BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
………./………..
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐỖ THỊ HIỀN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
TÍN NGƯỠNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý cơng
Mã số: 8 34 04 03
TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - 2019
1
Cơng trình được hồn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thu Phượng
Phản biện 1:
PGS. TS. Vũ Trọng Hách, Học viện Hành chính Quốc gia.
Phản biện 2:
TS. Bùi Hữu Dược, Ban Tôn Giáo Chính Phủ.
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phịng họpD, tầng 4, nhà A,Học viện Hành chính Quốc gia
Số: 77 – đường Nguyễn Chí Thanh – quận Đống Đa – TP Hà Nội
Thời gian: Vào hồi 9h45’ ngày 23 tháng 12 năm 2019
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Tín ngưỡng và tôn giáo từ lâu đã trở thành vấn đề quan trọng trong mỗi quốc
gia. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vốn là một trong những quyền cơ bản của con
người đã được quy định trong Pháp luật quốc tế cũng như ở các quốc gia. Mỗi quốc
gia đều sử dụng pháp luật để quản lý các vấn đề xã hội và quản lý tín ngưỡng, tơn
giáo cũng khơng phải là ngoại lệ.
Ở Việt Nam, vấn đề tín ngưỡng cũng được quản lý bằng hệ thống các chính sách
của Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo để thực hiện hiệu quả. Trong mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau, nhà nước đã thể chế hóa các quyết định, chủ trương, chính sách
của Đảng trên các ngun tắc tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
của mọi người thành các quy phạm Pháp luật thể hiện tại các điều luật cơ bản như:
Hiến pháp, pháp luật, nghị định, thông tư,… tạo hành lang pháp lý cho đảm bảo thực
thi các quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của công dân.
Qua các nghiên cứu cho thấy nhiều câu hỏi hay vấn đề nghiên cứu về lĩnh vực
tín ngưỡng ở Việt Nam còn để ngỏ. Chẳng hạn vẫn còn sự tồn tại của mê tín dị đoan:
như gọi vong ở Chùa Ba Vàng, ni búp bê Kumanthong…đã có những tác động xấu
đến đời sống của người dân và trên những lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội đặc
biệt là cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, cuộc sống tinh thần của người dân. Những nội
dung khai thác trong Luận văn sẽ làm sáng tỏ sự tác động của hoạt động tín ngưỡng vào
cuộc sống sinh hoạt cũng như kinh doanh, làm giảm thiểu những lối sống tiêu cực trong
thời đại kinh thế thị trường, phát huy những lối sống tốt đẹp theo truyền thống của người
Việt Nam. Cùng với sự bùng nổ của các hoạt động tín ngưỡng trong những năm qua đã
và đang đặt ra nhiều vấn đề về mặt xã hội như mê tín dị đoan, xin xăm, xem bói, bốc
quẻ, đốt vàng mã quá nhiều gây lãng phí rất nhiều.
Tín ngưỡng dân gian là một trong các loại tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng
dân gian là tín ngưỡng có nguồn gốc từ tự nhiên. Nhưng do quá trình phát triển của các
hình thức kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, đối lập với các thành
tựu đó thì nó cũng nảy sinh hang loạt các vấn đề về văn hóa mang tính chất phi thực tế.
Để giải quyết được các vấn đề khó khăn này và phát huy được tính tích cực của tín
ngưỡng dân tộc thì vấn đề đặt ra là rất khó khăn và mang tính cấp thiết.
Hà Nội là thủ đô của nước ta, đồng thời cũng là trung tâm chính trị - hành chính
quốc gia, trung tâm về văn hóa, khoa học giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế. Vì
vậy, cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng cần được tổng kết, đánh
giá chính xác thực trạng, rút ra những bài học kinh nghiệm, từ đó đề ra các giải pháp
quản lý phù hợp, định hướng hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn theo hướng tuân thủ
pháp luật, gắn bó, đồng hành cùng đất nước và dân tộc, góp phần ổn định tình hình
chính trị tại Thủ đơ đây là đòi hỏi cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Để người dân có cuộc sống, tư tưởng, văn hóa tín ngưỡng lành mạnh hơn, địi
hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải có những biện pháp, chính sách phù hợp với tình
hình thực tế của cả nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng. Vì thế, tơi đã
chọn đề tài “Quản lý Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố
Hà Nội” để nghiên cứu.
3
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về tín ngưỡng ở Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học tiếp cận từ
nhiều góc độ khác nhau như văn hóa học, sử học, dân tộc học, tơn giáo học… Nhiều
cơng trình nghiên cứu từ góc độ này hay góc độ khác đã khắc họa nên những khía
cạnh khác nhau của đời sống tín ngưỡng ở Việt Nam.
Đặc biệt là tác phẩm về “Tín ngưỡng Thành Hồng Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Duy Hinh đã mang đến một cái nhìn tổng thể và tồn diện về tín ngưỡng thờ
Thành hồng trên khắp đất Việt. Nghiên cứu về tín ngưỡng ở Việt Nam qua việc
khảo cứu hiện tượng thờ cúng Thành hoàng Trịnh Cao Tưởng khơng chỉ giới hạn
phạm vi nghiên cứu của mình ở Việt Nam mà ơng cịn đẩy xa nghiên cứu của mình
sang Nhật Bản để có một sự so sánh, đối chiếu giữa hai loại hình tín ngưỡng này ở
hai nước Việt – Nhật. Như vậy, các cơng trình nghiên cứu thực trạng lý luận về tín
ngưỡng và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội là tương đối nhiều, nhưng việc
xác định những cơ sở khoa học để hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng cịn
hạn chế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đời sống tín
ngưỡng ở Việt Nam; thực trạng hoạt động tín ngưỡng và cơng tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội để từ đó xác định những
cơ sở khoa học đề xuất giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai trị quản lý nhà
nước đối với hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có một số nhiệm vụ nghiên cứu sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận về tín ngưỡng ở Việt Nam.
+ Đánh giá thực trạng sinh hoạt tín ngưỡng và quản lý nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
+ Đề xuất các giải pháp và kiến nghị trong công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu QLNN về hoạt động tín ngưỡng nói chung, trong đó chủ
yếu nghiên cứu QLNN về tín ngưỡng dân gian trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: địa bàn Thành phố Hà Nội.
+Về thời gian: Đánh giá thực trạng từ năm 2014 đến 2019; giải pháp đề xuất cho
giai đoạn đến năm 2025.
+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về hoạt động tín
ngưỡng dân gian trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý hoạt động tín ngưỡng.
4
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Luận văn tác giả sử dụng một số phương
pháp sau:
+ Phương pháp thu thập thông tin;
+ Phương pháp tra cứu tài liệu;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp;
+ Phương pháp thống kê;
+ Phương pháp so sánh;
+ Phương pháp logic,...
Việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học góp phần đưa
đến một sản phẩm khoa học đáp ứng yêu cầu. Từ đó, các kết quả nghiên cứu của
Luận văn được làm cơ sở khoa học để nghiên cứu và đề xuất giải pháp hoàn thiện
QLNN đối với hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học về QLNN đối với hoạt động tín
ngưỡng và góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về công tác QLNN đối với hoạt động
tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Về mặt thực tiễn
Làm rõ thực trạng hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tín ngưỡng của thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
giảng dạy, học tập và nghiên cứu về QLNN đối với hoạt động tín ngưỡng ở Việt Nam
nói chung và trên địa bàn thánh phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương,
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng.
Chương 2: Thực trạng quản lý Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp hoàn thiện quản lý Nhà nước về hoạt
động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài Luận văn
1.1.1. Tín ngưỡng và hoạt động tín ngưỡng
Tín ngưỡng là vấn đề được nhiều nhà khoa học trong nước cũng như trên thế
giới nghiên cứu với nhiều cơng trình có giá trị, tiếp cận dưới những góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, tín ngưỡng được hiểu và phân ra hai loại với sự khác nhau về tính
chất và nguồn gốc, đó là tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tơn giáo.
5
Luật Tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016 tại Khoản 1, Điều 2 nêu rõ: “Tín ngưỡng là
niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong
tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng
đồng.”. Rõ ràng, tín ngưỡng dân gian là đạo lý, có những điểm gần với tơn giáo
nhưng tín ngƣỡng dân gian không phải là tôn giáo, nhận định này sẽ được làm sáng
rõ hơn khi đi vào phân tích khái niệm tơn giáo tiếp theo.
Tín ngưỡng dân gian là một loại hình văn hóa tín ngưỡng, được hình thành và
phát triển dựa trên hoạt động sản xuất nông nghiệp tự nhiên của người dân. Ở Việt
Nam hiện nay, tín ngưỡng dân gian vẫn tồn tại trong đời sống tinh thần của người dân
ở khắp mọi miền đất nước.
