Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.99 KB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế qaun trọng
có vai trò to lớn đối với hoạt động đối ngoại của mỗi quốc gia và cộng đồng
quốc tê. Các quốc gia ngày càng coi trọng việc phát triển du lịch tại hội nghị bộ
trưởng Du lịch Thế giới (tháng 11/1994, Osaka- Nhật Bản )với sự tham gia của
78 quốc gia ,18 cơ quan chính quyền đã khẳng định : “ Du lịch là nguồn lớn nhất
tạo ra GDP và việc làm thế giới, chiếm tới 1/10 mỗi loại . Đầu tư cho du lịch và
các khoản thu từ du lịch cũng tăng cao .Những sự gia tăng này cùng với các chỉ
tiêu khác của du lịch dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách vững chắc” và
như vậy ,du lịch sẽ là đầu tàu kéo cho nền kinh tế thế giới trong thế kỷ XXI.
Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới (WTO), sự đóng góp của du
lịch và lữ hành vào nền kinh tế thế giới được minh họa bằng sự đóng góp của du
lịch và lữ hành vào nền kinh tế thế giới được minh họa bằng sự dóng góp trực
tiếp 3,8% trong số GDP ,nếu tính gộp và cả trực tiếp lẫn gián tiếp là 10,6% vào
GDP toàn cầu trong 2005 . Số lượng khách đi du lịch ngày càng tăng tại tất cả
các khgu vực ,các quôc gai trên thế giới, năm 1950 cả thế giới mới có 25 triệu
khách đi du lịch thì đến năm 2000 đã có 698 triệu người đi du lịch , dự kiến năm
2010 sẽ có trên một tỷ lượt khách du lịch quốc tế.
Trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ
trương ,quan điểm hết sức đúng đắn và quan trọng : Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã xác định “Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn” .Tháng
7/2002 ,Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt
Nam 2001-2010 ” Với mục tiêu tổng quát “Phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu ”
Từ sau năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của
WTO, tổ chức thuong mại Dịch vụ có tính quốc tế ,mang tính hội nhập toàn cầu
và điều này kích thích sự phát triển mạnh mẻ của ngành Du Lịch Việt Nam nói
chung và du lịch nói riêng, sẽ tiến mình trong tiến trình chuyển đổi cơ cấu kinh
1



tế theo hướng Dịch Vụ - Công nghiệp –Nông nghiệp mà kinh tế Du lịch là một
trong những bộ phận chủ yếu của hoạt động Dịch vụ.
Thủ đô Hà Nội với nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và là trung
tâm văn hóa ,chính trị ,kinh tế của một quôc gia được coi là một quốc gia có
tiềm năng lớn cho phát triển du lịch.Nghị quyết Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần
thứ XIII đã chỉ rỏ “Với lợi thế là trung tâm đầu não về chính trị, hành chính văn
hóa, khoa học, công nghệ, là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
,trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quôc tế cảu cả nước ,trong 10 năm tới Du
lịch Hà Nội phải trở thành thế mạnh của nền kinh tế Thủ đô cùng với các ngành
khác đưa GDP của Hà Nội đến năm 2010 tăng từ 2,2 đến 2,4 lần so với năm
2000”. Với tư duy này, du lịch Thủ đô đã chuyển sang một bước hoạt động mới
với những tiềm năng và thach thức mới, trong một phạm vi mới ,rộng lớn
hơn,phức tạp hơn.
Những năm gần đây, hòa nhịp với công cuộc đổi mới đất nước, ngành Du
lịch Hà Nội đã nỗ lực vượt qua khó khăn,huy động nội lực và tranh thủ nguồn
lực quôc tế để nâng cao năng lực hoạt động ,đạt được những thành tựu quan
trọng.Du lịch Hà Nội đã đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế -xã
hội của Thủ đô, mức tăng trưởng từ du lịch năm sau cao hơn năm trước ,tham
gia mạnh mẽ trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố .Tuy
nhiên,du lịch Hà Nội vẫn chưa phát triển xứng đáng với tầm vóc của các nguồn
lực mà thiên nhiên và lịch sử ưu đãi cho vùng đất này. Bên cạnh đó ,việc hợp
nhất tỉnh Hà Tây vào Hà Nội theo Nghị quyết 15/2008/QH12 của quốc hội ngày
29/5/2008 về việc điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội và một số
tỉnh có liên quan cũng là một thách thức lớn đối với việc công tác quản lý nhà
nước của Hà Nội.
Là cán bộ hoạt động trong ngành Du lịch Hà Nội ,tác giả rất trăn trở với
những câu hỏi : Đâu là giải pháp để đưa Du Lịch Thủ đô phát triển nhanh và bền
vững? Vai trò của các cơ quan quản lý Thành phố đối với vấn đề này thế nào ?
Cần phải tạo bước đột phá từ khâu nào ? Vì vậy, tôi đã chọn vấn đề “ Quản lý


2


nhà nước trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn Thành phố Hà Nội “ làm đề tài
luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua ,cùng với sự phát triển của nghành du lịch Hà Nội
đã có một số đề tài khoa học ,có giá trị lý luận và thực tiễn ,giúp cho việc ứng
dungjcacs giải pháp có hiệu quả góp phần thiết thực vào việc quản lý và thúc
đẩy sự phát triển của nghành du lịch Thủ đô .Những đề tài này chủ yếu giải
quyết các vấn đề nghiệp vụ du lịch hoặc quản lý nhà nước đối với các hoạt động
du lịch trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Cụ thể gần đây có các đề tai sau:
- Nghiên cứu nhũng giải pháp phát triển du lịch lữ hành của Thủ đô.
- Thực trang hoạt động kinh doanh và một số định hướng ,giải pháp chủ
yếu để các khách sạn Hà Nội kinh doanh có hiệu quả.
- Các giải pháp nâng cao chất lượng các tour du lịch trên địa bàn Hà Nội.
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế du lịch trên và dịch vụ chiến
lược hội nhập đối với kinh tế Hà Nội.
Kế thừa những kết quả nghiên cứu khoa học trước đây,để tiếp tục có
những bước phát triển vượt trội nhằm phấn đầu trở thành nghành kinh tế quan
trọng ,mũi nhọn vào nhưng năm tiếp theo ,luận văn này sẽ nghiên cứu ,đánh giá
thực trạng và đề xuất một số phương pháp quản lý nhà nước nhằm góp phần đẩy
nhanh sự phát triển du lịch trong cơ cấu kinh tế Thủ đô.
3.Mục tiêu – nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.Mục tiêu của luận văn
- nghiên cứu ,xây dựng luận cứ khoa học mang tính lý luận và thực tiễn về
quản lý nhà nước đối với các hoạt động du lịch trên địa bàn Hà Nội trong tình
hình mới.
- Đánh giá thực trạng về kết quả hoạt động kinh doanh và công tác quản

lý nhà nước về du lịch với mục tiêu đẩy nhanh tốc độ phát triển du lịch thành
ngành kinh tế quan trọng của Thủ đô phục vụ chiến lược Hội nhập giai đoạn
2008-2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3


