Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.35 KB, 88 trang )










LUẬN VĂN:

Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp ở Việt Nam











Mở đầu



1. Lý do chọn đề tài
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước


pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta trong
tình hình hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp
luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là một nội
dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư
pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng, các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm
sát nhân dân đã nhanh chóng tổng kết lý luận và thực tiễn hoạt động, triển khai các biện
pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của mình. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cải
cách tư pháp còn chậm và kết quả chưa đầy đủ so với yêu cầu và thực tiễn đặt ra. Mặt
khác, trong các nghị quyết trên của Đảng tuy đã đề ra khá nhiều giải pháp cải cách tư
pháp nhưng vẫn chưa đề cập đầy đủ, chưa toàn diện những vấn đề cơ bản về cải cách tư
pháp, so với yêu cầu và trước tình hình mới, nhiều vấn đề đang đặt ra trong cải cách tư
pháp, trong đó có nội dung đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, trong đó có
nội dung: "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên
cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố" [13].
Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định



nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, về Viện kiểm
sát nhân dân, Nghị quyết nêu rõ:
Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay
là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân
dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu việc
chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra [14].
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng đã nêu rõ:
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương,
đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố
gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm
Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp [15].
Như vậy, cả hai nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đều xác định Viện kiểm sát nhân
dân phải tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Do
đó, Viện kiểm sát nhân dân phải chủ động chuẩn bị tất cả các điều kiện để thực hiện
thành công việc đổi mới tổ chức và hoạt động phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp.
Đến đây, hàng loạt vấn đề về lý luận và thực tiễn được đặt ra khi đổi mới tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân đòi hỏi cần phải được quan tâm nghiên cứu.
Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" để viết
luận văn thạc sĩ luật chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật là vấn đề có
tính thời sự, cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, các bài

viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân. Có thể phân loại thành hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất: Những công trình là các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ,
các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp
Việt Nam có liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước:
"Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam"; Đề tài khoa học cấp bộ: "Cơ sở lý luận và thực
tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp"; Đề tài khoa học cấp bộ:
"Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt
Nam hiện nay"; Đề tài khoa học cấp bộ: "Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công
tác kiểm sát hình sự"; Đề tài khoa học cấp bộ: "Những giải pháp xây dựng đội ngũ kiểm
sát viên cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay"; Đề tài khoa học cấp bộ:
"Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự"; Đề tài khoa học cấp bộ: "Viện
kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp"; Luận án tiến sĩ luật học: "Quyền
công tố ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân ở giai đoạn hiện nay"; Sách tham khảo: "Thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra"….
Liên quan đến nhóm này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về lịch sử ngành Kiểm
sát nhân dân, hội thảo về Viện công tố một số nước trên thế giới do Viện kiểm sát nhân
dân tối cao tổ chức
- Nhóm thứ hai: Là các bài viết có liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp chí chuyên ngành: "Những
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới" của tác giả Khuất Văn Nga; "Bàn về tổ chức
quyền tư pháp - nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" của tác
giả Lê Cảm; "Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Phạm Hồng
Hải, "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay" của
tác giả Đỗ Văn Đương….



Tuy vậy, các công trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu chung
nhất về tổ chức quyền lực nhà nước, nghiên cứu theo từng lĩnh vực nghiệp vụ chuyên
ngành hoặc được nghiên cứu dưới góc độ của luật nhà nước, luật hình sự và tố tụng hình
sự hoặc có công trình nghiên cứu tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề này nhưng do thời
điểm nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong líư luận
và thực tiễn hiện nay, do đó nội dung không còn mang tính thời sự nữa. Vấn đề đổi mới
về cơ bản tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo hướng chuyển Viện kiểm sát thành Viện
công tố mới chính thức được đặt vấn đề khi Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành vào giữa năm 2005 và mới được ghi nhận trong
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu
năm 2006. Vì vậy, đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn
diện và có hệ thống về vấn đề này được chính thức công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Qua phân tích những cơ sở lý luận cơ bản nhất về tổ chức quyền lực nhà nước,
quyền tư pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ
máy nhà nước; các quan điểm về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; yêu cầu của
cải cách tư pháp đối với đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
+ Làm rõ thực trạng đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam để làm
cơ sở thực tiễn cho việc đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
+ Đề xuất những phương hướng cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận
văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân



dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nên đối tượng nghiên cứu của luận văn là những
vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam, đặc biệt
là có tham khảo các qui định về Viện kiểm sát và Viện công tố của một số nước trên thế
giới.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề có liên quan đến các tư
tưởng, quan điểm, những qui định của pháp luật liên quan đến quá trình hình thành,
phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay; luận
văn này chỉ nghiên cứu về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân, không nghiên cứu tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về lý
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong
điều kiện cải cách tư pháp; những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử; các phương pháp được sử dụng là các phương pháp nghiên cứu truyền
thống của khoa học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp
phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể; đồng thời cũng sử dụng kết hợp các phương pháp
luật học so sánh, phương pháp lý thuyết hệ thống, phương pháp thống kê
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn có những điểm mới là:
Phân tích và làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay; làm sáng tỏ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát và Viện công tố
của một số nước trên thế giới.
Đề xuất phương hướng cơ bản về đổi mới và hoàn thiện tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đặc biệt là luận văn đã mạnh dạn đưa ra
mô hình tổ chức của Viện công tố Việt Nam trong tương lai.



7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực
tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học,
những người làm thực tiễn; đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng
dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương 9 tiết.