Hoạt động tín ngưỡng, theo Khoản 2, Điều 2, Luật tín ngưỡng, tơn giáo năm
2016 thì “hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh
thiêng; tưởng niệm và tơn vinh người có cơng với đất nước, với cộng đồng; các lễ
nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”.
1.1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng
Quản lý nhà nước tiếp cận với nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các hoạt động:
hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành chính của hệ thống hành
pháp và hoạt động tư pháp của hệ thống tư pháp. Mục đích của các hoạt động này là
để quản lý, điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội do các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục
vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững xã hội.
1.1.3. Sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng, tơn giáo và mê tín dị đoan
1.1.3.1. Sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và tơn giáo
Sự giống nhau giữa tín ngưỡng và tơn giáo đầu tiên là những người có tơn giáo
(Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hồng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều
tin vào những điều mà tơn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy.
Sự giống nhau thứ hai giữa tơn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của tơn giáo
và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa
cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở
giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ trong các
tơn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.
Sự khác nhau giữa tơn giáo và tín ngưỡng:
Đầu tiên, nếu tơn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý,
giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian khơng có 4 yếu tố đó. Nếu
đối với tín đồ tơn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tơn
giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Nếu
các tơn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ
có một số bài văn tế (đối với tín ngưỡng thờ thành hồng), bài khấn (đối với tín
ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu).
1.1.3.2. Sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
Sự giống nhau giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan, là đều tin vào những điều mà
mắt mình khơng trơng rõ, tai mình khơng nghe thấy thân hình và giọng nói của đấng
6
thiêng liêng và của đối tượng thờ cúng; những tín điều của tín ngững và mê tín dị
đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người...
Sự khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan:
Sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời
sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền là chính.
Trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng khơng có ai làm việc chun nghiệp hay
bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động
bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp
bằng nghề này.
Sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, từ đường, miếu,…) hoạt động
mê tín dị đoan khơng có cơ sở thờ tự.
Những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự
(ngày mùng Một, ngày Rằm âm lịch hàng tháng ra đình làm lễ Thánh; hàng năm đến
ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) nhưng những người hoạt động mê tín dị
đoan hoạt động khơng định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có
việc bất thường xảy ra (mất của, chết đuối, ốm đau, hỏa hoạn,…), cịn bình thường,
có lẽ họ chẳng gặp thầy bói làm gì.
Nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt
động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, khơng đồng tình.
Như vậy, giữa tín ngưỡng, tơn giáo và mê tín dị đoan có những điểm giống và
khác nhau và chúng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau, phân biệt được chúng sẽ giúp
chúng ta có cơ sở để phát huy mặt tích cực và khắc phục được những mặt tiêu cực
của chúng.
1.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng
1.2.1. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong quản lý ngành, lĩnh vực
Vai trò của nhà quản lý nhà nước là định hướng, điều chỉnh hoạt động tín
ngưỡng, để những hoạt động tín ngưỡng vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân,
thực hiện chức năng gắn kết cộng đồng đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của
các địa phương…
Với tính chất đặc thù, hoạt động tín ngưỡng mang trong mình rất nhiều giá trị về
tâm linh và truyền thống dân tộc là hoạt động tất yếu không thể thiếu để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ quản lý mà nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng.
Như vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng là hoạt động tất yếu,
khách quan của các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị liên quan nhằm đảm bảo
các chức năng quản lý của nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng được thực hiện.
1.2.2. Vai trị của hoạt động tín ngưỡng trong phát triển kinh tế - xã hội
Với chức năng cơ bản là điểm tựa tinh thần cho con người khi gặp những vấn đề
bế tắc trong cuộc sống; là hạt nhân của văn hóa làng/cộng đồng, hoạt động tín
ngưỡng đã phát huy những tác dụng nhất định của nó với cá nhân và cộng đồng trong
phát triển kinh tế - xã hội hiện nay như sau:
Đối với cá nhân con người
Đối với các gia đình Việt Nam hiện nay
Đối với cộng đồng làng xã hiện nay
Đối với đời sống xã hội nói chung
7
1.2.3. Hoạt động tín ngưỡng đã góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của văn hóa, một mặt tạo ra sự phong phú
cho văn hóa Việt Nam, mặt khác góp phần lưu giữ, phát triển những giá trị tốt đẹp
của văn hóa Việt Nam (cả văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể và văn hóa giao tiếp).
Do vậy, chúng ta có thể khảo cứu văn hóa Việt Nam (các dân tộc Việt Nam) qua
chính các cơng trình tiêu biểu này.
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng
Theo Điều 60 của Luật Tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016 thì nội dung của quản lý
Nhà nước về hoạt động Tín ngưỡng, tơn giáo có những nội dung sau:
1.3.1. Xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tín
ngưỡng, tơn giáo.
Việc ban hành xây dựng thể chế, chính sách được ban hành cụ thể, rõ ràng từ
cấp trung ương đến địa phương.
Cấp trung ương
Cấp địa phương
1.3.2. Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo.
Luật Tín ngưỡng tơn giáo (Điều 61) và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tơn
giáo (Điều 22) đã quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tơn giáo.
1.3.3. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo.
Ban Tơn giáo Chính phủ sẽ ban hành Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về tín ngưỡng, tơn giáo cho các cơ quan ban ngành có liên quan. Ban Tơn giáo Chính
phủ thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc các cơ quan chuyên môn về tôn giáo của các
địa phương trong việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo và các văn bản
pháp luật khác có liên quan.
1.3.4. Phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo.
Sau khi đã được Ban Tơn giáo Chính phủ phổ biến những chính sách, pháp luật
về tín ngưỡng, tơn giáo. Các ban ngành có liên quan sẽ lên kế hoạch để phổ biến,
những văn bản Luật, chính sách về tín ngưỡng, tơn giáo, cho công chức, viên chức
trong ngành quản lý nhà nước về tín ngưỡng từ trung ương tới địa phương để từ đó
giúp người dân tiếp cận và hiểu đúng về các văn bản Luật và các chính sách về tín
ngưỡng, tơn giáo.
1.3.5. Nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tơn giáo.
Việc nghiên cứu chun sâu về lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo để từ đó đánh giá
chính xác nhất các biểu hiện, ảnh hưởng đến cơng tác quản lý và đời sống của nhân
dân.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng
cần phải có kế hoạch lộ trình cụ thể, vì đây là những nhân tố trực tiếp làm và truyền
đạt kiến thức về tín ngưỡng, đến nhân dân.
8
1.3.6. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về tín ngưỡng, tơn giáo.
Theo Điều 62 và Điều 63 của Luật tín ngưỡng tôn giáo việc thanh tra, kiểm tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo.
1.4. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước về hoạt động Tín ngưỡng ở một số Địa
phương.
1.4.1. Thành phố Hải Phịng
Đối với cơ sở tín ngưỡng đã xếp hạng di tích
Hệ thống các di tích xếp hạng ở Hải Phịng hiện nay đều có Ban quản lý do Uỷ
ban nhân dân các cấp thành lập ra để giúp việc quản lý, khai thác, sử dụng và phát
huy giá trị di tích. Như vậy chủ thể quản lý các di tích xếp hạng là Ủy ban nhân dân
các cấp và ngành (Sở Văn hóa thể thao và du lịch), đơn vị liên quan (Bảo tàng, Ban
quản lý di tích cấp tỉnh).
Đối với di tích chưa xếp hạng
Số di tích chưa được xếp hạng, bảo vệ tại Hải Phịng hiện cịn khá nhiều, chiếm
tới 50% tổng số di tích trên địa bàn thành phố.
Việc quản lý Nhà nước đối với các loại hình tín ngưỡng, cơ sở tín ngưỡng chưa
được xếp hạng di tích đến nay chưa thực sự rõ ràng, ở một địa phương là các làng xã
ở các huyện ngoại thành với niềm tự hào và mong muốn của mình đang tiếp tục đề
nghị cơ quan chức năng của thành phố lập hồ sơ xin xếp hạng.
1.4.2. Tỉnh Quảng Ninh
Tuy đã đạt được một số kết quả nhưng cơng tác quản lý nhà nước về hoạt động
tín ngưỡng ở Quảng Ninh cịn có những hạn chế: Các cơ quan chức năng chưa xiết
chặt việc quản lý các hoạt động tín ngưỡng, cũng như quản lý việc xây dựng, phục
hồi cơ sở tín ngưỡng, có lúc có nơi cịn bng lỏng sự quản lý, dẫn đến tình trạng
nhiều cá nhân, doanh nghiệp tự ý xây dựng trái phép cơ sở tín ngưỡng, đưa cơ quan
quản lý nhà nước vào việc đã rồi. Việc phát hiện và xử lý các sai phạm trong hoạt
động tín ngưỡng cũng chưa kịp thời và chưa thật sự nghiêm minh.