Để đạt được mục tiêu đặt ra ,luân văn tập trung vào các nhiệm vụ :
- Xây dựng hệ thống lý luận về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
du lịch ( yêu cầu ,nội dung ,nhiệm vụ ) của công tác
- Thực trạng của hoạt động du lịch trên địa bàn Hà Nội (2003-2007).
- Đánh giá ,đưa ra nguyên nhân và những yếu tố tác động của công tác
QLNN đến kết quả hoạt động của nghành du lịch Hà Nội.
- Đưa ra định hướng và một số chỉ tiêu dự báo phát triển du lịch của thủ
đô những năm 2009-2015 và tầm nhìn 2020.
- Đề xuất một số giải pháp để naag cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước về du lịch trên địa bàn Thủ đô trước tình hình mới.
4.1.Đối tượng
Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động của nghành du lịch trên
địa bàn Thành phố Hà Nội được thực hiện trên các Mặt:
- Quản lý nhà nước trên cơ sở quy hoạch phát triển tổng thể của nghành
và doanh nghiệp ,cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh du lịch thuộc thẩm
quyền quản lý của Thành Phố.
- QLNN đối với việc khai thác và bảo tồn các sản phẩm và nguồn nhân
lực du lịch.
Hoạt động kinh doanh du lịch là sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố về
kinh tế -văn hóa –xã hội chính trị. Trên thực tế, khó tách rời cads mặt quản lý.
Mặt khác, cũng có thể chỉ thông qua hoạt động kinh doanh du lịch của các cơ sở
củng có thể thấy được các yếu tố khác được khai thác như thế nào.
Trong khuôn khổ luận văn này, đối tượng được tập trung nghiên cứu là

công tác quản lý nhà nước về quy hoạch phát triển và doanh nghiệp, cá nhân
tham gia hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn Thành phố, bên cạnh đó, có
khảo sát, đánh giá khái quát các hoạt động quản lý khác có liên quan với tư cách
các bộ phận không tách rời của quản lý nhà nước về du lịch.
4.2.phạm vi nghiên cứu:
Do tính phức tạp của vấn đề, trong khuôn khổ, giới hạn của một luận văn
thạc sỹ, việc nghiên cứu chỉ giới hạn là công tác quản lý nhà nước về quy hoạch
4


phát triển và doanh nghiệp, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh du lịch trên
địa bàn Thành phố nhằm đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác quản lý
nhà nước trong lĩnh vực du lichj trong địa bàn thủ đô.
5. phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp khoa học hành chính, quản lý
nhà nước, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phân tích tổng hợp,
phương pháp chuyên gia và logic....Bên cạnh đó có phương pháp thông kê, dự
báo, mô hình trực quan cũng được vận dụng nhằm góp phần bổ trợ cho các
phương pháp trên trong quá trình nghiên cứu. các phương pháp nghiên cứu tổng
quan, mô phỏng, đối chiếu, sô sánh...được sử dụng ở mức độ cần thiết.
6.Ý nghĩa ứng dụng của luận văn:
Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện cơ sở lý luận cũng như tực tiển
công tác quản lý nhà nước về hoạt động du lịch của Hà Nội. Trên cơ sở đó đề
xuất một số mang tính khoa học và thực tiễn, với mong muốn đóng góp vào việc
đổi mới hoạt đông quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn Thủ đô. Thực hiện
các giải pháp, cơ chế, chính sách đề tài đề xuất gopsphaanf phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững đối với du lịch thủ đô. Qua đó mang lại hiệu quả quản lý
du lịch của Hà Nội.
7.Kết cấu – Nội dung của luận văn:
Ngoài các phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước và du lịch.
Chương 2: Thực trang công tác quản lý nhà nước về du lịch của Hà Nội
giại đoạn 2003 – 2007.
Chương 3: một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về du lịch trên địa bàn Hà Nội.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH
1.1. Du lịch và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.1. Khái quát chung về du lịch.
Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong du lịch sự phát triển của loài
người. Giống người Homo Erectus xuất phát từ miền đông và nam châu Phi
nhưng di tích của những người tiền sử này đã được tìm thấy ở Trung Quốc và
Java (In đonexia) cách đây khoảng một triệu năm. Các chuyên gia cho rằng để di
chuyển được một khoảng cách như vậy thời bấy giờ phải mất khoảng 15.000
năm. Một gia thuyết cho rằng, những người cổ xưa đi du mục để tìm thức ăn và
trốn tránh nguy hiểm. Một giả thuyết khác lại cho rằng, con người quan sát sự di
chuyển của loài chim, muốn biết chúng từ đâu đến và chúng bay đi đâu, nên họ
đã di chuyển mặc dù họ không thiếu thức ăn nơi họ sinh sống. Tức là từ xa xưa,
con người đã luôn có tíh tò mò muấn tìm hiểu thế giới xung quanh, bên ngoài
nơi cư trú của họ. Con người luôn muốn biết những nơi khác có cách sống ra
sao, muốn biết về các dân tộc, nền văn hóa, các động vật, thực vật và địa hình ở
những vùng khác hoạc quốc gia khác.
Lần theo chiều dài lịch sử cho thấy du lịch xuất hiện khá sớm từ thời kỳ
cổ đại gắn với đại phân công lao động xã hội lần thứ hai – nghành thủ công tách
ra khỏi nông nghiệp. Đến thời đại chiếm hữu nô lệ , khi cuộc phân chia lao động
lần thứ ba – thương nghiệp tách ra khỏi sản xuất, kinh doanh du lịch đã có biểu

hiện ba xu hướng chính: Lưu trú, ăn uống và giao thông. Du lịch trong thời kỳ
này tập trung ở các trung tâm kinh tế văn hóa của loài người. Thể loại du lịch
nghỉ ngơi và giải trí cũng đã phát triển cho giới quý tộc chiếm hữu nô lệ, những
người phục vụ và các nhân viên cao cấp. Sau thế kỷ IV, khi đạo Thiên chúa giáo
được phát triển, du lịch chữa bệnh cũng đã xuất hiện.
Trong thời kỳ phong kiến du lịch không có biểu hiện gì lớn. Ở thời kỳ này
du lịch công vụ và du lịch tôn giáo là loại hình tương đối phát triển so với các
thể loại du lịch khác. Đáng chú ý trong thời kỳ hưng thịnh của chế độ phong
kiến ( từ giữa thế kỷ XI đến thế kỷ XVI), du lịch có một bước chuyển biến mới.
6


Ngoài các thể loại du lịch công vụ và du lịch tôn giáo, một số thể loại du lịch
khác được phục hồi và phát triển như du lịch chữa bệnh và du lịch vui chơi giải
trí. Đặc biệt phải kể đến các chuyển đi xa, dài ngày ( có khi hàng năm) của các
đoàn gồm những người sùng đạo đến các trung tâ đạo giáo ( Rôm, Reruxalem
của người theo đạo Thiên chúa giáo Meca và Medina của người theo đạo Hồi
giáo). Thời kỳ cuối chế độ phong kiến (thế kỷ XVI đến những năm 40 của thế
kỷ XVII), những điều kiện cho việc phát triển du lịch được mở rộng, nhất là
Pháp, Anh và Đức – những nước có nền kinh tế phát triển nhất bây giờ.
Thời kỳ cận đại ( từ những năm 40 của thế kỷ XVII đến chiến tranh thế
giới lần thứ nhất), với sự ra đời và củng cố của chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế thế
giới phát triển mạnh và có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động du lịch. Chuyển
biến rõ nét nhất phải kể đến thời điểm từ sau cuộc bùng nổ cuộc cách mạng kỹ
thuật, trong đó có cuộc các mạng giao thông và sự ra đời của đầu máy hơi nước
là tiền để vật chất quan trọng cho việc phát triển của du lịch.
Trong thời kỳ hiện đại, kể từ sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất với
sự chuyến biến chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn thấp đến lên giao đoạn cao, đã tạo
điều kiện cho thể loại du lịch thể thao mùa đông được khai sinh và phát triển
ngang với số khách đi nghỉ khí hậu núi vào mùa hè, làm cho các trung tâm du

