Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

BẢO HỘ VÀ CHIA SẺ LỢI ÍCH TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.83 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

BẢO HỘ VÀ CHIA SẺ LỢI ÍCH TRI THỨC BẢN
ĐỊA
TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT
VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hồng Ngọc Giao

Hµ néi - 2009


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI NIỆM TRI THỨC BẢN ĐỊA



6

1.1.

Khái niệm tri thức bản địa

6

1.2

Đặc điểm tri thức bản địa

11

1.3.

Biểu hiện của tri thức bản địa

13

1.3.1.

Bảo hộ nguồn gen

14

1.3.2.

Bảo hộ tri thức truyền thống


15

1.3.3.

Bảo hộ các hình thức biểu hiện văn hóa dân gian

15

1.4.

Tri thức bản địa và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong tình
hình hiện nay

17

1.5.

Bảo hộ pháp lý đối với tri thức bản địa

19

1.6.

Nguyên lý pháp lý bảo hộ tri thức bản địa

21

1.7.


Tri thức bản địa với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ

26

Chương 2:

33

NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO HỘ VÀ CHIA SẺ LỢI ÍCH
TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ THỰC TIỄN MỘT SỐ NƯỚC

2.1.

Một số vấn đề cơ bản trong bảo hộ tri thức bản địa

33

2.1.1

Vấn đề chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên
và tri thức truyền thống

36

2.1.2.

Vấn đề thực thi quyền ở nước ngoài - nguyên tắc đối xử
quốc gia


38

2.1.3.

Vấn đề chia sẻ lợi ích trong việc sử dụng và khai thác tri
thức bản địa

39


2.2.

Luật quốc tế về bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền
thống, gen và các hình thức thể hiện văn hóa dân gian

42

2.2.1.

Bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền thống

42

2.2.2.

Bảo hộ các hình thức thể hiện văn hóa dân gian

43

2.2.3.


Bảo hộ tri thức bản địa về tiếp cận nguồn gen, bảo tồn và
chia sẻ lợi ích từ gen

46

2.2.3.1. Bảo hộ tri thức bản địa về gen thông qua cơ chế cấp patent

48

2.2.3.2. Bằng chứng về nguồn gốc hoặc về tiếp cận trong quá trình
xử lý đơn yêu cầu cấp Bằng sáng chế- patent

51

2.3.

Một số mơ hình bảo vệ tri thức truyền thống trên thế giới

55

2.3.1.

Bảo vệ tri thức truyền thống theo pháp luật Mỹ

56

2.3.2.

Bảo hộ tri thức bản địa theo pháp luật Philippines


60

2.3.3.

Bảo hộ tri thức bản địa theo pháp luật Trung Quốc

61

Chương 3: BẢO HỘ VÀ CHIA SẺ LỢI ÍCH TRI THỨC BẢN ĐỊA

63

TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

3.1.

Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa ở Việt Nam

63

3.1.1.

Chính sách pháp luật về bảo vệ và chia sẻ lợi ích tri thức
bản địa ở Việt Nam hiện nay

64

3.1.2.


Thực trạng bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức bản địa

67

3.1.3.

Bảo hộ và chia sẻ lợi ích các hình thức biểu hiện văn hóa
dân gian

71

3.1.4.

Bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền thống

76

3.1.5.

Bảo tồn nguồn gen và bản quyền tri thức truyền thống về
nguồn gen

79

3.2.

Một số kiến nghị xung quanh việc bảo hộ và chia sẻ lợi ích
tri thức truyền thống bằng pháp luật ở Việt Nam

85


KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92


MỞ ĐẦU

mình thơng qua cơ chế chính sách pháp luật cụ thể, rõ ràng đồng thời sẵn
sàng kiến thức trong quá trình đàm phán quốc tế về vấn đề này.

Tri thức truyền thống được khai thác trên phạm vi toàn cầu hàng
ngàn năm nay và được cộng đồng quốc tế nghiên cứu nhằm tìm kiếm các
cơng cụ pháp lý để bảo vệ từ những năm bẩy mươi của thế kỷ trước. Cho
đến nay, đây vẫn là chủ đề gây tranh luận khơng chỉ trên bình diện quốc
gia mà cịn ở các diễn đàn quốc tế.