1.4.3. Thành phố Hồ Chí Minh
Đối với các cơ sở tín ngưỡng đã kiểm kê di tích
Nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo vệ các cơng trình, địa điểm đáp ứng điều kiện và
tiêu chí về di tích trước khi có quyết định xếp hạng di tích, Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã đề xuất Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo việc lập đề án
Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh (đến 2020). Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã giao cho Trung tâm Bảo tồn và
Phát huy giá trị di tích Thành phố (đơn vị trực thuộc Sở) chủ trì, thực hiện công tác
này trong các năm 2009, 2010.
Đối với các di tích đã xếp hạng
Tính đến hết tháng 11 năm 2018, trong tổng số 132 cơng trình, địa điểm đã được
xếp hạng di tích trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 64 cơ sở tín ngưỡng (chiếm
tỷ lệ 48,5%). Trong đó, theo cấp xếp hạng di tích: có 23 di tích quốc gia và 41 di tích
cấp thành phố; theo loại hình di tích: có 14 cơ sở tín ngưỡng thuộc di tích lịch sử, 50
cơ sở tín ngưỡng thuộc di tích kiến trúc nghệ thuật.
Cơ chế tự quản của các cơ sở tín ngưỡng
9
Về hình thức, các tổ chức trực tiếp quản lý cơ sở tín ngưỡng tại Thành phố Hồ
Chí Minh có tổ chức dưới hình thức (có thể được hoặc chưa được cơ quan quàn lý
nhà nước công nhận), như sau: Ban Quí tế, Ban Trị sự, Ban Tế tự (đối với đình, đền,
miếu); Ban Quản trị Hội quán (đối với miếu thờ Thiên Hậu Thánh mẫu, miếu thờ
Quan Thánh Đế của cộng đồng người Hoa); Ban Quản lý - được cơ quan nhà nước
quyết định công nhận hoặc thành lập (đối với các cơ sở tín ngưỡng là di tích đã xếp
hạng)...
1.4.4. Tỉnh Phú Thọ
Theo thống kê của Ban Tôn giáo và sở Văn hóa thơng tin và du lịch tỉnh Phú
Thọ hiện nay tỉnh Phú Thọ có 260 lễ hội truyền thống, trong đó có 228 lễ hội dân
gian và 32 lễ hội lịch sử cách mạng.
Thực tế diễn ra trên tại địa bàn tỉnh Phú Thọ cho thấy cơng tác tổ chức thành lập
ban quản lý di tích và công tác quản lý, điều hành các hoạt động của ban quản lý di
tích Lịch sử văn hóa cịn nhiều bất cập, chưa theo quy định của Luật di sản văn hoá.
1.4.5. Bài học rút ra về Quản ý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng trên
địa bàn thành phố Hà Nội
Như vậy, qua thực tế nghiên cứu cơng tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng trên
địa bàn thành phố Hải Phịng, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Phú Thọ và tỉnh Quảng
Ninh cho thấy về cơ bản đã triển khai và thực hiện khá tốt Luật tín ngưỡng tơn giáo
vào cơng tác quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng tuy nhiên vẫn cịn một số tồn
tại từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng
cho thành phố Hà Nội cụ thể như sau:
Một là: các cấp uỷ, chính quyền, MTTQ và các đồn thể tiếp tục quán triệt,
triển khai trong cán bộ, Nhân dân nói chung về việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết,
chính sách của Đảng, Nhà nước ta về hoạt động tín ngưỡng.
Hai là: Đa dạng hóa các hình thức tun truyền và vận động, phát huy những
nét đẹp truyền thống, những yếu tố tích cực
Ba là, Giải quyết kịp thời những đề nghị chính đáng, hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, không để xảy ra các sự việc phức tạp liên quan đến các hoạt động tín ngưỡng
trên địa bàn.
Tiểu kết Chương 1
Trong chương 1 tác giả đã tập trung giải quyết cơ sở lý luận trong quản lý nhà
nước về hoạt động tín ngưỡng, chỉ ra được sự cần thiết phải quản lý nhà nước về hoạt
động tín ngưỡng, những nội dung quan trọng trong Luật Tín ngưỡng ở Việt Nam hiện
nay của quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo. So với những quy định
trước đây, các quy định hiện nay có rất nhiều điểm mới thể hiện chính sách cởi mở,
tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người; đáp ứng được yêu cầu của
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo hiện nay.
Tác giả đã tìm hiểu kinh nghiệm quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng ở
một số địa phương để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về
hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội cho thấy về cơ bản đã triển khai
và thực hiện khá tốt Luật tín ngưỡng tơn giáo vào cơng tác quản lý nhà nước về hoạt
động tín ngưỡng như: phân định trách nhiệm của từng cấp rõ ràng của các cơ quan
10
nhà nước đối với lĩnh vực tín ngưỡng xác định cụ thể trách nhiệm, thẩm quyền của
Chính phủ, bộ, ngành, Ủy ban nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
các cấp trong hoạt động tín ngưỡng ,đóng góp to lớn vào cơng tác bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa nói chung và di tích tín ngưỡng nói riêng. Cũng phải nói
đến Hệ thống văn bản hướng dẫn của cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã
góp phần cụ thể hóa các quy định pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo, tạo điều kiện cho
việc áp dụng và thực hiện văn bản có hiệu quả.
Chương 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
TÍN NGƯỠNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về tình hình kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội
Thực hiện kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết của Quốc
hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 05 năm 2008 và
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2008, địa giới hành
chính Thủ đơ.
Thủ đơ Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn
hóa, giáo dục, khoa học, kinh tế và giao dịch quốc tế. Đặc biệt, việc Quốc hội đã
thông qua Luật Thủ đô đã tạo điều kiện cho Hà Nội có được những cơ chế, chính
sách đặc thù trên một số lĩnh vực, giúp Thủ đô thuận lợi hơn trong công tác quản lý
và điều hành. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển, mở cửa, mở rộng hợp tác
và giao lưu quốc tế, Việt Nam nói chung và thủ đơ Hà Nội nói riêng đã có nhiều thay
đổi về diện mạo.
2.2. Một số loại hình tín ngưỡng dân gian trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Có thể tạm hiểu, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện ở ba cấp độ chủ yếu:
Một là, thờ cha mẹ, ông bà, cụ, kị đến ơng tổ dịng họ theo huyết thống (phạm vi
cá nhân, gia đình, dịng họ).
Hai là, thờ những ơng tổ nghề, những người có cơng khai phá, lập làng, lập ấp,
đánh giặc cứu dân đã được dân làng tôn vinh, thờ phụng là thành hoàng (phạm vi
cộng đồng làng xã).
Bà là, thờ vua như vị thần của quốc gia, dân tộc mà điển hình là thờ Hùng vương
(phạm vi quốc gia, dân tộc).
2.2.2. Tín ngưỡng thờ Thành hồng
Thành hồng được phiên âm từ chữ Hán là thành hào, hào khơng có nước gọi là
hồng. Theo Lê Q Đơn trong sách “Vân đài loại ngữ” thì tín ngưỡng Thành hồng
đã có từ thời cổ đại ở Trung Quốc. Việc thờ Thành hồng của nhiều làng xã Việt Nam
đơi khi là thờ một sức mạnh tự nhiên nào đó.
Một số làng thờ những nhân vật lịch sử làm Thành hoàng làng mình là những vị
anh hùng dân tộc, có cơng đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại nền độc lập cho dân tộc,
như các vị: Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Hoàn, Dương Đình Nghệ, Lê Văn Thịnh, Tơ Hiến
Thành, Lý Thường Kiệt, Trần Nhật Duật,..
11
2.2.3. Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc
Nguồn gốc tâm linh, người Việt tin vào việc tồn tại linh hồn người chết. Linh
hồn trường tồn và còn tiếp tục lui tới với người sống, sẽ hịa mình vào tất cả các hoạt
động để trợ giúp hay đối nghịch lại nên nếu thờ cúng chu đáo sẽ được phù hộ, che
chở, nếu khơng sẽ bị trừng phạt.
2.2.4. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Danh từ “Mẫu” là gốc Hán Việt, được hiểu là mẹ (mụ - cách nói của miền
Trung). Nghĩa hẹp ban đầu, mẫu hay mẹ đều chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người
nào đó, là tiếng xưng hơ của người con đối với người sinh ra mình. Nghĩa mở rộng ra
người ta còn sử dụng danh từ Mẫu để chỉ sự sinh sơi nảy nở, sinh hóa khơng ngừng.
