Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

LỊCH SỬ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM, TÓM LƯỢC Y THUẬT CÁC ĐẠI DANH Y VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.21 KB, 129 trang )

PHẦN 1

TÓM LƯỢC LỊCH SỬ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM.
TÁC DỤNG ĐIỀU TIẾT MIỄN DỊCH VÀ KHÁNG KHUẨN CỦA
THUỐC THẢO MỘC

15


LỊCH SỬ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM,
TÓM
LƯỢC Y THUẬT CÁC ĐẠI DANH Y VIỆT NAM
16


1. Việt Nam có địa sinh học riêng.
Theo nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, thời nguyên đại Trung sinh cách
đây 200 triệu năm, dải đất nước ta lúc đầu như mầm xương sống hình chữ S đó là
dãy núi Trường Sơn. Thời đại Tân sinh cách đây 50 triệu năm là thời kỳ tạo đất
bồi đắp; hợp thành lục địa châu Á, có kết cấu địa chất, địa tầng có sơng, có
núi…
Cuối Thời kỳ Đệ Tam cách đây 10 - 20 triệu năm, châu Á đã có vượn cao
cấp. Nhiều nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh, con người Việt Nam xuất
hiện từ thời kỳ Canh Tân. Do thời kỳ băng hà kéo dài từ Thủy Canh Tân đến
Canh Tân. Nhưng ở nước ta nói riêng và ở Đơng Nam Á nói chung chỉ có mưa
lớn. Sau băng hà nước biển tràn lên, kết hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa, tạo
điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển, nguồn thức ăn của nhiều loại động vật
trong đó có con người. Vượn ăn cỏ cây, ăn thịt động vật để sống, đồng thời cũng
chọn lọc tự nhiên những động vật và cây cỏ ăn để chữa bệnh. Vì vậy, thuốc chữa
bệnh được lưu truyền từ thời này sang thời khác, đời này sang đời khác và tồn tại
đến nay. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Y học cổ truyền Việt Nam đã đúc kết


được nhiều phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh bằng thuốc và khơng dùng
thuốc (châm cứu, day, bấm huyệt…) có hiệu quả. Đã phát hiện nhiều vị thuốc
quí: quả giun, gừng gió, ý dĩ, xương bồ, kỳ nam, sa nhân, đậu khấu, hương phụ…
được lưu truyền đến ngày nay.

2. Việt Nam có lịch sử xó hội lâu đời.
Việt Nam có nhà nước Văn Lang, từ thời Hồng Bàng năm 2879 - 257 trước
Công nguyên; thời đại các Vua Hùng, tổ tiên ta sớm sử dụng thuốc có nguồn gốc
thực vật, động vật và khống vật để làm thuốc. Ngồi ra cịn biết sử dụng cả
thuốc độc tẩm vào tên, giáo mác để chống giặc ngoại xâm…. hiện nay có tượng
và miếu thờ An Kỳ Sinh - Nhà châm cứu Việt Nam đầu tiên tại Trúc Sơn, Yên
Tử, Đông Triều, Quảng Ninh. Tượng và miếu thờ Bảo Cô - Nhà nữ châm cứu
(thế kỷ thứ III trước công nguyên). Tư liệu trên do Giáo sư thầy thuốc nhân dân
Nguyễn Tài Thu -Viện trưởng Viện châm cứu Việt Nam sưu tầm. Hơn một thiên
niên kỷ, dân tộc Việt Nam dưới ách xâm lược nơ dịch và đồng hố của phong
kiến Trung Quốc; các dược liệu q hiếm đều bị cướp bóc mang về chính quốc.
Thời kỳ độc lập dưới các triều đại phong kiến (938 - 1884) sau chiến thắng Bạch
Đằng của Ngô Quyền từ năm 938, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập.
3. Lịch sử Y học cổ truyền Việt Nam.

17


+ Thời kỳ Nhà Lý (1010 - 1224): có tổ chức Thái y viện ở Kinh đô cũng như
ở các địa phương.
+ Thời kỳ Nhà Trần (1225 - 1399): phát triển nghề nuôi trồng dược liệu khắp
nơi, nhiều danh y nổi tiếng trong thời kỳ này, đặc biệt là Nguyễn Bá Tĩnh hiệu là
Tuệ Tĩnh, quê Nghĩa Phú, Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Hưng, Ơng thi đỗ Tiến sĩ
nhưng khơng ra làm quan mà đi tu và làm thuốc, tác phẩm y học nổi tiếng của
ông là “Nam dược thần hiệu” gồm 11 quyển, chọn lọc 580 vị thuốc, phân loại

theo nguồn gốc (23 loại): cỏ hoang, dây leo, mọc ở nước, có cánh như lồi chim,
cầm thú… chọn lọc dược liệu có trong nước tổ chức thành 873 bài thuốc điều trị
182 chứng bệnh của 10 khoa.
Trong tác phẩm “Hồng nghĩa giác tư - y thư”, Ơng đã tóm tắt tác dụng của
630 vị thuốc theo biện chứng luận trị. Ơng được nhân dân tơn là Ơng Thánh
thuốc nam. Năm 1335, Tuệ Tĩnh được mời sang Trung Quốc chữa bệnh cho Vua
nhà Minh và bị giữ lại cho đến khi chết.
+ Thời kỳ Nhà Hồ (1400 - 1406): châm cứu phát triển Nhà châm cứu nổi tiếng
là Nguyễn Đại Năng đã biên soạn cuốn sách “Châm cứu tiệp hiệu diễn ca”…
Thời kỳ đô hộ của giặc Minh Trung Quốc (1047 - 1472): Y học dân tộc bị tổn
thất nghiêm trọng.
+ Thời kỳ Hậu Lê (1428 - 1788): có bộ luật Hồng Đức, đời Lê Thánh Tông
(1460 - 1479) ban hành qui chế làm thuốc. Năm 1665, Lê Huyền Tông đã 2 lần
ra lệnh cấm hút thuốc lào; ở Triều đình có Thái y viện, ở các tỉnh có tế sinh
đường, ở quân đội có sở lương y. Thời kỳ này có đại danh y Hồng Đơn Hồ.
Ơng là lương y phục vụ trong quân đội nhà Lê, tác phẩm nổi tiếng của Ơng là
“Hoạt nhân tốt yếu”, Ơng được sắc phong của Vua Lê Thánh Tông là "Lương y
quốc, Thọ tư dân”. Hiện nay nhân dân lập đền thờ Hồng Đơn Hồ tại q Ơng:
thơn Đa Sĩ, xã Kiến Hưng, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây.
Đặc biệt trong thời kỳ này có Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông
(1720 – 1791), quê Văn Xá, Yên Mỹ, Hải Hưng. Ơng đã tóm lược y lý Y học cổ
truyền phương Đông, tổng kết những thành tựu Y học cổ truyền Việt Nam từ
trước đến thế kỷ XVIII và đã vận dụng sáng tạo những tinh hoa Y học cổ truyền
vào điều kiện thời tiết khí hậu liên quan đến đặc điểm phát bệnh ở nước ta. Tác
phẩm “Hải Thượng Lãn Ơng Y Tơng Tâm Lĩnh” là bộ sách đồ sộ gồm 28 tập, 66
quyển, đến nay vẫn được coi là bộ sách bách khoa về Y học cổ truyền. Ơng đã
tổng kết hồn chỉnh, hệ thống hố nền Y học truyền thống Việt Nam trên các lĩnh
vực; nội khoa, ngoại khoa, sản phụ, nhi khoa và ngũ quan khoa trên phương diện

18



chẩn trị dự phòng từ lý pháp đến phương dược, từ y đức đến y sử, y thuật, đến
các lĩnh vực thiên văn, y học và thực trị học. Về dược học Lãn Ông đã sưu tầm
thêm 300 vị thuốc, tổng hợp thành 2854 bài thuốc kinh nghiệm. Nét độc đáo
trong biện chứng luận trị Y học cổ truyền của Lãn Ông, đến nay và mãi mãi là
kim chỉ nam cho mọi hành động, chẩn trị theo y lý cổ truyền, của các thế hệ thầy
thuốc y học dân tộc Việt Nam.
- Nội kinh:
Nội kinh là sách viết về biện chứng luận trị các chứng và bệnh thuộc phạm vi
nội khoa bệnh học. Thông qua các phạm trù kinh điển của Y học cổ truyền. Ví
dụ: tý chứng, tâm quí, tiêu khát, thoát thư, ngân tiết bệnh... để liên hệ với các
bệnh danh đã được hiện đại hoá theo quan điểm Y học hiện đại.
Từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII các đại danh y Việt Nam: Tuệ Tĩnh, Hải
Thượng Lãn Ông trên cơ sở thừa kế tiếp thu Y học phương Đơng đã tóm lược
trong “Nội kinh yếu chỉ”. Lãn Ông chọn lọc những điểm thiết yếu, kinh điển thực
tiễn của Y học phương Đông, làm cơ sở cho biện chứng một số bệnh nội khoa học:
. Y già quan niệm: phân tích tổng hợp lý luận cơ bản học thuyết âm dương
ngũ hành, tạng phủ, kinh lạc khí huyết, chẩn đốn mạch học, bệnh lý, pháp trị,
phương trị.
. Y hải cầu nguyên: (Tập 3, 4, 5) nguyên tắc trị liệu, dựa trên những qui luật
chung về sinh lý bệnh lý.
. Huyễn Tẫn phát huy (Tập 6): quan niệm về thuyết thuỷ hoả, mệnh môn hoả,
tướng hoả, tiên thiên thuỷ hoả, chân thủy, chân hoả của Hải Thượng.
. Khơn hóa thái chân (Tập 7): nói về hậu thiên tỳ vị, chức năng tiêu hoá hấp
thu hoá giáng, tác dụng của khí huyết, biểu hiện bệnh lý và chẩn trị.
. Đạo lưu dư vận (Tập 8): biện luận bổ sung những điều về y lý mà y học
phương Đông chưa đề cập đến hoặc đề cập chưa rõ ràng.
. Dược phẩm vị yếu (Tập 10, 11): các vị thuốc phía Bắc và phía Nam được
phân loại theo ngũ hành, Ông chọn lọc 150 vị thuốc thiết yếu thực tiễn Việt Nam.