lịch núi trở nên sầm uất cả về mùa đông và mùa hè.
Những năm đầu sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 các mối quan hệ du
lịch Quốc tế phục hồi chậm và ít có thay đổi trong đặc trưng và trong cơ cấu của
mối quan hệ ấy. Nhưng cùng với bước phát triển vượt bậc của cách mạng khoa
học – kỹ thuật từ đầu năm 1950 đến nay đã đánh dấu một cao trào vươn lên
mạnh mẽ của du lịch quốc tế.
Nếu như đến giữa những năm 1980, thị trường du lịch thế giới còn được
phân thành du lịch ở các nước XHCN, du lịch ở các nước tư bản chủ nghĩa và du
lịch ở các nước đang phát triển, sự giao lưu giữ ba thị trường trên là vô cùng hạn
chế, thì đến nay hoạt động của du lịch quốc tế đã phát triển ở phạm vi toàn cầu.
Nhiều thế loại du lịch mới xuất hiện và phát triển... Cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ
sở hạ tầng của du lịch cũng có nhiều thay đổi và ngày càng hiện đại. Cuộc cạnh
7


tranh trên thị trường du lịch ngày càng sâu sắc trên mọi hình phường diện. Do
đó, mỗi nước phát triển du lịch đều có hướng phát triển riêng để tự khẳng định
mình trên thị trường du lịch thế giới.
Theo số liệu của Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) năm 2000 số lượng
khách du lịch toàn cầu đã là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD; năm
2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt người và thu nhập là 474 tỷ USD; dự tính
đến năm 2010 lượng khách là 1.006 triệu lượt và thu nhập sẽ là 900 tỷ USD.
Con số này cho thấy nhu cầu du lịch có tốc độ gia tăng nhanh chóng. Vấn đề đặt
ra là quốc gia nào đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng cả về số lượng và chất
lượng của du lịch, quốc gia đó sẻ thắng thế trong việc tìm kiếm nguồn thu từ du
lịch.
1.1.2. khái niệm về du lịch
Khi nói đến du lịch, người ta thường nghĩ ngay đến những người đi đến
một nơi nào đó để tham quan, thăm bạn bè và họ hàng, đi nghĩ mát và hưởng
thụ. Những người này dùng thời giờ rảnh để chơi thể thao, phơi nắng,trò chuyện,

xưm hát, đi dạo hay chỉ đơn giản là thưởng thức môi trường xung quanh. Nếu
xem xét khía cạnh rộng hơn, trong định nghĩa du lịch có thể bao gồm những
người đi lam kinh doanh, công tác, dự hội nghị, hội thảo, thực hiện các hoạt
động chuyên ngành (professionai activities), học giỏi hay nghiên cứu khoa học,
kỹ thuật.
Vấn đề định nghĩa du lịch một cách quy mô phải bao gồm các thành phần
tạo ra hoạc chịu ảnh hưởng của ngành du lịch. Quan điểm của thành phần này có
tầm quan trọng đến việc triển khai một định nghĩa bao quát.
Trên thế giới, du lịch đã được đánh giá là một ngành kinh tế đặc thù, vai
trò của du lịch đã được các quốc gia và các nền kinh tế nhận thức đúng đắn.
Ngày nay du lịch đã được trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính phổ
biến, du lịch là ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả các ngành sản xuất ô
tô, điện tử và nông nghiệp. Một số quốc gia coi du lịch là nguồn thu ngoại tệ
quan trọng nhất trong ngoại thương, là một ngành kinh tế hàng đầu, coi chỉ tiêu

8


đi du lịch của dân cư là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng cuộc sống, nên
nhanh chóng phát triển nó trở thành ngành kinh tế.
Trong quá trình hình thành và phát triển du lịch, cho đến nay có khá nhiều
định nghĩa về du lịch. Trước đây, người ta chỉ mới quan niệm du lịch là một loại
hình hoạt động mang tính văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí và những nhu
cầu hiểu biết của con người, du lịch không được coi là một hoạt động kinh tế,
không mang tính chất kinh doanh và ít được đầu tư để phát triển bởi du khách
hầu hết là những người hành hương, thương nhân...cho đến đầu thể kỷ XX, du
lịch vẫn còn dành riêng cho một nhóm người giàu có, họ đi du lịch với mục đích
giải trí và được coi là những kỳ nghỉ bình thường. Kể từ những năm 50 của thể
kỷ XX đổ lại đây, khái niệm về du lịch luôn được đưa ra tranh luận.
Thuật ngữ “du lịch” bắt đầu từ từ “TOUR” trong tiếng Pháp, có nghĩa là

di vòng quanh, cuộc dạo chơi. Như vậy về bản chất, du lịch gắn liền với việc
nghỉ ngơi, giải trí nhằm phục hồi sức khỏe và khả năng lao động của con người,
và gắn với việc di chuyển địa điểm.
Thực tiễn chứng minh rằng, số người đi du lịch rất hạn chế và ngày càng
tăng dần lên. Cùng với việc phát triển hạ tầng giao thông, những chuyến đi ngày
càng xa hơn và dài ngày hơn.
Rõ ràng, du lịch ngày nay đã trở thành một đề tài khá hấp dẫn và mang
tính toàn cầu, nên việc có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có nhiều cách định
nghĩa khác nhau về du lịch, đó cũng là điều bình thường của một khái niệm đang
còn mới và phát triển.
Cho đén nay mặc dù khái nệm du lịch có nhiều định nghĩa. Định nghĩa du
lịch một cách quy mô phải bao gồm các thành phần tạo ra hoạc chịu ảnh hưởng
của hoạt động du lịch. Quan điểm của các thành phần này có tầm quan trọng đến
một triển khai một định nghĩa bao quát, nhưng dưới gốc độ nghiên cứu của luận
văn, chỉ xin được hệ thống hóa một số định nghĩa chủ yếu là:
Thứ nhất, theo quan điểm của du khách. Đay là đi tìm các trải nghiệm
(experiences) và thõa mãn (satisfaction) về vật chất hay tinh thần khác nhau.

9


Ước muốn củ các đối tượng này sẻ xác định địa điểm du lịch được lựa chọn và
các hoạt động được thực hiện tại địa điểm đó.
Thứ hai, theo quan điểm của người kinh doanh du lịch. Du lịch là quá
trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thõa mãn, đáp ứng các
nhu cầu của người đi du lịch. Các doanh nghiệp du lịch coi du lịch như là một cơ
hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của
khách (người đi du lịch), đòng thời qua đó đạt được mục đích số một của mình
là tối đa hóa lợi nhuận.
Thứ ba, theo quan điểm của bộ máy chính quyền địa phương. Theo quan