Tín ngưỡng thờ Mẫu được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn đó chỉ là dạng hình thức
tín ngưỡng với tên gọi là Mẫu Tam phủ – Tứ phủ, hình thức thờ cúng những vị Mẫu
cai quản trong vũ trụ.
2.2.5. Tín ngưỡng thờ tổ nghề
Tổ nghề còn đựợc gọi là Tổ sư, Tiền sư, Thánh Sư, Nghệ sư… là người có cơng
phát minh, truyền dậy, sáng lập, gây dựng nên một nghề (thường là nghề thủ công mỹ
nghệ), hoặc là người đem nghề ở nơi khác đến dạy cho dân chúng trong một làng hay
miền nào đó, được người đời sau tơn thờ như bậc thánh.
Để nghi nhớ công ơn tổ nghề, nhân dân các làng nghề thường dựng đền thờ hoặc
đình làng và tơn làm thành hồng làng, hằng năm nhân dân thường tổ chức lễ hội
tưởng nhớ ông tổ của làng mình. Trong dịp lễ hội dân làng ơn lại những cơng lao,
điển tích của việc làm nghề, dựng làng, truyền nghề bằng những tích trị mơ phỏng
việc thực hành mang tính nghề nghiệp.
2.2.6. Tín ngưỡng thờ Thần
Trong đó có tín ngưỡng thờ Thổ cơng, đây là tín ngưỡng có nguồn gốc từ Trung
Hoa nhưng sang Việt Nam đã bị Việt hóa cho phù hợp với mơi trường xã hội Việt Nam.
Với quan niệm thổ công là một vị thần được thờ trong gia đình, là vị thần trơng coi nhà
cửa, đất đai cho mỗi gia đình.
Tín ngưỡng thờ Thần Tài là một vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam và một số nước
phương Đông. Đây là vị thần theo quan niệm dân gian sẽ đem lại tiền tài, may mắn.
Người ta thường vẽ ơng hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, cưỡi cọp đen.
2.2.7. Một số lễ thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian được thực hiện tại Chùa
Lễ cầu an: Vào dịp đầu năm trước rằm tháng Giêng, hầu hết các ngôi chùa Hà
Nội đều tổ chức lễ cầu an. Lễ cầu an có ý nghĩa cầu bình an cho mỗi gia đình trong
năm.
Lễ cúng sao giải hạn: Theo quan niệm dân gian, mỗi con người đều có một ngơi
sao chiếu mệnh trong một năm. Lễ cúng sao giải hạn như tên gọi có ý nghĩa giải vận
hạn xấu trong năm mà ngôi sao chiếu mệnh đem tới.
Lễ đội bát hương: Theo quan niệm dân gian những người có “căn” hợp với các
cơ, cậu, các ơng hồng, các Mẫu (các cơng chúa), các vương quan, thần tướng muốn
hưởng phúc tránh hoạ, làm ăn thuận lợi phải bốc bát hương bản mệnh thờ các vị đó
gọi là đội bát hương.
12
Lễ cắt giải tiền duyên: Theo quan niệm dân gian những người cao số cả nam và
nữ muộn chồng muộn vợ có thể do người âm hợp với người đó theo ngăn cản họ lấy
vợ hoặc lấy chồng.
2.3. Thực trạng hoạt động tín ngưỡng dân gian trên địa bàn thành phố Hà Nội
Nghị quyết số 25/2003/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành trung ương
Đảng Khố IX về Cơng tác tơn giáo đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta...".
Những năm qua khi đời sống vật chất của nhân dân trên địa bàn thành phố Hà
Nội ngày càng được cải thiện thì nhu cầu về văn hố tinh thần trong đó có nhu cầu
sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo ngày càng cao.
Việc đầu tư nâng cấp, tơn tạo, trùng tu các di tích tín ngưỡng, tơn giáo chưa
được triển khai theo một quy trình chặt chẽ và tồn diện.
Cũng phải kể tới ngun nhân do sự phát triển du lịch làm ảnh hưởng trực tiếp
tới trạng thái bảo quản di tích.
Như vậy, qua phân tích thực trạng hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố
Hà Nội ở trên cho thấy có những kết quả đạt được cũng như những tồn tại cần khắc
phục trong thời gian tới.
Hiện nay nhiều gia đình quá lạm dụng tục đốt vàng mã với ý nghĩ gửi tặng
người ở thế giới bên kia, thần linh, người thân của mình làm tốn kém cho gia đình
đốt, gây nên sự lãng phí khơng cần thiết, đơi khi cịn gây ra việc hoả hoạn trong khu
dân cư.
2.3.1. Tại các cơ sở di tích lịch sử văn hóa
Hiện nay Hà nội có 3480 di tích lịch sử văn hóa trong đó có di tích là tín ngưỡng
gồm có Đình, Đền, Miếu, Nghè, Phủ… Các di tích lịch sử được xếp hạng là di tích
lịch sử -văn hóa đều có giá trị rất lớn về niên đại xây dựng, quy mô kiến trúc và giá
trị nghệ thuật. Các cơ sở tín ngưỡng là di tích lịch sử văn hóa trên đại bàn thành phố Hà
Nội về cơ bản đã thực hiện đúng các quy đinhh của Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng,
khơng lợi dụng tín ngưỡng để hoạt động chống phá, hoặc trái pháp luật, gây mất trật tự,
an ninh, chính trị, tuyên truyền chia rẽ đoàn kết dân tộc.
2.3.2. Tại các cơ sở chưa là di tích lịch sử văn hóa
Cho đến nay chưa có cơ quan nào thống kê được chính xác số lượng các cơ sở
tín ngưỡng này. Trong các sinh hoạt tại các cơ sở chưa là di tích lịch sử văn hóa,
đáng chú ý là cơ sở liên quan đến hoạt động lễ hội truyền thống như: ĐÌnh, Đền,
Danh nhân, Anh hung dân tộc, tổ nghê.
Trong những năm qua công tác quản lý lễ hội đã có nhiều chuyển biến tích cực,
việc ban hành và thực thi các văn bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm trac
ho đến bảo tồn và phát huy, đã góp phần vào việc nâng ao đời sống tinh thần cho
nhân dân.
Bên cạnh những mặt tích cực, vẫn cịn rất nhiều những hạn chế, công tác quản lý
và tổ chức lễ hội vẫn cịn rất nhiều bất cập, khó khan, những câu chuyện về công tác
quản lý và tổ chức lễ hội vẫn tiếp tục tốn nhiều công sức, giấy mực.
2.3.3. Nguyên nhân hạn chế
Trước hết là do nhận thức của mỗi chủ thể tham gia vào các hoạt động, sinh
13
hoạt tín ngưỡng cịn hạn chế.
Cơng tác quản lý của các cơ quan chức năng cũng như các cấp chính quyền
chưa thực sự vào cuộc, từ công tác tuyên truyền đến hướng dẫn kiểm tra, thanh tra và
xử lý các vi phạm trong các lễ hội, cơng trình tín ngưỡng... cịn khá phổ biến.
Cơng tác quản lý tài chính thu chi tại các cơ sở tín ngưỡng chưa được rõ ràng,
gây ra tình trạng trục lợi của các nhân hay nhóm lợi ích mượn danh thần thần mâu
thuẫn trong Ban quản lý, cộng đồng…
Tóm lại, để người dân có cuộc sống văn hóa tín ngưỡng lành mạnh hơn, địi hỏi
cơ quan quản lý nhà nước phải nắm được thực trạng đời sống tinh thần của người
dân.
2.4. Quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà
Nội
2.4.1. Thực trạng hoạt động quản lý
Kết quả điều tra bước đầu cho thấy hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động tín
ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội thể hiện ở một số nội dung sau:
Xây dựng chính sách, quy định quản lý
Việc quản lý hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội được thực
hiện dựa trên quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo và từ năm 2018 đến nay
thì theo Luật Tín ngưỡng tơn giáo và Nghị định số 162/NĐ-CP quy định biện pháp
thi hành Luật Tín ngưỡng tơn giáo.
Luật tín ngưỡng, tơn giáo 2016 có những điểm mới, cụ thể như sau:
Mở rộng phạm vi chủ thể có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo từ “cơng dân”
thành “mọi người”, thể hiện đúng bản chất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền
con người theo tinh thần Hiến pháp 2013. Bổ sung 01 (một) chương về quyền tự do
tín ngưỡng, tơn giáo nhằm phản ảnh rõ hơn phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật
cũng như thể hiện một cách cơ bản nhất chính sách của nhà nước trong việc tơn trọng
và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người.
Đăng ký hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo hằng năm được thay đổi theo
hướng chỉ đăng ký, thông báo lần đầu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những
năm tiếp theo nếu có phát sinh các hoạt động ngồi chương trình đăng ký mới đăng
ký, thơng báo bổ sung.