Thực tế tận dụng thế mạnh tri thức để phát triển kinh tế, Đại hội
Đảng lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong bối cảnh quốc tế mới phải gắn với phát triển kinh tế tri
thức: "Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của nước ta để rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri
thức. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của
con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại".


1. Lý do chọn đề tài

Tri thức bản địa được hiểu là là những kinh nghiệm được duy trì và
đúc rút qua nhiều thế hệ ở các cộng đồng cư dân từ thực tiễn sản xuất và
đời sống. Cho tới nay, thế giới đã công nhận tri thức bản địa là nguồn tri
thức có tính hữu dụng cao trong cuộc sống hàng ngày của con người và
được xem là cơ sở cho những sáng tạo kế tiếp của nhiều ngành hoa học
mà hiện đang là mối quan tâm của toàn thế giới. Những tri thức này có
thế kể đến là các tri thức về thiên nhiên, y dược học, thực phẩm, văn hóa
nghệ thuật… Trong quá trình tồn cầu hóa ngày càng sâu rộng và nhờ có
sự trợ giúp phát triển mạnh mẽ của cơng nghệ thông tin, tri thức bản địa
được biết đến nhiều hơn trở thành một trong những vấn đề được pháp
luật quốc gia và quốc tế quan tâm hơn. Tuy nhiên, việc tiếp cận thế nào
để sử dụng nó được nhiều hơn, ai được hưởng lợi và chia sẻ những lợi
ích từ việc hưởng lợi như thế nào ngày càng gây tranh cãi và bất đồng
giữa các cộng đồng và các quốc gia.
Nằm trong tình hình chung hội nhập, Việt Nam cũng như các quốc
gia đang phát triển đang lo ngại về những tri thức truyền thống đúc rút từ
kinh nghiệm của rất nhiều thế hệ cộng đồng khác nhau sẽ không được sử
dụng tương xứng với giá trị của nó. Trong khi quốc tế đang có những
nghiên cứu và hợp tác sâu rộng về bảo hộ tri thức truyền thống thì việc
nghiên cứu bảo hộ và bảo tồn tri thức bản địa của Việt Nam càng mang
tính cấp thiết, đảm bảo cho chúng ta có những kiến thức đầy đủ bảo vệ

Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính
trị về bảo vệ mơi trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa , hiện
đại hóa đất nước vì mục tiêu phát triển bền vững , bảo tồn thiên nhiên và
đa dạng sinh học là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ
môi trường (bên cạnh các nhiệm vụ phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm ,

cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường ). Đây là những định hướng
rất cần thiết giúp chúng ta có những quan tâm đặc biệt về việc tận dụng
những tri thức truyền thống, kết hợp với tri thức bên ngoài để phát triển
kinh tế. Đồng thời, những định hướng trên cũng làm cơ sở cho chúng ta
xây dựng cơ chế bảo hộ vốn tri thức truyền thống, bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững. Về mặt luật pháp, mặc dù chưa có luật chuyên
ngành về quản lý và khai thác tri thức truyền thống, tuy nhiên chúng ta
đã bắt đầu quy định việc bảo hộ nguồn tri thức này thông qua các luật
chuyên ngành như Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Bộ luật Dân sự năm
2005, Luật Đa dạng sinh học năm 2007, Luật Bảo vệ môi trường năm
2005… Nhận thấy tầm quan trọng và để đóng góp cho những nghiên cứu
về tri thức truyền thống, cách thức bảo hộ pháp lý trong việc sử dụng và
chia sẻ lợi ích từ khai thác tri thức truyền thống, tôi đã lựa chọn đề tài:
"Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam"

3

4


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
So với các đối tượng được bảo hộ pháp lý của luật sở hữu trí tuệ, bảo
hộ tri thức bản địa mới được đưa ra nghiên cứu trong những năm gần
đây. Các nghiên cứu xuất hiện nước ta hiện nay thể hiện ở những góc độ
khác nhau và được trình bày dưới dạng các bài báo khoa học, chuyên đề,
báo cáo tổng kết… Có thể kể tới các nghiên cứu này như: Mối quan hệ
giữa văn hóa và mơi trường, tài liệu dự án "Tri thức bản địa về môi
trường" của Bùi Văn Thắng thuộc Viện Văn hóa - Thơng tin Hà Nội,
2007; "Bảo hộ tri thức truyền thống tại Việt Nam, vấn đề pháp lý và thực

