Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Dân tộc học đại cương: Tìm hiểu chung về văn hóa dân tộc Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.39 KB, 24 trang )

BÀI ĐIỀU KIỆN
Đề bài: Tìm hiểu về đặc điểm văn hóa tộc người Thái (điều kiện về địa văn
hóa) đi sâu vào các hoạt động văn hóa ( văn hóa tâm linh, văn hóa giải trí, ăn, mặc,
ở, ẩm thực, phong tục tập quán ma chay, cưới xin, quan niệm tín ngưỡng…)
Bài làm
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 người tái ở Việt Nam có dân số
là 1.550.423 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả
63 tỉnh, thành phố.
Nơi cư trú chủ yếu: Hịa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Thanh Hóa,
Nghệ An.
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên, các
nhóm Táy Thanh ( Man Thanh), Táy Mười, Táy khăng ở miền tây Thanh Hóa,
Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba tram năm và bị
ảnh hưởng bởi văn hóa và dân chúng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Táy
Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi qua Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An
định cư cách đây hai, ba tram năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu
(Sơn La) và chịu ảnh hưởng của văn hóa Lào. Dân số của nhóm Thái Đen tại Việt
Nam năm 2002 ước tính khoảng 699.000 người trong tổng số 763.950 người Thái
Đen trên tồn thế giới. Ngồi ra cịn khoảng 50.000 người Thái Đen và Táy Mười
sinh sống tại tỉnh Khammmouan (Lào), 10.000 người Thái Đen (một phần của dân
tộc Thái theo phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân Nam Trung
Quốc( số liệu 1995) và 700 người Thái Đen sinh sống tại tỉnh Loie (Thái Lan).
Nhóm Thái Trắng( Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu tại tỉnh Lai Châu,
Điện Biên và một số tỉnh của Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên) ở Đà Bắc
thuộc tỉnh Hịa Bình có nhiều nhóm tự nhận mình là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở
xã Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai có một số nhóm Thái Trắng chịu ảnh


hưởng đậm của văn hóa người Tày. Ở Sa Pa, Bắc Hà nhiều nhóm Thái đã bị Tày
hóa, Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sơng hồng và tỉnh Lai Châu, Điện
Biên từ thế kỉ 13 và làm chủ Mường Lay (địa phận của huyện Mường Chà hiện


nay) thế kỉ 14 một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỉ 15. Có thuyết
cho rằng họ là con cháu của người Bạch Y ở Trung Quốc. Dân số của nhóm Thái
Trắng tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 280.000 người trong tổng số
490.000 người Thái Trắng trên tồn thế giới. Ngồi ra cịn khoảng 200.000 người
Thái Trắng sinh sống tại Lào, 10.000 người sinh sống tại tỉnh Vân Nam , Trung
Quốc.
Một số nhóm có dân số ít hoặc chưa được phân định rõ ràng như Táy Mười
(Thái Quỳ Châu), có khoảng 300 người (2002), Táy Mường(Thái Hàng Tổng) có
khoảng 10.000 người (2002), Táy Thanh có khoảng 20.000 người (2002), Phu Thai
(hay phutai, putai, puthai, puthay) với dân số 209.000 người (2002) ngoài ra tại
Thái Lan có khoảng 740.000 người (2006), tại Lào có 154.000 người (2001) và
tổng số người Phu Thai trên toàn thế giới là 833.000 người.
Ngồi ra cịn có khoảng 20.000 người Thái gốc Việt sinh sống tại nước ngoài,
chủ yếu là Pháp bà Hoa Kỳ.
Người Thái nói các thứ tiếng thuộc nhóm ngơn ngữ gốc Thái của hệ ngơn ngữ
Thái- kadai. Trong tiếng này có tiếng nói của người Thái (Thái Lan), tiếng Lào của
người Lào, tiếng Shan ở Myama và tiếng Choang ở miềm nam Trung Quốc. Tại
Việt Nam có 8 sắc tộc ít người bao gồm: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay,
Tày, Thái được xếp vào ngôn ngữ Thái.
Người Thái là một trong số ít các dân tộc thiểu số ở nước ta đã có chữ viết từ
lâu đời. Tuy chưa xác định được cụ thể thời điểm xuất hiện của chữ Thái nhưng
hang ngàn năm nay các nhóm Thái ở nước ta đã sử dụng những con chữ riêng của
mình cho đến ngày nay. Người Thái ở Việt Nam, cũng như cộng đồng người Thái
sống ở nước ngoài đã và đang sử dụng, bảo tồn và gìn giữ nó. Bộ chữ Thái là một


công cụ để ghi nhận và giao tiếp trong cộng đồng người Thái, nó ghi nhận và phản
ánh đầy đủ, phong phú và tế nhị tư tưởng, tình cảm và tâm hồn trong sang lành
mạnh của dân tộc Thái, các hoạt động của con người như lao động sản xuất, đấu
tranh chống thiên nhiên, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và các sinh hoạt con

người trong xã hội, mặt khác nó cịn phản ánh văn hóa nghệ thuật ( thơ ca, tục ngữ,
truyện, các phong tục tập quán…) những di sản đó đều được bọ chữ Thái ghi chép
và truyền đạt lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Người Thái có nền kinh tế rất phong phú đối với trồng trọt hình thức canh tác
là ruộng nước và nương rẫy
Ruộng nước là nguồn cung cấp lương thực chính cho người Thái. Do vậy
ruộng bậc thang là một nét đặc trung của người Thái, ruộng không ở quá cao và có
nhiều nét khác so với các dân tộc khác thấp hơn, đều hơn, không tập chung thành
đồi ruộng nước. Người Thái nổi tiếng với gạo nếp và đó là nguồn lương thực chính
của họ
Nương rẫy nhằm cung cấp một số lượng lương thực nhất định như ngô, khoai,
sắn… và một số sản phẩm khác : vừng, lạc, bí, bầu, rau xanh dùng để làm thức ăn
hang ngày, bông, càm làm chăn, màn, đệm… nguồn cung cấp nước cho nương rẫy
cũng như nước sinh hoạt hàng ngày của đồng bào Thái là “Cọn nước”. Qua nhiều
thế hệ họ đã có nhiều sáng kiến tạo ra những cơng trình thủy lợi thích hợp với địa
thế ruộng đất. Hộ đã đào mương, đắp phai, bắc ống dẫn nước về đồng ruộng. Qua
nhiều thế hệ, khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, đồng bào người Thái đã xây
dựng hệ thống thủy lợi với mương- phai- lái- lin là một trong những kĩ thuật đạt tới
trình độ cao nhất, sớm nhất và rất chuyên nghiệp trong canh tác lúa, đây là một
trong những thành tựu đáng kê của người Thái. Với công cụ thủ công là dao và
xẻng, họ đã đào hệ thống mương dẫn daig hang chục cây số để dẫn nước về khắp
các ruộng nước trong vùng. Cùng với mương và phai, hệ thống đập làm bằng tre và
đá ngăn nước từ suối dâng lên cao chảy vào các mương đưa nước tới ruộng. Để


chia nước vào các ruộng là các lái (mương nhỏ) và lin (ống dẫn nước bằng cây
bương, cây vầu với từng thửa ruộng) dẫn nước đến từng chân ruộng để ruộng nào
cũng đủ nước cho lúa phát triển ổn định trong chu kì mùa vụ. Nhờ hệ thống này mà
canh tác nông nghiệp của của người Thái được chủ động và mang lại hiệu quả cao
khơng cịn phụ thuộc vào thời tiết nhiều.