Trước khi Luật tín ngưỡng, tơn giáo ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018
thì hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội còn tồn tại một số vấn đề nổi
trội sau:
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng cịn chưa được chặt chẽ,
bng lỏng, thiếu tính đồng bộ và cịn chưa phân định rõ ràng chắc năng nhiệm vụ
của các cấp có liên quan; Cơng tác thanh tra chun ngành về tín ngưỡng, tơn giáo
chưa mang lại hiệu quả; Việc khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về tín ngưỡng, tơn giáo xảy
ra nhiều cấp cập.
Và kể từ khi Luật tín ngưỡng, tơn giáo có hiệu lực thì những vấn đề trên đã cơ
bản được giải quyết như: Luật đã quy định rõ ràng, cụ thể các việc về thanh tra
chun ngành về tín ngưỡng, tơn giáo phải thực hiện các nhiệm vụ sau: thanh tra
việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo của Ủy ban nhân dân
các cấp; thanh tra những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tơn
14
giáo, từ đó có được những đánh giá tổng hợp, đánh giá và ngăn chặn kịp thời
những dấu hiệu, sự việc vi phạm pháp luật về tín ngưỡng.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đại diện, ban quản lý cơ sở tín
ngưỡng và cá nhân thì việc khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về tín ngưỡng, tơn giáo đã cho
phép các đối tượng trên có quyền khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính, khởi kiện vụ
án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tịa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình theo quy định của pháp luật có liên quan.
Đối với Thành phố Hà nội, do năng lực quản lý, đặc biệt là tình trạng hạn chế
về nhân sự nên việc xây dựng các chính sách và quy định quản lý cụ thể phù hợp
với đặc thù của địa phương chưa được thực hiện hiệu quả điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả quản lý nội dung về hoạt động tín ngưỡng.
Hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật về hoạt động tín ngưỡng
Đây là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để truyền tải
pháp luật vào cuộc sống.
Với vị trí, vai trị quan trọng như vậy cơng tác tun truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về hoạt động tín ngưỡng không ngừng được thành phố Hà Nội đẩy mạnh
thực hiện và đặt ra những kế hoạch hoạt động phù hợp với đặc thù riêng của địa
phương mình.
Qua nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội, có thể thấy, thời gian
qua, một số nội dung tuyên truyền về hoạt động tín ngưỡng, trong đó có tín ngưỡng
thờ Mẫu, được lồng ghép vào các nội dung tuyên truyền về xây dựng đời sống văn
hóa, nếp sống văn minh trên địa bàn, cụ thể là các phong trào, cuộc vận động như:
“Phát triển văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh”, “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
Như vậy, các hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng ở Hà Nội đang phát triển phong phú,
tuy nhiên, nhiều biểu hiện dị đoan cũng nhân cơ hội "phục hồi", ảnh hưởng đến môi
trường văn hóa chung và gây tổn hại về kinh tế.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực hoạt động tín ngưỡng là hoạt động
thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng nhằm xem xét, đánh giá, xử lý
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, quyền hạn trong cơng tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng; việc chấp
hành chính sách, pháp luật của tổ chức, cá nhân trong thực hiện hoạt động tín ngưỡng
nhằm kịp thời phát hiện sơ hở về cơ chế quản lý nhà nước, xử lý vi phạm pháp luật,
động viên, biểu dương, hướng dẫn tổ chức cá nhân trong việc chấp hành, thực hiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, cơng dân trong việc thực hành các hoạt động tín ngưỡng.
Để thực hiện hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành đối với hoạt động tín
ngưỡng, ngồi việc nắm vững quy định của pháp luật về thanh tra và thanh tra chuyên
ngành đối với hoạt động tín ngưỡng, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ.
Tóm lại, thanh tra đối với hoạt động tín ngưỡng là một lĩnh vực của thanh tra
chuyên ngành. Để thực hiện hiệu quả công tác thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực
tín ngưỡng, bên cạnh việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên thì trọng tâm của
công tác này cần tập trung trong việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ có đủ
15
tâm và tầm để đảm trách công tác thanh tra và hồn thiện thể chế thanh tra chun
ngành về tín ngưỡng, tôn giáo.
2.4.2. Nhận xét chung
2.4.2.1. Một số kết quả đạt được
Qua nghiên cứu về thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng trên địa
bàn thành phố Hà Nội cho thấy Sở Văn hóa thể thao và du lịch, ban Tơn giáo thành
phố Hà Nội đã có rất nhiều cố gắng trong thực hiện chức năng quản lý đặc biệt là đối
với hoạt động tín ngưỡng, cho dù chưa đạt được kết quả như mong muốn. Nhiều lễ
hội tín ngưỡng đã được tổ chức đáp ứng nhu cầu của đơng đảo người dân, thì cơng
tác phổ biến pháp luật cũng được chú trọng, một số lớp đào tạo nâng cao nhận thức
đã được triển khai tổ chức,... đã góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn cụ thể như sau:
Thứ nhất, thực hiện đúng các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về lễ hội tín ngưỡng.
Hai là, bộ máy QLNN từ cấp tỉnh đến cấp xã - phường được kiện toàn, đội ngũ
cán bộ quản lý tổ chức lễ hội bước đầu được chuẩn hóa
Thứ ba, cơng tác thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội tín ngưỡng đạt được
những kết quả tích cực.
Trong hoạt động lễ hội tín ngưỡng, các địa phương gắn liền nội dung lễ hội với
Thứ tư, lễ hội tín ngưỡng tiêu biểu trên địa bàn thành phố Hà Nội bảo tồn được
truyền thống, nề nếp theo hướng lành mạnh hóa, phù hợp với thuần phong mỹ tục.
2.4.2.2. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được thực trạng công tác quản lý nhà nước về tín
ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua còn những hạn chế, bất
cập sau đây:
Việc xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật quản lý nhà nước về lễ hội tín
ngưỡng cịn cịn gặp nhiều khó khăn.
Việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật và hướng dẫn thực hiện các văn bản
qui phạm pháp luật liên quan đến QLNN về lĩnh vực lễ hội tín ngưỡng cịn chậm,
phân tán, chưa đầy đủ, chưa theo kịp thực tiễn phát triển hiện nay.
Công tác tuyên truyền, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các văn bản quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch về lĩnh vực này chưa đạt hiệu quả tối ưu.
Hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ QLNN và tổ chức lễ hội
tín ngưỡng cịn có những vấn đề bất cập.
Cơng tác quản lý lễ hội tín ngưỡng tiêu biểu hiện nay ở các địa phương cơ bản
do UBND cấp huyện, xã, phường thực hiện; vai trị QLNN của ngành văn hóa chưa
thực sự được đề cao.
Thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội tín ngưỡng cịn nhiều bất cập.
Ý thức của người tham gia lễ hội còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến thái độ,
hành vi, ứng xử chưa văn hóa đối với lễ hội.
Hiện tượng ô nhiễm môi trường, mất trật tự an tồn trong lễ hội tín ngưỡng cịn
diễn ra khá phổ biến.
16
Một số nội dung trong hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị lễ hội tín ngưỡng chưa
được chú trọng.
2.4.2.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân khách quan:
Tác động mặt trái của kinh tế thị trường, sự hội nhập kinh tế với thế giới (WTO)
làm nảy sinh xu hướng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo và theo
hướng thoát ly sự quản lý của các cơ quan chuyên môn nhà nước, tác động mạnh đến
công tác bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống và các yếu tố gốc của các di tích, làm
mới các lễ hội dân gian đang có xu hướng phát triển mạnh
Các thế lực thù địch đã lợi dụng diễn biến hịa bình trên lĩnh vực văn hóa, tư
tưởng, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta để tìm
cách né tránh và xa dời sự quản lý của chính quyền và pháp luật, tạo nên một số nhận
thức sai lệch của các người có niềm tin tín ngưỡng.
Ngun nhân chủ quan:
Sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với cơng tác tín ngưỡng chưa được coi
trọng, chưa thường xuyên, kiểm tra, nhắc nhở và xử lý kịp thời một số vi phạm, còn e
dè, nể nang, né tránh do ngại va chạm với lĩnh vực tín ngưỡng, vốn là vấn đề nhạy
cảm, phức tạp.
Kiến thức về tín ngưỡng, tơn giáo ở cơ sở còn nhiều hạn chế và bất cập, chưa
được đào tạo đúng chuyên ngành. Chưa có nhiều kinh nghiệm xử lý với những diễn
biến phức tạp trong thực tiễn.
Kinh phí, ngân sách chi hỗ trợ, đặc thù, phụ cấp cho những người quản lý, bảo
vệ di tích tín ngưỡng, tơn giáo cịn hạn chế, khơng thu hút được người có năng lực
tham gia.