. Lĩnh Nam bản thảo (Tập 12, 13): tên và tác dụng của 496 vị thuốc nam đã
thừa kế của đại danh Tuệ Tĩnh. Ông bổ sung thêm 305 vị thuốc mới mà Ông đã
phát hiện thêm.
. Ngoại cảm thơng trị (Tập 14): đặc điểm, tính chất bệnh ngoại cảm ở Việt
Nam và sáng lập các phương thuốc Nam để tự điều trị.

19


. Bách bệnh có yếu (Tập 15, 24): nội khoa bệnh học, hiện chỉ có Bính Đinh
cịn thiếu: Giáp Ất, Mậu Kỷ, Canh Tân, Nhâm Quí...
. Y trung quan kiện (Tập 25): tóm lược phương pháp điều trị các loại bệnh.
. Phụ đạo xán nhiên (Tập 26, 27): chuyên về các bệnh phụ khoa.
. Toạ thảo lương mô (Tập 28): chuyên về các bệnh sản khoa.
. Âu âu tu tri (Tập 29, 33): chuyên về các bệnh nhi khoa.
. Mộng trung giác đậu (Tập 34, 40): chuyên về các bệnh đậu mùa.
. Ma chẩn chuẩn thắng (Tập 41, 44) chuyên về bệnh sởi.
. Tâm đắc thần phương (Tập 45): chọn lọc 70 phương thuốc trong cẩm nang
của Phùng Triệu Trương.
. Hiệu phỏng tân phương (Tập 46): ghi chép 29 phương thuốc do Lãn Ông
sáng lập ra.
. Bách gia trân tăng (Tập 47, 48, 49): ghi chép 600 phương thuốc kinh
nghiệm thu lượm trong nhân dân và thừa kế của Bùi Điện Đăng.
. Hành giản trân nhu (Tập 50, 57): ghi chú 200 phương thuốc chọn lọc trong
các bản thảo từ đời trước, chủ yếu là Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh (TK
XIV).
. Y dương án, Y âm án (Tập 59, 60) chép 17 bệnh án chữa khỏi; 12 bệnh án
tử vong
. Truyền tân bố chỉ (Châu ngọc cách ngôn) (Tập 61): điều cốt yếu nhất trong
nguyên tắc biện chứng luận trị.

. Vệ sinh yếu quyết (Tập 62): chuyên về vệ sinh, dưỡng sinh phòng bệnh.
. Bảo thai thần biện tồn thư (Tập 63) hiện nay cịn bị thất lạc.
. Nữ công thắng lãm (Tập 64): cách nấu nướng - thực trị học.
. Thượng kinh kí sự (Tập 65): kể lại hành trình của Ơng lên Kinh Đơ theo
chiếu của nhà Vua, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán (năm 1782).
. Vận khí bí điển (Tập 66): qui luật chuyển dịch của ngũ vận lục khí liên quan
đến yếu tố bản tạng và trạng thái thiên thắng của cơ thể con người .
- Nội kinh yếu chỉ:
Lãn Ông cho rằng “Nhà y có Nội Kinh cũng như nhà nho có Ngũ Kinh, đó
là lời nói chí lý của thánh hiền, lý lẽ sâu xa về cơ năng huyền bí đều thể hiện
tất cả ở trong đó, lời giáo huấn ngày xưa còn để lại sáng tỏ như mặt trời". Theo
quan điểm của Tuệ Tĩnh và Lãn Ơng thì “Nội Kinh” là bộ sách cổ đề cập đến

20


quan niệm duy vật biện chứng cổ đại, cơ thể con người là một chính thể giữa
thiên nhiên; cơ thể sống giống như một vũ trụ thu nhỏ “Nhân thân chi tiểu thiên
địa”. Thuyết “Thiên nhân tương ứng”: trong vũ trụ bao la có bao nhiêu tinh tú thì
trong cơ thể con người có bấy nhiêu vị tinh tú, mọi quy luật diễn biến, biện
chứng của bầu thái cực (vũ trụ bao la) cũng đều có thể xảy ra ở trong cơ thể con
người. Tiếp thu tinh hoa của Nội Kinh; các y gia tiền bối nước ta đã tìm hiểu vận
dụng sáng tạo, tiêu biểu là thuyết vận khí bí điển của Hải Thượng Lãn Ơng đã
qn triệt quan điểm dịch học tinh hoa vào Y học một cách độc đáo và thực tiễn.
- Nội dung cụ thể của Nội kinh cương yếu:
Phép dưỡng sinh: luyện tâm, luyện tức, luyện thực, luyện thể, luyện thần.
Trong biện chứng về phương pháp chữa bệnh tồn diện này có phép luyện ý,
luyện chí, luyện thở, luyện thư giãn theo tư thế tĩnh và luyện hình theo tư thế
động. Đây là một phương pháp tự phịng bệnh và chữa bệnh, có hướng dẫn. Nội
dung cơ bản của học thuyết âm dương ngũ hành, đó là quan điểm triết học duy

vật cổ đại, quy luật mâu thuẫn phổ biến, biện chứng duy vật, giải thích sự vận
động, phát triển của thế giới bằng chính sự vận động phát triển của vật chất chứ
không phải do thượng đế sinh ra. Vận dụng các quy luật phát triển vận động của
vật chất trong thiên nhiên, ứng dụng vào sự phát triển cơ quan tạng phủ trong cơ
thể con người. Học thuyết tạng tượng, học thuyết kinh lạc, các hội chứng tạng
phủ được biểu hiện ra ngoài khi bình thường và khi bất thường; chẩn đốn bệnh
học và phép tắc điều trị, cuối cùng là học thuyết ngũ vận lục khí.
- Kim quỹ yếu lược:
Thực chất là Thương hàn tạp bệnh luận (Trương Trọng Cảnh - đời Hán thế kỷ
II - III sau Công nguyên). Nội dung chủ yếu là quan niệm và giải thích các khái
niệm về biện chứng luận trị, mạch chứng, xét mạch và báo trước bệnh tạng phủ,
bệnh bách hợp, bệnh hồ hoặc âm dương độc (bệnh trùng sán hoặc tà độc thuộc
âm, thuộc dương). Mạch chứng về ngược tật là các bệnh thuộc miền ngược: sốt
rét, sốt xoắn trùng mảnh, sốt phát ban, sốt hồi qui... Cách chữa bệnh trúng phong,
lịch tiết phong (bệnh sốt ra mồ hơi có màu vàng); cách chữa về chứng huyết tý,
hư lao; cách chữa chứng phế nuy, phế ung khó thở; bệnh ba đồn khí (cơn đau
như con lợn chạy lên). Thực chất là dị cảm, rối loạn thần kinh chức năng do
stress: chữa bệnh hung tý, tâm thống và đoản khí. Cách chữa phúc mãn, hàn sán
và túc thực (nghĩa là cách chữa chứng đầy bụng) chậm tiêu khi ăn; viêm màng
não, viêm tinh hoàn (sán khí) bệnh thuộc can kinh; phong hàn tích tụ ở ngũ tạng,
bệnh cảm phải gió lạnh khơng theo lục kinh; nếu trực trúng vào tạng phủ nào thì

