Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Chuyên đề: Nâng cao chất lượng luận tội của kiểm sát viên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.04 KB, 19 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK

CHUYÊN ĐỀ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LUẬN TỘI
CỦA KIỂM SÁT VIÊN,
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

- Chỉ đạo thực hiện: Trần Đình Sơn, Viện trưởng;
- Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Thị Kim Liên, Phó Viện trưởng;
- Trực tiếp biên soạn: Lê Văn Minh, Trưởng Phòng 3.

1


Đắk Lắk, tháng 7 năm 2015
CHUYÊN ĐỀ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

*

*
*

Chuyên đề gồm 04 phần
1. Khái niệm về luận tội; ý nghĩa của luận tội;
2. Kỹ năng xây dựng luận tôi;


3. Một số vấn đề rút kinh nghiệm trong việc xây dựng luận tội;
4. Thay lời kết.

2


PHẦN I
KHÁI NIỆM VỀ LUẬN TỘI; Ý NGHĨA CỦA LUẬN TỘI.

I.1. Khái niệm về luận tội:
Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định:
“Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
1. Cơng bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết
định khác về buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa.
2. Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ
án tại phiên tòa.
3. Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
4. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự”.
Điều 2 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
hình sự năm 2007 quy định:
“Khi thực hành quyền công tố tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự,
Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn:
…Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm…”
Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định rõ: “1.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận
tội…”
Với các quy định trên, chúng ta thấy, hoạt động luận tội của Kiểm sát

viên (KSV) chỉ có trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm, hoạt động
này là biểu hiện cụ thể việc thực hiện chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân
dân (VKSND) tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Khi thực hành
quyền cơng tố (THQCT) tại phiên tịa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, việc
luận tội của KSV vừa là nhiệm vụ vừa là quyền hạn. Điểm khác biệt giữa phiên
tòa phúc thẩm với phiên tòa sơ thẩm ở chỗ, trong phần tranh luận tại phiên tòa
phúc thẩm, KSV khơng trình bày luận tội mà phát biểu quan điểm của mình về
tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm trên cơ sở đánh giá những
chứng cứ cụ thể, chứng cứ mới và kết quả điều tra tại phiên tòa phúc thẩm.
Tranh luận là một thủ tục quan trọng của phiên tịa xét xử hình sự. Để
bắt đầu cho việc tranh luận, sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm,
KSV trình bày lời luận tội. Lời luận tội thể hiện quan điểm của KSV, đại diện
3


VKSND THQCT về xử lý vụ án sau khi đã tham gia xét hỏi cơng khai tại phiên
tịa.
Về mặt hình thức, bản luận tội của KSV được chuẩn bị trước bằng văn
bản để trình bày tại phiên tịa. Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do KSV
thực hiện và là một văn bản bắt buộc phải có trong hồ sơ kiểm sát xét xử. Tại
khoản 1 Điều 23 Quy chế kiểm sát xét xử hình sự (KSXXHS) quy định: “Trước
khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải viết bản dự thảo luận tội theo mẫu
hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với vụ án trọng điểm, phức
tạp hoặc xét xử lưu động, bản dự thảo luận tội của Kiểm sát viên phải báo cáo
lãnh đạo Viện duyệt và cho ý kiến”.
Vậy, bản luận tội là gì ?
Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do KSV trình bày tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm sau khi kết thúc phần xét hỏi, mở đầu cho việc tranh luận công
khai, thể hiện rõ quan điểm của KSV đại diện cho VKSND kết luận về tội
phạm, người phạm tội, vai trò của bị cáo, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng

năng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với bị cáo, nguyên nhân
và điều kiện phạm tội … nhằm buộc tội bị cáo và đưa ra các đề xuất về loại và
mức hình phạt, về các biện pháp tư pháp và việc giải quết vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự và đề xuất về các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
I.2. Ý nghĩa của luận tội.
Như trên đã đề cập, hoạt động luận tội của KSV tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm là loại hoạt động thực hiện chức năng cơng tố, nó thể hiện quyền lực của
Nhà nước. Do vậy hoạt động luận tội mang ý nghĩa pháp lý, chính trị - xã hội
sâu sắc, bởi lẽ:
I.2.1. Lời luận tội của KSV tại phiên tòa thể hiện quan điểm của
VKSND trong việc xử lý đối với tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội.
I.2.2. Lời luận tội của KSV sau khi kết thúc việc xét hỏi đã mở đầu giai
đoạn tranh luận giữa người tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên) và những người
tham gia tố tụng. Tranh luận tại phiên tòa là một thủ tục bắt buộc được quy định
tại Chương XXI Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), thể hiện nguyên tắc tranh
tụng của các bên trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở tranh tụng dân chủ và bình
đẳng của các bên tham gia tại phiên tịa cùng những phân tích và kết luận của
KSV khi luận tội, Hội đồng xét xử (HĐXX) cân nhắc khi nghị án và ra bản án,
quyết định có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, khơng làm oan người vơ tội. Như vậy, ngồi ý
nghĩa pháp lý. Luận tội của KSV còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc,
phù hợp với các yêu cầu của cải cách tư pháp được nêu tại Nghị quyết 08NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
I.2.3. Thông qua lời luận tội, KSV phân tích làm sáng tỏ các nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm và kiến nghị đến các cơ quan, tổ chức để có
4


những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế, sơ hở trong cơng tác quản
lý… có tác dụng lớn trong cơng tác phịng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

I.2.4. Cũng thông qua lời luận tội, với những phân tích sâu sắc, khách
quan, tồn diện và mang tính thuyết phục, quần chúng nhân dân sẽ hiểu biết
thêm về pháp luật, nhận thức sâu sắc hơn về sự công minh của pháp luật hình sự
và chính sách của Nhà nước ta, từ đó họ nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và
nâng cao trách nhiệm trong việc phòng, chống tội phạm.
Với ý nghĩa pháp lý, chính trị - xã hội của bản luận tội như trên, việc
chuẩn bị dự thảo luận tội và trình bày luận tội tại phiên tịa của KSV phải có căn
cứ và có tính thuyết phục cao.
Làm tốt việc luận tội cũng chính là làm tốt chức năng THQCT tại phiên
tịa sơ thẩm hình sự; vị trí, vai trị của KSV tại phiên tịa sẽ được nâng cao.
PHẦN II.
KỸ NĂNG VIẾT DỰ THẢO LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN

II.1. Yêu cầu của luận tội
Luận tội phải đạt các yêu cầu sau đây:
II.1.1. Luận tội phải có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể.
Đây là yêu cầu cơ bản đầu tiên của luận tội. Luận tội là sự buộc tội
chính thức cuối cùng tại phiên tòa sơ thẩm của VKSND đối với bị cáo; là căn
cứ để bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tự bào chữa
hoặc bào chữa, là căn cứ để HĐXX xác định giới hạn xét xử và ra bản án đúng
pháp luật. Vì vậy luận tội phải có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể.
Trong luận tội, các kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo phải được
viện dẫn chứng cứ chứng minh. Các chứng cứ nêu trong luận tội phải là các
chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa trong giai đoạn xét hỏi. Việc
đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, vai trị, trách nhiệm của bị cáo trong vụ án;
việc viện dẫn các căn cứ pháp luật (điểm, khoản, Điều luật áp dụng…) phải bảo
đảm chính xác. Nếu trong q trình xét hỏi bị cáo tại phiên tịa mà xuất hiện
tình tiết mới làm thay đổi quyết định truy tố đã ghi trong cáo trạng, thì trong lời
luận tội, KSV phải phân tích, đánh giá tình tiết mới đó và trong những trường
hợp được pháp luật cho phép, KSV đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một

phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn; nếu thấy khơng có
căn cứ để kết tội thì rút tồn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bị
cáo khơng có tội.
Khi đề xuất quan điểm, đường lối giải quyết vụ án, KSV phải nêu cụ thể
về hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các biện pháp tư pháp cần áp dụng.
II.1.2. luận tội phải có tính thuyết phục, giáo dục và phòng ngừa tội
phạm.
Khi một bản luận tội bảo đảm được tính có căn cứ, chính xác, khách
quan và cụ thể thì bản thân nó đã có tính thuyết phục rồi. Thuyết phục ở đây
5


trước hết là thuyết phục đối với Tòa án (HĐXX) rằng những yêu cầu buộc tội
đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Tiếp theo là thuyết phục
với bên bào chữa và đối với tất cả những người có mặt tại phiên tịa.
Thơng qua việc trích dẫn và phân tích Điều luật mà hành vi phạm tội
của bị cáo đã vi phạm, luận tội có tác dụng tuyên truyền, giáo dục pháp luật,
giúp cho bị cáo và những người tham dự phiên tòa hiểu rõ những hành vi nào bị
pháp luật ngăn cấm. Từ đó họ tự điều chỉnh hành vi của mình theo đúng quy
định của pháp luật.
Trong bản luận tội vụ án Nguyễn Văn Đô phạm tội “Trốn tránh nghĩa vụ
quân sự”, KSV đã viết: “Tại phiên tịa hơm nay, Nguyễn Văn Đô đã khai nại ra
nhiều lý do và nguyên nhân dẫn đến hành vi không chấp hành luật nghĩa vụ
quân sự của mình, nhưng bất luận là vì lý do gì đi nữa thì hành vi trốn tránh
nghĩa vụ quân sự của Nguyễn Văn Đô cũng đã phạm vào khoản 1 Điều 259
BLHS. Điều luật quy định “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự.
1. Người nào không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký
nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn
luyện, đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa
được xóa án tích mà cịn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai

năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Như vậy, tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi phạm tội
của Nguyễn Văn Đô đã được luật hình định rõ. Song để có cơ sở cá thể hóa
trách nhiệm hình sự, áp dụng một mức hình phạt thỏa đáng đối với bản thân bị
cáo, chúng ta cần thấy rằng:
Để phải đứng trước vành móng ngựa hơm nay và phải chịu phán quyết
của pháp luật hình sự trước hết nguyên nhân và trách nhiệm thuộc về bị cáo. Bị
cáo sinh ra và lớn lên trên một quê hương có truyền thống cách mạng, đã có biết
bao thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu, cuộc đời để giải phóng quê hương,
đất nước, giành lấy độc lập dân tộc, vững bước tiến lên trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh. Quyền cao quý và nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi một thanh
niên là phải tự giác lên đường thi hành nghĩa vụ qn sự, góp phần gìn giữ độc
lập dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng của cha ông ta để lại. Song bị cáo đã đi
ngược lại tất cả, tự chọn cho mình con đường phạm tội “Trốn tránh nghĩa vụ
quân sự”.
Đoạn văn dưới đây là của một KSV VKSND thành phố Buôn Ma Thuột
viết trong bản luận tội vụ án “Cố ý gây thương tích”:
“Điều đáng lên án hơn trong vụ án này là bị cáo đã gây thương tích cho
chính mẹ ruột của mình, là người đã sinh và nuôi dưỡng bị cáo hơn 36 năm.
Đáp lại công ơn ấy, đáng lẽ ra bị cáo phải học hành, tu dưỡng, rèn luyện bản
thân để trở thành người tốt, có ích cho xã hội, có hiếu với cha mẹ. Nhưng ở đây,
bị cáo lại bỏ bê học hành, đàn đúm nhậu nhẹt để rồi trở thành một người lười
lao động, ăn bám gia đình. Khi được cha mẹ khuyên can thì khơng tỉnh ngộ mà
6


vẫn mê muội ngày ngày làm bạn với rượu chè. Sau mỗi chầu nhậu thì lại về
chửi mắng, cãi lời cha mẹ. Ngày 13/11/2014, ngủ dậy sau cơn say rượu, do
khơng tìm thấy thức ăn nên Y Sai lớn tiếng hỏi mẹ. Khi bà H’Băm Ênl nói

“thức ăn hết rồi ! mày lớn rồi không lo đi làm kiếm tiền về mà mua thức ăn !”
thì đáng lẽ ra bị cáo phải cảm thấy hổ thẹn về bản thân, một người đàn ông đã
36 tuổi đời mà vẫn ăn bám gia đình, nhưng ở đây, bị cáo lại tỏ thái độ bực tức
và dùng cây đánh liên tiếp vào người bà H’Băm Ênl gây nên thương tích”.
Một KSV của Phịng 2 VKSND tỉnh đã có đoạn viết trong bản luận tội
vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” là: “Như chúng ta đã biết, ma túy là chất
gây nghiện rất độc hại, khi con người đã sử dụng ma túy thì sẽ rất khó từ bỏ; sử
dụng ma túy trái phép sẽ làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, làm băng
hoại nhân cách con người, suy giảm nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến sự phát
triển nòi giống, là nguyên nhân gây ra căn bệnh thế kỷ HIV, AIDS…; Và, loại
tội phạm về ma túy này cũng gây mất trật tự an toàn xã hội, làm phát sinh các
tội phạm khác như trộm cắp, cướp của, giết người v.v…, bỡi lẽ, khi người
nghiện lên cơn khát thuốc, họ sẽ bất chấp tất cả để có ma túy sử dụng… Tệ nạn
ma túy đã làm cho nhiều gia đình lâm vào cảnh bần cùng, tan cửa nát nhà, gây
ra những hậu quả và hệ lụy to lớn cho xã hội. Chính vì vậy Nhà nước độc quyền
quản lý loại chất độc hại này, mọi hành vi trồng, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
mua bán, chiếm đoạt; tổ chức sử dụng; chứa chấp việc sử dụng; lôi kéo, cưỡng
bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy đều bị pháp luật trừng trị nghiêm
khắc; các tội phạm về ma túy và những người thực hiện tội phạm đều bị xã hội
lên án”.
Tính phịng ngừa tội phạm của luận tội thể hiện ở việc phân tích những
ngun nhân, điều kiện, hồn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội. Trong đó có việc
phân tích những sơ hở, thiếu sót, vi phạm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội,
quản lý con người. Từ đó kiến nghị với các cơ quan, tổ chức, đơn vị rút kinh
nghiệm, đề ra biện pháp khắc phục vi phạm, “bịt” các sơ hở thiếu sót.
II.1.3. Về văn phong
Luận tội phải được viết với văn phong trong sáng, mạch lạc, dễ hiểu; bố
cục phải chặt chẽ và có logic; từ ngữ phải chuẩn xác, khơng dùng những từ ngữ
có tính miệt thị bị cáo như gọi bị cáo là “thị”, “y”, khơng “đao to búa lớn”, phân
tích tính chất mức độ phạm tội thì rất nghiêm trọng song đề nghị xử lý vụ án lại

