg/tháng/người ở nông thôn.
Giai đoạn 1995-1997: vấn đề đói nghèo được xác định thành hộ đói, hộ
nghèo và phân theo từng vùng là nông thôn miền núi và hải đảo, nông thôn đồng
bằng và trung du; thành thị. Cụ thể:


17

- Chuẩn hộ đói (hộ đói): Mức thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo
dưới 13kg/người/tháng.
- Chuẩn hộ nghèo (hộ nghèo) được xác định theo vùng (xem bảng 1), cụ thể
như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi và hải đảo: Mức thu nhập bình quân đầu
người quy ra gạo dưới 15kg/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng và trung du: Mức thu nhập bình quân đầu
người quy ra gạo dưới 20kg/người/tháng.
+ Vùng thành thị: Mức thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo dưới
25kg/người/tháng.
Giai đoạn 1997-2000: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã xác định
chuẩn đói nghèo theo hộ đói, hộ nghèo và theo ba vùng: Nơng thôn miền núi và hải
đảo; nông thôn đồng bằng và trung du; thành thị [7]. Cụ thể như sau:
- Chuẩn hộ đói (hộ đói): Mức thu nhập bình qn đầu người quy ra gạo
dưới 13kg/người/tháng hoặc thu nhập dưới 45.000 đồng/người/tháng (giá năm
1997), áp dụng cho cả nước.
- Chuẩn hộ nghèo (hộ nghèo) được xác định theo vùng (xem bảng 2), cụ thể

như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi và hải đảo: Mức thu nhập bình quân đầu
người quy ra gạo dưới 15kg/người/tháng hoặc thu nhập dưới 55.000
đồng/người/tháng.
+ Vùng nông thơn đồng bằng và trung du: Mức thu nhập bình quân đầu
người quy ra gạo dưới 20kg/người/tháng hoặc thu nhập dưới 70.000
đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị: Mức thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo dưới
25kg/người/tháng hoặc thu nhập dưới 90.000 đồng/người/tháng.


×