Nguồn kinh phí đầu tư cho cơng tác quản lý và đầu tư cho tu bổ, tôn tạo và phục
dựng các di tích tín ngưỡng, tơn giáo cịn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu
thực tế tại các địa bàn có cơ sở tín ngưỡng, di tích và lễ hội.
2.4.2.4. Những vấn đề đặt ra trong cơng tác quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng trong thời gian tới
Một là, trước thực trạng nhiều loại hình tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà
Nội được phục hồi với mơ hình tổ chức, hoạt động đa dạng theo vùng miền để đáp
ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân.
Hai là, cần tăng cường cơng tác tun truyền, hướng dẫn người dân hoạt động
tín ngưỡng lành mạnh, phù hợp với phong tục truyền thống của người Việt, không bị
lôi kéo vào các hoạt động mê tín dị đoan, vi phạm pháp luật, loại bỏ những hủ tục,
giữ lại những giá trị truyền thống tốt đẹp.
Ba là, xu hướng hình thành các tổ chức tín ngưỡng tạo ra sự đa dạng hình thức,
màu sắc tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội, đồng thời cũng làm nảy sinh các
vấn đề xã hội, phức tạp an ninh trật tự.
Bốn là, một số hiện tượng tín ngưỡng biến dạng, bị một số kẻ xấu lợi dụng theo
chiều hướng mê tín dị đoan, dung tục hóa phục vụ mục đích trục lợi.
Năm là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về tín ngưỡng,
tơn giáo theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và các văn bản chỉ đạo về công tác
17
tơn giáo, tín ngưỡng của Trung ương; Luật tín ngưỡng, tôn giáo và văn bản quy định
chi tiết cho Luật tín ngưỡng, tơn giáo.
Sáu là, nhanh chóng xây dựng, bổ sung, hồn chỉnh hệ thống pháp luật về tín
ngưỡng, tơn giáo, cụ thể là hồn thiện và trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo.
Bảy là, làm tốt cơng tác quy hoạch, xây dựng và kiện tồn tổ chức bộ máy làm
công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo các cấp, bắt đầu từ cơ sở.
Tám là, xây dựng và hoàn thiện một chiến lược tổng thể phát triển ngành quản lý
nhà nước về tín ngưỡng trong cơ cấu tổ chức đa ngành, đa lĩnh vực.
Chín là, tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn các địa phương quản lý nhà nước
về tín ngưỡng, tơn giáo theo các quy định của Luật tín ngưỡng, tơn giáo và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 tác giả đã phân tích thực trạng hoạt động tín ngưỡng và cơng
tác quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó
đưa ra được những đánh giá về những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại,
song song với đó là tìm ra những ngun nhân giải pháp khắc phục, hồn thiện hơn
nữa vai trị của nhà nước trên lĩnh vực quan trọng này, có thể nhận thấy:
Bên cạnh tính tích cực về giá trị văn hóa thì hoạt động tín ngưỡng trong thực tế
thời gian qua đã bộc lộ một số mặt tồn tại, hạn chế, làm ảnh hưởng tới bản sắc, truyền
thống văn hóa, tính thiêng liêng và hoạt động tín ngưỡng như: hiện tượng bói tốn,
lên đồng, cờ bạc, thương mại hố trong hoạt động dịch vụ phục vụ lễ hội, tệ bán
hàng rong, rút thẻ, bán sách tướng số, tử vi không rõ xuất xứ, lôi kéo khách hành
hương, tranh giành thu tiên bán vé dịch vụ... làm giảm đi tính tơn nghiêm và
những nét đẹp văn hoá trong hoạt động lễ hội gây nên bức xúc của dư luận vẫn
còn diễn ra tại một số cơ sở tín ngưỡng và lễ hội lớn.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng địi hỏi các nhà quản lý phải
hoạt định xây dựng được quy hoạch chiến lược về hoạt động tín ngưỡng, kế hoạch
bảo tồn, phát huy các hoạt động tín ngưỡng, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với
từng giai đoạn khác nhau và nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội.
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật Nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng, tơn giáo
Trong q trình đổi mới Đảng ta đã xây dựng các chủ trương, đường lối, nhà
nước đã ban hành các văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
3.1.1. Quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tơn giáo
Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Hai là, tơn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
18
Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa,
truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Bốn là, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ
tiên, tôn vinh những người có cơng với Tổ quốc và nhân dân.
Như vậy, những quan điểm trên mang tính biện chứng sâu sắc trong tư duy lý
luận của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa xây và chống (xây dựng khối
đoàn kết toàn dân, chống phân biệt đối xử, chống âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động
gây rối); giữa giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu tranh loại trừ
các tệ nạn mê tín, hủ tục nhằm bảo đảm cho mơi trường sinh hoạt tín ngưỡng, tôn
giáo lành mạnh.
3.1.2. Pháp luật của nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo
Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm có: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (1987); Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001);
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006); Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI (2011).
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa XI (2014) của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Về xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước.
Nghị quyết 25 khóa IX (2003) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Về công
tác tôn giáo.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hoá năm 2009 được
Quốc hội khố XII thơng qua ngày 18/6/2009.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua
ngày 18/6/2004 (Pháp lệnh có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11/2004). Để hướng dẫn
thi hành Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành các văn bản sau:
Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều
của Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo.
Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi
hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo (thay thế cho Nghị định số 22/2005/NĐ-CP).
Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 6/11/2009 của Chính phủ quy định về Quy
chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa cơng cộng
Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động văn hóa.
Thơng tư số 04/2009/TT-BVHTTDL ngày 16/12/2009 qui định chi tiết thi hành
một số quy định tại Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa cơng
cộng ban hành kèm theo Nghị định số103/2009/NĐ-CP ngày 6/11/2009 của Chính
phủ.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành các quyết định, thông tư:
Quyết định số: 199/QĐ-BNV ngày 31/01/2018 về việc công bố thủ tục hành chính
trong lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Nội vụ.
19
Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 30/5/2014 giữa Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh
tại các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tơn giáo;
Thơng tư số 04/2016/TT-BNV ngày 10/6/2016 cửa Bộ Nội Vụ hướng dẫn một số
nội dung về thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo.
Ngồi các văn bản trực tiếp điều chỉnh các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo trên
đây, cịn nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác có các quy định điều chỉnh liên
quan đến tín ngưỡng, tơn giáo như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Đất đai,
Luật Hơn nhân và Gia đình, Luật Xây dựng, Luật Xuất bản, Luật Di sản Văn hố,...
Xuất phát từ tình hình hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo và thực trạng hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật như đã nêu trên, ngày 18/11/2016 Quốc hội đã thơng qua
Luật tín ngưỡng, tơn giáo (Luật); ngày 30/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín
ngưỡng, tơn giáo (Nghị định số 162). Luật và Nghị định số 162 có hiệu lực thi hành
đồng thời kể từ ngày 01/01/2018.
Đây là các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp những nội dung cơ
bản các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay.
3.2. Dự báo một số xu hướng hoạt động tín ngưỡng ở Việt Nam
Tín ngưỡng và hoạt động tín ngưỡng ở nước ta hiện nay đang có những xu hướng
nhiều chiều, khác nhau giữa các vùng miền, giữa các cơ sở và loại hình tín ngưỡng.
Một số nơi có sự gia tăng, phục hồi, phát triển; số khác có xu hướng giảm nhẹ, phai
nhạt.
Tín ngưỡng ở Việt Nam tiếp tục có sự giao thoa, hỗn hợp, đan xen với nhau và
với tôn giáo, nhiều loại hình tín ngưỡng trong cùng một khơng gian cịn phổ biến tạo
ra quần thể khơng gian thiêng.
Do ảnh hưởng lớn bởi kinh tế thị trường, xu hướng thương mại hóa trong các
hoạt động tín ngưỡng, gắn sinh hoạt tín ngưỡng với các hoạt động kinh tế diễn ra khá
phổ biến.
Xu hướng lợi dụng tín ngưỡng hành nghề mê tín dị đoan, tổ chức lễ bái tốn kém,
phơ trương hình thức, lãng phí; nhiều địa phương đua nhau đầu tư tiền của, công sức
trong việc sửa chữa, nâng cấp cơ sở thờ tự, mua sắm các đồ thờ… để xin tiền ngân
sách và phát động nhân dân đóng góp, cơng đức nhưng số tiền chi chưa minh bạch, bị
thất thốt, bị một số người có chức vụ, liên quan đến cơ sở tín ngưỡng lợi dụng.
Nhận thức của người tham gia các hoạt động tín ngưỡng ngày càng có xu hướng
cao hơn song hiểu biết một cách cơ bản về bản chất của tín ngưỡng cịn nhiều hạn
chế, dẫn đến các hành vi tín ngưỡng lệch chuẩn vẫn xảy ra nhiều.