21


có triệu chứng của tạng phủ đó. Biện chứng về đàm ẩm khái thấu, biện chứng
bệnh tiêu khát (đái tháo đường), bệnh lâm - viêm nhiễm đường tiết niệu. Thực
chất là thủy thũng, phù do nước khơng hố thành khí mà đọng lại. Thủy khí được
chia ra: phong thủy, bi thủy, chính thủy, thạch thủy và hồng hãn (mồ hơi có màu
vàng); tên gọi này dựa vào vị trí nước đọng ở đâu để đặt, cũng tùy theo vị trí mà

biện chứng dùng thuốc.
Mạch chứng và cách chữa hoàng đản: da vàng, mắt vàng, nước tiểu vàng;
biện chứng về thấp nhiệt phạm tỳ ảnh hưởng đến vận hoá chuyển hoá tạng can
đởm thận vị. Mạch tượng ứng với một số bệnh về tiêu hoá, sinh dục, tiết niệu
nguyên do là thấp nhiệt.
Mạch chứng và cách chữa kinh quí, thổ lục, hạ huyết, ngực đầy, ứ huyết:
nghĩa là biện chứng về nhịp tim, hồi hộp, đánh trống ngực, nôn ra máu, bệnh
chảy máu cam và đại tiện ra máu. Suy từ kinh mạch để chẩn trị về huyết chứng.
Mạch chứng và cách chữa bệnh ẩu thổ, uế trọc, hạ lợi: biện chứng về sóng
mạch, hình mạch tương ứng để chẩn trị chứng nôn mửa, nôn khan và ỉa chảy.
Tập Kim quĩ yếu lược là tóm lược những tài liệu q giá như kho vàng thời
Hán được Trương Trọng Cảnh (thế Kỷ II - III sau Công nguyên) tổng kết trong
thương hàn tạp bệnh luận hay tạp bệnh luận (những bệnh lý hay gặp ngoài
thương hàn).
Điểm đáng chú ý là hầu hết những bài thuốc ở đây đều dùng rất ít vị và dùng
liều rất cao, đúng là “quí hồ tinh bất q hồ đa”.
. Ví dụ: bài thuốc bạch đầu ơng thang chữa chứng thấp nhiệt rót xuống hạ tiêu:
Bạch đầu ơng 120g, hồng liên 120g, hồng bá 120g, tân bì 120g.
4 vị thuốc trên thêm nước 7 thăng sắc còn 2 thăng, lọc bỏ bã uống ấm một thang.
. Ví dụ: bài phòng kỷ phục linh thang chữa chứng thủy khí:
Phịng kỷ, quế chi, hồng kỳ đều 3 lạng, phục linh 6 lạng, cam thảo 2 lạng.
5 vị thuốc trên thêm nước 6 thăng sắc còn 2 thăng, chia 3 lần, uống ấm.
. Ví dụ: bài nhân trần cao thang chữa chứng hoàng đản, chứng vàng da,
Nhân trần 6 lạng, chi tử 14 quả, đại hoàng 2 lạng.
3 vị trên với nước một đấu, trước sắc nhân trần cạn bớt 6 thăng, cho 2 vị còn
lại sắc còn 3 thăng, lọc bỏ bã chia ba lần uống ấm, tiểu tiện sẽ thông lợi, nước tiểu
đỏ xẫm như nước bồ kết. Một đêm thì bụng giảm, sắc vàng theo nước tiểu ra hết.

22



. Ví dụ: theo kinh văn số 293 tâm khí bất túc, thổ huyết, nục huyết tả tâm
thang chủ chi (phải dùng bài tả tâm thang để điều trị là chính):
Đại hồng 2 lạng, hồng liên 4 lạng, hồng cầm 1 lạng, 3 vị trên thêm nước
ba thăng, sắc còn 1 thăng uống hết 1 lần.
. Ví dụ: bài thuốc bổ dưỡng chữa hư lao, chữa bệnh phụ khoa “thận khí
hồn”:
Can địa hồng 8 lạng, sơn thù 4 lạng, phục linh 3 lạng, phụ tử chế 1 lạng, sơn
dược 4 lạng, quế chi 1 lạng, trạch tả 3 lạng, đan bì 3 lạng. 8 vị trên tán bột, luyện
mật làm viên hồn to bằng hạt ngơ đồng. Liều uống: 15 hoàn/lần uống với rượu,
lên tới 20 hoàn/lần ngày 2 lần.
- Thương hàn luận:
Tập sách về biện chứng luận trị các bệnh truyền nhiễm, nguyên nhân chủ yếu
là phong hàn được viết vào thời đại nhà Hán. Theo tài liệu “Cần cứu cổ huấn”,
“Bác thái quần phương” của Trương Trọng Cảnh (thế kỷ II - III sau Công
nguyên) dựa trên cơ sở lý luận của “Nội kinh”, Ông đã phát triển một bước về
phép tắc của biện chứng luận trị. Tài liệu “Thương hàn tạp bệnh luận” bao gồm
hai bộ phận: Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược. Đây là tập sách đầu tiên
chuyên viết về các triệu chứng lâm sàng đã được ứng dụng rộng rãi trong và
ngoài nước Trung Quốc. Ngồi ra, tập sách cịn bổ sung những khiếm khuyết của
“Ngoại kinh” và các tài liệu trước đó. Bộ sách chuyên về y học lâm sàng cổ đại,
cùng với lý luận y học cổ đại, tác phẩm được đánh giá tương đương với “Nội
kinh”. Đó là một cống hiến to lớn của Trương Trọng Cảnh đương thời. Cùng với
Trương Trọng Cảnh là đại danh y Hoa Đà, Ông có trình độ tinh thơng về nội,
ngoại khoa, phụ khoa, nhi khoa và châm cứu. Đặc biệt là trong điều trị ngoại
khoa, Ông đạt nhiều thành tựu rất ưu việt. Theo tài liệu Hậu Hán thì Hoa Đà là
người đầu tiên đề xuất với thế giới ứng dụng phương pháp vơ cảm để phẫu thuật
phần bụng. Ơng viết: nếu bệnh tật phát hết ở trong, châm và thuốc đều không có
chuyển biến thì chọn rượu mạnh uống cho giảm đau, rạch phần bụng và lưng, cắt
bỏ tích tụ hoặc trường vị có tật, cần phải loại bỏ tận gốc. Ra đời trong hoàn cảnh

như vậy “Thương hàn luận “là mực thước về phép biện chứng các bệnh thuộc ôn
bệnh lệ dịch, bệnh truyền nhiễm cấp tính chủ yếu là do lạnh (phong hàn). Các
giai đoạn, các diễn biến theo lục kinh được mô tả đầy đủ, các triệu chứng và phép
tắc điều trị. Liên hệ YHHĐ là hầu hết các bệnh thuộc chuyên ngành truyền

23


nhiễm, nội khoa bệnh học. Người xưa cho rằng: “Học y mà không đọc sách
Trọng Cảnh cũng như học nho mà không đọc sách Khổng Tử.”
Theo nghĩa hẹp: thương hàn là cảm phải khí hàn lãnh mà sinh ra bệnh.
Theo nghĩa rộng: là bao gồm cảm phải các khí phong hàn, thử thấp nghĩa là
một bệnh do ngoại cảm gây ra. Ngồi ra theo nạn kinh thương hàn có 5 cách: thử
và trúng phong, thương hàn, thấp ôn, nhiệt bệnh và ôn bệnh mùa xuân. Thử là
bệnh mùa hạ, bệnh ngược là sốt rét, bệnh lỵ là bệnh của mùa thu, hàn khí là bệnh
do mùa đơng đều thuộc phạm trù “thương hàn”. Như vậy “Thương hàn luận”
không phải chỉ biện chứng một loại cảm hàn mà còn biện chứng hàng trăm thứ
bệnh từ đó mà ra...
Nội dung của “Thương hàn luận” bao gồm hai giai đoạn lớn:
. Giai đoạn 1: dương chứng“chính khí tồn nội tà bất khả can”. Nếu phát bệnh
thì tà khí mạnh mẽ, chính khí đầy đủ; giao tranh giữa tà khí và chính khí, giữa tác
nhân gây bệnh và sức đề kháng cơ thể, được mô tả về bệnh chứng lâm sàng theo
ba mức độ:
Thái dương bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh: Thủ thái dương
tam tiêu kinh và Túc thái dương bàng quang kinh.
Thiếu dương bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh: Thủ thiếu
dương tiểu trường kinh và Túc thiếu dương đởm kinh.
Dương minh bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh: Thủ dương
minh đại trường kinh và Túc dương minh vị kinh.
. Giai đoạn 2: âm chứng bệnh lậu, sức đề kháng cơ thể giảm sút: “tà chi sở

tấu kỳ khí tất hư”. Diễn biến bệnh có ba mức độ khác nhau:
Thái âm bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh: Thủ thái âm phế và
túc thái âm tỳ.
Thiếu âm bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh: Thủ thiếu âm tâm
kinh và Túc thiếu âm thận kinh.
Quyết âm bệnh thể hiện triệu chứng bệnh lý ở cả hai kinh: Thủ quyết âm tâm
bào lạc kinh và Túc quyết âm can kinh.
Có thể liên hệ: bệnh lý hội chứng thái dương bệnh, là phản ứng chính khí với
tà khí ở phần bì phu niêm mạc; thái dương là phản ứng chính khí với tà khí ở
phần ngực và sườn; dương minh bệnh ở phần dạ dày, ruột, thái âm bệnh là phản
ứng chính tà ở phần tiêu hoá, mật, tụy, can, đởm. Thiếu âm bệnh là biểu hiện ở
hệ tuần hoàn; bệnh quyết âm là hệ thống thần kinh là thể dịch.

24


Trong biện chứng lục kinh có 397 phép và 113 phương, tùy bệnh chứng biến
hoá và sức đề kháng của cơ thể mà “xem mạch chứng biết tà khí phạm vào đâu,
rồi tùy chứng mà chữa”
Biện chứng “Thương hàn luận” càng đọc càng hiểu thêm sâu kinh phương
biến hoá tựa rồng, sử dụng cảm thấy linh thông thần kỳ.
Liên hệ với YHHĐ, ngồi bệnh cảm mạo thì các thời kỳ của bệnh truyền
nhiễm thường bao gồm: giai đoạn ủ bệnh (thời kỳ viêm họng khởi phát), giai
đoạn toàn phát triệu chứng rầm rộ, hàn nhiệt vãng lai, biểu lý đồng bệnh nếu
không được điều trị bệnh tà chuyển vào lý sẽ có hội chứng: lý thực hàn hoặc lý
thực nhiệt. Giai đoạn hồi phục, nếu được điều trị kịp thời bệnh qua khỏi; nếu
không được điều trị, sức đề kháng cơ thể giảm sút sẽ xuất hiện các biến chứng có
thể có thốt dương, vong dương hoặc âm hư dẫn đến vong âm. Thoát dương, vong
dương là choáng trụy mạch, âm hư sinh nội nhiệt, vong âm là rối loạn nước - điện
giải.