điểm này du lịch được hiểu là việc tổ chức các điều kiện về hành chính, về cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất kỷ thuật đẻ phục vụ du khách. Du lịch là tổng hợp các
hoạt động kinh doanh đa dạng được tổ chức nhằm giúp đỡ việc hành trình và lưu
trú tạm thời của cá thể. Du lịch là cơ hội để bán sản phẩm địa phương, tăng thu
ngoại tệ, tăng các nguồn thu nhập từ các khoản thuế trực tiếp và gián tiếp, đẩy
mạnh cán cân thanh toán và nâng cao sức sống vật chất và tinh thần cho địa
phương.
Thứ tư, trên góc độ cộng đồng dân cư sở tại. du lịch là một hiện tượng
kinh tế - xã hội. Trong trong giai đoạn hiện nay, có được đặc trưng bởi sự tăng
nhanh khối lượng và mỡ rộng phạm vi, cơ cấu dân cư tham gia vào qua trình du
lịch tại địa phương mình vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu về nền văn hóa
và phong cách của người ngoài địa phương, người nước ngoài; là cơ hội để tìm
kiếm việc làm, để phát sinh và phát triển các nghề cổ truyền, các nghề thủ công
truyền thống của dân tộc. Thông qua du lịch, một mặt có thể tăng thu nhập
nhưng mặt khác cũng gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân sở tại như:
Vấn đề về môi trường, trật tự an ninh, xã hội...
Ngoài ra, ở thời đại sự nhìn nhận về du lịch cũng có khác nhau Điều đó
phản ánh mức độ phát triển của du lịch. Năm 1811, lần đầu tiên tại Anh có định
nghĩa về du lịch: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành
của các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. Năm 1930 Ông Glusman, người
Thụy Sỹ định nghĩa: “ Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến
10


một địa điể mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên”. Sau này, giáo sư,
tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sỹ Krapf- hai người được coi là những người
đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau: “ Du lịch
là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình
và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành
cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”.

Theo Từ điển bách khoa quốc tế về du lịch – Le Dictionnaire
internationnal du tourisme, do Việt hàn lâm khoa học quốc tế về du lịch xuất
bản: “ Du lịch là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện
một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu cầu
của khách du lịch...Du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành
với mục đích đã được chọn trước và một bên là những công cụ làm thỏa mãn các
nhu cầu của họ”.
Nhìn chung, các định nghĩa này không được nhiều nước chấp nhận, bởi
lẽ, các định nghĩa này chỉ xem xét chung hiện tượng xã hội mà ít phân tích nó
như một hiện tượng kinh tế. Nên, Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa
– Canada được tổ chức vào tháng 6/1991 đã đưa ra định nghĩa: “ Du lịch là hoạt
động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên ( nơi ở
thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã
được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là
để kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam đã đưa ra hai khái niệm cơ bản:
Một là, du lịch là “ một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con
người ở ngoài nơi cư trú với mục đích: Nghỉ ngơi, giải trí, xem dannh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa, nghệ thuật...vv
Hai là, du lịch là “ một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt: Nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa
dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình . Về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh
doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và
11


lao động dịch vụ tại chỗ. Hầu như nước nào cũng coi trọng phát triển hoạt động
du lịch. Nói chung trên thế giới, du lịch ra nước ngoài có xu hướng phát triển
nhanh và Việt Nam có tiềm năng du lịch rất lớn”.

Theo Luật Du lịch của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2005: “ Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời đại nhất định”; “ Hoạt động du lịch là hoạt
động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư
và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch” , và “ Dịch vụ là việc
cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống vui chơi giải trí,
thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách
du lịch”.
Từ tổng quan các định nghĩa về du lịch, cho thấy mỗi định nghĩa đều
muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh nhất định có liên quan đến hoạt động du
lịch, cần phải đặt vấn đề khi nghiên cứu khái niệm, định nghĩa về hoạt động du
lịch, song vì chúng ta nghiên cứu khái niệm du lịch trong điều kiện kinh tế thị
trường và vận dụng trong môi trường cụ thể và trên quan điểm quản lý Nhà
nước, khái niệm du lịch cần nhấn mạnh theo định nghĩa là một ngành kinh tế.
Do vậy, tác giả luận văn xin đưa ra nét định nghĩa cơ bản:
Du lịch là một hoạt động kinh tế bao gồm các hoạt động của những
đơn vị kinh doanh và phục vụ du lịch, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại
lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách
du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội thiết
thực cho khách du lịch, cho quốc gia và cho chính bản thân các doanh
nghiệp.
Việc nhấn mạnh khái niệm du lịch nói trên không đồng nghĩa với việc
kinh doanh du lịch đơn thuần mà còn coi trọng đến hiệu quả về kinh tế, chính trị
- văn hóa – xã hội của tất cả các chủ thể liên quan đến du lịch; tạo điều kiện cho
du lịch tái đầu tư, bảo tồn và phát triển du lịch bền vững nhằm đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch ngày một tốt hơn.
12



1.1.3 Các đặc diểm của hoạt động du lịch:
Từ những quan niệm trên đây về du lịch, chúng ta có thể đưa ra một số
đặc điểm cơ bản về hoạt động du lịch như sau:
Thứ nhất, hoạt động du lịch mang tính chất của ngành dịch vụ
Đặc trưng nỗi bật nhất là sản phẩm của các ngành dịch vụ được coi là
hàng hóa vô hình, và luôn là hàng hóa cuối cùng. Do đó, kinh doanh du lịch đòi
hỏi sự hoàn hảo từ những khâu nhỏ nhất bởi nó không có cơ hội sửa chữa hay
bảo hành như các hàng hóa thông thường khác. Đặc điểm đó cũng đưa tới yêu
cầu riêng đối với công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Trước đây, quan niệm về ngành dịch vụ còn khá hạn hẹp, nó chỉ bao gồm
các hoạt động kinh tế nhằm thỏa mãn nhu cầu đơn giản của con người như: Sửa
chữa đồ dùng gia đình, chăm sóc sức khỏe,...mang tính phục vụ một cá nhân hay
một nhóm nhỏ dân cư và được coi là một hoạt động phụ, chủ yếu có tính phục
vụ đơn thuần.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kỹ thuật, nền sản
xuất của cải vật chất phát triển với tốc độ cao, gia tăng quá trình phân công lao
động xã hội rõ rệt, nảy sinh ra các hoạt động dịch vụ sản xuất, cung ứng nhu cầu
lao động có tính chất phục vụ hoạt động sản xuất, hoạt động phục vụ đời sống
con người.
Trước thực tiễn đó, ngành kinh tế dịch vụ đã phát triển song song với sự
phát triển kinh tế, xã hội nhằm đáp nhu cầu chung cho nhân loài đóng vai trò là
cầu nối giữa sản xuất với sản xuất; sản xuất với khoa học kỹ thuật và đời sống
con người trong môi trường nhân loại ngày càng văn minh, hiện đại.
Thứ hai, Hoạt động du lịch vừa phải thỏa mãn nhu cầu vật chất, vừa thỏa
mãn nhu cầu tinh thần của khách hàng.
Song song với sự tiến bộ xã hội, đời sống con người ngày càng cao và nhu
cầu cuộc sống cũng ngày càng lớn. Du lịch là một trong những nhu cầu không
thể thiếu tỏng đời sống hiện đại, với ý nghĩa là yếu tố cần thiết trong việc nghỉ
ngơi, nhằm tái tạo sức lao động của con người. Khi tham gia quá trình du lịch,