Chương 1
Cơ sở lý luận tiếp tục đổi mới
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

1.1. Sự hình thành cơ quan Viện kiểm sát nhân dân và vị trí, vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp
1.1.1. Sự hình thành cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước ta
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai
sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện chính trị -
pháp lý quan trọng, là cơ sở để hàng loạt các thiết chế của một Nhà nước mới được tạo
lập. Ngay sau khi giành được độc lập, việc xây dựng và củng cố chính quyền là một trong
những công việc quan trọng, trong đó có việc xây dựng các cơ quan tư pháp nhằm bảo vệ
thành quả của cách mạng. Hệ thống cơ quan tư pháp ngay trong những năm đầu thành lập
được định hướng xây dựng thể hiện là một nền tư pháp cách mạng. Trong bối cảnh của
những ngày đầu thành lập nước, hệ thống cơ quan tư pháp được tổ chức rất đa dạng, linh

hoạt phục vụ nhiệm vụ cách mạng. Chức năng công tố nhà nước được giao cho nhiều cơ
quan đảm nhiệm như cơ quan Tòa án, Chính phủ, ủy ban kháng chiến, Ban thanh tra của
Chính phủ.
Tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp lần đầu tiên được quy định tại Sắc
lệnh số 33c ngày 13 tháng 9 năm 1945, đây cũng là cơ sở pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra
đời của hệ thống Tòa án trong bộ máy nhà nước ta, là vũ khí tư pháp sắc bén bảo vệ chế
độ dân chủ nhân dân. Theo qui định của Sắc lệnh này, Tòa án quân sự ra đời có chức
năng: Xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc
lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trừ những người phạm tội là những binh sĩ thì
thuộc thẩm quyền xét xử của nhà binh theo quân luật. Về chức năng công tố được quy
định rõ tại Điều 5 Sắc lệnh 33c như sau: Đứng buộc là một ủy viên quân sự hay một ủy
viên của Ban trinh sát. Như vậy, lần đầu tiên, chức năng công tố nhà nước được quy định
trong một văn bản pháp lý. Lúc này, Tòa án quân sự được thành lập ở cả ba miền Bắc,


Trung, Nam là Tòa án đầu tiên có sự hiện diện của tổ chức Công tố và hoạt động thực
hành quyền công tố. Nội dung của quyền thực hành quyền công tố theo quy định của Sắc
lệnh này là đưa một người phạm tội ra xét xử tại Tòa án và thực hiện sự buộc tội trước
Tòa án.
Ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số
64 thành lập Tòa án đặc biệt tại Hà Nội để xét xử những người là nhân viên của ủy ban
nhân dân, các cơ quan của Chính phủ phạm tội. Theo quy định của Sắc lệnh này, chức
năng công tố nhà nước được giao cho Ban thanh tra đặc biệt do Chính phủ thành lập đảm
nhiệm. Cụ thể là Ban thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ giám sát công việc và nhân viên của
ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ, có quyền điều tra, thu thập tài liệu,
chứng cứ, đình chỉ chức vụ, bắt giam bất cứ nhân viên nào của ủy ban nhân dân hoặc
nhân viên của Chính phủ phạm tội, lập hồ sơ truy tố ra Tòa án đặc biệt và thực hành
quyền công tố tại phiên tòa. Thành phần Hội đồng xét xử của Tòa án đặc biệt có Chủ tịch
Chính phủ lâm thời làm Chánh án, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm
Hội thẩm, một ủy viên trong Ban thanh tra đặc biệt thực hiện chức năng thực hành quyền

công tố, buộc tội tại phiên tòa.
Ngày 14 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số
21 thay thế các sắc lệnh đã ban hành trước đây về Tòa án quân sự, trong đó quy định Bộ
trưởng Bộ Tư pháp và Chủ tịch ủy ban hành chính có quyền chỉ định Công cáo ủy viên
thực hành quyền công tố, buộc tội tại phiên tòa. Như vậy, về tổ chức, ngoài Chánh án và
hai Hội thẩm là ủy viên quân sự và ủy viên chính trị đảm nhiệm, chức năng công tố do
một Công cáo ủy viên thực hiện. ở Bắc Kỳ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ chỉ định Công cáo ủy
viên, ở Trung Kỳ và Nam Kỳ thì do Chưởng lý Tòa thượng thẩm hoặc Chủ tịch ủy ban
hành chính chỉ định ủy viên Chính phủ ngồi ghế Công cáo ủy viên. ủy viên Chính phủ
ngồi ghế Công cáo ủy viên có thể lấy trong quân đội, trong Ban trinh sát hay trong số các
Thẩm phán chuyên nghiệp. Các Công cáo ủy viên trực tiếp đặt dưới quyền giám sát của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp hay Bộ trưởng Bộ Nội vụ. ở Trung Kỳ và Nam Kỳ thì do Chưởng
lý Tòa thượng thẩm và Chủ tịch ủy ban hành chính giám sát.
Trong bối cảnh vừa giành được độc lập, việc thiết lập các cơ quan trong bộ máy
nhà nước là yêu cầu rất cấp thiết của chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân, đặc biệt


là các cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo đảm trật tự xã hội. Bên cạnh việc thiết
lập hệ thống Tòa án quân sự và Tòa án binh để xét xử những tội phạm phản cách mạng,
những tội vi phạm trật tự quân đội, vi phạm kỷ luật của nhà binh, cần thiết phải thiết lập
hệ thống Tòa án thường để xét xử các tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ nhà nước và
bảo vệ nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu đó, ngày 24 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Chính
phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 13 về việc tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm
phán (trong đó có Thẩm phán buộc tội). Theo quy định của Sắc lệnh này thì Tòa án
thường được tổ chức ở ba cấp là Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm.
Tổ chức và hoạt động của cơ quan Công tố chỉ được thành lập ở Tòa đệ nhị cấp và Tòa
thượng thẩm, không tổ chức thành phần Công tố trong Tòa án sơ cấp vì thẩm quyền của
cấp Tòa án này rất hạn chế. Chủ thể thực hiện quyền công tố trong hệ thống Tòa án
thường được quy định là các Thẩm phán buộc tội thuộc Tòa án.
Mặc dù, tổ chức của cơ quan Công tố được đặt trong hệ thống Tòa án, cả Thẩm