Theo Hải Thượng Lãn Ông: chứng bệnh sẽ hiện lên lung tung, kỳ hình qi
dạng, khó mà mệnh danh; cần phải nắm vững cha của khí là dương, mẹ của huyết
là âm; chữa khí, chữa huyết khơng qua khỏi phải chữa vào âm, vào dương, biết
vu âm trung cứu dương, bổ dương tiếp âm, bổ âm tiếp dương, bổ hoả trong thủy.
Liên hệ YHHĐ là điều chỉnh chức năng nội tiết trong đó có tuyến yên và
thượng thận để duy trì nước, điện giải, hoạt động bình thường của tim mạch, hơ
hấp “âm bình dương bế tinh thần nại trị”. Đa số bài thuốc được dùng trong thương
hàn luận là tinh giản, ít vị, liều lượng vừa phải.
Ví dụ:
Bài ma hoàng thang điều trị chứng “thái dương trúng thương hàn”:
Ma hoàng 12g, cam thảo 6g, quế chi 8g, hạnh nhân 12g.
Bài quế chi thang điều trị triệu chứng “thái dương trúng phong”:
Quế chi 12g, chích thảo 8g, bạch thược 12g, đại táo 12g, sinh khương 12g.
Thanh thượng tiêu thực nhiệt dùng bài “tả tâm thang”:
Hoàng liên 12g, hoàng cầm 12g, đại hoàng 12g, phụ tử chế 12g.
Chứng thiếu dương bệnh dùng bài “tiểu sài hồ” hoặc “đại sài hồ”.
Tiểu sài hồ: sài hồ, hoàng cầm, đẳng sâm, đại táo, bán hạ, cam thảo, sinh
khương.
Đại sài hồ: thay sâm bằng thược bỏ cam thảo thêm đại hoàng, chỉ thực đều
12g.

25


Chứng dương minh phải dùng bài tiểu thừa khí, đại thừa khí thang:
Tiểu thừa khí: đại hồng 16g, hậu phác 8g, chỉ thực 8g.
Đại thừa khí là tiểu thừa khí thang gia thêm mang tiêu 12g tăng tác dụng
nhuyễn kiên.
Chứng thái âm (tỳ, phế) phải trọng dụng tứ nghịch thang:
Phụ tử 12g, chích thảo 8g, can khương 12g.

Có khi hàn quyết thì phải dùng can khương, phụ tử đều phải dùng liều cao từ
20 - 40g.
- Nạn kinh:
Nạn kinh là những kinh văn diễn giải những điều khó mà Nội Kinh chưa diễn
đạt đầy đủ. Biển Thước (Tần Việt Nhân) đã rút ra trong Nội Kinh 81 vấn đề hay
81 nạn là 81 điều khó hiểu. Bố cục của nạn kinh bao gồm:
. Mạch học chẩn hậu 24 nạn.
. Kỳ kinh bát mạch 3 nạn.
. Kinh lạc 2 nạn.
. Vinh vệ tam tiêu 2 nạn.
. Tạng phủ phối tượng 6 nạn.
. Tạng phủ độ số 10 nạn.
. Hư thực tà chính 5 nạn.
. Tạng phủ truyền bệnh 2 nạn.
. Tạng phủ tích tụ 2 nạn.
. Ngũ tiết thương hàn 4 nạn.
. Thần thánh công sảo 1 nạn.
. Tạng phủ tịnh du 7 nạn.
. Dung châm bổ tả 13 nạn.
Thực chất là giải thích rõ ràng những vấn đề cơ bản trong hệ thống biện
chứng luận trị của Y học truyền thống phương Đông bao gồm:
Biện chứng luận trị về mạch học.
Biện chứng luận trị về ngũ tạng lục phủ.
Biện chứng luận trị về bệnh tật.
Biện chứng luận trị kinh lạc.
Biện chứng luận trị du huyệt và biện chứng luận trị về các phương pháp châm
cứu.
Ví dụ: nạn thần thánh cơng sảo: giải thích về 4 bước khám bệnh gọi là tứ
chẩn.
Vọng nhi tri chi vị chi thần (nghĩa là nhìn người): thần sắc, hình thể, rêu lưỡi

mắt mà biết được bệnh là bậc thần.
Văn nhi tri chi vị chi thánh: nghe tiếng nói hơi thở, tiếng ho, ợ nấc, âm sắc,
đại tiện mà biết được bệnh là bậc thánh hiền.

26


Vấn nhi tri chi vị chi công: hỏi về quá trình phát bệnh, yếu tố ảnh hưởng và
quá trình chữa trị: ăn ngủ, đại tiểu tiện, hỏi về mồ hôi kinh nguyệt mà biết được
bệnh là bậc thổ công.
Thiết nhi tri chi vị chi sảo là sờ nắn, khám mạch mà biết được bệnh là bậc kỹ
năng kỹ sảo. Cách giải thích này cũng thống nhất như quan điểm Hải Thượng
Lãn Ông (thế kỷ XVIII) (về mạch học): mạch là gợn sóng của khí huyết, các bộ
mạch thốn khẩu, phản ánh trung thành tình trạng của bệnh tật ở các cơ quan tạng
phủ liên quan nhưng khốn thay, về mặt cảm giác, xúc giác nhiều vẻ khác nhau do
lao động tay cầm cày, cầm cuốc hoặc cầm bút, cầm gươm khó có thể xúc chẩn
đúng như tình trạng thực tế của sóng mạch; bởi vậy mạch phải kết hợp với
chứng, nhất là những bệnh lý phức tạp thì đơi khi mạch không rõ ràng nên phải
bỏ mạch lấy chứng hoặc có lúc bỏ chứng lấy mạch. Tuy nhiên, thơng dụng nhất
là kết hợp giữa chứng và mạch.
Hải Thượng Lãn Ông biện chứng về hư thực: phàm là bệnh lâu ngày không
khỏi, người bệnh gày yếu, da xanh, sắc nhợt, người già tuổi cao, phụ nữ sau đẻ,
trẻ con thường thể chất thuộc hư chứng sẽ có mạch hư, nếu có thực là hư chung
hiệp thực, còn thực chứng là người trẻ béo khoẻ mới mắc thường là mạch thực,
nếu có hư tức là bản thực tiêu hư.
Chúng tôi cho rằng: những vấn đề cần làm sáng tỏ trong nạn kinh, chính là hệ
thống lý luận âm dương, tạng phủ, kinh lạc, về thuốc (dược học) và một loạt biện
chứng luận trị bệnh học sau này. Phương pháp chẩn đoán của Y học cổ truyền
phương Đông là khách quan khoa học bởi những thành cơng trong chẩn trị bệnh
học đã góp phần dự phịng và điều trị có kết quả nhiều bệnh nan y.

4. Nét độc đáo của Hải Thượng Lãn Ông thông qua biện chứng luận
trị bệnh nan y.
Điểm nổi bật trong các tài liệu Y học cổ truyền Trung Hoa là sự kết hợp chặt
chẽ logic giữa Y học hiện đại và Y học cổ truyền Trung Hoa.
Trên cơ sở tóm lược những thành tựu của các ngành khoa học hiện đại kết
hợp với những tinh hoa của nền Y học cổ truyền Việt Nam, thông qua một số thư
tịch Y Dược học cổ truyền Việt Nam bằng chữ Hán, chữ Nôm mà Bộ môn
YHCT- Bệnh viện 103- HVQY còn lưu giữ: Nam dược thần hiệu và Hồng nghĩa
giác tư y thư (Tuệ Tĩnh, thế kỷ XIV).

27


Hoạt nhân tốt yếu (Hồng Đơn Hồ, thế kỷ XVI), Hải Thượng Lãn Ơng y
tơng tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển nay còn 55 quyển (Lê Hữu Trác, thế kỷ
XVIII).
Nét độc đáo về lý luận Y học cổ truyền Việt Nam qua thư tịch Hán Nôm: Tuệ
Tĩnh trong “Nam dược thần hiệu”: Ông đã tiếp thu y lý Y học cổ truyền phương
Đông và Y học cổ truyền Trung Hoa kết hợp với tổng kết kinh nghiệm dân gian
sắp đặt nguồn gốc để phân loại thuốc cổ truyền mang bản sắc riêng Việt Nam.
Ông thu lượm 533 vị thuốc và chia thành 23 loại: loại cỏ mọc hoang (nguyên
thảo bộ thư thảo bộ) 62 vị, loại cỏ dây leo (đằng thảo bộ) 17 vị, loại cỏ mọc ở
nước (thủy thảo bộ) 6 vị, loại quả (quả bộ) 47 vị, loại cây (mộc bộ) 42 vị, loài sâu
bọ (trùng bộ) 32 vị, loại có vảy (lân bộ ) 40 vị, loại cá (ngư bộ) 34 vị, loại có mai
(giáp bộ) 6 vị, loại khơng vảy (giới bộ) 13 vị, lồi chim (cầm loại) 39 vị, loài
chim nước (thuỷ điểu) 12 vị, loại gia súc (lục súc) 26 vị, loại thú rừng (sơn thú
bộ) 36 vị, các thứ nước (thuỷ bộ) 9 vị, các thứ đất (thổ bộ) 14 vị, loại ngũ kim
(kim bộ) 11 vị, loại đá (thạch bộ) 7 vị, loại chất mặn (lỗ bộ) 4 vị, loại thuốc về
người (nhân bộ) 6 vị và 35 vị thuốc lượm lặt thêm. Hiện nay, phân loại thuốc
(dược vật) Y học cổ truyền của bộ môn YHCT - Bệnh viện 103 - Học viện Quân