13


khách du lịch thường có nhu cầu nhiều hơn thường ngày do tâm lý hưởng thụ để
bù đắp xứng đắp xứng đáng cho thời gian làm việc.
Ngành kinh doanh du lịch và địa chỉ để khách hàng chuyển yêu cầu của
họ đến. Việc cung cấp các sản phẩm vật chất để thỏa mãn nhu cầu ăn, ở, nghỉ
ngơi của khách sạn luôn gắn liền với sự tiện nghi và bản sắc văn hóa quốc gia,
địa phương. Tính độc đáo ở mỗi nơi khách đến là một trong những động lực tạo
nên chuyển du lịch.
Để khách hàng được thỏa mãn các nhu cầu khi đi du lịch, nhà kinh doanh
và nhà quản lý cần quan tâm tới việc phối hợp với các nghành sản xuất vật chất,
thương mại, vận tải, các cơ sở văn hóa...Đến lượt nó các ngành phụ trợ này lại
mang về nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia cũng như góp phần thu hút nhiều
khách hơn cho du lịch.
Một số nhà nghiên cứu cho răng du lịch vừa có tính chất như một ngành
dịch vụ khi nó tạo ra sản phẩm vô hình thỏa mãn trực tiếp nhu cầu từng khách
hàng cụ thể, vừa có tính chất của một ngành sản xuất vật chất khi nó cung cấp
các sản phẩm hàng hóa hữu hình cho cuộc du lịch của khách hàng như thế biến
các món ăn chẳng hạn, vừa có tính chất của ngành văn hóa khi thỏa mãn nhu cầu
vật chất và tinh thần của khách hàng bằng những nét văn hóa dân tộc hay địa
phương.
Thứ ba, hoạt động du lịch có ảnh hưởng ngoại biên đa chiều tới phát
triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, ở những nước, hoạt động du lịch không chỉ đem lại lợi ích kinh
tế mà còn đem lại giá trị chính trị, văn hóa, xã hội to lớn. Đơn cử, ở Việt Nam,
vào những năm của thập kỷ 90 thế kỷ trước, trong chương trình mục tiêu xúc
tiến du lịch tại các quốc gia trên thế giới, tại một số nước phát triển của châu âu,
có những cá nhân đã từng đặt câu hỏi rằng: “đất nước Việt Nam của các bạn còn
chiến tranh không”. Điều này cho thấy rằng với cách tiếp cận thông qua hoạt

động du lịch, sẽ đem lại những nhìn nhận, hiểu biết chính trị, xã hội, thậm chí,
về thế chế và nước của các quốc gia mà các hoạt động kinh tế khác không đem
lại.
14


Du lịch còn được gọi là ngành công nghiệp không khỏi với hàm ý ít gây ô
nhiễm môi trường sống. Trong những năm 1960, với chiến lược “xanh”, Thái
Lan đã có khởi động hệ thống du lịch một cách rầm rộ và mang về cho quốc gia
này nguồn thu ngoại tệ lớn. Tuy nhiên, không thể không kể đến những ảnh
hướng tiêu cực cho xã hội và môi trường do đẩy mạnh quá đà hay buông lỏng
quản lý hoạt động ngành công nghiệp này. Bài học đắt giá của các nước đi trước
là cánh báo cho Việt Nam về công tác QLNL trong lĩnh vực du lịch.
1.1.4 Vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân
1.1.4.1 Du lịch đóng góp phần quan trọng vào việc tạo ra giá trị mới.
Sản phẩm du lịch được tiêu dùng trực tiếp, không có hàng hóa trung gian.
Một đặc điểm quan trọng khác biệt giữa việc tiêu dùng du lịch và tiêu dùng các
hàng hóa khác là việc sản xuất ra chúng. Thực tế, để thực hiện được quá trình
tiêu thụ sản phẩm, người hưởng thụ được đưa đến nơi sản xuất và tiêu dùng tại
chỗ. Vì vậy, sản phẩm du lịch trực tiếp đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội
với tư cách giá trị gia tăng.
1.1.4.2 Du lịch tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác
Du lịch ngày nay không chỉ là ngành kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế qua
mà còn là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác thông
qua việc tiêu dùng của du khách trong chuyến du lịch, trước hết, ở nhu cầu vận
tải khi khách hàng di chuyến tới các địa điểm du lịch. Tiếp theo là việc tiêu dùng
các sản phẩm hàng hóa cho nhu cầu sinh hoạt tại nơi du lịch, gồm chỗ ở, các vật
dụng sinh hoạt, thực phẩm ...vv. Bên cạnh đó, không thể không nói tới các nhu
cầu tinh thần. nỗi bật trong lĩnh vực này phải kể đến các đặc trưng văn hóa, xã
hội của địa phương. Điều này liên quan đến việc đầu tư các khu vui chơi, giải

trí, bãi tắm, tuyên truyền và khai thác các di tích, danh lam thắng cảnh và không
loại trừ những sản phẩm truyền thống. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, đặc
biệt nghệ thuật truyền thống cũng có cơ hội phát triển.
Điều thú vị ở đây là, phần lớn khách du lịch là những người có mức sống
cao. Khái niệm khách du lịch vì thế thường gắn liền với khả năng chi trả cao.
Việc phát triển các ngành sản xuất, các hoạt động văn hóa theo hướng phục vụ
15


du lịch cũng vì thế tất yếu phải hướng vào vấn đề chất lượng và tính đặc sắc,
tính độc đáo của sản phẩm.
1.1.4.3 Du lịch thúc đẩy lưu thông hàng hóa- tiền tệ giữa các vùng miền
trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia.
Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu
chi của khu vực và của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước
mà họ đi du lịch, làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến. Trong phạm vi một
quốc gia, hoạt động du lịch làm xảo động hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng
hóa. Du lịch có tác dụng điều hòa thu nhập từ vùng kinh tế phát triển sang vùng
kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng sâu, vùng xa. Khi
khu vực nào đó trở thành một điểm du lịch, du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm
cho nhu cầu về mọi hàng hóa tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số lượng lớn
vật tư, hàng hóa các loại kích thích mạnh mẽ các ngành kinh tế có liên quan, đặc
biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế biến..vv. Bên cạnh đó, các hàng hóa vật tư
cho du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức
đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là yêu cầu hàng hóa phải được sản xuất trên
mọi công nghệ cao, trình độ tiên tiến...vv Để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng
nhu cầu của du khách.
So với ngoại thương ngành du lịch cũng có nhiều ưu thế nỗi bật. Du lịch
xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu, nên tiết kiệm
được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua không quá cao.

Ở Việt Nam với chủ trương mở cửa “làm bạn với tất cả các nước” nên
kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp
nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao
động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tể phát triển của đất nước tăng trưởng
với nhịp độ cao, cùng với sự phát triển nền kinh tế của đất nước ở mức sống của
người dân ngày càng được cải thiện, giá cả trong nước ổn định, chỉ số của nền
kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành du lịch nói riêng.
1.1.4.4 Du lịch góp phần đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh tế:

16


Du lịch quốc tế làm tăng du lịch ngoại tệ của đất nước ( ở một số nước,
con số này vượt quá 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước), đóng góp vai
trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán.
Việc bán hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch nước ngoài là một hình
thức xuất khẩu tại chỗ. Việc bán hàng hóa cho khách du lịch nước ngoài mang
lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với xuất khẩu thương mại vì giá bán xuất khẩu
thương mại là giá bán buôn còn giá bán cho khách du lịch nước ngoài trong
phạm vi biên giới lãnh thổ của quốc gia là giá bán lẻ và không phải chịu thuế
quan hàng rào quốc tế. Việc bán hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch trên tiết
kiệm đáng kể các chi phí đóng gói, bảo quản, chi phí vận chuyển, thuế xuất nhập
khẩu, thời gian quay vòng vốn nhanh, lãi suất cao vì nhu cầu du lịch là nhu cầu
cao cấp và có khả năng chi trả cao và kết quả là tiền nhàn rỗi trong lưu thông có
thế được sử dụng vào các mục đích khác trong nên kinh tế quốc dân.
Hàng hóa xuất khẩu phải chi trả tiền bảo hiểm hàng hóa cho các cơ quan
bảo hiểm. Hàng hóa xuất khẩu tại chỗ qua kênh du lịch thì sự rủi ro hạn chế hơn,
tỉ lệ cho bảo hiểm ít hơn vì thời gian vận chuyển ngắn hơn, hàng hóa được bảo
quản hơn, ít rủi ro hơn.
Các hàng hóa bán cho du khách quốc tế đa phần không phải là hàng hóa

thuộc đối tượng xuất khẩu của ngoại thương, trong trường hợp này du lịch đã
mở rộng danh sách các mặt hàng xuất khẩu.
Du lịch còn góp phần khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thông qua du lịch, nhà đầu tư nước ngoài dễ tiếp cận hơn với thực tiễn nước sở
tại. Nhờ đó đẩy nhanh hơn việc ra quyêt định đầu tư, bao gồm cả đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp.
Du lịch góp phần củng cố và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Các tổ
chức du lịch quốc tế mang tính chính phủ và phi chính phủ có tác động tích cực
trong việc hình thành các quan hệ kinh tế quốc tế. Phát triển du lịch quốc tế giúp
cho giao thông quốc tế phát triển. Lượng hành khách được coi là yếu tố quyết
định cuối cùng tới việc mở các tuyến giao thông mới, số lượng, lịch trình các
chuyến bay hay tàu biến và các phương tiện giao thông khác.
17


1.1.4.5 Du lịch góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia
Ngoài những tác trực tiếp tới kinh tế, văn hóa, du khách còn có ảnh hưởng
ngoại hiện tích cực tới đời sống xã hội có thể nêu một số nét điển hình như sau:
Thứ nhất, du lịch tạo việc làm, thu nhập cho xã hội nói chung địa phương
nói riêng góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Theo thống kê của tổ
chức du lịch thế giới, tổng số lao động trong các hoạt động du lịch và liên quan
chiếm 10,7% so với tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 giây du lịch tạo ra một
việc làm mới và trong số 8 lao động thì sẽ có 1 lao động trong ngành du lịch.
Một phòng khách sạn 3 sao trung bình trên thế giới hiện nay thu hút 1,3 lao
động và khoảng 5 lao động trong các dịch vụ bổ xung. Số lượng lao động trong
các dịch vụ bổ xung có thể tăng lên nếu dịch vụ bổ chất lượng cao và phong phú
về chủng loại.
Thứ hai, du lịch góp phần làm thay đổi bộ mặt địa phương nhờ những
công trình đầu tư phục vụ du lịch. Hơn nữa, giao lưu với khách du lịch góp phần
nâng cao dân trí địa phương. Du lịch làm giảm quá trình đô thị hóa và sự di cứ

đến các thành phố, đô thị lớn. Thông thường tài nguyên du lịch thiên nhiên
thường có ở các vùng xa xôi héo lánh như các vùng núi, vùng biển hay các vùng
xa xôi héo lánh khác. Khai thác tài nguyên phát triển du lịch ở các vung này làm
cải thiện cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt của vùng, địa phương.
Phát triển du lịch làm tăng lòng yêu Tổ quốc, lòng tự hào dân tộc. Du lịch
góp phần bảo tồn, tôn tạo phát triển tài nguyên các giá trị văn hóa truyền thống.
Bên cạnh việc bảo tồn, tôn tạo tài nguyên các giá trị văn hóa truyền thống có
các điều kiện phục hồi phát triển.
Du lịch làm tăng tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc, tăng cường giao
lưu văn hóa và sự hiểu biết giữa các dân tộc, các nền văn hóa.
Thứ ba, du lịch góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương nhờ gián
tiếp làm phát triển một số ngành nghề phục vụ du lịch, đặc biệt các ngành, nghề
truyền thống sử dụng nhiều lao động và có giá trị văn hóa dân tộc

18


Thứ tư, du lịch tạo điều kiện cho việc hình thành các hợp đồng kinh tế
mới, nhờ đó phát triển thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh. Điều này đặc
biệt cần thiết trong điều kiện một nền kinh tế chưa phát triển như nước ta.
Thứ năm, du lịch góp phần khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực tiềm
ẩn của quốc gia và địa phương. Bằng việc thu hút khách du lịch, ngoài nguồn
thu từ dịch vụ du lịch của các cơ sở kinh doanh hình thức, địa phương còn có cơ
hội phát triển các cơ sở sản xuất hàng truyền thống, dân cư trên địa bàn có thu
nhập từ các hoạt động phụ trợ như biểu diễn văn hóa truyền thống, bán hàng,
cho thuê nhà nghỉ...vv. Ngày nay, có hình thức ,các hình thức du lich sinh thái
với những hoạt động nghỉ ngơi,giải trí,thể thao ,kết hợp khám phá cảnh quan
môi trường đang trở thành mốt.Đây thực sự tạo điều kiện cho tất cả các địa
phương khai thác được nguồn thu từ các di tích lịch sử ,tôn giáo ,di tích kiến
trúc ,địa hình và môi trường.

Du lịch với những thế mạnh của nó đang ngày càng được nhiều nhà kinh
doanh chú ý, thị trường du lịch vì thế trở nên sôi động ở tất cả các dẳng cấp
.Song ,mặt trái của hoạt động du lịch cũng làm phat sinh nhiều vấn đề trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội . Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch vì
thế được đánh giá là công tác hết sức khó khăn,phức tạp.
1.2 Quản lý nhà nước về du lịch
1.2.1. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước về du lịch
Quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh liên
tục bằng quyền lực pháp luật nhà nước dựa trên cơ sở nền tảng của thể chế chính
trị nhất định đối với các quá trình, các hoạt động du lịch của can người để duy trì
và phát triển ngày càng cao các hoạt động du lịch trong nước và du lịch quốc tế
nhằm đạt được các hiệu quả kinh tế xã hội do nhà nước đó đặt ra.
Quản lý nhà nước đói với hoạt động du lịch là phương thức chỉ đạo,
ddiieuf hành, điều chỉnh các mối quan hệ thông qua hệ thống pháp luật, các chủ
thể quản lý (cơ quan quản lý được nhà nước ủy quyền)tác động tới các đối tượng
bị quản lý tham gia trong quá trình kinh doanh nhằm định hướng cho hoạt đọng
du lịch theo sự vận động, phát triển có mục đích.
19


Những lý do chủ yếu để khẳng định sự cần thiết khách quan của việc quản
lý nhà nước đối với hoạt động du lịch bao gồm:
Thứ nhất, du lịch cần được phát triển nhanh và hiệu quả.
Tạo ra mức lợi nhuận hấp dẫn, du lịch thu hút được số lượng lớn nhà đầu
tư, cũng khó thống kê đầy đủ số lượng cơ sở kinh doanh nhỏ. Áp lực cạnh tranh
khốc liệt trên thị trường du lịch ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ doanh nghiệp thất
bại và rút khỏi thị trường, gây tình trạng bất ổn trong kinh doanh và phân bboos
nguồn lực kém hiệu quả. Đẻ tạo ddiieuf kiện cho hoạt động du lịch phát triển
thuận lợi, cung cấp thông tin và tư vấn trong đầu tư kinh doanh du lịch, cần thiết
có sự điều tiết từ phía cơ quan quản lý nhf nước có thẩm quyền.