Khơng những thế đồng bào cịn có các kinh nghiệm trong việc lựa chọn các
loại giống tốt, có chất lượng tốt và cho năng suất cao để làm nguồn giống phụ lâu
dài, yếu tố chọn giống được người dân lựa chọn rất kỹ càng và sàng lọc qua nhiều
giai đoạn, nhiều năm để trở thành giống đặc trưng của vùng tây bắc
Bên cạnh đó, việc kết hợp với các luật tục và các lễ hội trong sản xuất nơng
nghiệp đã tạo cho người Thái có một mơi trường canh tác hồn thiện một cách tổng
thể nhất. Họ có những luật tục quy định rất chặt chẽ trong việc bảo vệ nguồn nước,
bảo vệ rừng, bảo vệ mùa màng được ghi trong luật tục Thái của mường, của bản,
có những chế tài cụ thể để sử lí những hành vi vi phạm của người dân ảnh hưởng
tới cộng đồng.
Ngày nay, trong sự phát triển mạnh mẽ với những tác động của mặt trái của
khoa học kỹ thuật như việc sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc hóa học, phân hóa học làm
ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất, làm giảm sức kháng bệnh của các giống lúa đã
tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân, làm mất khả năng phát triển bền
vững trong sản xuất nông nghiệp. Do vậy, việc bảo tồn và khai thác, phát huy các
tri thức bản địa của người Thái là một trong những giải pháp hữu ích để bảo vệ mơi
trường, gìn giữ và phát triển các sản phẩm nông nghiệp truyền thống có chất lượng
cao và tốt cho sức khỏe. Bên cạnh đó, việc phát huy các luật tục và các lễ hội nông
nghiệp của người Thái trong phát triển du lịch sẽ giúp tang thu nhập cho người
dân, xây dựng và phát triển tốt thương hiệu gạo tây bắc. Qua đó góp phần xóa đói
giảm nghèo phát triển kinh tế bền vững cho đồng bào dân tộc Thái là hướng đi tích
cực vừa bảo tồn các di sản văn hóa cộng đồng dân tộc Thái của Việt Nam nói


chung và cộng đồng người Thái ở vùng Tây Bắc nói riêng, đồng thời góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực và vùng miền
Ngoài trồng trọt người Thái cịn kết hợp với chăn ni gia súc, gia cầm.
Phương thức chăn nuôi là nửa thả rông, nửa chăm, ngồi chăn ni lợn, gà, người
dân cịn ni trâu, bị để lấy sức kéo và phân bón. Các loại động vật chăn ni
chính : trâu, bị, lợn, gà, vịt.

Địa hình chăn nuôi gia súc thường được nuôi ở gần sát nhà hoặc thả rơng
ngồi đồng, trên mương, đồi… những nơi trống trải nhưng khơng được q rậm
rạp (do đề phịng chộm cắp).
Đặc biệt người Thái nuôi lợn và gia cầm để dung trong các dịp lễ, tết và thờ
cúng hoặc khi nhà có khách và để nộp cho quan, cho chúa. Mỡ lợn được dữ trữ để
sử dụng quanh năm
Chăn nuôi gia xúc với ý nghĩa:
 Lấy sức kéo của trâu, bị trong sản xuất nơng nghiệp
 Ni lấy thịt, nguồn thức ăn tự cung, tự cấp của nhân dân
 Lấy phân của gia súc, gia cầm làm phân bón trong sản suất nông
nghiệp
 Lấy làm thức ăn cho cá
 Tạo thu nhập cho nhân dân trong việc mua bán gia súc.
Đối với thủ công nghiệp của người Thái vẫn chưa tách khỏi nghề nông nghiệp
mà chỉ là nghề phụ trong gia đình.
Nghề dệt thổ cẩm là nghề truyền thống của dân tộc Thái tạo nên bản sắc văn
hóa riêng. Trước đây, để dệt một tấm thổ cẩm, đồng bào phải mất bảy tháng trồng
bông, trồng dâu rồi sau nhiều công đoạn mới se được sợi vải để dẹt nên tấm thể
cẩm truyền thống. Những năm 90 của thế kỉ trước, đến với bản Lác, bản Nhót,
Pom Coojoong… vẫn cịn nghe thấy tiếng thoi đưa dệt vải theo cách truyền thống.


Thổ cẩm của người Thái với những họa tiết hoa văn phong phú, độc đáo đã
chiếm được cảm tình của nhiều du khách trong và ngoài nước. Nhưng hiện nay,
người Thái vẫn chưa có những làng chuyên dệt thổ cẩm, vì vậy, sản xuất manh
mún, tự phát nên nhiều sản phẩm tạo ra chưa phù hợp với thị hiếu của du khách.
Để thổ cẩm trở thành sản phẩm du lịch phục vụ du khách, người Thái cần tìm
hướng đi mới bằng việc đầu tư có hiệu quả vào trang thiết bị sản xuất, thay đổi
mẫu mã sản phẩm, tạo cơ hội cho các gia đình, làng bản có nghề truyền thống được
tham gia các hội chợ nhằm tìm hiểu nhu cầu thị trường, thị hiếu tiêu dùng để cho ra

đời những sản phẩm phù hợp.
Có thể nói, giữ được nghề thổ cẩm là giữ được những nét văn hóa cổ truyền
của người Thái. Nếu biết kết hợp giữa tính dân tộc và tính hiện đại thì dệt thổ cẩm
của người Thái sẽ tạo được những mặt hàng kinh tế có giá trị trên thị trường.
Hiện nay, hầu như đồng bào không trồng bông, trồng dâu để dệt vải nữa.
Những tấm vải thổ cẩm truyền thống của các dân tộc Thái ở Mai Châu trở nên mai
một. Đây chính là nguyên nhân làm cho dệt thổ cẩm ở Mai Châu trở nên mai một,
khơng giữ được sự tín nhiệm vốn có. Sản phẩm làm ra nhiều nhưng du khách
khơng thích. Bên cạnh đó, cơng tác quản lí, bao tiêu sản phẩm chưa có, chưa tổ
chức được thành nhóm, tự tiêu thụ nên sản phẩm làm ra manh mún, chưa tạo được
sự liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngề đan lát là nghề phụ cũng như các dân tộc khác, nghề đan lát rất quan
trọng và phát triển ở từng hộ gia đình người Thái. Có thể nói đan lát là công việc
của đàn ông, các sản phẩm đan lát thường là: gùi (sọt), mũ, nón, giỏ,.. đặc biệt là
cót xát. Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái dung để trải trên sàn trước khi xếp
chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây may lọi, một
loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
Nghề gốm, sứ, vại, nồi…Người Thái ở Mường Chanh (Sơn La) có nghề gốm
với các sản phẩm quen thuộc như nồi đất,chõ đất, đồ đụng chum, vị. Đất sét có ở