tiễn" của Phạm Hồng Quất, Cục Sở hữu trí tuệ, 5/2008; một số tài liệu cho
phép tham khảo tại dự án Việt Nam - Thụy Sĩ về sở hữu trí tuệ (SVIP)
2007 - 2010; một số bài viết của Tiến sĩ Peter- Tobias Stoll Bộ môn Luật
môi trường và kinh tế thế giới, Khoa luật - Đại học Geord - August,
Gottingen, Đức như: Max-Planck - Tham luận về luật của Tổ chức
Thương mại Thế giới, quyển 1, Martinus Nijhoff, Nhà xuất bản Leiden,
Boston, 2006 - 2008; "Bảo hộ tri thức truyền thống cộng đồng bản địa",
của Thanh Hương, Trung tâm Con người và Thiên nhiên, 2009; "Cách
tiếp cận của Hoa Kỳ: Nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân
gian", của Jeanne Holden, chuyên đề về quyền sở hữu trí tuệ, ấn phẩm
của chương trình thơng tin quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 1/ 2006;
"Về khái niệm tri thức bản địa", của Bùi Hoài Sơn, Viện Văn hóa Nghệ
thuật Việt Nam, 2008; các bài viết về tri thức bản địa của thạc sĩ Nguyễn
Hữu Cải, Trường Đại học Nông - Lâm Thành phố Hồ Chí Minh; "Tri thức
bản địa và phát triển", của Bùi Thị Thu Hà, Ban Nghiên cứu Văn hóa
sinh thái và Du lịch - Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, 2007; "Thái
Lan: Luật pháp bảo vệ nguồn gen thực vật" của Surawit Wannakrairoj, Tạp
chí Luật học, số 5, 2001; Báo cáo chuyên đề: "Phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật về đa dạng sinh học tại Việt Nam", của Bộ Tài nguyên và
Môi trường, 2005; Báo cáo: "Tổng quan về đa dạng sinh học ở Việt
Nam", của Bộ Tài nguyên và Mơi trường, 1/ 2008; … Tuy nhiên, nhìn
chung chưa có một cơng trình nghiên cứu đầy đủ và tổng thể về bảo hộ
5

tri thức bản địa dưới góc độ pháp lý đáp ứng những đòi hỏi và thách thức
hội nhập hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm rõ khái niệm và bản chất của tri
thức bản địa dưới góc độ pháp luật; Cung cấp những nghiên cứu về các
phương thức bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa theo pháp luật quốc

tế và thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này nhằm đưa ra
những kiến nghị giải pháp cụ thể xây dựng pháp luật về bảo hộ tri thức
bản địa ở nước trong thời kỳ hội nhập.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn là:
- Đưa ra khái niệm, cách hiểu, đặc điểm của tri thức bản địa, những
vấn đề pháp lý liên quan tới tri thức bản địa như nguyên lý pháp lý của
bảo hộ tri thức bản địa, mối quan hệ giữa bảo hộ tri thức bản địa và pháp
luật về sở hữu trí tuệ.
- Tình hình pháp luật quốc tế về bảo hộ tri thức bản địa thông qua
quy định của các định chế quốc tế lớn như WTO, WIPO, UNESCO và
thực tế quy định bảo hộ tri thức bản địa của một số các quốc gia.
- Thực trạng về pháp luật bảo hộ tri thức bản địa Việt Nam, những
kiến nghị của học viên về giải pháp bảo hộ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài rộng nên trong luận văn học viên không thể đề cập
hết những vấn đề cụ thể mà chỉ tập trung vào những phần chính mà tác
giả cho là quan trọng nhất.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm tri thức bản địa.
6


Chương 2: Những biện pháp bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản
địa trong pháp luật quốc tế.

coi là dân bản địa ở phương diện thế giới, những không được coi là dân
tộc bản địa trong phạm vi quốc gia.


Chương 3: Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong pháp luật
Việt Nam.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khi nói về những kiến thức truyền
thống về y học đã đưa ra khái niệm "y học truyền thống".