Thứ hai, du lịch cần có sự phối hợp đòng bộ với các nghành khác để dạt
mục tiêu phát triển bền vững.
Với tư cách một ngành tạo ra giá trị mới ,đóng góp vào tổng sản phẩm xã
hội ,du lịch cần được phat triển phù hợp định hướng phát triển thống nhất của
quôc gia . Hoạt động du lịch là bộ phận cấu thành không tách rời trong tổng thể
nền kinh tế. Một mặt, du lịch góp phần thúc đẩy phát triển các nghành sản xuất,
thương mại, dịch vụ khác có liên quan, một mặt, du lịch chỉ có thể phát triển tốt
khi các nghành đó đáp úng được các nhu cầu của khách du lịch. Quan hệ tương
hỗ này giúp cho du lịch có thu hút được khách hàng không phải một ma nhiều
lần đến với điểm du lịch, và hơn nữa, đó là mức thu cho quốc gia hay địa
phương từ các khoản chi tiêu cho các dịch vụ phụ trợ của khách du lịch.
Thứ ba, quản lý nhà nước còn năm hạn chế ảnh hưởng ngoại hiện tiêu
cực từ hoạt động du lịch trong giới hạn cho phép.
Kinh doanh du lịch và hoạt động của khách du lịch luôn tiềm ẩn nguy cơ
gây phương hại tới địa phương và quốc gia. Trước hết, các hoạt động trong sinh
hoạt thường nhật của khách du lịch làm biến đổi cảnh quan môi trường. Chỉ
riêng sự có mặt của con người cũng làm mất đi nhiều nét đặc trưng của thiên
nhiên cả về thực và động vật, cộng thêm rác thải và các hành vi vô ý thức rất dễ
ô nhiễm cho điểm du lịch. Tiếp đến, mức viếng thăm các di tích quá cao cũng dễ

20


cũng gây hiện tượng xuống cấp. Ngoài ra, không thể không kể đến các ảnh
hưởng về mặt xã hội, dịch tễ.
Về mặt kinh tế, tác động rõ ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá
cả hàng hóa tăng cao, nhiều khi vượt quá khả năng chi tiêu của người dân địa
phương, nhất là của những người mà thu nhập của họ không liên quan đến hoạt
động du lịch.
1.2.2. Các nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về du lịch

1.2.2.1 Mục tiêu của quản lý nhà nước về du lịch
Mục tiêu tổng quát là phát triển du lịch bền vững. Trong đó, du lịch phải
đóng góp phần quan trọng vào tổng sản phẩm xã hội, giải quyết việc làm, góp
phần thực hiện các mục tiêu quốc gia, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện thu nhập và mức sống của dân
cư, xóa đói giảm nghèo, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước ở các cấp để
tạo nguồn cho các khoản đầu tư xây dựng địa phương, bảo vệ tài nguyên môi
trường.
Như vậy, du lịch không chỉ nhằm vào mục tiêu kinh tế, du lịch phải góp
phần ổn định chính trị, quốc phòng, bảo vệ những giá trị vô hình khác của quốc
gia và địa phương.
1.2.2.2 Yêu cầu đối với công tác quản lý nhà nước về du lịch
Xuất phát từ tính chất của loại hoạt động kinh doanh du lịch, công tác
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đặc thù này cần đáp ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất, đảm bảo ổn định và phát triển thị trường du lịch theo hướng
khai thác tối ưu các nguồn lực quốc gia và địa phương.
Thứ hai, quản lý và hướng các hoạt động kinh doanh du lịch đúng pháp
luật, cạnh tranh lành mạnh, có hiệu quả.
Thứ ba, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn, giữ gìn cảnh
quan, môi trường , các di tích, điểm du lịch.
Thứ tư, phát triển các ngành phụ trợ một cách cân đối và đáp ứng các tiêu
chuẩn hiện đại.

21


Thứ năm, hướng hoạt động du lịch vào việc thực hiện các mục tiêu quốc
gia và địa phương.
1.2.2.3 NHững nội dung chủ yếu của công tác QLNN về du lịch
Thứ nhất, quản lý nhà nước về định hướng, chiến lược phát triển du lịch

Kinh doanh du lịch là công việc trước hết thuộc về doanh . Ngày nay,
công việc kinh doanh không đơn giản. Những toan tính ban đầu khác xa với
thực tiễn gây hiện tượng di chuyển đầu tư lòng vòng, phá sản và nhiều hậu quả
khác. NGười gánh chịu cuối cùng là xã hội. Có thể điểm một số thiệt hại chủ
yếu do đầu tư không hiệu quả: 1- lãng phí tài nguyên ( đất và các vật liệu có
nguồn gốc từ tài nguyên) cho các công trình, ví dụ điển hình là hàng loạt ngôi
chùa giả bị phá đi do sự yếu kém trong quản lý nhà nước về du lịch; 2- lãng phí
vốn (tất nhiên); 3- lãng phí nguồn nhân lực, và do đó gây thiệt hại về thu nhập
cho người lao động khi doanh nghiệp rút khỏi thị trường; 4-gây ảnh hưởng tiêu
cực về mặt xã hội và y tế. Ví dụ một số cơ sở kinh doanh du lịch đã có những
hoạt động trái pháp luật để bù đắp doanh số và thu hút khách hàng, số khác có
hành vi lừa đảo khách hàng, vv...
Thiếu thông tin, không đủ điều kiện và năng lực kinh doanh là những
nguyên nhân chủ yếu của các doanh nghiệp này. Thực tế có thế giải quyết được
khi có “ bàn tay chính phủ” phối hợp với “ bàn tay vô hình” của thị trường bằng
việc xây dựng định hướng phát triển ngành du lịch, các quy hoạch, kế hoạch cụ
thể cho từng giai đoạn với nội dung tìm con đường đi nhanh nhất, có hiệu quả
nhất.
Thứ hai, quản lý nhà nước đối với các cơ sở hoạt động kinh doanh du
lịch, gồm các doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh ngành kinh tế này.
Thị trường là phương thức tốt để phân bố một cách có hiệu quả các
nguồn nhân lực khan hiếm của xã hội. Nhưng thị trường không tự nó là một
phương thức hoàn hảo. Thực tế, sự thiếu thông tin, phân tích và dự báo không
xác các dữ liệu từ thị trường đã đưa không ít doanh nghiệp đến bờ vực phá sản.
trong trường hợp các sự bất chấp những lợi ích chung của xã hội để mưu cầu lợi