quá nhẹ (cho bị cáo hưởng án treo) làm cho người nghe hụt hẫng. Luận tội là
một bài văn, nhưng lại không được “văn” quá làm cho người nghe cảm thấy
“sáo rỗng”.
II.2. Cơ cấu và nội dung của bản dự thảo luận tội
Khoản 1 Điều 23 Quy chế KSXXHS quy định: “Trước khi tham gia
phiên tòa, Kiểm sát viên phải viết dự thảo luận tội theo mẫu hướng dẫn của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử
lưu động bản dự thảo luận tội của Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện
duyệt và cho ý kiến”. Để thống nhất chung cho toàn ngành, VKSND tối cao đã
7


có mẫu hướng dẫn số 136 kèm theo Quy chế KSXXHS về viết luận tội với cơ
cấu gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
II.2.1. Phần mở đầu
Phần này mang tính chất mở đề và được bắt đầu bằng câu: “Thưa Hội
đồng xét xử !” tiếp đó, KSV tự giới thiệu về mình là đại diện VKSND…
THQCT và KSXX tại phiên tòa sơ thẩm xét xử về hình sự đối với vụ án (nêu
tên vụ án). Sau đó nêu mục đích, ý nghĩa, u cầu, tầm quan trọng của việc xét
xử vụ án.
Trong phần mở đầu bản luận tội vụ án Nguyễn Đức Hiệp cùng đồng bọn
phạm tội “Cướp tài sản” ở huyện Krông Năng, KSV đã viết:
“Thưa Hội đồng xét xử !
Phần xét hỏi cơng khai tại phiên tịa đến đây kết thúc. Tơi, đại diện
VKSND huyện Krông Năng THQCT và KSXX tại phiên tịa hơm nay, phát biểu
quan điểm của VKS về vụ án này như sau:
Đạo đức, lối sống của thanh niên luôn luôn là vấn đề quan tâm của xã
hội. Đa số thanh niên nước ta hiện nay có phẩm chất tốt, tôn trọng các chuẩn
mực đạo đức xã hội, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, có ý thức cơng
dân, sống có nghĩa tình, ln biết quan tâm, giúp đỡ người khác, có đời sống

văn hóa, tinh thần phong phú, nhu cầu giải trí lành mạnh… Tuy nhiên, hiện nay
cũng cịn khơng ít thanh niên khơng có chí hướng rõ ràng, lười lao động, lười
học tập, ngại khó, ngại khổ, chưa làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình ở
gia đình và xã hội; đề cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, đua địi, thờ ơ, vô
cảm trước nỗi đau của người khác, thiếu trách nhiệm với cộng đồng. Một số
thanh thiếu niên mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Rất nhiều vụ án hình sự
xảy ra mà đối tượng phạm tội đang ở độ tuổi thanh niên. Tính trên địa bàn
huyện Krơng Năng từ đầu năm tới nay, TAND huyện đã đưa ra xét xử 180 bị
cáo thì trong đó có tới 150 bị cáo đang ở độ tuổi thanh niên. Một con số đáng
báo động, nhưng chưa dừng lại ở đó. Hơm nay, TAND huyện Krông Năng lại
tiếp tục đưa 04 bị cáo đang ở độ tuổi thanh niên là: Nguyễn Đức Hiệp, Phạm
Ngọc Thành, Dương Hồng và Trần Văn Tình, phạm tội “Cướp tài sản” ra xét
xử. Đây là việc làm nhanh chóng, kịp thời của các cơ quan chức năng, khơng
những nhằm mục đích trừng trị những đối tượng có hành vi phạm tội, mà qua
đây, những người tới dự phiên tịa biết được sự nghiêm minh của pháp luật,
khơng khoan nhượng đối với người có hành vi phạm tội, từ đó cùng chung tay,
góp sức nhằm góp phần giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người có ích cho
gia đình và xã hội”.
Một KSV của VKSND huyện Ea H’leo đã viết ở phần mở đầu của bản
luận tội trong vụ án “Hủy hoại rừng” như sau:
“Thưa Hội đồng xét xử !
Phần xét hỏi cơng khai tại phiên tịa đến đây đã kết thúc, trước khi
chuyển sang phần tranh luận, tôi đại diện VKSND huyện Ea H’leo thực hành
8


quyền công tố nhà nước và kiểm sát hoạt động xét xử hình sự tại phiên tịa phát
biểu quan điểm của VKSND huyện Ea H’leo về vụ án như sau:
Như chúng ta đã biết, rừng là tài nguyên vô cùng quý giá của quốc gia
và nhân loại. Rừng không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế và quốc phịng mà cịn