Mừng Chanh, lị nung được người Thái cho chìm dưới đất (lị nung âm) lị gồm có
hai cửa. Cách làm gốm của người Thái rất đơn giản nhưng lại vô cùng hiệu quả….
Các sản phẩm có tiếng vang rất to đặc biệt là mõ
Đóng vai trị nhất định trong đời sống kinh tế của dân cư Thái nhưng chỉ giữ ở
vị trí phụ săn bắn người Thái chỉ đi săn khi nhàn rỗi có thời gian, mục đích bảo về
mùa màng và them nguồn thức ăn hoang dã. Người tham gia thường là đàn ông (
các thành viên trai tráng hoặc những người có kinh nghiệm rừng núi lâu năm).
Cơng cụ đi săn thường là nỏ, ná ,mác.. hình thức có thể một hoặc hai người cùng đi
săn đặt bẫy thú (đi ít thì sẽ bí mật, tránh tình trạng mất thú bẫy được)… cịn khơng

họ sẽ đi tập thể để đạt được nhiều thú hơn
Nghề đánh cá, nuôi cá rất phát triển, nguồn cung cấp cá thường là song, suối
chảy qua bản, làng. Có thể là do bà con tự nuôi và phát triển thành ao, đầm nguồn
nước thường là nước ao, hồ, thậm chí nước sinh hoạt… người dân thường nuôi cá
trắm… nguồn thức ăn cho cá thường tận dụng cỏ rừng, phân trâu, bò hay gia
cầm…
Người Thái còn hái lượm lá thuốc, rau thơm, rau rừng hay hoa màu có thể sử
dụng được trên núi
Ý nghĩa chỉ là nghề phụ những lúc nhàn rỗi của phụ nữa Thái, trước đây có cả
đàn ơng tuy nhiên đời sống và xã hội phát triển nên đàn ông thường làm nhiều việc
quan trọng hơn
Người Thái thường tổ chức giao lưu qua các chợ phiên đặc trưng là chợ Tam
Điệp (Điện Biên…) chợ người Thái thường họp từ khá sớm nhưng đến tận 8-9 giờ
sang mới tan. Lúc ấy, ai chưa bán hết hang sẽ đi bộ bào những khu phố để giao
hang. Những mặt hang mà người Thái bán chủ yếu là những bó rau sạch do họ tự
trồng nhưng khồn ăn hết nên đem bán hay những trái cây rừng, măng rừng…
những mặt hang này thường được dân phố ưa thích nên thường bán rất chạy


Phương tiện vân chuyển gánh thường là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu
chằng dây đeo vắt qua trán, dung ngụa cưỡi, thồ. Nay ở dọc các con song họ rất nổi
tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
Đối với văn hóa vật chất của người Thái thì làng, bản và các cơng trình kiến
trúc
Làng bản, mường, chum xúm, mỗi bản có 40- 50 nóc nhà. Mỗi bản có một
ranh giới riêng: một khu rừng riêng, ruộng đất, nơi chăn thả trâu, bò,khu rừng cấm,
bãi tha ma,nguồn nước
Người Thái ở nhà sàn gỗ, nhà đất (mới xuất hiện). Người Thái ở nhà sàn bốn
mái, cầu thang bên đầu hồi ở mặt trước, bậc thang thường là số lẻ 5, 7, 9. Người
Thái Đen lưu truyền cách Rùa dạy người cách làm nhà ở và coi rùa là ân nhân, nên

họ làm mái nhà hình mai rùa và có tục treo thờ mai rùa trên đầu cột thiêng trong
nhà. Phía trên cửa hai bên đầu mái có “khau cút” vừa là kí hiệu nhận ra nhau vừa là
biểu tượng trang trí tương ứng đẳng cấp chủ nhà. Mơ hình nhà nói chung khơng có
vách ngăn, mà ngăn bằng cột, phịng ngủ kéo ghi đô.
Người cao tuối ngồi sát cửa sổ, khách khơng được ngồi ngang hang, nếu
khách nhờ vả thì ngồi sát mép chiếu ngoài cùng. Ghế cao nhất dành cho chủ nhà,
họ kiêng không nằm dọc chiều nhà, không được ngồi trực diện cửa bếp, đun củi thì
đun gốc trước ngọn sau.
Người Thái quan niệm “Nhà Thái- nhà có gác- đầu hồi có cột ”, “đầu gối đất,
chân kề nước”: ngủ quay đầu về núi, chân ruỗi ra ruộng, giáp song suối.
Nhà được phân đôi khoang long nhà theo chiều đơn địn nóc, phía trên là phía
đầu, phía dưới là phía chân.


Phía trên trở thành chỗ chính của tổ ấm gia đình để ngủ và cất

giũ của cải quý, nơi để chăn. Do đó, quan sát mép trên trên đầu gối thì biết
nhà giàu hay nghèo, chăm chỉ hay lười tùy thuộc vào số chăn màn trên gác




Nửa phía dưới dành cho sinh hoạt ban ngày của gia đình: ăn

uống, đi lại, tiếp khách
Phân đơi khoang long nhà theo chiều ngang: bên trái A (bên quản) dành cho
nam giới, bên phải B (bên chăn) dành cho nữ. Họ kiêng con râu qua lại bên chăn
sang bên quản, nữ không đội khăn phiêu trong nhà, không đem cành lá xanh, cá
thịt tươi vào trong nhà
Thang là để cho người sống, người chết không được đi thang mà bắc cầu gia

thang hoặc đi phía đằng hiên rồi đưa đi chơn cất ở rừng ma. Nhà có người sinh nở
hoặc ốm đau thì khi đi cúng cắm vào thang tấm piêu có đan mắc áo và cắt cành lá
xanh ở cột càu thang nhà. Đó là dấu hiệu nhà kiêng cấm do đó khách khơng được
lên nhà vào những trường hợp thấy trước nhà có cắm cành cây xanh lá
Lan can bên quản hoặc ban công đầu hồi dành chon am ngồi, nghỉ ngơi, đọc
sách, dẫn khách quý (nam hoặc nữ), bước qua cửa lên nhà. Đây cũng là nơi đàn
ông ngồi làm thủ công, đan, rèn… đây cũng là chỗ ở trong thời gian bên nhà vợ,
con rể ngồ vặn dây thừng, làm công cụ sản xuất, băm cỏ chăn ngựa.
Đối với trang phục của người Thái được chia làm trang phục thường ngày và
tang phục.
Đối với trang phục thường ngày bao gồm:
Trang phục nữ: áo ngắn (xửa com), áo dài (xửa chai, xửa luồng), váy, thắt
lung, nón, xà cạp, hoa tai, vịng cổ, vịng tay, xà tích…
Áo ngắn:
 Thái đen: áo ngăn tứ than, màu đen, không xẻ tà, cổ tròn nẹp cổ cao
2,5cm, cài cúc bạc giữa , áo thường màu chàm, xanh da trời, trắng. Hàng
ngày áo màu chàm đen, khuy vải. Ngày hội áo màu khuy bạc, hang khuy bạc
bên trái biểu tượng nam, bên phải biểu tượng nữ thể hiện sự trường tồn
giống nòi