Chương 1
KHÁI NIỆM TRI THỨC BẢN ĐỊA
Chương này được chia ra làm nhiều mục nhỏ khác nhau nhằm giới
thiệu và làm rõ khái niệm tri thức bản địa thông qua việc đưa ra quan
điểm của các tổ chức quốc tế lớn như WIPO, WHO, ILO… bao gồm
cách hiểu, cách gọi;dd điểm của tri thức bản địa;b hiện của tri thức bản
địa. Tiêp đó tác giả luận văn đưa ra lý luận nguyên lý pháp lý về bảo hộ
tri thức bản địa, mối quan hệ giữa bảo hộ tri thức bản địa và luật sở hữu
trí tuệ.
1.1. Khái niệm tri thức bản địa
Khái niệm Tri thức bản địa được bóc tách làm 2 phần "tri thức" và
"bản địa".
Về khái niệm Bản địa, Trong Công ước số 169 của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO Convention 169) để chỉ "người dân ở những nước độc
lập được coi là những thổ dân căn cứ theo nguồn gốc của họ có từ cư
dân sinh sống tại nước đó, hay tại một khu vực địa lý nhất định của nước
đó, vào thời khi mà đất nước này bị xâm chiếm hay bị làm thuộc địa hay
vào lúc bắt đầu hình thành biên giới hiện nay của quốc gia này, và là
những người không kể địa vị pháp lý của họ thế nào, vẫn giữ lại một vài
hoặc tất cả thể chế chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của riêng họ" (Điều 1).

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) khi đưa ra "Quy định mẫu
cho luật quốc gia về bảo hộ các tác phẩm văn hóa dân gian chống lại

việc khai thác trái phép và những hành động gây phương hại khác" năm
1982, dùng đồng thời những thuật ngữ "tri thức bản địa", "tri thức truyền
thống", "tri thức dân gian" và "tri thức thổ dân". Tuy nhiên sau này,
những khái niệm trên cũng được WIPO dùng không chỉ bao gồm đối
tượng tri thức của hoạt động "biểu hiện nghệ thuật truyền thống dân
gian" mà còn là cả tri thức từ những hoạt động khác như bảo tồn nguồn
gen và tri thức truyền thống.
Luật một số nước cũng có những cách gọi khác nhau, có thế là "tri
thức truyền thống kết hợp", "tri thức bản địa" hoặc "tri thức tập thể"...
Nhìn chung những khái niệm trên có thể được hiểu giống nhau đó là
những kiến thức được một số cộng đồng dân cư hồn thiện, duy trì, phát
triển qua một thời gian dài, qua các thế hệ khác nhau phản ánh sự tương
tác qua lại giữa con người và môi trường tự nhiên.
Dựa trên điều kiện lịch sử của Việt Nam - đã từng là thuộc địa lâu dài
của các nước như Trung Quốc, Nhật bản, Pháp, Mỹ; căn cứ tình hình thực tế
tri thức bản địa khơng chỉ bị đe dọa do thiếu sự bảo tồn mà còn bị đe dọa bởi
sự đánh cắp do áp lực tồn cầu hóa nên học viên cho rằng nên gọi những tri
thức mà đề tài này nghiên cứu với thuật ngữ là "tri thức bản địa" từ các
thuật ngữ đã nêu trên. Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu, đề tài này cũng sẽ
được sử dụng cả thuật ngữ "tri thức truyền thống" và "tri thức bản địa".
1.2. Đặc điểm tri thức bản địa

Tuy nhiên, cũng có những cách hiểu khác, ví dụ, trong một quốc gia,
nhiều khi những tộc người thiểu số được gọi là bản địa. Trên phạm vi
tồn cầu, đơi khi người ta gọi những dân tộc có lịch sử sinh sống lâu đời
trên một vùng đất là dân tộc bản địa. Như vậy, người Việt có thể được

Tri thức bản địa có những đặc trưng khác biệt nếu so sánh với các
đối tượng bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ, mhững đặc trưng có thể kể
đến là: Tính cộng đồn, tính khoa học và trải nghiệm, tính lãnh thổ, tính