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tín
ngưỡng
3.3.1. Tiếp tục hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngưỡng
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động tín ngưỡng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tính
cơng khai, minh bạch, cơng bằng với mọi người trong xã hội; ngăn chặn tính tùy
tiện, thiếu trách nhiệm của một số tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tín ngưỡng
và quản lý hoạt động tín ngưỡng của cấp chính quyền.
20
Đối với việc hồn thiện việc xây dựng luật tín ngưỡng, tơn giáo gắn với tình
hình thực tế hiện nay thì cần xem xét đưa những điều, mục liên quan đến hoạt động
tín ngưỡng, những nội dung cụ thể đang vướng mắc mà trước đây chưa có hướng
giải quyết các hoạt động tín ngưỡng bằng pháp luật rõ ràng và cụ thể hơn so với
Luật tín ngưỡng, tơn giáo hiện hành.
3.3.2. Về phân công, phân cấp trong công tác quản lý đối với hoạt động tín
ngưỡng
Phân cơng trách nhiệm quản lý
Tín ngưỡng và tơn giáo có mối quan hệ về bản chất; chức năng, vai trị của tín
ngưỡng có nhiều điểm tương đồng đối với tôn giáo và thực tiễn đang thiếu một đầu
mối chuyên quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng. Vì vậy, cần hình thành
một cơ quan chun quản lý về tín ngưỡng, tơn giáo. Thực hiện giải pháp này đòi hỏi
sự phân định lại chức năng, nhiệm vụ giữa 02 ngành quản lý nhà nước về tôn giáo và
quản lý nhà nước về văn hóa.
Xây dựng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo đảm bảo
tính khoa học, hiệu quả; ban hành văn bản pháp luật quy định rõ chức năng, nhiệm
vụ, phân cấp quản lý và nội dung quản lý về tín ngưỡng, khắc phục tình trạng chồng
chéo. Địi hỏi Bộ Nội vụ và Bộ Văn hóa Thơng tin Du lịch sớm ban hành quy chế
phối hợp về cơng tác quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng.
Phân cấp quản lý
Uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm quản lý những hoạt động tín ngưỡng
diễn ra trong phạm vi một xã, cần tăng cường quản lý những cơ sở tín ngưỡng chưa
được cơng nhận là di tích. Những loại hình tín ngưỡng có phạm vi hoạt động liên xã
do cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng cấp huyện quản lý.
Đối với các cơ sở tín ngưỡng được xếp hạng di tích, thực hiện quản lý đối với
hoạt động tín ngưỡng tương ứng với các hình thức Ban quản lý di tích cấp tỉnh, thành
phố; Ban Quản lý di tích trực thuộc Sở Văn hóa thể thao và du lịch; Ban Quản lý di
tích trực thuộc UBND huyện, thị xã và Ban Quản lý di tích trực thuộc UBND xã,
phường.
3.3.3. Đổi mới quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng
Đổi mới cơng tác quản lý đối với Ban quản lý, hoặc người phụ trách cơ sở tín
ngưỡng như chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với các hoạt động tín ngưỡng diễn
ra tại cơ sở; xây dựng nội quy, quy định của cơ sở tín ngưỡng theo quy định của pháp
luật nhằm phát huy được cơ chế tự quản của người dân; thực hiện việc đăng ký sinh
hoạt tín ngưỡng hằng năm với chính quyền cấp xã, phường, thị trấn.
Ban Quản lý có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn khách tham quan,
người tham gia hoạt động tín ngưỡng theo đúng quy định của pháp luật, thực hiện
nếp sống văn minh tại cơ sở tín ngưỡng; phối hợp với chính quyền địa phương tổ
chức sắp xếp các dịch vụ phục vụ khách tham quan, người tham gia các hoạt động
tín ngưỡng.
Đối với lễ hội tín ngưỡng
Phát huy các giá trị tinh thần, giá trị văn hóa, đạo đức mang tính truyền thống tốt
đẹp của các tín ngưỡng.
21
Đối với các lễ hội có phần lễ và phần hội tách bạch thì cần nghiên cứu, xem xét
quy mơ từng phần để hướng dẫn ban tổ chức thực hiện các quy định của ngành quản
lý nhà nước về văn hóa, về “hội” và ngành quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo
về “lễ”.
Đối với quản lý lễ hội tín ngưỡng cần làm tốt các nội dung cơ bản sau: Xây
dựng kịch bản lễ hội, gồm: về chủ đề tư tưởng sự tích lễ hội; về định hướng chỉ đạo
của cơ quan quản lý.
Phân loại các loại hình tín ngưỡng để xây dựng nội dung quản lý cho phù hợp;
cần có đánh giá tác động, ảnh hưởng của loại hình tín ngưỡng trên hai mặt tích cực
và hạn chế để từ đó xây dựng phương án phát huy, khích lệ hay hạn chế, hủy bỏ cho
phù hợp với hoàn cảnh xã hội và luật pháp.
Xây dựng cơ chế phối hợp rõ ràng, chặt chẽ trong công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tín ngưỡng.
Cơng tác thanh tra kiểm tra phải thường xuyên, hiệu quả, kịp thời xử lý, ngăn
chặn, loại bỏ dần các biểu hiện và xu hướng tiêu cực, sai trái trong thực hành, hoạt
động tín ngưỡng mang tính mê tín, dị đoan, ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, đạo
đức văn hóa truyền thống.
3.3.4. Về xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng
Xây dựng cơ chế, chính sách nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chuyên trách và kiêm nhiệm làm công tác tín ngưỡng ở các cấp, nhất là cấp cơ sở nơi
có các hoạt động tín ngưỡng lớn. Thường xun mở các lớp bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước và các cán bộ
ban, ngành, đoàn thể liên quan đến cơng tác đối với tín ngưỡng cụ thể như sau:
Một là, cần có trường đại học hoặc phân khoa đào tạo chun ngành về cơng tác
tín ngưỡng, tơn giáo (hiện nay, một số học viện và trường đại học mới chủ yếu đào
tạo chuyên ngành về nghiên cứu tôn giáo).
Hai là, đánh giá chất lượng công tác tổng kết, thực trạng tổ chức bộ máy và đội
ngũ cán bộ làm cơng tác tín ngưỡng, để làm cơ sở tham mưu với Đảng, thống nhất
trong chỉ đạo và hoạt động.
Ba là, việc sử dụng, bố trí, bổ nhiệm, điều động cán bộ làm cơng tác tín ngưỡng
phải hợp lý, đặc biệt là đối với những người đứng đầu.
Bốn là, cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ làm
cơng tác tín ngưỡng theo hướng thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, theo đó, động
viên được cả về phương diện vật chất (thông qua cơ chế đặc thù về tiền lương, phụ
cấp...) và phương diện tinh thần (quan tâm tới các chế độ, như khen thưởng, nghỉ
dưỡng, các hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm làm công tác giữa các địa
phương.
3.3.5. Đẩy mạnh cơng tác tun truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tơn giáo
Việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tơn giáo là
nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài, cần được triển khai đồng bộ bằng nhiều
giải pháp, với sự tham gia của các cấp, ngành và lực lượng. Trong đó, chú trọng thực
hiện tốt một số nội dung sau:
22
Thứ nhất, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công
tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tơn giáo.
Thứ hai, tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ về việc
tun truyền Luật Tín ngưỡng, tơn giáo đáp ứng u cầu nhiệm vụ.
Thứ ba, lựa chọn nội dung, đổi mới phương pháp, hình thức tun truyền, phổ
biến Luật tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng địa bàn, đối tượng.
Thứ tư, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực lượng trong tun truyền, phổ
biến Luật Tín ngưỡng, tơn giáo, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện.
Thực hiện tốt các nội dung, giải pháp trên sẽ bảo đảm công tác tun truyền,
phổ biến Luật Tín ngưỡng, tơn giáo có hiệu quả, đưa Luật vào cuộc sống, đáp ứng
nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo của một bộ phận nhân dân, góp phần tích cực xây dựng
nền an ninh nhân dân vững mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.3.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá, hướng dẫn quần chúng
nhân dân hiểu rõ các giá trị văn hóa truyền thống và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc
Thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng, cung cấp cho nhân dân, dư
luận xã hội những thông tin đầy đủ, khách quan về các biểu hiện tiêu cực trong thực
tiễn hoạt động của tín ngưỡng, đồng thời định hướng dư luận, giúp nhân dân có được
sự nhìn nhận, đánh giá một cách tồn diện, khơng đánh đồng các giá trị văn hóa với
các biểu hiện mê tín, dị đoan trong hoạt động của tín ngưỡng...
Đổi mới, sáng tạo trong các phương pháp, phương thức tuyên truyền về giá trị
văn hóa của tín ngưỡng nói riêng và giá trị văn hóa truyền thống nói chung.