 Thái trắng: áo ngắn tứ than, màu trắng, không xẻ tà, cổ thìa nẹp áo
màu đen, cài cúc bạc giữa ngực, cổ xuôi xuống hai vạt áo, lúc tắm mặc áo
chui đầu, áo che ngực.
Áo dài:
 Thái đen: may bằng vải chàm đen, kiểu năm than, cổ trong, xẻ tà cao,
cài cúc bên trái gấu phủ quá gối(mặc lúc lấy chồng, lễ hội, về nhà cha mẹ
không mặc áo này).
 Thái trắng: áo đen dài kiểu chui đầu, cổ tròn. Mặt trong của áo ghép
sáu dải vải các màu

Áo xửa luồng: áo khốc ngồi, may dài, rộng, chui đầu có tay hoặc khơng
 Thái đen: may bằng vải chàm, có màu xanh, đỏ, trắng ở cổ, ngực có
gấu áo. Thái đen từ nhỏ đã mặc áo này, mặc khi về già, biếu mẹ chồng khi
làm dâu. Các cụ già áo xửa luống lộn trái và đến khi chết mặc lộn phải. Cô
dâu túc trực bên quan tài mẹ chồng cũng phải mặc áo xửa luống, khi ra tới
tảo mộ cởi áo treo lên cột nhà mồ, như vậy tổ tiên mới nhận linh hồn người
quá cố.
 Thái trắng: mặc xửa luống bằng lụa, áo hẹp ngang, có chiết eo mặc
thường xuyên.
Váy (xin) có hai lớp: trong váy lót trắng, váy chàm bên ngoài. Váy ống chàm
đen, cạp bằng vải trắng không thuê hoa văn.
Thắt lưng người Thái làm bằng tơ tằm, sợi bơng xanh hoặc tím sẫm, giữ cho
cạp váy luôn cuốn chặt lấy eo bụng. Nữ trên 40 tuổi thắt lung màu tím, cơ gái trẻ
thắt lưng màu xanh. Thái trắng cịn có vải chồng ra ngồi thắt lưng ghép bằng
nhiều miếng vải màu sặc sỡ đen, đỏ, xanh ,vàng. Thắt lung có hai lớp vải (trong
đen, ngồi khác màu), ngày thường dùng một thắt lưng, ngày cưới dùng hai thắt
lưng.


Khăn piêu: bằng vải chàm dài 180cm, rộng 36cm. Piêu tết thành sừng hoặc
thành tai. Piêu tết thành ba sừng là piêu thường, tết năm, tết bảy sừng là piêu sang
dung để biếu hoặc đội lúc cưới xin, piêu còn dung cho nam nữ trao nhau khi đính
ước như vật làm tin.
Tóc người Thái để dài, chải ở sân sau nhà, những sợi rụng được thu vào sọt.
Khi lấy chồng mẹ chọn sợi dài, đẹp bện thành độn tóc cho cô dâu mới, khi cô dâu
lấy chồng và sau này đều chải tóc ngược búi lên đỉnh đầu. Những người góa bụa
cũng búi tóc lên và hơi lệch một bên
Trang sức: không lỗ tai không phải là người Thái, trang sức bao gồm: vịng,
xà tích, thổ cẩm.
Trang phục nam: Quần chân què, cạp lá tọa, màu chủ yếu là màu đen, gạch

non, kẻ sọc.
 Thắt lung bằng vải hoặc bằng da trâu dành cho phía tạo
 Áo cánh ngắn xẻ ngực, có hai túi bên dấu vạt. Áo của người Thái
trắng có thêm túi ở ngực trái, cài khuy tết bằng dây vải
 Áo dài ( mặc trong hội hè, cưới xin- gọi là xửa lắm): áo vạt ngắn bằng
vải chàm, kiểu năm thân, có than trong trắng cài cúc bên trái ngực, cổ tròn,
vạt dài qua gấu. Khi mặc áo này bao giờ cũng mặc kép áo trắng bên trong,
áo chàm bên ngoài để lộ áo trắng bên trong thể hiện sự sang trọng, kiểu
cách.
 Khăn (pàu): khăn dài để cuốn lên thay nón, được dùng vào dịp lễ tết,
cuốn như khăn xếp của người kinh, khăn trọc ngắn hơn dùng khi lao động
trên nương, cuốn có hình chữ “ ^ “.
 Xăm mình là dấu hiệu của sự trưởng thành : xăm mình hình chạc cây,
để khi chết lên mường trời nộp cho then đoạn cây đó, nếu khơng có phải lấy
cơ thể mình làm cột nhà trên mường trời.


Y phục trẻ em: trẻ sơ sinh thường mặc lại quần áo cũ để dễ nuôi, 3 tuổi, 4 tuổi
mặc quần áo. 5 tuổi, 6 tuổi đục lỗ tai, 9 tuổi, 10 tuổi trẻ em gái đội piêu.
Y phục thầy cúng: thầy mo,bà một, ông bà then… mawcjc áo thung rộng,
chui đầu, gấu dài qua gối, ghép vài hình tam giác, gần như xửa luống của người
Thái đen. Đội mũ bằng vải khitws tua rủ xuống vai, trên mũ có hình con vật: bị,
rắn tế…
 Cúng ma nhà: thầy mo mặc áo đen dài, quấn khan dài, nhiều tầng lớp
trên đầu. Bà một khi cúng mặc xửa chai, thắt lưng trắng, có trang trí hình
con vật, đầu đội khan hình chop hai dải khan để xõa phía sau lưng.
Đối với tang phục: Tang phục gia đình may bằng vải trắng, xẻ ngực, dài qua
gối, nẹp áo khơng có khuy mà dung dây buộc, gấu áo xổ, gấu tay đắp vải xanh, đỏ
là trang phục cho con trai và con dâu của người chết.
Người chết (là nữ) mặc xửa com vào trong, rồi mặc xửa chai, xửa luống.