y là dựa theo nguồn gốc: động vật, nguồn gốc thực vật, nguồn gốc khoáng vật và
chủ yếu là phân loại theo biện chứng luận trị, nhưng trong diễn giải khi giảng dạy
vẫn tham khảo cách phân loại độc đáo mang bản sắc Việt Nam của Tuệ Tĩnh.
Phương pháp luận trong chẩn trị đều có những nét riêng dễ hiểu “Quan hình
sát sắc biện nguyên do, âm nhược dương cường phát ngạnh nhu, nhược thị
thương hàn song túc lãnh, yêu tri hữu nhiệt đỗ bi cầu, tỷ lạnh tiên tri thị chẩn đậu,
nhĩ lãnh ưng tri phong nhiệt chứng, hôn nhân giai nhiệt thị thương hàn, thượng
nhiệt hạ lương thương thực bệnh”.
Từ những diễn biến phức tạp giữa một bên là tác nhân gây bệnh “hàn tà” một
bên là phản ứng của hàng rào phịng ngự, thơng qua sự chuyển hoá lục kinh trong
biện chứng thương hàn luận, Trương Trọng Cảnh (thế kỷ II - III sau Cơng
ngun), Ơng đã vận dụng sáng tạo cách xét bệnh ở bệnh nhi: âm nhược tóc
cứng, dương cường tóc mềm, hai chân lạnh mình nóng là thương hàn, mũi lạnh,
người nóng là bệnh sởi đậu… Từ khái quát thuốc về khí theo giới “nam bất thiểu
trần bì, nữ bất phi hương phụ” nay đã trở thành những cương lĩnh dùng thuốc rất
Việt Nam.
Lê Hữu Trác trong “Hải Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh”, bộ sách đồ sộ
chẳng những đã Việt hoá hệ thống lý luận Y học cổ truyền phương Đông và Y

28


học cổ truyền Trung Hoa mà còn chắt lọc những tinh hoa kết hợp với truyền
thống Y học dân gian Việt Nam, khái quát nâng cao y lý mang bản sắc dân tộc
Việt Nam. Cách chẩn bệnh quy về hư, thực theo Lãn Ông: trạng thái cơ thể hư
thường do: tuổi già, bệnh lâu ngày; người gầy da xanh, phụ nữ mới đẻ, trẻ nhỏ
thường là lý hư, mạch hư; trái lại người trẻ, lúc bệnh mới mắc thường là thực
chứng; mạch thực mà hư hay đi với hàn thuộc âm, thực hay đi với nhiệt thuộc
dương.
Như vậy, từ đơn giản hậu thế đã hiểu được những vấn đề khó và phức tạp

trong biện chứng “âm dương”. Cách chữa bệnh theo Lãn Ơng: phàm người trẻ
trọng dụng thuốc chữa “khí huyết” (bổ khí hành khí, bổ huyết hành huyết) “ trị
phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt” có nghĩa là không đánh giặc mà
giặc tự lui;“ huyết vi khí chi mẫu, khí vi huyết chi sối” có nghĩa là khí huyết đều
là 2 phạm trù, đều là cơ sở vật chất ni dưỡng tạng phủ duy trì sự sống.
Lãn Ơng đã khái qt cao độ q trình chuyển hố phức tạp của khí huyết
bằng văn Nơm, văn Việt :“ ngũ cốc tức đồ ăn thức uống vào vị, tinh khí tràn đầy
đưa lên tỳ, tỳ vận hố đưa lên phế và phế tiêu đi bách mạch”. Phế chủ khí, tâm
chủ huyết, tâm là quân chủ, tâm chủ chi quan, nếu tâm suy thì thập nhị quân đều
nguy, tuy nhiên “ dĩ thực vi tiên” mà tỳ vị hậu thiên chi bản, thận vi tiên thiên chi
bản, “ tỳ vị là kho lương, kho lương ấy mà cạn thì muôn quân tan rã, nhưng tỳ vị
lại là nồi cơm trên bếp lửa của thận hoả, thận chủ mệnh môn tướng hoả. Nét độc
đáo của Lãn Ơng là hình tượng hoá hoạt động sống của cơ thể con người tựa hồ
như đèn kéo quân quanh ngọn lửa (lửa là mệnh mơn hoả, thận hoả).
Trong “Đạo lưu dư vận” Lãn Ơng đã truyền lại cho hậu thế phong cách lý
luận Y học cổ truyền Việt Nam “chữa bệnh nhẹ, người trẻ phải trọng dụng khí
huyết, chữa trọng bệnh, tuổi già phải trọng dụng thuốc âm dương, bởi cha của khí
là dương, mẹ của huyết là âm, phải biết bổ âm tiếp dương, bổ dương tiếp âm,
hoặc âm dương cùng bổ”; biết được lẽ này chữa bệnh nghìn người khơng sai
một, đổi chết lấy sống dễ dàng như trở bàn tay, không biết được lẽ này chữa bệnh
khác nào như leo cây tìm cá vậy. Nhiều bệnh nặng phàm là các triệu chứng giả
hiện lên lung tung, kì hình, qi dạng khó mà mệnh danh, nếu biết bổ âm tiếp
dương (vụ âm trung cứu dương) thì các triệu chứng giả biến đi như tuyết tan ngói
vỡ, các chứng thực của bệnh hiện lên khơng tìm mà tự thấy. Một số dẫn liệu
thơng qua thư tịch chữ Hán, chữ Nôm của các Y gia tiền bối, nhất là của Hải
Thượng Lãn Ông trong lĩnh vực y lý, biện chứng luận trị Y Dược học cổ truyền
Việt Nam đã được Ơng Việt hố rất độc đáo, đặc sắc và sáng tạo đến bất ngờ. Y

29



đức, y lý, y thuật của Ơng ln là kim chỉ nam cho Y giới YHCT xưa, nay và
mãi mãi được phát huy trong khám bệnh, chẩn trị và dự phịng bằng phương
pháp luận YHCT Việt Nam, góp phần bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.

THUỐC YHCT CÓ TÁC DỤNG TRÊN MIỄN DỊCH
TẾ BÀO MIỄN DỊCH DỊCH THỂ VÀ
ĐIỀU TIẾT MIỄN DỊCH
1. Khái niệm.
Quan điểm của YHCT: “Tự ngã thức biệt“, “Bài trừ dị kỉ“. Bình thường,
chức năng miễn dịch của cơ thể có 3 loại tác dụng lớn:
+ Tự thân ổn định (trung hòa các dị nguyên).
+ Cố định các dị ngun (vơ hiệu hóa).
+ Dự phịng các bệnh truyền nhiễm, cảm nhiễm.
Theo Von Pirquet (1929 - 1974), phản ứng miễn dịch bao gồm: choáng phản
vệ loại bỏ protein lạ, mày đay nổi mẩn... cố định các dị nguyên ở vùng viêm
khơng cho lan rộng ra tồn thân; nhưng do quá mức (thái quá) mà cơ thể không
những không tự bảo vệ được mình mà cịn gây ra rối loạn chức năng các tổ chức
cơ quan trong cơ thể.
Quan điểm YHCT, theo Tần Vạn Chương và Nại Duy Lập (Thượng Hải, 1988):
“Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư. Chính khí tồn nội, tà bất khả can”.
Nghĩa là tác nhân gây bệnh ở da, cơ sẽ làm tổn thương sức đề kháng của cơ
thể, và ngược lại sức đề kháng tốt thì tác nhân gây bệnh khơng thể xâm phạm vào
da, cơ của cơ thể được.
2. Nội dung.
2.1. Mối liên hệ giữa dược lý, miễn dịch với lý luận YHCT:
Lý luận hư, thực, vệ khí, can tỳ của Trung y với quan điểm miễn dịch học
hiện đại có nhiều điểm gần nhau. Hai nguyên tắc điều trị lớn của Trung y là phù