3.3.7. Các giải pháp khác
Đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế cho
nhân dân được tốt hơn để nâng cao trong nhận thức cộng đồng về tín ngưỡng. Phối
hợp với các chức sắc, tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận để đấu tranh hạn
chế với tư tưởng, hành vi mê tín, nhận thức thiếu đúng đắn về các hoạt động tín
ngưỡng.
3.4. Khuyến nghị
3.4.1. Đối với Bộ Nội vụ (Ban Tơn giáo Chính phủ)
Nội dung Luật tín ngưỡng, tơn giáo cần có những điều khoản cụ thể, rõ ràng để
bao quát được đầy đủ các hoạt động tín ngưỡng trong thực tế, phân cấp quản lý trách
nhiệm của chính quyền cần cụ thể, hạn chế tối đa việc chồng chéo giữa chức năng của
Ngành Văn hóa và Ngành Tôn giáo như hiện nay.
Ban hành các văn bản dưới Luật quy định, bổ sung về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, biên chế cho bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn
giáo các cấp thực hiện chức năng quản lý về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và văn
bản hướng dẫn thi hành luật kịp thời, chi tiết, khoa học.
Sớm ban hành quy chế phối hợp giữa Ban Tơn giáo Chính phủ với Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch về quản lý hoạt động tín ngưỡng.
3.4.2. Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính quản lý hoạt động tín ngưỡng tại địa phương, xây dựng
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phục vụ hoạt động tín ngưỡng, bao gồm việc xem
23
xét, giải quyết cho xây dựng cơ sở tín ngưỡng mới đáp ứng nhu cầu chính đáng của
cộng đồng dân cư.
Tạo điều kiện cho cộng đồng tín ngưỡng phát huy vai trị chủ thể trong hoạt
động tín ngưỡng, hạn chế sự tham gia của chính quyền vào các hoạt động tín ngưỡng
của nhân dân. Có cơ chế tuyển chọn những người đại diện cơ sở tín ngưỡng, Ban
quản lý di tích, Ban Tổ chức lễ hội tín ngưỡng, đảm bảo là những cơng dân tốt, có uy
tín trong cộng đồng, có hiểu biết sâu về ý nghĩa của tín ngưỡng; có kế hoach đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo,… nhằm nâng cao năng lực và trách
nhiệm cho đội ngũ này.
Chỉ đạo các sở, ban, ngành và chính quyền cơ sở tăng cường cơng tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, bố trí cơ cấu cán bộ hợp lý làm cơng tác tín
ngưỡng.
3.4.3. Đối với Ban tơn giáo thành phố Hà Nội
Có văn bản chỉ đạo hướng dẫn UBND các cấp về quy trình thành lập Ban quản
lý và xây dựng nội quy, quy chế hoạt động của các cơ sở tín ngưỡng chưa được xếp
hạng di tích.
3.4.4. Đối với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội
Thống kê, phân loại các loại hình lễ hội tín ngưỡng từ đó đề xuất những lễ hội
tín ngưỡng phù hợp với thuần phong mỹ tục, điều chỉnh những lễ hội tín ngưỡng
khơng cịn phù hợp với nếp sống văn hóa, loại bỏ những hoạt động tín ngưỡng khơng
lành mạnh, mê tín dị đoan.
Nghiên cứu, đề xuất thành lập những mơ hình Ban Quản lý di tích đối với các
cơ sở tín ngưỡng, đặc biệt là các cơ sở tín ngưỡng đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa thống nhất trên cả nước
Làm rõ sự phân cấp quản lý đối với các cơ sở tín ngưỡng được xếp hạng di tích
ở các cấp hiện nay
Tiểu kết chương 3
Từ những khó khăn và những vấn đề đặt ra với quản lý nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng tác giả đã đưa ra những nội dung sau: Dự báo một số xu hướng hoạt
động tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, để từ đó có được sự nhìn nhận chính xác nhất
về những xu hướng đang tồn tại để có những chủ chương, chính sách phù hợp với
tình hình hiện tại.
Sau khi đã phân tích những tồn tại và hạn chế của công tác quản lý nhà nước về
hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội ở chương hai thì trong chương
ba này tác giả đã đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn cơng tác quản lý nhà
nước về hoạt động tín ngưỡng. Trong các giải pháp đưa ra giải pháp nào cũng cần
thiết nhưng có một giải pháp then chốt đó là:
Thiếu một chiến lược mang tính tổng thể của ngành quản lý nhà nước về tín
ngưỡng từ cơng tác tổ chức, con người, nguyên tắc xử lý công việc. Hoạt động hiện
tại vẫn nặng về giải quyết sự vụ, sự việc...
Hệ thống các văn bản pháp luật, pháp quy về tín ngưỡng chưa đồng bộ, thiếu các
quy định và điều khoản thi hành trong việc giải quyết về quản lý hoạt động tín
ngưỡng, chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực tín ngưỡng...; thiếu các chính sách cụ
thể về tín ngưỡng đã làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
24
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đối với nhân dân nhằm nâng cao
nhận thức để nhận diện được các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo chính đáng, hợp
pháp và những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để gây phương hại cho người
dân và xã hội. Khuyến khích các kênh thơng tin, truyền thơng, mở rộng giao lưu, đối
thoại để tăng cường dân chủ và tạo nên nếp sống dân chủ, văn minh trong đời sống xã
hội để họ tự phản biện và bảo vệ mình trước tác động tiêu cực của tín ngưỡng, tơn
giáo cực đoan.
Với phần kiến nghị đối với các cơ quan liên quan đến hoạt động tín ngưỡng
tác giả đã đưa ra ý kiến theo cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề của tác giả và mong
muốn những kiến nghị đó trong thời gian gần nhất sẽ được đưa vào thực tiễn để
cơng tác quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng được hoàn thiện hơn.
KẾT LUẬN
Hà Nội là thành phố có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo, bức tranh và đời
sống tơn giáo, tín ngưỡng rất đa dạng, mn màu. Sự phong phú về loại hình tín
ngưỡng, đời sống tín ngưỡng của nhân dân cũng kéo theo sự khó khăn, phức tạp
trong công tác nghiên cứu cũng như quản lý về mặt nhà nước. Có loại hình tín
ngưỡng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, anh hùng dân tộc; có tín ngưỡng gắn với
vùng miền như tín ngưỡng thành hồng, thờ mẫu, tổ nghề,...
Vai trị, ảnh hưởng của tín ngưỡng và các hoạt động tín ngưỡng trong đời sống
người dân có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động, thực hành tín ngưỡng trong đời sống
nhân dân có các cung bậc khác nhau theo thời gian, hoàn cảnh. Các hoạt động tín
ngưỡng cũng có cả tích cực và tiêu cực, được các nhà nghiên cứu, quản lý nhìn nhận
theo nhiều chiều.
Sau khi đất nước bước vào đổi mới, các hoạt động của tín ngưỡng đang diễn ra
sơi động dưới nhiều loại hình, hoạt động khác nhau, diễn ra ở nhiều địa phương, vùng
miền trong phạm vi cả nước, tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế xã
hội, văn hố, tinh thần của một bộ phận khơng nhỏ quần chúng nhân dân. Các hoạt
động tín ngưỡng đã đem lại nhiều giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống, tạo ra bản sắc
riêng của từng cộng đồng dân cư khác nhau. Những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng
được bảo tồn, gìn giữ, phát huy, góp phần xây dựng con người, xã hội Việt Nam ngày
một giàu mạnh, phát triển toàn diện và bền vững. Bên cạnh mặt cực, hoạt động tín
ngưỡng trong những năm qua cũng có nhiều hạn chế, tác động xấu đến nhiều mặt
trong xã hội, đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm phải giải quyết. Trong đó nhận
thức và phương thức quản lý đối với tín ngưỡng rất cần phải có sự thống nhất và cụ
thể để đưa các hoạt động tín ngưỡng vào quản lý theo pháp luật.
Với đa loại hình tín ngưỡng và các hoạt động, sinh hoạt tín ngưỡng cịn phong
phú, đa dạng, các hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và
trên địa bàn cả nước nói chung hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có cơng
tác quản lý. Những thành tựu của cơng tác quản lý về tín ngưỡng trong thời gian qua
đã tạo ra sự ổn định chính trị xã hội, phát huy các yếu tố tích cực trong hoạt động,
sinh hoạt tín ngưỡng. Dựa trên kết quả của quá trình nghiên cứu, khảo sát, luận văn
đã đưa ra những dự báo của tín ngưỡng trong những năm tới và nêu lên những
khuyến nghị, kiến nghị, giải pháp chung cùng những giải pháp cụ thể trong công tác
25