7

8


khơng chính thức, các tri thức bản địa thường gắn với những khái niệm
văn hóa tâm linh.
1.3. Biểu hiện của tri thức bản địa
Việc xác định hay cố gắng đưa ra một khái niệm cụ t thức bản địa là
rất khó và có thể sẽ làm hạn chế phạm vi của tri thức bản địa. Chính vì
vậy rất cần thiết xác định những biểu hiện của tri thức bản địa.
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới phân loại tri thức bản địa bao gồm:
Tri thức nông nghiệp; tri thức khoa học; tri thức kỹ thuật; tri thức sinh
thái; tri thức về thuốc, bao gồm các bài thuốc và các phương pháp chữa
bệnh; tri thức liên quan tới đa dạng sinh học.
Dưới góc độ quyền sở hữu trí tuệ, theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới
(WIPO), việc bảo hộ những tri thức trên được chia thành ba mảng chính:
- Tiếp cận các nguồn gen và chia sẻ lợi ích;
- Bảo vệ sự sáng tạo trong tri thức truyền thống;
- Bảo hộ biểu hiện của văn hóa dân gian.
Đây là ba biểu hiện quan trọng và có liên hệ mật thiết với nhau và
với quyền sở hữu trí tuệ. Sở dĩ ba chủ đề trên ngày càng được quốc tế
quan tâm, bàn thảo vì nó liên quan tới các chính sách quan trọng của thế
giới cũng như mỗi quốc gia về nông nghiệp, lương thực, đa dạng sinh
học, môi trường, nhân quyền, đa dạng văn hóa, sắc tộc, phát triển kinh tế
và thương mại. Đây là những vấn đề quan trọng bức thiết nổi lên gần đây
đòi hỏi mỗi quốc gia phải quan tâm, giải quyết.
1.3.1. Bảo vệ nguồn gen


đưa ra cách sử dụng và bảo tồn gen như thế nào; cũng như vậy, hai phần
nhỏ còn lại đưa ra cách hiểu thế nào về tri thức truyền thống, các hình
thức biểu hiện văn hóa dân gian…
1.4. Tri thức bản địa và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong tình
hình hiện nay
Ở phần này, tác giả luận văn muốn nêu lên thực trạng bảo hộ tri thức
bản địa trước vịng xốy của tồn cầu hóa, những thuận lợi và khó khăn.
1.5. Bảo hộ pháp lý đối với tri thức bản địa
Bảo hộ pháp lý đối với tri thức bản địa được hiểu trong luận văn này
là sự bảo hộ chống lại việc sử dụng trái phép của bên thứ ba (như sao
chép, phóng tác và sử dụng nhằm mục đích thương mại). Đây là một
hình thức bảo vệ hơn là bảo tồn (bảo tồn là bảo vệ tránh bị mất và mai
một; bảo vệ là việc tánh sử dụng trái phép hoặc sử dụng không được
người khác cho phép). Hiện tại có hai hình thức bảo hộ pháp lý đối với
tri thức truyền thống đó là bảo hộ "tích cực" và bảo hộ "phịng vệ".
Bảo hộ "tích cực": Là việc tri thức bản địa có được các quyền bảo vệ
của quyền sở hữu trí tuệ, các quyền sở hữu trí tuệ này nhằm tạo ra các sự
bảo hộ tích cực chống lại một loạt các hành vi như khai thác trái phép,
làm sai lệch làm giảm giá trị, trích dấn sai lệch về nguồn gốc hay khơng
cơng bố nguồn gốc tri thức bản địa khi sử dụng…
Bảo hộ phòng vệ: Đây là việc sử dụng dữ liệu thống kê chính thức về
các loại tri thức bản địa nhằm loại trừ hoặc phản đối các quyền đối với các
sáng chế được yêu cầu bảo hộ mà có sử dụng trực tiếp từ tri thức bản địa này.
1.6. Nguyên lý pháp lý bảo hộ tri thức bản địa

1.3.2. Bảo hộ tri thức truyền thống
1.3.3. Bảo hộ các hình thức biểu hiện văn hóa dân gian

Mục này đưa ra câu hỏi và trả lời vì sao phải bảo hộ tri thức bản địa?
Việc này sao bây giờ mới đặt ra mà không phải là từ trước đây.