phán thực hiện nhiệm vụ xét xử và Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ công tố đều gọi chung
là Thẩm phán, đều chịu sự quản lý về mặt nhân sự của Bộ Tư pháp, nhưng trong hoạt
động của mình, Thẩm phán buộc tội (công tố viên) độc lập với Thẩm phán xét xử. ở Tòa
đệ nhị cấp, Thẩm phán buộc tội do ông Chưởng lý đứng đầu. ở Tòa thượng thẩm, tất cả
các Thẩm phán buộc tội họp thành một đoàn thể độc lập đối với các Thẩm phán xét xử và
duy nhất đặt dưới quyền chỉ đạo của Chưởng lý, Chưởng lý hoàn toàn giữ quyền truy tố
các vụ án. Mối quan hệ độc lập này càng được khẳng định rõ tại Sắc lệnh số 51 ngày 17
tháng 4 năm 1946. Điều 17 Sắc lệnh này có quy định: Ông Chánh án có quyền điều khiển
và kiểm soát tất cả nhân viên khác trong Tòa án, trừ các Thẩm phán buộc tội.
Ngày 20 tháng 7 năm 1946, Sắc lệnh số 131 được ban hành quy định về tổ chức
Tư pháp Công an, trong đó xác định rõ mối quan hệ giữa Công tố với Tư pháp Công an
như sau: Công tố có trách nhiệm phụ trách Tư pháp Công an và các cơ quan được giao
nhiệm vụ điều tra, Tư pháp Công an đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Chưởng lý,
Biện lý. Biện lý có quyền ra chỉ thị và kiểm soát công việc của tất cả ủy viên Tư pháp
Công an. Việc bổ nhiệm, thăng thưởng và xử phạt hành chính những ủy viên Tư pháp
Công an phải trên cơ sở ý kiến đồng ý của Biện lý và Chưởng lý.


Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, cơ quan Công tố có nhiệm vụ giám sát thi hành
án, giám sát hoạt động giam giữ, cải tạo. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, cơ quan Công tố
được tiến hành các hoạt động như bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên, của người
bị cấm quyền, của các pháp nhân hành chính; có quyền đứng làm chánh tố hay nguyên
đơn chính trong các việc kiện về dân sự theo thẩm quyền; bắt buộc phải có mặt trong
những phiên xử án dân sự và có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng mọi biện pháp cần thiết
để chứng tỏ sự thật của vụ án.
Ngày 19 tháng 11 năm 1948, Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 254/SL
thành lập chính quyền nhân dân trong thời kỳ kháng chiến. Theo đó giao cho ủy ban
kháng chiến hành chính liên khu được sử dụng quyền công tố tại Tòa án đặt dưới quyền
công tố tại các Tòa án thường và Tòa án quân sự, sau khi hỏi ý kiến ông Giám đốc Tư
pháp liên khu. Quyền công tố này thấp hơn quyền công tố của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ

trưởng Bộ Tư pháp và Chưởng lý.
Như vậy, trong thời kỳ này, tổ chức của cơ quan Công tố chủ yếu gắn với tổ chức
của cơ quan Tòa án, nằm trong tổ chức của cơ quan Tòa án, song vị trí và hoạt động của
cơ quan Công tố độc lập so với tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Vào những năm 1950, kết quả của cuộc cải cải tư pháp lúc bấy giờ có ảnh hưởng
quan trọng tới hoạt động cơ quan Công tố. Về vị trí của cơ quan Công tố và những chủ
thể được giao thực hiện quyền công tố nhà nước so với các quy định được ban hành trước
cuộc cải cách tư pháp năm 1950 về cơ bản không thay đổi, quyền công tố nhà nước vẫn
được giao cho nhiều cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện. Tuy nhiên, kết quả cuộc
cải cách tư pháp năm 1950 đã ảnh hưởng tới việc quy định thẩm quyền của cơ quan Công
tố trong các văn bản pháp luật của nhà nước.
Sau cuộc cải cách tư pháp năm 1950, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp được đổi mới và chấn chỉnh một bước, những kết quả cải cách đã góp phần tăng
cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Song tổ chức các cơ quan tư
pháp trên thực tế còn chưa phù hợp, chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp chưa
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra, sự chỉ đạo của ủy ban hành chính đối với các cơ quan
tư pháp còn lỏng lẻo. Nhận thức rõ tình hình đó, Chính phủ tiếp tục ban hành các văn bản
pháp luật để kiện toàn các cơ quan tư pháp, tăng cường chỉ đạo công tác tư pháp như các


Thông tư số 772/TTg ngày 15 tháng 5 năm 1956, Thông tư số 314/TTg ngày 19 tháng 7
năm 1957 của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, ngày 5 tháng 12 năm 1957, Bộ Tư pháp ra
Thông tư số 141/HCTP quy định về phân công nội bộ trong các Tòa án. Theo quy định
của Thông tư thì Tòa án có Chánh án và Công tố ủy viên, ở những nơi nhiều việc có thể
có Phó Chánh án, Phó Công tố ủy viên và Thẩm phán. Chánh án và Công tố ủy viên có
nhiệm vụ độc lập và đều là Thủ trưởng cơ quan. Thông tư này có giá trị rất quan trọng,
đặt nền móng cho việc thành lập Viện công tố độc lập, tách ra khỏi Tòa án.
Trong điều kiện đất nước có chiến tranh, việc tổ chức bộ máy nhà nước nói
chung và bộ máy các cơ quan tư pháp nói riêng linh hoạt như trong thời kỳ đầu về cơ bản
là phù hợp với điều kiện của nước ta. Tuy nhiên, sau năm 1954, khi hòa bình được lập lại