Trong thời gian tang lễ vợ, con dâu trưởng, con gái cả mặc xửa luống. Con dâu thứ
và con gái thứ mặc xửa có long. Họ hang hoặc người thân thích mặc áo xửa com
trắng. Khi tang ma xong ra về con gái cả bỏ xửa luống treo lên cột nhà mồ để lại
cho người chết và mặc xửa co long về.
Sau đám tang những người để tang mặc áo xửa com màu trắng chỉ khác là
khuy bằng bạc đơm ở mặt trái của nẹp áo.
Về ẩm thực người Thái thường ăn cơm nếp, tẻ, rau, cái. Cơm nếp là lương
thực phổ biến của người Thái, cơm được đồ một lần vào buổi sang có thể ăn cả
ngày. Hiện nay người Thái đang chuyển dần sang ăn cơm tẻ như người kinh. Họ
thích món ăn: thịt trâu, ecchs nhái, côn trùng non, trứng kiến…các món luộc, các
gia vị ưa thích: cay, chay, đắng…
Mắm cá là món nổi tiếng của người Thái. Đặc biệt là món “nậm pịa” canh
đắng (dùng ruột non của lồi nhai lại còn nước sữa đắng như trâu, bò…nấu lên
thành canh đắng), người Thasiquan niệm canh đắng sẽ tốt cho tiêu hóa, khơng bị


đau bụng khi ăn những món lạ miệng. “chẩm chéo” là đồ gia vị để chấm rau, thịt,
cá trong các bữa ăn( ớt tươi và tương trộn với một số loại hạt: hạt tiêu…) canh :
canh cá rêu(gồm cá và rêu), canh măng đắng, ln ln có rượu.
Họ thích hút thuốc lào, phụ nữa thích hút thuốc lào điếu to (ống to nhiều nước
hút nhẹ), nữ ít ăn trầu.
So với văn hóa vật chất thì văn hóa tinh thần cũng đóng một vai trị quan
trọng trong đời sống xã hội của người Thái
Tơn giáo tín ngưỡng: Do sinh sống bằng nơng nghiệp trong điều kiện cịn khá
phụ thuộc vào tự nhiên, khoa học kỹ thuật chưa phát triển nên họ tin trên trời có
Then Lng. Then Lng là đấng cai quản trời đất, loài người và vạn vật
 Ở trần gian, người Thái tin bất kì nơi nào cũng có ma cai quản: ma
rừng, mà suối, ma ruộng, mà nương, ma nhà…và khi muốn lập bản, muốn
khai phá ruộng, phá nương, đánh bắt cá…đều phải xin phép họ
 Ngoài ra họ cịn tin những ơng, bà, cụ kị đã mất là những lực lượng

phù hộ, bảo vệ con người.
 Để củng cố trật tự gia đình phụ quyền, người Thái có hình thức thờ
cúng tổ tiên. Mỗi gia đình nhớ rõ nguồn gốc, lịch sử của mình, họ thường có
gia phả và có những nơi thờ từng tơng tộc, tùng dịng họ.
 Chỗ thờ cúng có thể là một rừng cấm, một gốc cây, một hịn đá.
 Chỉ có chủ nhà mới được thay mặt gia đình cúng ma nhà, chủ trì lễ
xiêm hươn, cầu xin tổ tiên phù hộ cho con cháu
 Việc thờ cúng trời, đất, bản mường, chúa đất, tổ tiên được thể hiện
bằng những nghi thức, hội hè hang năm theo chu kì sản xuất nơng nghiệp
chủ yếu nhằm cầu xin trời đất bảo vệ mùa màng
Tín ngưỡng liên quan trực tiếp đến sản xuất nơng nghiệp của người Thái ở
Quỳ Hợp gồm những nghi lễ sau đây:


 Nghi lễ đầu vụ gieo trồng:
Nghi lễ đầu vụ gieo trồng được người Thái rất coi trọng, vì đó là việc làm
“lấy may” cho công việc đồng áng cả năm. Với ý nghĩa đó, hàng năm khi bắt đầu
vụ gieo trồng, người Thái tổ chức lễ “Tê Tồng” (cúng đồng) để mời “Then Phả”
(các thần trên trời), “pủ xưa” (thổ cơng), những người có cơng khai phá đồng
ruộng (iê háy iê nà), những người chết khơng có con thờ cúng (phi xút đn), mời
ơng ngày đêm có mặt trên đồng ruộng(bóc then nang nà)… về ăn cỗ và phù hộ cho
người dân bản được mùa màng tươi tốt.
Người tổ chức “Tế Tồng” gọi là “pủ đăm”, do nhân dân trong bản tín nhiệm
và được cử ra để trơng coi việc tổ chức các nghi lễ. Ông đăm sẽ chọn ngày, chọn
giờ tốt để làm lễ và ông cũng thay mặt bản mời một ông mo về cúng. Lễ vật cúng
gồm: thịt trâu, xôi, rượu cần và trầu cau.
Trong lễ “Tế Tồng” nghi lễ cúng khâu kamf đất rất được coi trọng, người
Thái quan niệm ngày lẻ của tuần trăng thứ nhất trong tháng(theo âm lịch) là những
ngày tốt. Trong ngày này, “pủ đăm” sẽ là người đưa trâu xuống quần ruộng đầu
tiên.

 Các tín ngưỡng lien quan đến nương:
Khi phát cây, dọn cỏ, làm nương người ta cắm taleo và làm lễ cúng thần núi,
thần cây. Lễ vật gồm đơi gà, một vị rượu và trầu cau, những lễ vật này được đặt
lên một bàn thờ nhỏ bằng nứa dựng trên nương. Chủ nhà trực tiếp làm lễ vật và
cúng xin thần núi phù hộ mùa màng bội thu. Khi gieo hạt, người Thái trồng trên
nương vài cây “xả” (là cây chịu hạn), vài cây cứa có đặt các vỏ trứng với mong
muốn muốn cây lúa tốt tươi như cây “xả” và hạt thóc to như quả trứng.
Khi làm cỏ cho lúa rẫy, người Tháu săm lẽ vật cúng “pơ chơ lam sang láy” là
người ngày đêm có mặt trên rẫy để bảo vệ cây lúa không bị sâu bệnh. Khi gặt lúa
rẫy thig bà chủ nhà cũng đi quanh rẫy và làm các nghi lễ tương tự như gặt lúa ở
ruộng.


 Nghi lễ cầu mưa
Vào mùa sản xuất, nếu trời hạn hán kéo dài thì người Thái làm lễ cầu mưa
theo từng bản. Tham gia lễ cầu mưa là cả nam nữ thanh niên, mọi người tập trung
tại bãi cỏ rộng và cứ một người hát hay là có thưởng
Đầu tiên, đồn cầu mưa chọn gia đình nào có bà già cao tuổi nhất trong bản
thì đến trước. Khi tới sân, người diễn xướng hát vọng lên nhà, mời bà cụ ra cầu
thang trong bộ váy áo đẹp nhất, nhúng hai bàn tay vào chậu nước để sẵn vả té vào
những người đứng ở cầu thang, đến người cuối cùng xin bà hắt cả chậu nước vào
người đó. Lập tức, mọi người hát vang bài ca cầu mưa và xin ăn.
Vì có sự chuẩn bị trước, bà già lấy ra một gói xơi và một gói muối trao cho
người diễn xướng. Lúc này mọi người lại kéo sang nhà khác để tiếp tục hát và khi
đã hát lên mọi nhà trong bản thì kéo nhau ra bến nước để hát cầu mưa theo từng
đôi nam nữ. Họ xuống sông (suối) để té nước cho đến khi mọi người ướt hết thì lên
bờ mở xơi và muối ra ăn. Buổi lễ cầu mưa kết thúc
Ngồi ra, cịn có một số tín ngưỡng nơng nghiệp khác như: tục địn tiếng sấm
đầu mùa, lễ cơm mới, tín ngưỡng lien quan đến nương, tín ngưỡng trong thu hoạch
và bảo quản…