là yếu tố quan trọng trong việc duy trì sự ổn định về môi trường sinh thái, gắn
liền với đời sống của cộng đồng. Với ý nghĩa quan trọng đó, Đảng, nhà nước và
các cấp, các ngành cũng đã ra sức tuyên truyền và có nhiều văn bản quy định về
bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng; nghiêm cấm các hành vi hủy hoại rừng.
Thế nhưng, trong những năm qua, đặc biệt trong thời gian gần đây, tình hình vi
phạm và tội phạm ở lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng vẫn diễn biến phức tạp; số
vụ vi phạm khơng những khơng giảm mà cịn có chiều hướng gia tăng. Hậu quả
từ việc phá rừng ngày càng nghiêm trọng. Việc chặt phá rừng tự nhiên để lấy gỗ
và đất làm nương rẩy xảy ra ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp. Vì vậy, việc
TAND huyện Ea H’leo đưa ra xét xử công khai đối với bị cáo Nơng Văn Sình
phạm tội “Hủy hoại rừng” khơng chỉ nhằm trừng trị kẻ phạm tội, mà cịn góp
phần tun truyền, giáo dục pháp luật để nhân dân nêu cao ý thức trách nhiệm
trong việc bảo vệ rừng”.
Trong luận tội vụ án Lê Văn Việt và Nguyễn Công Trước phạm tội
“Hiếp dâm trẻ em” một KSV của VKSND tỉnh Quảng Nam đã viết:
“Thưa Hội đồng xét xử !
Phần xét hỏi cơng khai tại phiên tịa hơm nay đến đây đã kết thúc. Tôi,
đại diện VKSND tỉnh Quảng Nam THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử tại phiên tòa phát biểu quan điểm của VKSND trong
việc đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo; các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, trên cơ sở đó đề nghị mức hình phạt để HĐXX
tuyên một mức án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Như chúng ta đã biết, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người là vô giá, thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Trẻ em là hạnh phúc của gia
đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vì thế luật pháp Quốc tế cũng như pháp luật Nhà nước ta luôn luôn
bảo vệ trẻ em, vì đây là đối tượng đặc biệt. Liên hiệp quốc đã có Cơng ước về
quyền trẻ em năm 1989, Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trên thế
giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em và năm 1999 Quốc hội nước ta thông
qua luật “Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” có hiệu lực từ ngày 16/8/1999.

Theo đó, luật pháp quốc tế và pháp luật của Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành
vi xâm phạm đến các quyền của trẻ em, trong đó có các hành vi xâm phạm đến
tình dục, lạm dụng tình dục đối với trẻ em; nghiêm trị thích đáng những đối
tượng xâm phạm đến quyền của trẻ em nói chung, đặc biệt là xâm phạm đến
tình dục của trẻ em nói riêng, nhất là trong những năm qua, tình trạng lạm dụng
tình dục trẻ em cịn xảy ra nhiều. Do vậy hôm nay, TAND tỉnh Quảng Nam đưa
các bị cáo Lê Văn Việt và Nguyễn Cơng Trước ra trước vành móng ngựa để xét
xử là biện pháp tích cực, thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta
9


về đấu tranh chống các hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em, nhằm đáp ứng
yêu cầu của cơng tác đấu tranh phịng và chống loại tội phạm này”.
II.2.2. Phần nội dung
Đây là phần trọng tâm và quan trọng nhất, đòi hỏi KSV phải nghiên cứu
kỹ hồ sơ vụ án án, phải chuẫn bị kỹ lưỡng, khách quan, đầy đủ và có sức thuyết
phục cao, nhất là khi xét xử các vụ án nghiêm trọng và phức tạp hoặc các vụ án
được tổ chức xét xử lưu động có đơng người tham dự.
II.2.2.1. Phân tích đánh giá chứng cứ
Trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả xét hỏi tại phiên tòa, KSV cần đánh
giá khách quan, toàn diện và đầy đủ để xác định được sự thật của vụ án; xác
định tội phạm đã xảy ra như thế nào, nêu chứng cứ chứng minh (lời khai, kết
quả giám định, các chứng từ… có nêu bút lục, nêu đúng hành vi phạm tội, lưu ý
cả hậu quả của tội phạm, ý thức chủ quan v.v…). Nếu có lời bào chữa của bị
cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác thì phải lập luận,
bác bỏ hoặc chấp nhận và viện dẫn chứng cứ chứng minh. Từ đó, KSV đánh giá
tổng hợp, kết luận về sự việc phạm tội, người phạm tội và viện dẫn các chứng
cứ để chứng minh tội phạm như: các biên bản khám nghiệm, kiểm tra, thu giữ
vật chứng, giám định pháp y, sổ sách, chứng từ, lời khai bị cáo, bị hại, người
liên quan, nhân chứng… trước Cơ quan điều tra và tại phiên tịa (có phân tích,

đánh giá những mâu thuẫn để kết luận đúng, sai rõ ràng). Trên cơ sở đánh giá
toàn bộ chứng cứ của vụ án, KSV sẽ khẳng định nội dung truy tố của bản cáo
trạng là hồn tồn đúng hoặc có vấn đề gì cần thay đổi như: rút quyết định truy
tố, thay đổi tội danh, khung hình phạt nhẹ hơn… Đối với những vấn đề, tình tiết
mới phát hiện tại phiên tịa có thể làm thay đổi nội dung, tính chất của vụ án,
nếu chưa được thẩm tra đầy đủ, chưa có đủ căn cứ thì khơng thể kết luận mà
phải đề nghị hỗn phiên tịa để điều tra xác minh.
Trong luận tội vụ án Nguyễn Đức Anh cùng đồng bọn phạm tội “Cố ý
gây thương tích”, một KSV của VKSND huyện Krơng Ana viết:
“Qua xét hỏi cơng khai tại phiên tịa, các bị cáo Nguyễn Đức Anh,
Nguyễn Minh Tuấn và Lương Mạnh Hà đã thành khẩn khai nhận về hành vi
phạm tội của mình. Riêng bị cáo Trần Minh Quang khơng thừa nhận hành vi
phạm tội của mình. Tuy nhiên căn cứ vào lời khai của các bị cáo khác, cha mẹ
của bị cáo Nguyễn Đức Anh và Nguyễn Minh Tuấn, lời khai của người làm
chứng Nguyễn Thị Thanh Duyên và lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan là Mã Duy Niên đều khẳng định sau khi cha của bị cáo Anh bị đánh
và được đưa về nhà thì bị cáo Quang nói với bị cáo Anh rằng, “Thằng Khoa nó
đánh bố mày như vậy, vào chém chết mẹ nó đi !”. Sau khi nói xong, bị cáo
Quang cịn đi lấy cây địn gánh và nói với bị cáo Tuấn lấy xe chở bị cáo đi để bị
cáo chỉ nơi anh Khoa đang ở; các lời khai của những người làm chứng là các
anh Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Đăng Huân, Nguyễn Duy Anh, Nguyễn Duy
Quang, Nguyễn Xuân Tiến, Dương Văn Trường, Ơn Tấn Tủy và chị Hồng Thị
Thu đều khẳng định khi vào nhà anh Thủy, bị cáo Quang là người chạy vào
trước và hô là “chúng mày đâu !”. Các lời khai trên phù hợp với 02 Biên bản
10


thực nghiệm điều tra ngày 19/02/1014 và ngày 12/6/2014, phù hợp với kết luận
pháp y thương tích số 1080/PY-TgT ngày 05/11/2013 của Trung tâm pháp y tỉnh
Đắk Lắk. Do đó có đủ cơ sở xác định vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày

06/9/2013, tại nhà của bị cáo Nguyễn Đức Anh, bị cáo Quang nói với bị cáo
Anh việc cha của bị cáo Anh là ông Dao bị anh Khoa đánh và nói với bị cáo
Tuấn lấy xe máy chở bị cáo Quang để bị cáo Quang chỉ đường để đánh anh
Khoa. Sau đó bị cáo anh lấy 01 con dao rựa đưa cho bị cáo Hà, còn bị cáo Anh
cầm theo 01 mã tấu; bị cáo Quang cũng cầm theo 01 cây đòn gành. Khi chạy xe
tới nhà anh Thủy thì bị cáo Quang chạy vào trước hơ hào, bị cáo Anh chạy vào
sau và dùng mã tấu chém vào cánh tay trái, đầu gối và bàn chân trái của anh
Khoa gây thương tích 47% thạm thời 06 tháng”.
Khi phân tích đánh giá chứng cứ đối với vụ án có bị cáo phạm nhiều tội,
thì phải tn thủ theo quy định đi từ tội phạm nghiêm trọng đến tội ít nghiêm
trọng. Có thể xép thành nhóm tội phạm có liên quan chặt chẽ với nhau để cùng
phân tích đánh giá như: tội giết người và tội Cướp tài sản, tội đưa hối lộ và tội
nhận hối lộ… Cần tránh việc sao chép nội dung của bản cáo trạng vào nội dung
luận tội.
II.2.2.2. Phân tích đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, vai trò và
trách nhiệm của bị cáo (hoặc từng bị cáo).
+ Trên cơ sở đánh giá chứng cứ để phân tích đánh giá chung tính chất,
mức độ của vụ án, tính chất hành vi và thủ đoạn phạm tội, xem xét mục đích và
động cơ phạm tội, mức độ do hành vi phạm tội gây ra; phân tích các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo đúng quy định của BLHS đối với
từng bị cáo; xác định nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh… phạm tội.
+ Đánh giá, xác định vai trò, trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án
theo trật tự các tội nghiêm trọng trước, ít nghiêm trọng sau; sắp xếp các bị cáo
theo thứ tự về vai trò trong vụ án như cáo trạng. Đối với từng bị cáo cũng phải
phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng đối với họ.
Khi phân tích, xác định vai trị, trách nhiệm của bị cáo nào thì kết luận
bị cáo đã phạm tội gì, tội đó được quy định tại điều, khoản, điểm nào của
BLHS.
Dưới đây là phần viết của một KSV VKSND thị xã Buôn Hồ trong bản
luận tội vụ án “Hiếp dâm”:

“Trong vụ án này có nhiều đồng phạm nên cần phải phân tích, đánh giá
vai trị và trách nhiện hình sự của từng bị cáo để cân nhắc áp dụng một mức
hình phạt thật tương xứng với những gì mà các bị cáo đã gây ra. Bị cáo Lê
Quang Sơn mặc dù không trực tiếp hiếp dâm chị Hà, nhưng bị cáo là người chủ
mưu, khởi xướng, rủ rê, trực tiếp sắp xếp, giàn cảnh cùng như cách thức để các
bị cáo khác thực hiện việc hiếp dâm chị Hà (là người yêu của Sơn). Các bị cáo
Trần Tiến Sanh, Nguyễn Ngọc Sang, Võ Tấn Lâm và Lê Văn Pháp là những
người thực hiện tích cực, mỗi bị cáo đều thực hiện giao cấu với chị Hà 02 lần;
bị cáo Lâm Duy Tiến tuy không trực tiếp tham gia hiếp dâm chị Hà, nhưng Tiến
11


đã có hành vi giúp sức tích cực bằng việc giữ tay chị Hà để cho bị cáo Sanh,
Sang, Lâm và Pháp thực hiện hành vi hiếp dâm chị Hà. Như vậy thấy rằng vai
trò trong vụ án và trách nhiệm hình sự của kẻ chủ mưu (bị cáo Lê Quang Sơn)
và 04 bị cáo là những kẻ thực hành tích cực (Trần Tiến Sanh, Nguyễn Ngọc
Sang, Võ Tấn Lâm và Lê Văn Pháp) là ngang nhau, nên cần phải có mức hình
phạt thật nghiêm khắc và tương xứng đối với 05 bị cáo này. Riêng bị cáo Lâm
Duy Tiến với vai trò trong vụ án thấp hơn, nên trách nhiệm hình sự và mức hình
phạt áp dụng đối với bị cáo Tiến cần nhẹ hơn 05 bị cáo vừa nêu trên”.
II.2.2.3. Đề nghị xử lý
+ Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hậu quả của vụ án,
mục đích và động cơ phạm tội, thủ đoạn thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của vụ án, vai trị, trách nhiệm của từng bị
cáo trong vụ án và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ được áp dụng cho từng
bị cáo; nguyên nhân, điều kiện phạm tội… có chú ý đến tình hình đấu tranh
chống tội phạm nói chung, một loại tội phạm nào đó nói riêng; tình hình thực
hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương… mà đề nghị xử lý đối với từng bị cáo.
Khi đề nghị phải theo thứ tự sau:
+ Trước tiên phải đề nghị tuyên bố bị cáo (từng hoặc các bị cáo) phạm

tội gì ?
+ Tiếp đến là đề nghị áp dụng pháp luật và hình phạt chính trước, đối
với các bị cáo chính trước (theo thứ tự như đã nêu ở phần đánh giá vai trò, trách
nhiệm của từng bị cáo). Bị cáo phạm nhiều tội phải đề nghị hình phạt cho từng
tội riêng và tổng hợp theo quy định tại Điều 50 BLHS. Nếu bị cáo đang chấp
hành một bản án khác thì phải đề nghị tổng hợp hình phạt theo Điều 51 BLHS.
Ví dụ, trong một vụ án “Trộm cắp tài sản” có đồng phạm, KSV có thể
đề nghị như sau:
“Từ những phân tích và nhận định trên đây, tơi đề nghị hội đồng xét xử:
-Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn C
phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có”.
- Áp dụng các điểm a và b khoản 2 Điều 138; các điểm b và p khoản 1
Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn A từ 03 năm 06 tháng đến 04
năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ là
10/10/2014.
- Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm b, g, h và p khoản 1 Điều 46 Bộ
luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.
Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ là 10/10/2014
- Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm b, g, h và p khoản 1 Điều 46;
Điều 69; khoản 1 Điều 74; các khoản 1 và 2 Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị
cáo Nguyễn Văn C từ 09 tháng đến 01 năm tù, nhưng cho hưởng án treo; thời
12


gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm. Thời gian chấp hành tính từ
ngày tuyên án sơ thẩm là 15/01/2015.
- Áp dụng khoản 1 Điều 250; các điểm h, m và p khoản 1 và khoản 2
Điều 46; các khoản 1 và 2 Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn
Đ từ 09 tháng đến 01 năm tù, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ

01 năm 06 tháng đến 02 năm. Thời gian chấp hành tính từ ngày tuyên án sơ
thẩm là 15/01/2015”.
Trong luận tội vụ án Đặng Huy Cường, phạm tội “Cố ý gây thương
tích”, Cố ý làm hư hỏng tài sản” và “Chống người thi hành công vụ”, KSV đã
viết rất rõ ràng và chặt chẽ là: “Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng các điểm a và i khoản 1 Điều 104 (tội cố ý gây thương tích);
khoản 1 Điều 143 (tội cố ý làm hư hỏng tài sản); khoản 1 Điều 257 (tội chống
người thi hành công vụ); các điểm g và 0 khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử
phạt bị cáo Đặng Huy Cường:
. Từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”;
. Từ 24 đến 36 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”;
. Từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 03 tội
từ 60 đến 84 tháng tù giam. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày
bắt tạm giữ là 22/11/2011”.
+ Về hình phạt bổ sung: Nếu tất cả các bị cáo bị xét xử về các tội phạm
mà theo quy định của BLHS việc áp dụng hình phạt bổ sung là bắt buộc thì đều
phải đề nghị áp dụng. Nếu đề nghị không áp dụng phải nêu rõ lý do. Đối với
hình phạt bổ sung mà điều luật quy định có thể (tùy nghi) thì phải cân nhắc để
giải quyết tội nào, với bị cáo nào thì áp dụng; tội nào, với bị cáo nào thì khơng
áp dụng.
+ Các biện pháp tư pháp quy định tại các Điều 41, 42, 43 và 44 BLHS.
Chú ý khi đề nghị bồi thường thiệt hại cần cụ thể, tránh nêu chung chung.
II.2.2.4. Nêu những thiếu sót, sơ hở, vi phạm trong quản lý kinh tế,
quản lý xã hội… và nguyên nhân, điều kiện làm cho tội phạm phát sinh, từ
đó có kiến nghị với các cơ quan, đơn vị rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp
xử lý, sửa chữa.
Trong nội dung của tiểu mục này gồm có 02 ý. Ý 1 là nêu những thiếu
sót, sơ hở, vi phạm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và nguyên nhân, điều

kiện làm cho tội phạm phát sinh và ý 2 là kiến nghị khắc phục vị phạm…
Thường thì 02 ý này viết chung vào tiểu mục này, nhưng nếu KSV thấy rằng ý 1
về những thiếu sót, sơ hở, vi phạm… và nguyên nhân, điều kiện tội phạm phát
sinh nó có ảnh hưởng rất đáng kể đến việc phân tích, đánh giá tính chất, vai trị,
mức độ phạm tội, trách nhiệm hình sự và đề nghị hình phạt đối với bị cáo thì
nên viết xen vào ở phần phân tích, đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, vai trò
13


và trách nhiệm của bị cáo (tiểu mục II.2.2.2) để khi đề nghị về tội danh, hình
phạt và biện pháp tư pháp (tiểu mục II.2.2.3) được biện chứng, lô gic và có tính
thuyết phục cao. Nhưng nếu xét thấy ý 1 không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng
không đáng kể đến phần đề nghị về tội danh, hình phạt và biện pháp tư pháp, thì
chỉ nêu chung trong tiểu mục II.2.2.4 này và đặt nó ở trước phần kiến nghị
phịng ngừa là phù hợp, biện chứng, lô gic và thuyết phục nhất (vấn đề này do
KSV tự tính tốn).
Xin giới thiệu một đoạn văn trong bản luận tội về vụ án “Chứa mại
dâm” ở thành phố Buôn Ma Thuột:
“Thông qua vụ án này cũng cho thấy nguyên nhân dẫn đến sự việc phạm
tội của bị cáo chính là do tham lam, tư lợi. Bị cáo chỉ biết đến lợi ích cá nhân là
kiếm tiền bằng hành vi bất chính mà bất chấp những hậu quả về nhiều mặt do
hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và sự nghiêm cấm, trừng trị của pháp luật.
Bên cạnh đó cịn thấy cơng tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đạo đức lối
sống và các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta đã được chính quyền và
các tổ chức đồn thể ngày càng quan tâm, nhưng hiệu quả còn hạn chế. Vì thế
trước khi kết thúc bài phát biểu, Tơi đề xuất một số giải pháp để góp phần thực
hiện tốt cơng tác phịng ngừa tội phạm như sau:
1. Chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương nhất là ở cấp cơ
sở, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng cần phối hợp chặt chẽ để tiếp tục thực
hiện có hiệu quả Quyết định số 679 ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ

và Quyết định số 1628 ngày 07/7/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk
Lắk về phê duyệt Chương trình hành động phịng chống mại dâm giai đoạn
2011 - 2015. Xây dựng kế hoạch và tổ chức công tác tuyên truyền pháp luật
(đặc biệt là luật hình sự) sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân; tăng cường hơn
nữa cơng tác phịng ngừa tội phạm nói chung, tệ nạn mại dâm nói riêng.
2. Chính quyền địa phương và các gia đình cần phối hợp chặt chẽ trong
việc giáo dục các thành viên trong gia đình thơng qua việc ký các cam kết gia
đình văn hóa, cam kết khơng vi phạm pháp luật.
3. Tăng cường công tác thanh, kiểm tra, triệt phá các tụ điểm, ổ nhóm
hoạt động mại dâm; tuyên truyền cho người dân về nâng cao ý thức cảnh giác,
phịng ngừa và tích cực tố giác tội phạm.
4. Xây dựng các mơ hình tại cộng đồng nhằm hỗ trợ, giúp đỡ những phụ
nữ đã có hành vi bán dâm trong phịng chống HIV/AIDS, tái hịa nhập cộng
đồng và có việc làm ổn định cuộc sống. Xây dựng xã, phường lành mạnh,
khơng có tệ nạn mại dâm”.
Để góp phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật và phòng ngừa các tội
phạm về ma túy, một KSV Phòng 2 VKSND tỉnh Đắk Lắk đã viết:
“Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm và đề ra các chủ trương, biện pháp
quyết liệt để đấu tranh với loại tội phạm này, cụ thể là:
- Đảng ta đã có Chỉ thị 21/CT-TW ngày 26/3/2008 của Bộ chính trị về
“tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phịng, chống và kiểm sốt ma
14


túy trong tình hình mới” và hàng năm đều phát động, có tổng kết để rút kinh
nghiệm.
- Pháp luật quy định hình phạt rất nghiêm khắc đối với loại tội phạm
này, hàng năm đều mở các đợt cao điểm về phòng chống ma túy gọi là “Tháng
hành động phòng, chống ma túy” và lấy “ngày 26 tháng 6 – ngày Thế giới
phịng, chống ma túy” là “ngày tồn dân phịng, chống ma túy” của nước ta.