ở miền Bắc, nước ta thực hiện đồng thời hai cuộc cách mạng, cách mạng dân tộc dân chủ
ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Bắc, việc tiếp tục tổ chức bộ máy cơ quan
tư pháp như giai đoạn trước đây tỏ ra không còn phù hợp. Các cấp Tòa án vẫn được đặt
dưới sự lãnh đạo của Bộ Tư pháp, cơ quan Công tố vẫn đặt trong Tòa án, trong mỗi Tòa
án vẫn còn tình trạng cả Chánh án và ủy viên công tố cùng là lãnh đạo cơ quan, có quyền
hạn độc lập nhau, chức năng công tố vẫn được giao cho nhiều cơ quan đảm nhận, thủ tục
tư pháp còn quá sơ sài. Trong khi đó vào những năm 1957-1958, ngành tư pháp đã có sự
trưởng thành nhất định cả về số lượng và chất lượng, việc tiếp tục tổ chức các cơ quan tư
pháp như hiện thời không bảo đảm để xây dựng và duy trì một nền tư pháp dân chủ, vững
mạnh.
Trước sự chuyển biến của tình hình cách mạng, trước yêu cầu tăng cường pháp
chế, trước sự trưởng thành của các cơ quan tư pháp đòi hỏi phải có sự đổi mới căn bản,
sâu sắc về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có cơ quan Công tố để
bảo đảm việc trừng trị bọn phản cách mạng và bọn phạm tội khác được kịp thời, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật cần phải thành lập một tổ chức cơ quan Công tố từ trung
ương đến địa phương.
Tại phiên họp ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã thông qua Đề án tăng cường thêm một bước Chính phủ và bộ máy nhà nước ở cấp
trung ương, trong đó có nội dung thành lập Tòa án tối cao và hệ thống Tòa án; thành lập
Viện công tố trung ương và hệ thống Viện công tố, cả hai cơ quan này tách khỏi Bộ Tư


pháp. Theo đó, Viện công tố trung ương có quyền hạn và trách nhiệm ngang một bộ và
trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử phát triển của nền
tư pháp cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho việc tiến hành cải cách tư pháp một cách sâu
rộng cho những năm tiếp theo.
Ngày 1 tháng 7 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 256-TTg
quy định về tổ chức và nhiệm vụ của Viện công tố. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng cho
việc thiết lập hệ thống Viện công tố độc lập. Chấm dứt sự phân công cho nhiều cơ quan
trong bộ máy nhà nước cùng thực hiện quyền công tố nhà nước, tập trung việc thực hiện

quyền công tố nhà nước vào một cơ quan duy nhất đó là Viện công tố trung ương và hệ
thống Viện công tố. Sự ra đời của hệ thống Viện công tố độc lập, trực thuộc Hội đồng
Chính phủ trong thời kỳ này đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử cải cách nền tư
pháp của nước nhà. Đây là cơ sở quan trọng, đặt nền móng cho sự ra đời hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân sau này.
Mặc dù đã tồn tại với tư cách là một hệ thống cơ quan độc lập, tổ chức và hoạt
động của các Viện công tố địa phương do Viện công tố trung ương quản lý và chỉ đạo
nhưng trên thực tế, các Viện công tố địa phương vẫn phải chịu sự lãnh đạo và có trách
nhiệm báo cáo tình hình công tác với ủy ban hành chính cùng cấp. Cơ chế lãnh đạo "song
trùng trực thuộc"này là cần thiết trong hoàn cảnh kháng chiến trước đây, nhưng trong
tình hình mới đã tỏ ra không còn phù hợp nữa. Thực tiễn lúc đó cho thấy ủy ban hành
chính thường có ảnh hưởng rất lớn và nhiều khi có ý kiến quyết định đối với việc truy tố,
xét xử của các cơ quan tư pháp cùng cấp. Kinh nghiệm từ các vụ án xét xử oan, sai trong
thời gian này cho thấy nguyên nhân phổ biến bắt nguồn từ ý kiến lệch lạc một chiều giữa
ủy ban hành chính đối với các cơ quan Công an, Công tố và Tòa án. Trong cơ chế đó, rất
khó cho Viện công tố duy trì sự độc lập khách quan, chế ước và phát hiện sai lầm trong
công tác điều tra, xét xử để điều chỉnh kịp thời. Mặt khác, tổ chức cơ quan Công tố được
thành lập năm 1958 cũng mới chỉ là tổ chức của thời kỳ quá độ. Tổ chức đó mới chỉ làm
được một phần nhiệm vụ của cơ quan kiểm sát là thực hành quyền công tố, còn phần
quan trọng là nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ pháp luật thì vẫn chưa thực hiện được.
Theo quan điểm của V.I. Lênin trình bày trong tác phẩm "Nguyên tắc song trùng
lãnh đạo và vấn đề pháp trị" thì tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có


được pháp chế thống nhất. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với việc xây dựng chế độ
pháp trị chính là sự can thiệp của địa phương xuất phát từ động cơ tư lợi hoặc cục bộ địa
phương chủ nghĩa. Vì vậy, việc áp dụng nguyên tắc "song trùng" lãnh đạo trong lĩnh vực
pháp trị, theo đó cơ quan chuyên môn ở địa phương phải đặt đồng thời dưới sự lãnh đạo
của cơ quan chủ quản và ủy ban hành chính, là một sự sai lầm về mặt nguyên tắc. Do đó,
theo Lênin, để đấu tranh có hiệu quả với chủ nghĩa cục bộ địa phương thì phải thành lập

Viện kiểm sát. Cũng theo Lê-nin, Viện kiểm sát có quyền và phận sự làm một việc thôi:
bảo đảm cho pháp trị được hiểu biết thống nhất và thông suốt trong toàn nước cộng hòa,
bất kể những đặc điểm của địa phương và sự can thiệp của nhà chức trách địa phương.
Để không ngừng thiết lập chế độ pháp trị, Lê-nin cho rằng phải bác bỏ nguyên tắc "song
trùng" lãnh đạo trong tổ chức của Viện kiểm sát và qui định nguyên tắc Viện kiểm sát địa
phương chỉ đặt dưới sự lãnh đạo của trung ương. Về thẩm quyền, Viện kiểm sát phải
được quyền kháng nghị bất cứ quyết định nào của cơ quan chức trách ở địa phương khi
có vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, Viện kiểm sát không có quyền đình chỉ việc thi hành
các quyết định đó mà chỉ có quyền đưa việc vi phạm pháp luật ra trước Tòa án xét xử.
Viện kiểm sát không trực tiếp hành xử một quyền hành chính nào cả.
Đáp ứng những đòi hỏi khách quan của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và dựa
trên cơ sở lý luận của Lênin và vận dụng kinh nghiệm quốc tế, hệ thống cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân đã được chính thức ra đời. Ngày 31 tháng 12 năm 1959, Quốc hội
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Hiến pháp năm 1959, với 10 chương, 112
điều, trong đó Chương VIII, từ Điều 105 đến Điều 109 qui định các nguyên tắc cơ bản
cho việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam. Theo Hiến pháp năm
1959, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước ở địa phương, các nhân viên cơ quan
nhà nước và công dân (Điều 105). Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo
của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (Điều 107). Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 108).