Ba mục nhỏ này làm rõ thêm phần biểu hiện của tri thức truyền
thống, đưa ra cách hiểu chung nhất theo WIPO về nguồn gen là gì, vì sao
bảo vệ nguồn gen và chia sẻ lợi ích lại là một phần của tri thức truyền
thống - thực chất của vấn đề là tri thức truyền thống là phần quan trọng

Có hai nguyên nhân mà chúng ta phải đặt ra vấn đề bảo hộ đó là giá
trị mà tri thức bản địa đem lại đối với đời sống con người và tri thức bản
địa thực sự là nguồn tri thức khoa học, có thử nghiệm và sửa đổi theo
thời gian. Đây là thành quả sáng tạo cần phải được bảo vệ.

9

10


Thực tế những giá trị tri thức bản địa đang bị mai một và đánh cắp
hiện nay thể hiện ở hai giai đoạn: Thứ nhất, đó là việc tước đoạt khỏi
cuộc sống của người dân bản địa những tri thức mà họ chính là chủ nhân
tìm ra, duy trì và phát triển, những tri thức này quan trọng trong việc sinh
sống hàng ngày của họ; thứ hai, họ bị mất đi khả năng khẳng định quyền
khi bên thứ ba sử dụng những tri thức truyền thống của họ đăng ký bản
quyền, và người dân bản địa khi muốn sử dụng lại phải trả tiền cho các
sản phẩm đã được đăng ký bản quyền kia.
1.7. Tri thức bản địa với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ
Mục này lý giải mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ và việc bảo
hộ tri thức bản địa. Thực tế hiện nay có nhiều quan điểm về vấn đề này,
có quan điểm cho rằng khơng thể sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để bảo hộ
tri thức bản địa. Tuy nhiên, theo quan điểm chung cũng như quan điểm
của các định chế quốc tế lớn như WIPO và WTO, khi chúng ta chưa tìm

được một luật riêng bảo hộ tri thức truyền thống thì việc sử dụng luật về
quyền sở hữu trí tuệ để bảo hộ tri thức truyền thống là một giải pháp tối
ưu giúp đảm bảo quyền của người nắm giữ tri thức truyền thống.
Việc tìm kiếm bảo hộ tri thức truyền thống bằng luật sở hữu trí tuệ
cũng tác động địi hỏi thay đổi cách nhìn nhận về sáng tạo trong luật sở
hữu trí tuệ trước đây về việc ghi nhận chính xác và đầy đủ ai sáng tạo,
sáng tạo đến đâu một cơng trình.
Chương 2

Về lịch sử bảo hộ tri thức bản địa chính thức được đặt ra do tổ chức
sở hữu trí tuệ thế giới WIPO và Tổ chức Giáo dục và Văn hóa Liên hợp
quốc (UNESCO) năm 1978; năm 1982 hai định chế quốc tế lớn này đã
cho đời "các quy định mẫu đối với luật quốc gia về bảo hộ các hình thức
thể hiện văn hóa dân gian chóng lại việc khai thác bất hợp pháp và
những hành vi xâm phạm khác"; năm 2000, Ủy ban liên chính phủ về sở
hữu trí tuệ và tri thức truyền thống, gen và văn hóa dân gian được thành
lập trong khn khổ WIPO đã được thành lập. Ngồi WIPO, Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) trong các vòng đàm phán của mình cũng có
những hoạt động đề xuất tích cực về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
trong đó có các quy định liên quan tới việc sử dụng tài nguyên là tri thức
bản địa. Gần đây nhất, nằm trong khn khổ vịng đàm phán Doha, tại
phiên họp lần thứ 45, năm 2007, Hội đồng TRIPs (Hội đồng nghiên cứu
về các khía cạnh thương mại liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ) đã đặc
biệt đàm phán và thảo luận về những vấn đề như: Sáng chế dược phẩm,
chỉ dẫn địa lý, mối quan hệ giữa sở hữu trí tuệ và đa dạng sinh học, bảo
hộ tri thức truyền thống và văn hóa dân gian…
2.1.1. Vấn đề chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên và
tri thức truyền thống
2.1.2. Vấn đề thực thi quyền ở nước ngoài - nguyên tắc đối xử
quốc gia

2.1.3. Vấn đề chia sẻ lợi ích trong việc sử dụng và khai thác Tri
thức bản địa

Mục này tác giả luận văn khái quát lịch sử bảo hộ tri thức bản địa của
pháp luật quốc tế có từ khi nào và hiện tại cịn đang bản thảo vấn đề gì.