Trong khi đó những hình thái tín ngưỡng lien quan đến việc chữa bệnh cịn
tồn tại:
Đồng bào còn tin vào sức mạnh siêu linh: ma, quỷ, thần… gây ra nhiều bệnh
tật hiểm nghèo, chết chóc. Vì thế vai trị thầy mo rất được coi trọng nhưng ngày
nay tri thức của dân bản ngày một nâng cao nên vai trò của thầy mo cũng được
giảm dần.
 Tết của người Thái
Ngày tổ chức tết nhảy, ngay từ sáng sớm các gia đình tổ chức giã bánh dầy,
mổ lợn, gà, thanh niên chuẩn bị cơ làm bằng giấy bản và đẽo kiếm, dao, dìu bằng


gỗ để múa. Trong tết nhảy, có nhiều điệu múa được trình diễn khéo lóe và tinh tế
như: múa Lạp lì lị sất sày, múa kiếm, múa dao, múa nhảy rùa…
Theo phong tục của người Thái ở Lai Châu, từ ngày 25 tháng chạp, mọi người
đều tạm dừng các công việc để dọn dẹp nhà cửa và đi chợ săm tết. Trong phiên
chợ, người Thái sẽ tìm mua những cây mía về để buộc ở hai bên bàn thờ. Mía
tượng trưng cho cây gậy để tiễn đưa ông bà, tổ tiên lên trời ăn tết.
Vào sáng 30, khi tiếng gà mới chỉ gáy đến canh hai, canh ba thì các gian bếp
của người Thái đã bập bùng ánh lửa. con gái đồ xôi, con trai mổ lợn để chuẩn bị
tết. Đến đêm, người lớn ngồi quay quần bên bếp lửa ấm cúng để đón giao thừa, cịn
các chàng trai, cơ gái thì ca hát trong tiếng trống chiêng rộn rã. Khi đồng hồ điểm
12h, họ đi lấy nước để cầu may. Tục lấy nước cầu may có từ lâu đời và được người
Thái lưu truyền, gìn giữ cho đến nay. Người Thái quan niệm, lấy nước suối ở đầu
nguồn về uống và rửa mặt trong những giây phút đầu tiên của năm mới thì sẽ được
thanh khiết như nguồn nước suối và cả năm đó họ cùng gia đình sẽ luôn mạnh
khỏe, gặp nhiều may mắn. Việc đi lấy nước phải được thực hiện tước khi gà gáy
canh một. Nếu như lấy nước mà gà đã gáy thì sẽ khơng cịn ý nghĩa.
Ngồi ra cịn một số ngày tết đặc biệt của người Thái ở Thanh Hóa như:
 Tết ăn cá: Ở vùng Cổ Lũng từ ngày 29 tháng chạp, dân làng ra song
bắt cá về chuẩn bị mâm cỗ.

 Tết rửa mặt (tục xuối ná pi mớ): rửa mặt vào sang mùng một tết
 Tết trước một tháng
 Tết sau mười ngày
Lễ hội và trò chơi dân gian của người thái vô cùng độc đáo và mang đậm nét
văn hóa tinh thần dân tộc.
Lễ hội hoa ban (người Thái Mường Lò)
 Thời gian: ngày 5 tháng 2 âm lịch


 Địa điểm: thường được tổ chức ở hang Thắm Lé
 Các hoạt động chính của lễ hội: gồm hai phần “Lễ” và “Hội”
Phần lễ: cúng thần linh với lễ vật là thịt lợn. Toàn bộ phần nghi lễ thực hiện ở
ngồi cửa hang, sau đó thầy mo cúng, vái Then xin mở cửa hang để tiếp tục diễn ra
phần hội
Phần hội: nội dung chủ yếu là khắp giao duyên theo điệu Han Nê, sau đó
diiexn ra các trị chơi hái hoa, múa xòe, ném còn.
Ý nghĩa: là một lễ hội độc đáo, là nét văn hóa truyền thống của người Thái.
Hội hoa Ban hàm chứa ý nghĩa cầu phồn thực của cư dân nông nghiệp miền núi, ca
gợi nữ nhân vật huyền thoại “Nàng Ban”
Lễ hội cầu mưa (Xến Xó Phốn) là một lễ hội của người Thái ở Mai Châu, Hịa
Bình
 Người Thái ở vùng tây bắc cho rằng thần linh cai quản mưa gió
thường những đứa trẻ sinh ra khơng có cha, có nhà nên đã cho trời hạn hán.
Vì vậy trời khơng mưa là do lỗi của những người phụ nữ chửa hoang
 Các dân bản làm lễ cúng mưa, cúng chủ nước, chủ sông, suối để mời
các thần linh về nghe nguyện vọng của mình cũng như trách những người
phụ nữa khơng biết dữ mình
 Thời gian: từ ngày mùng 1 tháng 4 đến 28 tháng 4 âm lịch, vào những
đêm trăng có quầng đỏ quầng vàng điềm báo đại hạn kéo dài
 Các hoạt động chính:

Phần lễ: cúng thần linh cai quản mưa nắng. Lễ hội đơng nhất là nam nữ thanh
niên, cịn lớp người trung tuổi, già cả thì ở nhà sẵn sàng tiếp đón đồn hát cầu mưa.
Đồn hát thường gồm năm sáu chục người, ai cũng có mũ, nón, áo tơi, lá cọ. Mọi
người tự giác sắp xếp thành hai hang tại bãi rộng trong làng


Phần hội: Dẫn đầu đoàn háy là lĩnh xướng, họ đi đến các nhà xin lễ vật. Họ
chọn nhà nào có người già nhất bản để đến đầu tiên, đến sân hộ vọng lên mời bà cụ
xuống, bà cụ té nước lên đoàn người rồi rội hết cầu thang. Sau đó mọi người lập
tức hát hết bài cầu mưa, kéo nhau sang nhà tiếp theo
Các nhà sau họ chỉ cần được biếu gói xơi, gói muối việc cảm ơn cũng diễn ra
như nhà bà cụ đầu tiên
Sau khi đi khắp các nhà trong bản, họ trở về nơi ban đầu, châm đuốc, cầm
duuocs diễu hành một vòng quanh bản rồi kéo nhau ra suối. Tất cả số đuốc chụm
lại thành ba đống. họ thi tát nước “vàng” nước “bạc” vào người, vào mặt nhau cho
đến khi ai nấy ướt sung mới chịu tan hội về nhà.
Lễ hội Kin Pang Then: chữ “Then” trong “Kin Pang Then” để chỉ những thầy
mo cao tay hơn các thầy mo khác.
 Là lễ hội của người Thái trắng, có tính cộng đồng cao, có hình thức
diễn xướng dân gian độc đáo được tổ chức vào dịp đầu năm hang năm, là
dịp các thầy mo tổ chức lễ cúng và gặp mặt các con nuôi (là những người mà
thầy mo đã chữa khỏi bệnh)
 Thời gian: diễn ra ngày 10 thang 3 âm lịch, thời gian có thể kéo dài 3
đến 4 ngày (tùy thuooch vào số lượng con nuôi đến với Then)
 Các hoạt động chính:
Phần lễ: chủ trì là thầy mo. Thầy mo với bài “Khắp Then”, vừa đàn vừa hát
các giai điệu của lời Khắp Then diễn tả thời gian của một năm trơi qua, đón chào
một năm mới với nhiều điều tốt đẹp
Phần hội: với những trò chơi và làn ca hát then, điệu múa của các trò chơi dân
gian như: Tó má lẹ, kéo co, ném cịn, thi té nước, kéo sợi…