Để góp phần trong cơng cuộc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm
cũng như các tệ nạn liên quan đến ma túy, mỗi người trong cộng đồng cần phải
có trách nhiệm:
Thứ nhất, tự bản thân mình ln ln nói khơng với ma túy; giáo dục
các thành viên trong gia đình, người thân cùng bà con cộng đồng về tác hại của
ma túy; quản lý chặt chẽ, có hành động để ngăn chặn các thành viên trong gia
đình cũng như mọi người khơng tham gia tệ nạn ma túy;
Thứ hai, kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái phép về ma túy của
người thân và bà con cộng đồng;
Thứ ba, tham gia hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy tại các cơ sở cai
nghiện và tại cộng đồng; theo dõi, giúp đỡ người cai nghiện ma túy hòa nhập
cộng đồng để phòng, chống tái nghiện;
Thứ tư, kịp thời phát hiện, cung cấp nhanh chóng các thơng tin về tệ nạn
ma túy cho các cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật”.
II.2.3. Phần kết luận của luận tội
Phần này cần lưu ý những vấn đề sau:
- Lưu ý HĐXX về yêu cầu, mục đích, tầm quan trọng… của việc xét xử
vụ án để có quyết định chính xác.
- Lưu ý HĐXX về những quan điểm mới phát sinh tại phiên tòa, những
thay đổi quyết định truy tố của VKSND tại phiên tịa (nếu có) để HĐXX lưu ý,
quan tâm khi nghị án.
* Những điểm cần lưu ý khi xây dựng luận tội
a. Trước khi dự thảo luận tội:
- Phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án (hồ sơ chính) để nắm vững nội dung
vụ án, các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị cáo, vai trị của bị cáo trong vụ án, động cơ, mục đích
phạm tội và các đặc điểm về nhân thân của bị cáo, tính chất, mức độ hậu quả
của hành vi phạm tội v.v…
- Phải nghiên cứu các tài liệu khác có liên quan đến vụ án như: tài liệu
về tình hình tội phạm trên địa bàn; các văn bản pháp luật có liên quan đến vụ

án; ý kiến của các cơ quan Đảng, Nhà nước và dư luận nhân dân về vụ án v.v…
để phục vụ cho việc viết luận tội được phong phú, sâu sắc.
b. Luận tội phải được viết dự thảo bằng văn.
15


Khơng được viết dự thảo luận tội gạch đầu dịng kiểu đề cương.
Luận tội phải được lãnh đạo đơn vị (Viện, Phịng) thơng qua (Điều 23
Quy chế cơng tác THQCT và KSXX hình sự).
c. Tại phiên tịa, KSV phải tập trung theo dõi diễn biến phiên tòa, ghi
chép đầy đủ các ý kiến của HĐXX, người bào chữa, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác, đối chiếu với hồ sơ vụ án và những chứng cứ, quan điểm
nêu trong luận tội để sửa đổi, bổ sung luận tội cho phù hợp, tránh tình trạng tại
phiên tịa có diễn biến khác nhưng KSV không sửa đổi, bổ sung dự thảo luận tội
mà vẫn đọc nguyên văn như dự thảo (ví dụ: trong giai đoạn điều tra, truy tố bị
can nhận tội, nhưng tại phiên tòa bị cáo chối tội và nêu lý do trước đây nhận tội
là do bị bức cung, nhục hình .v.v…). KSV phải tích cực tham gia xét hỏi, tranh
luận tại phiên tòa để làm rõ thêm những chứng cứ, quan điểm được nêu trong
luận tội, bảo đảm tính có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể của luận tội.
d. Sau khi xét xử xong, KSV phải hoàn chỉnh dự thảo luận tội, ký tên
KSV và lưu vào hồ sơ kiểm sát án hình sự.
đ. Để xây dựng được một bản luận tội tốt, KSV phải khơng ngừng học
tập, nghiên cứu nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật, chính trị, xã hội, kinh
tế.v.v… trình độ phân tích một vấn đề, kỹ năng viết văn: câu văn phải đúng ngữ
pháp, trong sáng, dễ hiểu, chữ dùng phải chính xác.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM TRONG VIỆC XÂY
DỰNG LUẬN TỘI

III.1. Một số hạn chế, tồn tại:
Nhìn chung, các bản luận tội của KSV đều bám sát các nội dung trong

mẫu hướng dẫn dự thảo luận tội số 136. Nhiều bản luận tội được chuẩn bị chu
đáo phản ánh đúng thực trạng của tình hình tội phạm, diễn đạt mạch lạc, rõ
ràng, chính xác, phân tích, đánh giá chứng cứ có sức thuyết phục. Phần kết luận
có căn cứ, đã bám sát vào đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm, nhiệm vụ
chính trị địa phương v.v… có tác dụng tốt trong việc giáo dục người phạm tội
và tuyên truyền, giáo dục nhân dân trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm. Tuy nhiên, một số bản luận tội còn thể hiện những hạn chế, tồn tại
dưới các dạng như sau:
III.1.1. Về nội dung luận tội:
- Một số bản luận tội vẫn chỉ giới thiệu rằng “tôi, đại diện VKSND…
thực hành quyền công tố…” mà không giới thiệu tiếp là “và kiểm sát hoạt động
xét xử…”. Tức là không giới thiệu về chức năng thứ hai đó là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp, được Quốc hội giao và yêu cầu
VKSND phải thực hiện.
- Trong một số vụ án bị cáo chối tội tại phiên tịa, luận tội khơng dẫn ra
các chứng cứ cụ thể (biên bản phạm tội quả tang; các lời khai của bị cáo, bị hại,
nhân chứng; vật chứng v.v… chẳng hạn) mà chỉ nêu chung chung; về lập luận
16


để khẳng định về diễn biến nội dung vụ án mà cáo trạng đã đề cập và buộc tội
đối với bị cáo thì cũng theo kiểu chung chung, thiếu biện chứng, thiếu tình
thuyết phục.
- Sau khi nêu tóm tắt về nội dung vụ án, thì chỉ nêu “khẳng định bản cáo
trạng số… ngày… của VKSND đã truy tố bị cáo… là hồn tồn có căn cứ” mà
qn nêu thêm rằng “vì vậy, tơi vẫn giữ ngun quyết định truy tố của
VKSND… đối với bị cáo… như bản cáo trạng số… ngày…” hoặc “vì vậy, tơi
giữ ngun quyết định truy tố của VKSND … đối với bị cáo… về tội… theo
điểm… khoản… Điều…. Bộ luật hình sự”.