Trên cơ sở các qui định của Hiến pháp năm 1959, ngày 26 tháng 7 năm 1960,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 được ban hành. Luật có 6 chương, 25
điều, đã cụ thể hóa các qui định của Hiến pháp về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
được thành lập và triển khai tổ chức hoạt động trên thực tế.

1.1.2. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư
pháp
Tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp. Trên thế giới,
mỗi quốc gia có cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực riêng cho nhà nước của mình.
Đối với hầu hết các nhà nước tư sản đều tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo
học thuyết tam quyền phân lập. Theo đó, quyền lực nhà nước được phân chia thành ba
nhánh độc lập, giao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau thực hiện, trong khi thực hiện
quyền lực có sự đối trọng và chế ước lẫn nhau. ở những nước này không có cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân, mà chỉ có cơ quan Viện công tố và cơ quan này cũng không phải là
một hệ thống độc lập mà nó có thể nằm trong Tòa án hoặc chịu sự quản lý của Bộ Tư
pháp hay của Chính phủ. Chức năng cơ bản của Viện công tố của các nước này là đưa kẻ
phạm tội ra trước Tòa án và thực hiện sự buộc tội đối với hành vi phạm tội của người đó.
Đối với các nước tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo học thuyết tập
quyền (Việt Nam là một trong những quốc gia thuộc nhóm này) thì tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua cơ quan đại
diện của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Trong bộ máy nhà nước của
các quốc gia này tồn tại một hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân có vị trí độc lập,
trực thuộc Quốc hội. Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Xem xét vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trên phương diện trong mối quan hệ
với các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam theo qui định của pháp luật hiện hành có thể thấy vị trí của Viện kiểm sát nhân dân
với các cơ quan nhà nước khác như sau:


Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Quốc hội: Quốc hội là cơ quan
quyền lực cao nhất. Quốc hội thành lập ra Viện kiểm sát nhân dân và giao cho Viện kiểm
sát nhân dân chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc
hội thực hiện việc giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước
Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu
của đại biểu Quốc hội.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Chính phủ: Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Như vậy, Chính phủ và Viện kiểm sát nhân dân đều là những cơ quan
do Quốc hội thành lập, nhưng đây là hai hệ thống cơ quan độc lập về tổ chức bộ máy,
biên chế và chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình, Chính phủ và Viện kiểm sát nhân dân phải có cơ chế phối hợp tốt để thực hiện các
mục tiêu chung của đất nước.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân dân: Viện kiểm sát
nhân dân và Tòa án nhân dân là các cơ quan tư pháp do Quốc hội thành lập và được Quốc
hội giao cho các chức năng khác nhau. Viện kiểm sát nhân dân độc lập với Tòa án nhân
dân về tổ chức bộ máy và biên chế. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp
luật quá trình xét xử, thi hành án hình sự của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, các vụ án hành chính và các việc khác theo qui định của pháp luật.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân địa phương với các cơ quan chính
quyền địa phương và Hội đồng nhân dân cùng cấp: Viện kiểm sát nhân dân là hệ thống
cơ quan do Quốc hội thành lập, thừa hành quyền lực từ Quốc hội, không thừa hành quyền
lực từ chính quyền địa phương. Viện kiểm sát nhân dân địa phương độc lập với cơ quan
chính quyền địa phương về tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính và độc lập về việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Viện kiểm sát


nhân dân địa phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch công
tác của Viện kiểm sát cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự
giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội

đồng nhân dân cùng cấp, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân
dân cùng cấp về các công việc có liên quan.
Là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, Viện kiểm
sát nhân dân cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân
dân là cơ quan bảo vệ pháp chế, Viện kiểm sát nhân dân còn được tổ chức và hoạt động
theo một nguyên tắc đặc thù, đó là nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất trong ngành.
Nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất đã chi phối nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo;
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương chịu sự
lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Do đó, hệ thống cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất.
Nguyên tắc tập trung thống nhất đảm bảo cho các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương được tổ chức và hoạt động một cách tập trung, thống nhất và độc lập theo ngành
dọc, không lệ thuộc hay chịu sự can thiệp nào từ phía các cơ quan Nhà nước ở địa
phương. Đây là một nguyên tắc hết sức quan trọng, xuất phát từ tính chất và nhiệm vụ
của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, khi xác định vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước cần có
nhận thức đúng về những vấn đề sau:
Tuy Viện kiểm sát nhân dân địa phương không chịu sự chỉ đạo của chính quyền
sở tại, nhưng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương không phải là một bộ phận tách
rời mọi hoạt động của địa phương. Viện kiểm sát nhân dân địa phương còn phải chịu sự
lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương và sự giám sát của nhân dân địa phương. Hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân cũng phải phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Do
đó, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân địa phương phải kết hợp chặt chẽ


và đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất
trong ngành.