Ý nghĩa:


 Là lễ hội truyền thống của người Thái trắng, giuwps con người được
giải phóng khỏi những bức xúc trong cuộc sống đời thường, nhắc nhở con
người sống chuẩn mực, đúng đạo lý.
 Đồng thời đây cũng là dịp để trai gái gặp gỡ, thể hiện tài năng, tỏ tình,
tìm hiểu nhau và xây dựng hạnh phúc gia đình
Phong tục tập quán của người Thái với nhiều nét đặc sắc được thể hiện rõ nét
nhất qua hôn nhân và tang ma
 Hôn nhân của người Thái
Nguyên tắc cơ bản trong hơn nhân của người thái là ngoại hơn dịng họ, theo
đó tất cả các thành viên nam và nữ trong cộng đồng thân tộc có chung ơng tổ từ 3
đến 5 đời tuyệt đối không được kết hôn với nhau. Nguyên tắc thứ hai là cơ sở
thuận chiều hình thành 3 mối quan hệ cơ bản tròn dòng họ người Thái là “Ải nọng,
lúng ta và nhinh sao” . Hôn nhân của người Thái là hôn nhân 1 vợ 1 chồng, cư trú
bên nhà chồng, Hôn nhân của người Thái mang tính phụ quyền và bn bán, thể
hiện rất rõ vai trò của cha mẹ và tiền thách cưới. Trong hôn nhân tồn tại tàn dư
mẫu hệ, biểu hiện ở vai trị ơng cậu(nhất là người Thái ở tây bắc) tục ngữ có câu
“thà bỏ chăn chớ bỏ màn, thà bỏ an hem chớ bỏ ơng cậu”. Ngồi ra cịn có tục ở rể
theo định kì và tục ở rể đời. Lễ cưới gồm có 2 bước cơ bản:
 Cưới lên (đong khửn): đưa rể đến nơi cư trú ở nhà vợ, là bước thử
thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái đen có tục tằng cẩu ngay
sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm
 Cưới xuống (đong lơng): đưa gia đình trở về với họ cha
Khi chàng trai người Thái đen đến tuổi lấy vợ (trước đây là 13-14 tuổi) nay
mười tám đôi mươi sẽ tự tìm người con gái mà mình ưng ý hoặc do bố mẹ “nhắm
cho”. Tiếp đến, nhà trai nhờ một ơng mối (tiếng Thái gọi là Phị Lam) đến nhà cô



gái để làm mối. Nếu được gia đình cơ gái ưng ý, chàng trai sẽ bắt đầu cuộc đời ở
rể.
Tục cưới hỏi của người Thái là một phong tục có cách thực hiện độc đáo.
Thời kì cưới xin kéo dài từ một đến ba năm với nhiều thủ tục nghi lễ. Nhà trai nhờ
bà mối mang lễ vật tới ăn hỏi. Nhận lễ vật rồi nhà gái hẹn ngày lành tháng tốt cho
chàng trai đến ở rể. Lúc này chàng trai chưa được ở rể chính thức, chỉ được phép
nằm ở gian đầu nhà sàn dành cho khách nam giới và phải đam đương mọi công
việc nhà vợ trong 3 năm. Hết hạn đó nếu nhà gái ưng thuận mới tiến tới hôn nhân.
Nhà trai phải đem rượu, trầu cau, vòng tay, hoa tai, châm cài đầu… để làm lễ tằng
cẩu cho cô dâu. Sau nghi lễ quan trọng này nhà gái dành riêng cho đôi vợ chồng
một không gian riêng, chàng trai tiếp tục ở nhà vợ cùng nhau làm ăn sinh con để
cái, từ 1 đến 18 năm khi 10 năm sau lễ thành hôn ở nhà vợ, người chồng mới được
phép đưa vợ về nhà bố mẹ mình sau một lễ rước dâu long trọng.
 Tục hỏi trước lễ cưới của người Thái bao gồm:
Sang thăm hỏi (phay chám): bố mẹ chàng trai nhờ mấy bà khóe ăn nói sang
thăm dị, tìm hiểu về gia đình dịng họ, quan hệ xã hội tốt xấu… thăm dò xong xin
phép về. Các bà báo cáo cuộc tiếp xúc, có lời nhận xét tốt xấu. Bố mẹ nhà gái ưng
thuận và nhà trai cũng thấy được.
Sang ướm hỏi (pay mai) : nhà trai xét nhà gái thuận với mình, sắp lễ cưới hỏi,
bố mẹ mời bà mối sang thưa chuyện. Nhà trai mang đôi gà trống và mái, 2 chai
rượu làm cơm tiếp bố mẹ nhà gái, chúc nhau vài chén rượu rồi chuyển sang nói
chuyện luật tục
Sang ăn hỏi đứt lễ trầu cau: nhà trai mang sang nhà gái đơi gà trống mái, 2
chai rượu, 2 gói vỏ chay, 2 gói trầu cau, rượu thịt đủ tiếp lễ nhà gái.
 Sau khi xong lễ hỏi chọn ngày lành tháng tốt, nhà trai chuẩn bị cho
con trai một số sính lễ để đén ở rể. Lễ vật gồm: 1 chiếc áo, mottj con gà mổ
sẵn, một gói cơm, một chai rượu và một cái “Tống bai” là cái đựng vía