- Một số bản luận tội khơng nêu rõ hoặc khơng nêu hết về tính chất, mức
độ phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
- Mặc dù đã được rút kinh nghiệm nhiều lần, nhưng khơng ít bản luận tội
thiếu hẳn nội dung “tôi đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo… phạm tội…”,
kế trước nội dung đề nghị áp dụng pháp luật và hình phạt.
- Về biện pháp tư pháp, một số bản luận tội vẫn đề nghị thiếu đầy đủ,
hoặc chung chung (ví dụ như “buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại số
tiền từ… đến…đồng.v.v…”.
III.1.2. Về hình thức luận tội:
- Khơng ít bản luận tội bố cục “lộn xộn”, thiếu lơgic và khoa học, theo
kiểu “gặp đâu nói đó”, khơng theo mẫu số 136 của VKSND tối cao (vấn đề này
VKSD tỉnh Đắk Lắk đã ghi rõ trong Thông báo số 52/TB-VKS-P3 ngày
30/6/2014 và được đính kèm sau chuyên đề này).
- Khơng ít bản luận tội vẫn có những đoạn văn thiếu phù hợp, theo kiểu
“đao to, búa lớn”; dùng các cụm từ, thuật ngữ thiếu chuẩn xác và không phù
hợp với vấn đề cần nêu, theo kiểu “tùy hứng”, chứ khơng bám sát với thực tế
của vụ án; có nhiều đoạn văn tối nghĩa, khó hiểu; sai nhiều về ngữ pháp; một số
bản luận tội sử dụng quá nhiều lần cụm từ “Thưa Hội đồng xét xử !”, ở những
vị trí khơng phù hợp, nghe nhàm chán .v.v…
III.2. Ngun nhân chủ quan:
Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khơng đề cập ở đây, thì phải
kể đến một số nguyên nhân chủ quan sau:
Một là, một số KSV nhận thức không đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan
trọng của bản luận tội; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm với công việc, cho
nên không quan tâm nắm chắc nội dung, các chứng cứ của vụ án và diễn biến
phiên tịa; cá biệt có biểu hiện tư tưởng là xây dụng dự thảo và trình bản luận tội
là để cho có thủ tục, cho xong việc nên chỉ chú ý đến việc đề nghị hình phạt,
các biện pháp tư pháp, chứ khơng quan tâm nhiều đến tồn bộ nội dung của bản
luận tội.
Hai là, trình độ biên tập (thường gọi nơm na là “viết lách”) cũng khơng

ít KSV rất yếu như: các khả năng về xây dựng đề cương, bố cục, lập luận, dùng
17


thuật ngữ, cụm từ, vấn đề ngữ pháp.v.v… còn yếu, thế nhưng lại khơng chịu tự
học để nâng cao trình độ.
Khơng ít KSV do “lười” suy nghĩ nên đã “coppy” một số nội dung trong
luận tội của một vụ án khác, được lưu trong máy vi tính, rồi ghép vào bản luận
tội mà mình dự thảo, nhưng khơng kiểm tra và đã có hậu quả là “râu ơng nọ
cắm cằm bà kia”.
Ba là, cũng thấy rõ rằng, một số ít đồng chí thủ trưởng ở một số đơn vị
ngồi vấn đề trình độ chun mơn, nghiệp vụ, khả năng biên tập có phần hạn
chế, thì cũng chưa thật sự sâu sát công việc, không thường xuyên giáo dục,
quán triệt, kiểm tra, nhắc nhở KSV và điều đáng phải nêu là đã không “duyệt”
dự thảo luận tội trước khi KSV tham gia phiên tịa; khơng cùng chịu trách
nhiệm với KSV về chất lượng luận tội.
III.3. Một số đề nghị:
1. KSV được giao THQCT và KSXX cần nghiên cứu để nắm chắc vụ
án; dự kiến được các tình huống có thể xảy ra tại phiên tịa, từ đó cùng với việc
chuẩn bị đề cương xét hỏi thì phải chuẩn bị tốt về luận tội theo các tình huống
có thể xảy ra; chủ động, nhạy bén để bổ sung, sửa đổi nội dung dự thảo luận tội
cho phù hợp với diền biến tại phiên tịa.
2. KSV phải chịu khó nghiên cứu, học hỏi và sáng tạo để không ngừng
nâng cao khả năng biên tập (viết). Phải kiên quyết chống cho được “căn bệnh”
mà lâu nay cịn gặp là “coppy” luận tội sẵn có trong máy tình của vụ án này rồi
đem ghép sang vụ án khác.
3. Lãnh đạo từng đơn vị phải một mặt thường xuyên giáo dục về ý thức
trách nhiệm của KSV; quán triệt cho các KSV về ý nghĩa, tầm quan trọng của
bản luận tội đối với công tác THQCT và KSXX; mặt khác phải trực tiếp xem,
chỉnh, sửa, duyệt luận tội của KSV và cùng chịu trách nhiệm với KSV về chất

lượng bản luận tội.
IV. THAY LỜI KẾT
Nâng cao chất lượng bản luận tội của KSV để đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp là phải nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của bản luận tội, điều
đó rất đúng và rất cần nhưng chưa đủ, mà đi cùng với đó là những điều cũng hết
sức quan trọng thêm nữa đối với mỗi KSV là phải không ngừng rèn luyện cho
mình có một khả năng thuyết trình bản luận tội ngày một hấp dẫn và thuyết
phục hơn; đồng thời KSV phải nghiêm túc trong việc sử dụng trang phục của
Ngành cũng như phải có phong thái chững chạc, nghiêm túc, bình tĩnh và tự tin
trước phiên tịa. Những vấn đề nêu trên phải luôn luôn được “đồng hành” với
nhau trong mỗi một KSV tại mỗi một phiên tịa hình sự.
Nâng cao chất lượng bản luận tội của KSV khơng chỉ có ý nghĩa góp
phần tích cực để nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSXX án hình sự
của mỗi KSV nói riêng, của ngành KSND nói chung; góp phần tích cực giúp
cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có sức thuyết
phục cao, mà nó cịn có ý nghĩa góp phần để nâng cao vị thế, vai trị và uy tín
18


của ngành KSND trong bộ máy nhà nước; tạo nên hình ảnh đẹp của mỗi một
KSV ngành KSND trong lịng công chúng; là một trong những việc làm quan
trọng và có ý nghĩa trong cơng cuộc cải cách nền tư pháp nước nhà. Do vậy,
nâng cao chất lượng bản luận tội của KSV là một trong những địi hỏi mang
tính tất yếu của cải cách tư pháp, của công tác kiểm sát; nó phải được xem như
là một trong những việc làm quan trọng trước mắt, thường xuyên và lâu dài mà
mỗi một KSV, mỗi một đơn vị trong ngành KSND đều phải ln ln ý thức
được và phải tích cực, quyết tâm thực hiện ngày một tốt hơn./.

19




×