30



chính và trừ tà có sự tương quan mật thiết với miễn dịch trị liệu. Chính hư lấy
phù chính là chủ; tà thực lấy trừ tà làm chủ; hư thực kiêm hiệp tức là kết hợp cả
phù chính và trừ tà. Phù chính là nâng cao sức đề kháng; trừ tà là đuổi tác nhân
gây bệnh ra ngoài cơ thể hoặc tiêu trừ tác nhân gây bệnh. Thông qua tác dụng
phù chính với trừ tà để điều hịa sự ổn định và tăng cường chức năng miễn dịch
bảo vệ cơ thể đạt được mục đích bài trừ và khống chế bệnh tà.
+ Hư chứng: là chỉ chính khí bất túc, cơ thể phát sinh phản ứng miễn dịch
quá mạnh như bệnh miễn dịch tự thân (luput ban đỏ), cũng có thể là chức năng
miễn dịch của cơ thể quá suy giảm mà mất đi phản ứng miễn dịch đối với kháng
nguyên hoặc giảm khả năng chống viêm nhiễm.
Đối với các chứng bệnh, đa phần phải dùng thuốc phù chính để điều trị. Thuốc
phù chính đa phần có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể.
+ Thực chứng: là chỉ tà khí hữu dư nên phải dùng phương pháp trừ tà để điều
trị, tức là phải trọng dụng các thuốc: thanh nhiệt - giải độc, thuốc hoạt huyết hóa ứ và thuốc trừ phong thấp. Các loại thuốc này đa phần có tác dụng ức chế
chức năng miễn dịch của cơ thể hoặc là vừa ức chế vừa hỗ trợ, tức là ngồi ức
chế miễn dịch cịn có tác dụng tăng cường miễn dịch.
+ Phù chính - trừ tà: là nguyên tắc điều trị quan trọng của Y học cổ truyền,
cũng là phương pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa chính và tà. Sự liên
quan chặt chẽ giữa phù chính - trừ tà với miễn dịch liệu pháp góp phần nâng cao
hiệu quả điều trị một số bệnh tự thân miễn dịch như: luput ban đỏ, xơ cứng bì,
ngân tiết bệnh... và nham chứng.
Có nhiều báo cáo tổng kết nghiên cứu: thuốc bổ ích khí - huyết đa phần có
tác dụng tăng cường miễn dịch; thuốc điều hịa âm - dương đa phần có tác dụng
điều tiết miễn dịch; thuốc sơ phong - thanh nhiệt - lợi thấp đa phần có tác dụng
tiêu viêm, thối mẫn ; thuốc tiêu viêm - hóa ứ đa phần có tác dụng ức chế miễn
dịch.
2.2. Tác dụng điều tiết miễn dịch của thuốc phù chính:


+ Trung y cho rằng “hư tắc bổ”. Nhưng hư chứng có suy giảm chức năng
miễn dịch hay khơng? Có một số người cho rằng: phù chính có thể là tiền đề cho
tăng cường cơng năng miễn dịch. Bệnh luput ban đỏ chủ yếu liên quan với thận
hư tiên thiên bản tạng bất túc ?
Tần Vạn Lập nghiên cứu về bản chất của bệnh đã phát hiện đa số bệnh nhân
bị luput ban đỏ có biểu hiện triệu chứng thận hư. Sau khi Ông cho những bệnh

31


nhân này dùng thuốc bổ thận liều nhẹ thì các triệu chứng lâm sàng và cận lâm
sàng đều được cải thiện rõ rệt.
Trong nghiên cứu cơ chế thận hư, các tác giả đã chứng minh được thuốc bổ
thận có thể điều chỉnh và nâng cao tính phản ứng hệ thống của vỏ thượng thận và
tuyến yên. Điều này có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn trong việc dùng kích tố nội tiết.
+ Trong những thập kỷ gần đây, kết hợp Trung - Tây y để điều trị các bệnh tự
thân miễn dịch ngày càng được phát triển và đã thu được hiệu quả cao. Tại các
trung tâm nghiên cứu Y học cổ truyền của Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, có
nhiều tác giả nhận thấy luput ban đỏ, viêm da - cơ, xơ cứng bì... đều là chứng hư
ở mức độ khác nhau. Sau khi điều trị bằng thuốc phù chính thì hầu hết các bệnh
nhân qua kiểm tra xét nghiệm và lâm sàng, đều thấy các chỉ tiêu miễn dịch được
cải thiện, bệnh ổn định.
Theo nghiên cứu của Y viện Hiệp Hoà - Bắc Kinh, điều trị bệnh viêm da - cơ
cấp tính bằng “thanh doanh giải độc thang gia giảm” và điều trị viêm da - cơ mãn
tính bằng “bổ trung ích khí gia giảm” kết hợp với kích tố và điều trị hỗ trợ khác.
Trong tổng số 27 bệnh nhân, thấy kết quả tốt 24, không kết quả và tử vong 3 (vì
có kết hợp với nham chứng).
Những nghiên cứu của các địa phương trên đã chứng minh các vị thuốc bổ
ích khí - huyết có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch (nhân sâm, bạch
truật, tử hà sa, ngũ gia bì, hà thủ ơ...).

Theo Lưu Minh Nhuệ (Tạp chí Trung y, 1995), nghiên cứu điều chế thuốc từ
hoàng kỳ để điều trị bệnh vẩy nến thể thơng thường, dùng hồng kỳ chế (gồm:
hồng kỳ sắc, cao hoàng kỳ và hoàng kỳ dạng tiêm) để điều trị 204 bệnh nhân bị
bệnh vẩy nến thể thông thường, thấy kết quả: khỏi hoàn toàn 47 (20,6%), khỏi cơ
bản 62 (30,4%), tiến triển tốt 94 (44,6%), không kết quả 9 (4,4%); tổng số bệnh
nhân có tỷ lệ tốt là 95,6%. Theo dõi các chỉ tiêu miễn dịch trước và sau điều trị
bằng thuốc “hoàng kỳ chế tễ” thấy ở những bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến thể
thông thường, đều có tác dụng tăng cường miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế
bào. Trong những năm gần đây, hoàng kỳ được dùng làm thuốc bổ khí và cịn
được dùng để điều trị các loại bệnh thuộc hệ thống tạo keo; vì người ta cho rằng:
hồng kỳ có tác dụng kích thích các trung tâm miễn dịch của cơ thể.
Tất cả những nghiên cứu trên, một mặt là ứng dụng sự điều tiết miễn dịch của
thuốc phù chính - trừ tà; mặt khác là nghiên cứu dược lý học và miễn dịch để

32


phát hiện khả năng kích thích và điều tiết chuyển hoá tế bào limpho trên thực
nghiệm. Y học cổ truyền Trung Hoa đã nghiên cứu và chọn được 4 phương thuốc
bổ:
Bổ khí: “tứ quân tử thang”.
Bổ huyết: “tứ vật thang”.
Bổ âm: “lục vị địa hoàng hoàn”.
Bổ dương: “sâm phụ thang”.
Người ta đã chứng minh và kết luận bốn bài thuốc trên có khả năng xúc tiến
chuyển hóa limpho bào, kích thích phản ứng miễn dịch tế bào và hình thành
kháng thể.
Thực tiễn lâm sàng đã chứng minh: các loại bệnh thuộc hư chứng dù ở các
mức độ khác nhau, đều có suy giảm chức năng miễn dịch rõ rệt. Vì vậy, khi dùng
các phương thuốc phù chính để bổ dưỡng đã thu được hiệu quả nhất định.

2.3. Tác dụng điều tiết miễn dịch của thuốc trừ tà:

Theo Y học cổ truyền: tà thực lấy trừ tà là chủ để điều trị, tức là khu trừ bệnh
tà, khôi phục lại sự cân bằng của cơ thể mà đạt hiệu quả điều trị. Trong những
năm gần đây, những cơng trình nghiên cứu đã phát hiện nhiều loại thuốc trừ tà
có khả năng điều chỉnh chức năng miễn dịch của cơ thể.
Thuốc trừ tà thường dùng là các nhóm thuốc: hoạt huyết - hóa ứ; thanh nhiệt
- giải độc; thuốc trừ thấp.
Các nghiên cứu cho thấy: đại bộ phận các thuốc hoạt huyết - hóa ứ có tác
dụng ức chế phản ứng miễn dịch bệnh lý của cơ thể; đối với một số bệnh tự thân
miễn dịch và phản ứng biến thái thì có hiệu quả rất tốt. Một số tư liệu đã chứng
minh: một số thuốc hoạt huyết - hóa ứ có tác dụng tăng cường công năng miễn
dịch cơ thể. Những năm trước đây người ta chỉ chú ý đến tính kháng khuẩn,
kháng siêu vi khuẩn của thuốc thanh nhiệt - giải độc, thì ngày nay người ta đã
phát hiện ra nhiều loại thuốc thanh nhiệt - giải độc có tác dụng tăng cường công
năng miễn dịch của cơ thể. Tuy nhiên, cũng có một số thuốc thanh nhiệt - giải
độc lại có tác dụng ức chế miễn dịch. Ngồi ra nhiều loại thuốc sơ phong - trừ
thấp có tác dụng tiêu viêm thoái mẫn.
2.3.1. Tác dụng ức chế miễn dịch của thuốc trừ tà:

+ Trong những năm gần đây, bằng kết hợp Trung - Tây y, các nghiên cứu
ứng dụng một số thuốc trừ tà để điều trị bệnh tự thân miễn dịch và bệnh biến thái
phản ứng tính trạng thái quá mẫn cảm gây phản ứng quá mẫn đã thu được kết quả

33


tốt. Y học hiện đại cho rằng: sở dĩ bệnh tự thân miễn dịch và phản ứng biến thái
tính bệnh tật là do kích thích của kháng nguyên đã phát sinh phản ứng miễn dịch
quá mẫn, gây nên một loạt các biến đổi chức năng trong cơ thể.