(khoắn) được làm bằng một sợi dây mây một đầu được cuộn xoắn lại (theo

như người Thái đen cho biết thì vật này để cho vía chú rể trú ngụ trong đó).
Ơng mối sẽ trực tiếp đưa chàng trai đến nhà cô gái. Sau khi kiểm xong lễ
vật, nhà gái để mọi thứ lên bàn thờ để báo cho tổ tiên biết nhà đã có chàng
rể. Trong thời gian ở rể chàng trai được đối xử như một thành viên mới
trong gia đình.
 Sau khi chuẩn bị đầy đủ lễ vật, nhà trai cùng đồn đón dâu sang nhà
gái. Khi đến nhà gái 2 bên chính thức đặt vấn đề dứt điểm khơng được thay
đổi lịng dạ, con trai con gái như đã có vợ có chồng. Đại diện nhà trai tuyên
bố lí do… và mời nhà gái cùng nâng chén rượu chúc sức khỏe nhau sau đó
nói chuyện về luật tục…
Lễ cưới:
 Lễ trải đệm
 Lễ búi tóc người (tằng cẩu)
 Xướng lễ báo ma nhà
 Rượu mừng lễ thành hơn
Tằng cẩu hay búi tóc trên đỉnh đầu là một luật tục của đồng bào dân tộc Thái
đen. Phụ nữ người Thái đen khi lấy chôngf, theo phong tục phải búi tóc lên trên
đỉnh đầu. Đây là dấu hiệu để phân biệt phuj nữ có chồng và chưa chồng. Một mặt
tằng cẩu để thể hiện sự thủy chung của người phụ nữ, mặt khác là cách tôn trọng
chồng và gia đình nhà chồng. Khi lấy chồng, người ta tổ chức trang trọng lễ tằng
cẩu, người phụ nữ chỉ bỏ tằng cẩu khi chồng chết.
Cuối cùng là xướng lễ báo ma nhà là phong tục không thể thiếu của dân tộc
thái, báo với tổ tiên… rượu mừng lễ thành hôn


Mo xướng làm lễ mo nhà xong, nhà trai cũng bày cỗ xong và mời khách hai
họ nhà trai và nhà gái cùng vào mâm, chur hơn tuyeen bố lí do. Hai gia đinhf nhà
trai, nhà gái cùng ngâng chén rượu chúc mừng hạnh phusc cho đôi vợ chồng trẻ.
 Ma chay của người Thái
Khi trong nhà có người tắc thở, người nhà phải tắm rửa bằng nước thơm và

thay quần áo cho người chết. Nước thơm dùng để tắm cho người chết thường được
đun lên và cho một ít hoa thơm có trong gia đình như: hoa bưởi, hoa ban… Người
Thái cho rằng dùng nước có ướp các loại hoa trên sẽ có mùi thơm dịu dàng có tác
dụng khử mùi hôi tanh. Người ta gội đầu, chải, búi tóc thay quần áo cho người quá
cố. Đối với nhà nghèo, đồ thay cũng chỉ là những bộ quần áo hang ngày, cịn đối
với gia đinhf giàu có thì đồ thay được chuẩn bị từ trước. Thông thường, người ta sẽ
maực theo thứ tự áo trắng ở trong áo đen ở ngồi. Tiếp đó người ta đặt người chết
xuống đệm và lấy vải trắng quấn quanh người, vải đỏ phủ lên trên. Lấy một ít đồng
bạc trắng cho vào tay người chết, làm như vậy khi lên trời họ sẽ có chút tiền để
tiêu.
 Vài nét đặc sắc về đám tang
Đám ma của dân tộc Thái là một lễ hội rực rỡ săc màu, người đàn ông đội mũ
tang trăng, các con dâu giữ dao và con thoi để giữ cho linh hồn người đã khuất.
phụ nữ mặc lễ phục ngày cưới và sửa soạn mâm cỗ đón khách. Tất cả người thân
đều có mặt mang theo một món quà cho người chết được ơng bà tổ tiên đón về.
Chiếc lọng thổ cẩm rực rỡ là mái nhà che trở cho linh hồn người chết khi
bước vào một thế giới khác n bình và khơng cịn đau khổ.
 Nghi lễ cúng ma
Tùy theo từng nhóm Thái, ở từng địa phương đặc biệt giữa các dòng họ quý
tộc và dòng họ dân, phong tục, số lượng, quy mô các nghi thức trong tang ma có
khác nhau. Nhìn chung đám ma của người Thái thường trải qua 5 ngày.
Ngày thứ nhất gọi là “quản và đánh thức ma dậy” (đoi, púc, phi tứn)


Ngày thứ hai gọi là ngày “đón rể” (hặp khươn)
Ngày thứ ba gọi là ngày “đặt” (pự pông – thi hài của người chết được đưa ra
khỏi nhà để mang vào rừng ma)
Ngày thứ tư gọi là ngày “đưa” (mự xuống)
Ngày thứ năm và những ngày sau đó gọi là những ngày “đổ mâm cơm của
ma” (thóc pan khẩu phí)

Trong những ngày này, con cái anh em trong dòng họ đưa cơm ra thăm mộ
cho đến 12 ngày thì thơi. Người Thái đen cịn có quan niệm tuy chết rồi nhưng vẫn
“sống” ở thế giới bên kia nên phải thiêu xác để hồn trở về với mương trời.
 Tín ngưỡng thờ ma nhà
Người Thái không chịu ảnh hưởng của phật giáo, mà họ chỉ thờ ma nhà. Khác
với nhiều dân tộc, nên khi bố còn sống, con trai dù đã ra ở riêng cũng chưa được
phép lập bàn thờ ma nhà. Nhiều nơi, người ta lập bàn thờ bên ngoài trong một cái
chòi nhỏ dựng ở mảnh vườn cạnh nhà, vùng Thái Thanh Hóa, Nghệ An, bàn thờ
bên ngoại được đặt bên cạnh thấp hơn bàn thờ bố. Nơi thờ ma nhà là một góc nhỏ
phía trên của gian qn, được gọi là chốn linh thiêng. Riêng dòng họ quý tộc Thái
đen, ngồi nơi thờ ma nhà cịn có riêng một gian nhỏ thờ các vị tổ dòng họ (chong
căm). Hàng năm,người Thái thường cúng ma nhà 2 lần trong dịp tết nguyên đán và
trong lễ cơm mới. Tuy nhiên, khi con cháu trong nhà ốm đau khi xem bói biết được
ma nhà “đói ăn” thì phải dọn lễ vật cúng khất hứa (tam phi hươn). Sau đó chọn
được ngày tốt mổ gà hay mổ lợn cúng dâng lễ vật tạ ơn. Đói với người Thái đen
bàn thờ là chốn linh thiêng cấm kị khơng chỉ đối với người ngồi mà con dâu cũng
khơng được vào.
Ngồi thờ ma nhà, các thầy mo một, mo mồn cịn có thờ ma tổ sư nghề nghiệp
(thường buộc treo trên vách, trong buồng ngủ). Hàng năm mo một mo mồn thường
tổ chức lễ xên lễ xên lẩu nó/ lễ xăn khan với sự đóng góp lễ vật của những người
đã chưa cho khỏi bênh để cúng sang lễ vật tạ ơn trời đất và vị tổ sư nghề


Trước kia tùy theo từng mường, từng bản ở từng địa phương hang năm người
Thái thường tổ chức lễ cúng ma bản (xên bản) và lễ cúng mường (xên mường) vào
tháng chạp và sau vụ thu hoạch tháng 10, với ý nghĩa cầu cho cuộc sống của dân
trong mường sống yên ổn
Là cư dân nông nghiệp trồng trọt, người Thái còn thờ ma nhà, ma suối, ma
nương, ma thuồng luồng… với ý nghĩa cầu mong cho sự phù hộ con người khỏe
mạnh, giá súc đầy chuồng, mùa màng bội thu.




×