Đồng thời, cần làm rõ và thống nhất về nhận thức đối với vị trí, vai trò của mỗi
cấp kiểm sát trong mối quan hệ thống nhất trong cùng một hệ thống cơ quan Viện kiểm
sát nhân dân để đảm bảo phát huy hiệu quả công tác. Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối
cao với vai trò là trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn ngành, ngoài việc thực hiện các hoạt
động kiểm sát cùng cấp và giải quyết các vụ việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải tập trung vào các công việc lớn, quan trọng như xác
định phương hướng hoạt động, mục tiêu công tác trong từng giai đoạn và chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch, chỉ thị công tác trong toàn ngành; sơ kết, tổng
kết, hướng dẫn, xây dựng lý luận nghiệp vụ, xây dựng các quy chế, chế độ công tác; đề
xuất và tham gia xây dựng pháp luật; giải quyết những vấn đề lớn trong quan hệ phối hợp
với các ngành hữu quan.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là cấp vừa trực tiếp thực hiện công tác
kiểm sát theo thẩm quyền cấp mình, mặt khác vừa có nhiệm vụ chỉ đạo trực tiếp đối với
Viện kiểm sát cấp huyện nên tổ chức bộ máy cần phải có cơ cấu phù hợp để thực hiện cả
hai hoạt động đó. Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là cấp cơ sở, cấp trực tiếp
thực hiện phần lớn các nội dung của công tác kiểm sát theo thẩm quyền. Viện kiểm sát
cấp huyện cần tập trung thực hiện tốt các mục tiêu công tác cụ thể mà Viện kiểm sát cấp
trên đề ra. Do đó, cấp huyện cần được tăng cường và tạo điều kiện về mọi mặt để có thể
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Để đảm bảo Viện kiểm sát các cấp hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong tiến
trình cải cách tư pháp thì hệ thống cơ quan Viện kiểm sát cần phải được tổ chức theo
nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất, không phụ thuộc và chịu sự can thiệp nào của
chính quyền địa phương. Nguyên tắc tập trung thống nhất đòi hỏi phải xác định đúng đắn
vai trò và trách nhiệm của từng cấp kiểm sát. Các Viện kiểm sát cấp trên cần tăng cường
sự lãnh đạo, công tác kiểm tra đối với cấp dưới. Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần thực
hiện tốt vai trò là trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân.


Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về cải cách bộ máy nhà nước, Hiến

pháp năm 1992 xác định rõ nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, của
từng hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đối với các cơ quan tư pháp nói chung,
Viện kiểm sát nhân dân nói riêng, vấn đề chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này
không chỉ bảo đảm lĩnh vực hoạt động riêng mà bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong
hoạt động thực hiện chức năng chung của nhà nước. Trên cơ sở, nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp năm 1992 khẳng định nhà nước ta là
nhà nước của dân, do dân và vì dân, là tổ chức để nhân dân lao động thực hiện quyền
làm chủ của mình. Đó là bản chất, là nguồn gốc sức mạnh và hiệu lực quản lý của nhà
nước kiểu mới. Vì vậy, việc phát huy và bảo đảm quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa
là vấn đề có tính quy luật, ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân
dân trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước thực chất là bảo đảm quyền lực của
nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Các nguyên tắc cơ bản khác như
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc thống nhất quyền lực, nhưng có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
đã định hướng trực tiếp đến tổ chức, hoạt động đối với hoạt động của cơ quan tư pháp
nói chung, Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. Mục tiêu chung của cải cách bộ máy nhà
nước chỉ thực sự đạt được trên cơ sở hoàn thiện tổ chức hoạt động của từng cơ quan, bộ
phận trong bộ máy nhà nước cùng với hoàn thiện cơ chế phối hợp của tổ chức cơ quan
thực hiện chức năng chung của nhà nước.
Trong hệ thống cơ quan nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân. Thực hiện nhiệm vụ này, Viện kiểm sát nhân dân là một trong
những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của nhà nước ta, là bộ phận không thể thiếu
trong bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ quan Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát



nhân dân được phân công trực tiếp thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan bảo vệ pháp luật. Do đó, có thể xem Tòa án và Viện kiểm sát như
là những bộ phận truyền tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong pháp luật vào đời sống
xã hội thông qua hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của những cơ quan này. Điều
này cũng có nghĩa hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước một phần chi phối bởi hoạt
động của hệ thống cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm đầu của thời
kỳ đổi mới cho thấy cần tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhằm đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực
kinh tế. Hiến pháp năm 1992 khẳng định đường lối của Đảng và Nhà nước là xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần
kinh tế cùng phát triển. Cùng với sự hình thành cơ chế kinh tế mới đòi hỏi sự thay đổi, ra
đời của hàng loạt chế định pháp luật phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước
thừa nhận quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Đổi mới nền kinh tế đã bắt đầu bằng sự phát triển của hàng loạt các doanh nghiệp với
mọi hình thức tổ chức, hoạt động. Mặt khác, yêu cầu cải cách hành chính và cải cách tư
pháp cần phân định rõ phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tổ chức trong bộ máy
nhà nước, của cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
Những ý kiến, quan điểm về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân được đề cập khi tiến hành cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới đất nước, đặc
biệt là khi tiến hành đổi mới trên lĩnh vực kinh tế. Những bước đi ban đầu của nền kinh tế
chuyển đổi với không ít những lựa chọn, những thay đổi, từ cơ chế chính sách đến vấn đề
pháp lý để có thể định hình từng bước phát triển của nền kinh tế thị trường. Đó là quá
trình trăn trở, tháo gỡ dần những vướng mắc trên mọi phương diện để có thể xây dựng
được một thể chế hoàn chỉnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề đó đã ảnh hưởng không nhỏ khi xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
Trong giai đoạn trước đây, vai trò giám sát bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, tuân
thủ cơ chế, chính sách, loại trừ yếu tố tự phát, sai lệch, vi phạm trong quá trình phát triển

là vô cùng quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Với chức năng kiểm sát việc tuân theo


pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (chức năng kiểm sát chung), Viện
kiểm sát nhân dân các cấp có vai trò, trách nhiệm trong hoạt động thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong suốt thời kỳ đổi mới cho đến khi ban hành Hiến
pháp 1992 (sửa đổi). Thực tiễn đã chứng minh hiệu quả đóng góp to lớn của Viện kiểm
sát nhân dân trong việc bảo đảm pháp chế thống nhất và sự tuân thủ pháp luật trong hoạt
động của tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong suốt thời kỳ này đã tuân thủ định hướng được chỉ đạo thống nhất toàn
ngành trong nhiệm vụ công tác năm tập trung hoạt động vào một lĩnh vực cụ thể có ảnh
hưởng tới nền kinh tế. Mục đích của các cuộc kiểm sát không chỉ xác định vi phạm, thu
hồi tài sản bị chiếm đoạt, khắc phục hậu quả về kinh tế - xã hội, mà vấn đề mang ý nghĩa
lớn đó là phát hiện ra những yếu kém trong quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội của các
bộ, ngành, địa phương. Từ đó đưa ra những kiến nghị với Chính phủ nhằm nâng cao hiệu
quả về hoạt động quản lý nhà nước và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những tồn
tại, bất cập về cơ chế, chính sách, pháp luật. Có thể đánh giá một cách công bằng trong
thời kỳ này thành tựu của ngành kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật có ý nghĩa trong việc bảo đảm sự tuân thủ pháp luật đối với hoạt động
của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội. Điều này được minh chứng
bởi hàng loạt các chương trình công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực
hành chính, kinh tế, xã hội trong suốt giai đoạn này như chương trình kiểm sát trong lĩnh
vực bưu chính viễn thông, chương trình mía đường, chương trình kiểm sát công tác quản
lý nhà nước về đất đai, chương trình dự án giao thông đường bộ, chương trình giáo dục,
chương trình xuất khẩu lương thực…
Năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tiến hành trên
cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Những thành tựu quan trọng
trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX
khẳng định tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp một cách

triệt để, toàn diện hơn để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã thể chế hoá
nghĩamục tiêu Nghị quyết của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền, xác định đúng


đắn vị trí, vai trò, hệ thống các cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước, định hướng xây
dựng một nền tư pháp dân chủ, vững mạnh. Một trong những nội dung về cải cách tư
pháp được thể chế trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) là sự điều chỉnh một bước về
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Việc điều chỉnh chức năng của Viện
kiểm sát trong Hiến pháp không phải là vấn đề mới nảy sinh trong quá trình xây dựng,
soạn thảo Hiến pháp sửa đổi, mà ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VII, những ý kiến liên
quan đến chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đã được đề cập,
thảo luận trên nhiều diễn đàn về lý luận cũng như thực tiễn. Không chỉ đề cập đến sự
chồng chéo chức năng thanh tra của cơ quan Thanh tra với chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát mà vấn đề có tính trực diện hơn đối với sự tồn tại của
chức năng này trong điều kiện đổi mới. Trong mối tương quan chung giữa các cơ quan
trong bộ máy nhà nước với những chức năng mà Viện kiểm sát đang thực hiện dường
như Viện kiểm sát đang nắm giữ quá nhiều quyền lực chi phối trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội từ tư pháp đến thể chế quản lý kinh tế, quản lý hành chính nhà nước. Hệ
quả của sự đánh giá này đã dẫn tới việc có người đặt ra câu hỏi phải chăng Viện kiểm
sát nhân dân là một cơ quan siêu quyền lực và như thế là trái với tổ chức và hoạt động
của một nhà nước được xây dựng trên nguyên tắc dân chủ.
Quá trình sửa đổi Hiến pháp, vấn đề chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được
xem xét trên nhiều phương diện, không chỉ ở giác độ quyền lực rộng lớn của Viện kiểm
sát trong đời sống xã hội hay sự chồng chéo chức năng với cơ quan Thanh tra mà cả
những ảnh hưởng từ hoạt động của Viện kiểm sát tới nền kinh tế thị trường. ở vào thời
điểm nền kinh tế đã trải qua 15 năm đổi mới với những thành tựu và sự ổn định bước đầu
về cơ cấu kinh tế, phương thức tổ chức hoạt động, một thể chế kinh tế được xác lập bởi
hàng loạt văn bản pháp luật về kinh tế đã đưa nền kinh tế bước sang giai đoạn phát triển
có định hướng trên cơ sở khuôn khổ của pháp luật. Trong quá trình đó, sự hình thành hệ

thống pháp luật kinh tế là quá trình không ngừng sửa đổi, bổ sung để phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế. Trong điều kiện vận hành nền kinh tế thị trường vẫn đang tiếp tục
có sự tìm tòi, thử nghiệm và không ngừng đổi mới để có sự phát triển phù hợp, vững
chắc; bên cạnh những ưu điểm của việc bảo đảm sự tuân thủ pháp luật qua hoạt động
kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân thì mặt khác dường như đã tạo ra lực cản vô


hình đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự phản ứng ở những mức độ khác nhau của
các nhà quản lý, các nhà kinh doanh đối với hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát
chung của Viện kiểm sát đã đặt vấn đề về thực tiễn của việc có cần thiết tồn tại chức năng
này của Viện kiểm sát hay không. Xét một cách biện chứng, khi pháp luật phù hợp với
kinh tế sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển. Chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm pháp luật được tuân thủ, nhưng trong
điều kiện hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện thì chính nó trở thành nguyên nhân làm hạn
chế tác dụng, ý nghĩa của việc thực hiện chức năng này. Sự cần thiết duy trì hay xóa bỏ
chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát cần được xem xét từ nhiều phương diện
khác nhau cả về lý luận và thực tiễn.
Nhìn vấn đề ở phương diện hẹp hơn để đánh giá thực trạng của ngành kiểm sát
về lực lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát (về năng lực, trình độ, về số lượng…), quy mô tổ
chức bộ máy ngành kiểm sát, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật còn nhiều hạn chế, bất
cập. Trong khi, Viện kiểm sát đang phải thực hiện nhiều trọng trách trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội thì với điều kiện hiện có, việc thực hiện tốt tất cả những chức năng,
nhiệm vụ được giao thực sự là khó khăn đối với Viện kiểm sát.
Mặt khác, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển nhanh chóng,
sôi động của kinh tế mang lại sự thay đổi, nâng cao điều kiện sống cho nhân dân, nhưng
cũng đặt ra những vấn đề xã hội cần giải quyết. Đó là sự phân hóa giàu nghèo diễn ra
ngày càng sâu sắc, đó là sự gia tăng tệ nạn xã hội và tình hình tội phạm ngày càng phức
tạp, nghiêm trọng, đặc biệt các tội phạm về kinh tế, tham nhũng, ma túy, mại dâm… Tình
hình tội phạm trong những năm qua cho thấy số lượng, tính chất, mức độ, hậu quả của tội
phạm không chỉ phản ánh sự xuống cấp, băng hoại đạo đức xã hội mà điều quan tâm là