Quan sát lâm sàng và thực nghiệm, người ta thấy một số thuốc trừ tà có tác
dụng ức chế các phản ứng quá mẫn, tuy ở mức độ khác nhau nhưng đều đạt kết
quả điều trị tốt.
+ Học viện Y1 - Thượng Hải chọn mặt bệnh luput ban đỏ để nghiên cứu tác
dụng của thuốc “hoạt huyết - hóa ứ là chủ”.
- Cẩm Hồng Phương dùng bài thuốc hoạt huyết - hóa ứ (gồm: đại hồng,
hồng hoa, xích thược, bạch thược, tần cửu, hoàng tinh, cam thảo) để điều trị luput
ban đỏ. Dựa vào chỉ tiêu miễn dịch trước và sau điều trị, tác giả kết luận thuốc
hoạt huyết- hóa ứ có tác dụng ức chế phản ứng quá mẫn.
- Tần Vạn Chương lấy dịch chiết của xích thược, hồng đằng dưới dạng
thuốc tiêm và dùng thuốc hoạt huyết - hóa ứ điều trị luput ban đỏ, quan sát điều
trị đến khi bệnh ổn định thấy các chỉ tiêu miễn dịch của nó đều được cải thiện.
Đồng thời trải qua hàng chục năm nghiên cứu kết hợp dùng vị thuốc “lôi công
đằng chế tễ” (chế phẩm từ cây rau má) để điều trị luput ban đỏ, tác giả nhận thấy
tỷ lệ khỏi cao (79,4  91%), các triệu chứng phát sốt, đau khớp, tổn thương da
đều được cải thiện; các tổn thương nội tạng đều có chuyển biến tốt. Các xét
nghiệm hệ thống máu, anbumin niệu, chức năng gan và thận đều được cải thiện
tốt, tốc độ máu lắng hạ thấp; Các chỉ tiêu miễn dịch tế bào, globulin miễn dịch,
chức năng tế bào limpho đều có chuyển biến tốt. Tác giả rút ra kết luận: lơi cơng
đằng có tác dụng chống viêm, điều tiết công năng miễn dịch. Những nghiên cứu
của Viện Y1 - Thiên Tân đã ứng dụng thuốc thanh nhiệt - giải độc: kim ngân hoa,
liên kiều, bản lam căn (rễ của thanh đại diệp - lá chàm mèo - cây bọ mắm),
nhưng thanh đại diệp là chính để ức chế phản ứng quá mẫn trong điều trị bệnh
luput ban đỏ, có hiệu quả rõ rệt.
+ Học viện Trung y - Quảng Châu dùng bài “thanh ôn bại độc ẩm” để điều trị
bệnh viêm da - thần kinh cũng thu được kết quả tốt. Thuốc thanh nhiệt - giải độc
không những có tác dụng kháng khuẩn, kháng bệnh độc cảm nhiễm mà cịn có
thể ức chế phản ứng q mẫn, tiêu trừ phức hợp miễn dịch, từ đó ức chế có hiệu
quả các phản ứng miễn dịch.


34


2.3.2. Tác dụng tăng cường miễn dịch của thuốc trừ tà:

+ Căn cứ vào nghiên cứu thực nghiệm các hội chứng "thực chứng" người ta
nhận thấy một số thuốc hoạt huyết - hóa ứ và thanh nhiệt - giải độc có tác dụng
tăng cường miễn dịch: số lượng bạch cầu tăng cao, xúc tiến bạch cầu khổng lồ
tăng thực bào, xúc tiến tăng chuyển hóa tế bào limpho, hình thành các IL2
(Interlerkill2), và hình thành kháng thể. Thơng qua sử dụng một số thuốc điều trị
trên lâm sàng nhiều tác giả đã thu được kết quả nhất định. Tổng hợp các báo cáo
phát hiện phương thuốc “bạch hổ thang” có tác dụng xúc tiến chức năng thực bào
của đại thực bào tương đối tốt.
Bài “quế chi gia truật thang” có tác dụng ức chế quá mẫn, trung hòa kháng
nguyên và sản sinh kháng thể.
Thực nghiệm còn chứng minh, bài thuốc “bài nùng thang” và “bài nùng tán”
đều có tác dụng ức chế rõ đối với bạch cầu đa nhân. Kết quả thực nghiệm trên
chuột cống cho thấy 2 phương thuốc trên đều có tác dụng ức chế và xúc tiến
dịng bạch cầu đa nhân, tác dụng này phụ thuộc vào loại thuốc và nồng độ thuốc;
bài thuốc “tiểu thanh long thang” có tác dụng ức chế globulin E miễn dịch (IgE),
ức chế quá mẫn.
Ngoài ra, các loại thuốc trừ tà, thuốc lợi thấp - sơ phong phần nhiều có tác
dụng tiêu viêm thoái mẫn.
+ Các phương thuốc thường dùng là: “ma hoàng thang”, “sơ phong thanh nhiệt
ẩm”, “trừ thấp vị linh thang”, “tần cửu ngưu bàng thang”, “đan bì ẩm”, “toàn trùng
phương”, “lương huyết giải độc thang”, “long đờm thảo tả can thang”.
+ Những báo cáo lâm sàng về tác dụng tăng cường miễn dịch của thuốc trừ tà
ngày càng nhiều, nhưng thực nghiệm chưa được đầy đủ. Tuy nhiên, người ta
cũng thống nhất kết luận thuốc phù chính và trừ tà đều có tác dụng điều tiết miễn
dịch. Trên lâm sàng thường dùng kết hợp cả hai phương pháp này để điều trị

bệnh ngoài da.
- Theo báo cáo của Vương Đức Tuệ, phối hợp thuốc phù chính - trừ tà với
lơi cơng đằng (tích tuyết thảo) để điều trị 36 bệnh nhân vẩy nến (ngân tiết bệnh)
thấy có hiệu quả khá mỹ mãn. Trong điều trị, tác giả đã chọn dùng lôi công đằng
kết hợp với biện chứng luận trị, lựa chọn một số thuốc phù chính - trừ tà để tổ
chức phương thuốc:

35


- Một số vị thuốc thường dùng để trừ tà: thổ phục linh, bạch hoa xà thiệt thảo,
tử thảo, hoàng liên, hồng cầm, sơn đậu căn, long q, ơ tiêu xà, chích ngơ cơng,
cương tàm, kim ngân hoa, khổ sâm, xuyên khung, đan sâm, nga truật, đại hoàng
và thuyền y. Một số vị thuốc thường dùng để phù chính: đẳng sâm, hồng kỳ, hà
thủ ơ, sinh địa, xích bạch thược, bạch truật, phục linh, hồng táo, hoàng tinh, sơn
dược, biển đậu, thích ngũ gia bì, hồng kỳ thích (hồng kỳ gai).
- Theo báo cáo của Tơn Khánh Q: dùng các thuốc thanh nhiệt - giải độc, hoạt
huyết - hóa ứ và bổ dưỡng khí - huyết kết hợp với quế chi tạo thành “quế thanh
thang” đã điều trị khỏi cho 9 bệnh nhân vẩy nến thể mụn mủ.
Phương thuốc:
Phục linh

15g

Quế chi

15g

Đan bì


15g

Đào nhân

15g

Bạch thược

15g

Hồng liên

10g

Hồng cầm

15g

Hồng bá

15g

Sinh thục địa

15g

Đương qui

15g


Xun khung

15g

Hoàng kỳ

30g.

Tất cả những báo cáo dẫn liệu trên chứng tỏ thuốc phù chính - trừ tà dùng để
điều trị đều liên quan mật thiết đến vấn đề miễn dịch, hoặc là ức chế hoặc là tăng
cường hay là điều hịa miễn dịch. Chính vì vậy sử dụng các thuốc này đã thu
được nhiều kết quả đáng khích lệ trong điều trị lâm sàng.

PHÂN LOẠI THUỐC Y HỌC CỔ TRUYỀN THEO
BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ VÀ TÁC DỤNG
KHÁNG KHUẨN CỦA THUỐC THẢO MỘC
1. Phân loại thuốc YHCT theo biện chứng luận trị.
1.1. Khái niệm:

Y học cổ truyền thường kê đơn thuốc hoặc chọn dùng các chế phẩm thuốc tễ,
thuốc hoàn dựa trên tính vị hàn - nhiệt - ơn - lương và qui kinh, được tổ chức

36


theo biện chứng luận trị. Dựa trên tác dụng thực tế lâm sàng, thuốc thảo mộc
được chia ra nhiều loại, mỗi loại có thể điều trị 1 hay nhiều triệu chứng hoặc là 1
hội chứng, trái lại nhiều hội chứng bệnh cũng có thể qui về 1 loại thuốc
1.2. Phân loại thuốc thảo mộc theo biện chứng luận trị:


+ Thuốc giải biểu là nhóm thuốc có tác dụng giải tán biểu tà, sơ phong thấu
chẩn, tiêu thũng, còn gọi là thuốc phát hãn vì nó làm cho ra mồ hơi, đưa tác nhân
gây bệnh ra ngồi bằng đường mồ hơi. Nhóm này gồm 2 loại: cay mát (tân
lương) và cay ấm (tân ôn).
Các vị thuốc giải biểu thường được trọng dụng:
- Loại cay ấm: ma hồng, quế chi, tía tơ, sinh khương, hương nhu, kinh giới,
phòng phong, khương hoạt, bạch chỉ, thông bạch, tế tân...
- Loại cay mát: sài hồ, cát căn, thăng ma, ngưu bàng tử, tang diệp, bạc hà, cúc
hoa, phù bình, đậu xị, thuyền y...
+ Thuốc thanh nhiệt là nhóm thuốc có tác dụng thanh nhiệt giáng hoả (tả hỏa):
thanh nhiệt lương huyết và thanh nhiệt - giải độc. Cũng có tài liệu chia thuốc
thanh nhiệt giáng hoả ra 2 loại: thanh nhiệt tả hoả và thanh nhiệt táo thấp. Ngồi
ra khi điều trị cịn phối hợp với một số thuốc bổ âm, dưỡng âm, dưỡng huyết.
Người xưa coi đó là thuốc thanh hư nhiệt (âm hư sinh nội nhiệt).
- Thuốc thanh nhiệt giáng hoả (tả hoả) thường được chọn dùng: hoàng cầm,
hoàng liên, hoàng bá, chi tử, long đờm thảo, hạ khô thảo, quyết minh tử, thạch
cao, tri mẫu, lô căn, trúc diệp...
- Thuốc thanh nhiệt lương huyết thường dùng: sinh địa, huyền sâm, đan bì,
xích thược, bạch đầu ông, thanh hao, bạch vi, địa cốt bì...
- Thuốc thanh nhiệt - giải độc thường dùng: kim ngân, liên kiều, thanh đại
diệp, tử thảo, bồ công anh, tử hoa địa đinh, bán biên liên, bạch hoa xà thiệt thảo,
hạ khô thảo, phượng vĩ thảo, lệ chi thảo, khổ sâm, xuyên thạch linh, bán chi liên,
nhất kiến hỷ, sơn đậu căn, xạ can, ngư tinh thảo, bối tương thảo...
+ Thuốc tả hạ là nhóm thuốc gây nhuận tràng, tiện lỏng, trục thủy tả hạ. Các
vị thuốc thường được chọn dùng: đại hoàng, mang tiêu, hoả ma nhân, uất quí
nhân, đại kích nguyên hoa, cam toại, hắc sửu.
+ Thuốc trừ phong thấp là nhóm thuốc có tác dụng sơ thông kinh lạc trừ
phong thấp, giải trừ thống tý ở biểu, vận động trở ngại. Các vị thuốc thường được
chọn dùng: tần cửu, độc hoạt, uy linh tiên, ngũ gia bì, mộc qua, hổ trượng, xú
ngơ đồng, hy thiêm thảo, hải phong đằng, thương nhĩ tử, ô tiêu xà, mao lương.


37


+ Thuốc phương hương hóa thấp là nhóm thuốc có tác dụng phương hương
hóa trọc, hồ vị. Các vị thuốc được chọn dùng: hoắc hương, phong lan, hậu phác,
sa nhân, bạch khấu nhân, thương truật, thạch xương bồ.
+ Thuốc lợi thủy thấm thấp là nhóm thuốc có tác dụng bài trừ thủy thấp, thông
lợi tiểu tiện. Các vị thuốc được chọn dùng: phục linh, trư linh, trạch tả, đông qua tử
(bì), ý dĩ nhân, hoạt thạch, sa tiền thảo (tử), mộc thông, thông thảo, hải kim sa, kim
tiền thảo, ngọc mễ tu, nhân trần, biển xúc, cù mạch, phòng kỷ, tỳ giải.
+ Thuốc ơn lý là nhóm thuốc có tác dụng ôn lý trừ hàn, ôn trung hồi dương,
tán hàn chỉ thống. Một số vị thuốc được chọn dùng: phụ tử, nhục quế, can khương,
cao lương khương, ngô thù du, hoa tiêu, tiểu hồi hương, ngải diệp...
+ Thuốc lý khí là nhóm thuốc có tác dụng điều lý khí cơ, lưu thơng khí huyết. Một số vị thuốc được chọn dùng: quất bì, chỉ thực (sác), mộc hương, giới
bạch, hương phụ, ơ dược, thanh bì, xun luyện tử, uất kim.
+ Thuốc lý huyết là nhóm thuốc có tác dụng điều lý huyết phận chỉ huyết tiêu
tán huyết ứ. Một số vị thuốc được chọn dùng: bạch cập, đại kế, tiểu kế, mao căn,
tiên cước thảo, trắc bá diệp, tây thảo, địa du, quỉ hoa, huyết dư thán, tam thất.
Một số vị thuốc thường dùng hoạt huyết - khư ứ: xuyên khung, đan sâm, diên hồ
sách, kê huyết đằng, đào nhân, hồng hoa, bồ hồng, ngũ linh chi, ích mẫu thảo,
ngưu tất, trạch lan, nhũ hương, một dược, xuyên sơn giáp, mã tiên thảo.
+ Thuốc tiêu đạo là nhóm thuốc có tác dụng tiêu thực đạo trệ, tăng cường vận
hóa và chuyển hóa của tỳ - vị. Một số vị thuốc được chọn dùng: lục khúc, mạch
nha, sơn tra, kê nội kim, lai phục tử...
+ Thuốc hóa đàm chỉ khái bình suyễn là nhóm thuốc có tác dụng tiêu trừ
đàm, cầm ho; được gọi là hố đàm chỉ khái bình suyễn. Thuốc được chọn dùng
để hóa đàm: bán hạ, bạch giới tử, thiên nam tinh, tỳ bà diệp, tiền hồ, cát cánh,
trúc nhự, tang bạch bì, thiên trúc hồng, hải cáp xác, hải cảo; một số thuốc chỉ
khái bình suyễn: bách bộ, tử uyển, khoản đơng hoa, tơ tử, tồn phức hoa, bạch

tiền, khổ hạnh nhân.
+ Thuốc bình can tức phong là nhóm thuốc có tác dụng bình tức nội phong
thanh can tiềm dương, trấn tĩnh. Một số vị thuốc thường dùng: thạch quyết minh,
đại xích thạch, linh dương giác, thiên ma, câu đằng, bạch tật lê, tồn yết, ngơ
cơng, bạch cương tàm.

38


+ Thuốc an thần là nhóm thuốc có tác dụng an thần định chí. Một số vị thuốc
được chọn dùng là: toan táo nhân, bá tử nhân, viễn trí, trân châu mẫu, long cốt,
mẫu lệ, từ thạch, chu sa, hổ phách.
+ Thuốc bổ ích là nhóm thuốc có tác dụng bồi bổ âm - dương, khí - huyết:
- Thuốc có tác dụng bổ khí (tỳ khí, phế khí là chính): nhân sâm, đẳng sâm,
thái tử sâm, hoàng kỳ, bạch truật, hồi sơn, cam thảo, biển đậu.
- Thuốc có tác dụng bổ dương là nhóm thuốc có tác dụng bổ thận, tráng
dương, cường cân cốt: tử hà sa, bổ cốt chi, thiên ba kích, tiên mao, dâm dương
hoắc (tiên linh tỳ), lộc giác, lộc nhĩ, thỏ ty tử, đông tật lê, ích trí nhân, hồ đào
nhục, cẩu tích, tục đoạn.
- Thuốc có tác dụng bổ huyết là nhóm thuốc thường được chỉ định trong hội
chứng thiếu máu, kinh nguyệt không đều. Một số vị thuốc được chọn dùng: đương
qui, bạch thược, thục địa, tang thầm tử, hà thủ ô, câu kỷ tử...
- Thuốc bổ âm là thuốc có tác dụng dưỡng âm - sinh tân - nhuận táo. Các vị
thuốc được chọn dùng: thiên môn đông, mạch môn đông, thạch hộc, sa sâm, ngọc
trúc, bách hợp, hạn liên thảo, nữ trinh tử, qui bản, miết giáp.
+ Thuốc thu liễm là nhóm thuốc có tác dụng thu liễm cố sáp. Các vị thuốc
được chọn dùng: ngũ vị tử, sơn thù nhục, khiếm thực, kim anh tử, tang phiêu
tiêu, phúc bồn tử, ô tặc cốt, ơ mai, thạch lựu bì, nhục đậu khấu...
+ Thuốc khu trùng là nhóm thuốc có tác dụng khu trùng hoặc diệt trùng - ký
sinh trùng đường ruột. Một số vị thuốc được chọn dùng: sử quân tử, khổ luyện

căn bì, binh lang, quán chúng, nha đàm tử...
+ Thuốc dùng ngồi là nhóm thuốc dùng để bơi đắp ngồi; có tác dụng thu
liễm, chỉ huyết, tiêu thũng, giải độc, hoá ứ, sinh cơ, bài nùng, chỉ thống. Một số
vị thuốc được chọn dùng: hùng hoàng, sa sàng tử, minh phàn, phê sa, lưu hồng,
khinh phấn, lơ cam thạch, thủy phiến...
2. Tác dụng kháng vi khuẩn và ức chế vi khuẩn của thuốc thảo mộc.
Trong những năm gần đây, trên cơ sở kết hợp YHHĐ với biện chứng luận trị
theo y lý Y học cổ truyền, một số nước tiên tiến đã đưa nền Y học cổ truyền
phương Đông ngang tầm với YHHĐ, đã lần lượt nghiên cứu cơ bản các thuốc
thảo mộc dạng cao lỏng, dạng sắc thang, dạng tễ, dạng hoàn, dạng viên nén, viên
bao, dạng tiêm, dạng truyền... Bằng kết quả khả quan trên thực nghiệm và lâm
sàng, người ta đã khẳng định tác dụng kháng khuẩn và ức chế vi khuẩn của nhiều
loại thuốc thảo mộc. Theo tài liệu của Viện Y học Giang Tô (1973); tân biên

39


×