22


nhuận tối đa. Nhà nước với tư cách người quản lý vĩ mô nền kinh tế có thể can

thiệp để sửa chữa những khuyết tật cố hữu của thị trường.
Thị trường du lịch luôn hấp hẫn nhà kinh doanh ngay từ khi mới ra đời.
Mức độ cạnh tranh trong thị trường này gay gắt cao độ. Trong điều kiện một nền
kinh tế mới nổi như Việt Nam, áp lực cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Hoạt động
vô chính phủ, vi phạm các lợi ích cộng đồng, xâm phạm và lãng phí tài nguyên
thiên nhiên, các công trình lịch sử, di tích văn hóa,v.v.luôn tiềm ẩn trong quá
trình mỡ rộng phạm vi hoạt động kinh doanh du lịch là tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho khách bao gồm từ cơ sở vật chất tới các phương tiện đi lại, nghe, nhìn,
môi trường cảnh quan và các đối tượng hưởng thụ khác. Trong khi cố gắng thõa
mãn nhu cầu của khách, doanh nghiệp thường bỏ qua việc bảo vệ và phát triển
nguồn lực cho du lịch. mâu thuẫn này chỉ có thể được giãi quyết thông qua việc
hoạch định và triển khai các chính sách từ phía Chính phủ. Quan hệ doanh
nghiệp du lịch – nhà nước mà đại diện là các cơ quan quản lý ngành, cơ quan
quản lý chức năng trong nền kinh tế thị trường vì vậy trở nên một mắt xích quan
trọng trong hoạt động kinh doanh du lịch.
Thứ ba, QLNN đối với luông khách và hoạt động củ khách du lịch.
Thu hút khách là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Song này vượt qua
khả năng của họ khi tồn tại trong một thể chế nhất định. Doanh nghiệp có các
kênh marketinh của riêng họ, nhưng không được vượt qua phạm vi cho phép về
mặt hành chính. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp hay gián
tiếp khơi thông các kênh đó bằng chính sách. Trong nước, đó là mở mang giao
thông là tự do đi lại, tự do cư trú, nới rộng hành lang pháp lý về kinh doanh du
lịch,...vv. Đối với nước ngoài là tham gia các điều ước quốc tế về việc đi lại,cư
trú của công dân, khuyến khích đầu tư, cải cách các thủ tục hành chính trong
xuất, nhập cảnh và xuất khẩu, quảng bả hình ảnh quốc gia...vv. Ngoài ra, còn
bao gồm việc quản lý số lượng, thành phần, quốc tịch các luồng khách...vv.
Hoạt động của khách du lịch có ảnh hưởng lớn đến môi trường, kinh tế,
chính trị, xã hội của quốc gia hay địa phương nơi họ đến. Đặc biệt trong trường
hợp khách nước ngoài còn liên quan đến các vấn đề văn hoá. Quản lý luồng
23



khách, các vấn đề liên quan đến nhu cầu của khách để vừa đảm bảo phục vụ
khách tốt hơn, tăng khả năng thu hút lượng khách, vừa thực hiện được các chức
năng của quản lý nhà nước về con người và trật tự, an toàn xã hội.
Công việc này không thể tự doanh nghiệp thực hiện và trên thực tế họ
không có khả năng, cũng không muốn làm. Với chức năng quản lý nhà nước,
các cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra các chính sách, quy chế quản lý thích
hợp có tác dụng buộc các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc hợp tác với
nhà chức trách trong việc bảo vệ các lợi ích chung.
Thứ tư, quản lý nhà nước đối với các tuyến, các điểm du lịch
Mục đích của hầu hết các tuyến du lịch là kết hợp giữa nghỉ ngơi, hưởng
thụ với tham quan. Các tuyến, điểm du lịch được hình thành và phát triển làm
phong phú thêm danh mục nhu cầu cho khách. Duy trì, bảo tồn các tuyến, điểm
du lịch và khai thác đúng mức các cơ sở đó là một trong những nhiệm vụ thuộc
thẩm quyền các cơ quan quản lý nhà nước.
Song, sự tổn hại tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường trong kinh doanh
du lịch không giống như việc khai thác tài nguyên hay làm ảnh hưởng đến tài
nguyên, môi trường do sản xuất vật chất gây r. Du lịch không trực tiếp làm cạn
kiệt nguồn tài nguyên do phá núi, chặt cây hay khai khoáng. Sự tiếp cận của con
người (du khách), chỉ giản tiếp làm tổn hại tài nguyên, môi trường, nhưng khi bị
tác động với tần suất cao thì sự tổn hại này rất nhanh chóng trở thành thảm hoạ
cho đối tượng bị xâm hại. Ví dụ, lượng khách tham quan đông, liên tục làm biến
mất các bãi chim tự nhiên, làm giảm lượng động vật hoang dã trong rừng hay
biển và ngay cả vườn thú do môi trường sống của chúng bị thay đổi. Các di tích
lịch sử, văn hoá bị xâm hại bởi sự hiếu kỳ của du khách ( ngày cả rùa đá, bia
cũng bị mòn, bị biến dạng khỏi dáng vẻ ban đầu do bàn tay con người xoa lên).
Bên cạnh đó, rác thải từ sinh hoạt của con người, việc mở rộng các tuyến giao
thông đến các điểm du lịch làm biến đổi môi trường, tăng lưu lượng xe cộ và khí
thải từ động cơ của chúng cũng góp phần không nhỏ vào việc biến đổi khí hậu,

môi trường của điểm du lịch. Ngoài ra, sự di chuyến của du khách và các đồ
dung, phương tiện cá nhân của họ còn góp phần vào việc phát tán dịch bệnh.
24


Không những thế, lối sống của địa phương có thể bị thay đổi theo chiều hướng
thiếu lành mạnh, nhất là đối với các thế hệ trẻ.
Các chính sách, quy định về khai thác, bảo tồn và phát triển các tuyến
điểm du lịch, vì vậy, phải song hành với việc khai thác thực tế để đảm bảo nuôi
dưỡng nguồn lực cho du lịch.
Thứ năm, điều tiết việc phối hợp giữa các ngành, các cơ quan quản lý
thuộc thẩm quyền có liên quan đến du lịch.
Bao gồm các ngành vận tải, thương mại, thông tin, văn hoá, thể thao và cả
các ngành sản xuất vật chất. Sự phát triển đồng bộ các cơ sở thuộc nhiều ngành
như vậy đảm bảo cho doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc thoả mãn nhu cầu
khách hàng. Ngược lại, lượng khách mà ngành du lịch mang đến chính là lượng
cầu cho thị trường địa phương. Song, nếu không quan tâm đến việc phát triển cơ
sở sản xuất hàng truyền thống, hàng xuất khẩu đặc thù hay các mặt hàng thế
mạnh khác của quốc gia hay địa phương, nếu không chú ý điều tiết ngành hàng,
xuất xử hàng, sẽ rơi vào tình trạng bán hàng hộ cho nước ngoài hoặc bán đỗ bán
tháo các nguồn tài nguyên, các di sản quý của quốc gia. Bằng chứng là, hiện nay
không ít hàng hoá bán cho du khách là hàng nhập khẩu (bao gồm cả nhập lậu) từ
Trung Quốc, Hàn Quốc như các loại thuốc bắc, nấm linh chi, các tân dược có
nguồn gốc cây cỏ Bắc Á, hàng tiêu dùng công nghiệp khác như lụa tơ tằm Trung
Quốc và các sản phẩm từ chúng, ngoài ra, thực đơn các khách sạn hàng sang sử
dụng chủ yếu thực phẩm Thái Lan, hoa tươi Hà Lan, sữa các sản phẩm từ sữa
nhập khẩu từ Châu Âu hay Châu Úc, ngoài ra, một số cổ vật quý hiếm, kim khí
quý, đá quý cũng thất thoát theo con đường du lịch.
Một hoạt động hết sức cần thiết nữa cho du lịch là văn hoá, nghệ thuật, y
học dân gian và địa phương. Đây là phương thức thoã mãn nhu cầu tìm tòi của

khách du lịch đồng thời tranh thủ tuyên truyền về đất nước, con người và văn
hoá lại có nguồn thu.
Phối hợp giữa du lịch với truyền bá văn hoá, nghệ thuật dân tộc, phát triển
các ngành nghể thủ công, mỹ nghệ, các ngành truyền thống đảm bảo cả về chất

25


×