sự gia tăng tình hình tội phạm đã trở thành nỗi quan ngại, thách thức các cơ quan tư pháp.
Tính chất nguy hiểm của tội phạm không chỉ gây ra tổn thất to lớn về kinh tế cho xã hội
mà còn là nguy cơ hủy hoại đạo đức xã hội, hủy hoại nguồn lực thiết yếu của xã hội (thế
hệ thanh niên) nếu không kịp thời có quyết sách, tổ chức, lực lượng cần thiết, mạnh mẽ
để đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Do đó, nhiệm vụ đấu tranh phòng chống
tội phạm là trọng trách đối với toàn bộ hệ thống cơ quan tư pháp. Với vị trí, vai trò của
Viện kiểm sát trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm thì vấn đề tăng cường thực hiện


tốt chức năng công tố, nâng cao vai trò trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm hình sự là điều cần thiết. Để Viện kiểm sát có thể tập
trung làm tốt chức năng công tố, thì việc điều chuyển một phần chức năng kiểm sát
chung của Viện kiểm sát sang cơ quan, tổ chức khác trong bộ máy nhà nước được xem là
giải pháp tối ưu. Thực chất của việc điều chuyển là sự tăng cường trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước khác như tăng cường thẩm quyền của cơ quan Thanh tra trong lĩnh vực
kinh tế - xã hội, của Bộ Tư pháp trong hoạt động thẩm định các văn bản pháp luật của
chính quyền cơ sở trong việc xây dựng, ban hành văn bản pháp quy, của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp trong lĩnh vực giám sát.
Trên thế giới, các quốc gia có thể khác biệt nhau về chế độ chính trị nhưng hệ
thống cơ quan Công tố trong bộ máy nhà nước cơ bản tập trung thực hiện chức năng
công tố trong lĩnh vực hình sự. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, việc tiếp thu những
thành tựu, giá trị tiến bộ trên mọi lĩnh vực đang là xu thế tất yếu, mang tính phổ biến của
các quốc gia. Quá trình cải cách ở nước ta việc lựa chọn để có được một mô hình tổ chức
khoa học, tiên tiến, phù hợp cho từng hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước là một
quá trình trải nghiệm không chỉ nhận thức đầy đủ nguyên tắc mang tính lý luận mà cả
diễn biến thực tiễn cần được đánh giá tổng kết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã có sự điều
chỉnh quan trọng về chức năng ngành kiểm sát, đó là sự xóa bỏ chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, nhấn mạnh việc tăng
cường chức năng thực hành quyền công tố và ghi nhận chức năng kiểm sát các hoạt động

tư pháp. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã thể chế hóa quy định của
Hiến pháp, ghi nhận cụ thể, rõ ràng về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt
động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp, đồng thời phân định rõ
phạm vi hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự phân
định này không chỉ tác động tích cực trong thực tiễn công tác của Viện kiểm sát nhân dân
mà còn là cơ sở lý giải vướng mắc trong nhận thức các khiếu nại liên quan đến quyền
công tố, đến kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Bên cạnh việc ghi nhận và đề cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, sự tăng cường vai trò của Viện kiểm sát


trong việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp xuất phát từ việc đánh giá
thực trạng trên các phương diện kinh tế xã hội, hoạt động tư pháp trong những năm qua,
có thể thấy đây là các điều kiện chi phối trực tiếp đến hoạt động tư pháp và yêu cầu, đòi
hỏi Viện kiểm sát nhân dân phải tiến hành công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trên các
phương diện khác nhau. Cụ thể là:
- Trình độ hiểu biết, ý thức pháp luật của bộ phận lớn nhân dân còn hạn chế.
- Hệ thống thiết chế bổ trợ tư pháp như luật sư, hỗ trợ pháp lý, công chứng, giám
định… còn thiếu, chưa hoàn thiện, đồng bộ.
- Vấn đề quản lý hành chính nhà nước còn nhiều tồn tại, thiếu sót, tổ chức hoạt
động của hệ thống đăng ký tài sản chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, thủ tục rườm rà, bất cập.
Các cơ quan quản lý nhà nước chưa xác định được trách nhiệm trước những vấn đề có
liên quan đến hoạt động tố tụng tư pháp.
- Hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế, lao động,
thi hành án chưa hoàn thiện.
- Đội ngũ cán bộ tư pháp còn hạn chế về trình độ kiến thức pháp lý, về chuyên
môn nghiệp vụ, đặc biệt là sự hạn chế về kỹ năng nhận thức áp dụng pháp luật.
Với các đặc điểm nêu trên, có thể thấy rằng, sự tăng cường vai trò của Viện kiểm
sát trong kiểm sát các hoạt động tư pháp xuất phát từ yếu tố truyền thống pháp luật, từ
nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, trước yêu cầu bảo đảm quyền dân chủ

của công dân, điều kiện thực trạng kinh tế, xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, đồng thời với
quan điểm tăng cường chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong
các hoạt động thi hành án, giam giữ, cải tạo, trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, vụ
án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động cũng tồn tại quan điểm cho rằng Viện kiểm sát
nhân dân chỉ nên tập trung làm tốt chức năng công tố, còn đối với chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp mà phần quan trọng là kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh
tế, hành chính, lao động, thì Viện kiểm sát chỉ nên tham gia ở phạm vi hạn chế.
Trên cơ sở nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, quan niệm về vị trí,
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước, từ thời kỳ đầu thành lập
ngành Kiểm sát nhân dân chi phối ảnh hưởng lâu dài đến sự nhận thức về vai trò, vị trí

×