Đây là những vấn đề quan trọng liên quan tới tính chủ quyền quốc
gia, quyền của quốc gia có tài nguyên đối với tài sản của mình. Do tính
đặc trưng của tri thức bản địa là có tính cộng đồng, dễ phát tán, nên tác
giả luận văn đưa ra vấn đề là chủ quyền quốc gia có nguồn tri thức truyền
thống sẽ như thế nào, thực thi quyền này như thế nào ở nước ngoài…
Cũng như vậy, vấn đề chia sẻ lợi ích tri thức bản địa như thế nào, thực
chất là làm rõ cụ thể quyền của người dân bản địa.

11

12

NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO HỘ VÀ CHIA SẺ LỢI ÍCH
TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC
2.1. Một số vấn đề cơ bản trong bảo hộ tri thức bản địa


Yêu cầu quan trọng của quyền chủ quyền quốc gia đối với tài
nguyên thiên nhiên và tri thức truyền thống chủ yếu liên quan đến quyền
của một quốc gia được tự do quy định cách thức khai thác tài nguyên
thiên nhiên của mình. Việc phát triển những quy trình phát triển kinh tế,
cơ chế chuyển giao sử dụng, thuế, và đặc biệt là việc kiểm soát hành
động của các quốc gia khác đối với việc khai thác nguồn tài nguyên và tri

thức truyền thống là nội dung chính của quyền được nêu. Chủ quyền đối
với tài nguyên thiên nhiên và trách nhiệm không gây tổn hại tới môi
trường của quốc gia khác hoặc các vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc
gia là một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc bình đẳng
của luật quốc tế.
2.2. Luật quốc tế về bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền
thống, gen và các hình thức thể hiện văn hóa dân gian
2.2.1. Bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền thống
Theo khuyến nghị của WIPO, có thể sử dụng các công cụ bảo hộ của
luật sở hữu trí tuệ để bảo hộ tri thức truyền thống nói chung khi chưa thể
tìm ra giải pháp riêng như:
Thứ nhất: Sử dụng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện có để bảo hộ
nội dung, ý tưởng của tri thức truyền thống dưới hình thức bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ đối với sáng chế;

hình thức quy định riêng về nghĩa vụ bộc lộ, về việc nộp lưu mẫu, xin
phép chủ thể nắm giữ tri thức truyền thống…
2.2.2. Bảo hộ các hình thức thể hiện văn hóa dân gian
Mặc dù sau này áp dụng chung cho cả việc bảo hộ các hình thức
khác của tri thức bản địa nhưng khi muốn tìm hiểu về phương cách bảo
hộ các hình thức thể hiện văn hóa dân gian người ta quay lại bộ luật mẫu
do WIPO và UNESCO xây dựng, đây là cơ sở để cho các quốc gia tham
khảo khi xây dựng luật pháp bảo hộ các tri thức truyền thống nói chung
và các hình thức biểu hiện văn hóa dân gian nói riêng.
2.2.3. Bảo hộ tri thức bản địa về tiếp cận nguồn gen, bảo tồn và
chia sẻ lợi ích từ gen
2.2.3.1. Bảo hộ tri thức bản địa về Gen thông qua cơ chế cấp patent
2.2.3.2. Bằng chứng về nguồn gốc hoặc về tiếp cận trong quá trình
xử lý đơn yêu cầu cấp Bằng sáng chế - patent
Hiện tại, tri thức về gen, cách tiếp cận và chia sẻ lợi ích từ gen đang

được các quốc gia quan tâm đặc biệt là các định chế quốc tế lớn như
WIPO, WTO do vai trò của gen rất quan trọng trong sự phát triển bền
vững của thế giới cũng như cá nhân mỗi quốc gia.

Thứ tư: Sử dụng hệ thống bảo hộ riêng (sui generis) nhằm tạo ra cơ
chế bảo hộ thực sự phù hợp và đầy đủ đối với tri thức truyền thống, dưới

WIPO đã có hẳn một báo cáo nghiên cứu về việc sử dụng phương
thức bảo hộ Paten để bảo hộ cho các tri thức về gen và chia sẻ lợi ích từ
tri thức về gen. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để bảo tồn
gen và các tri thức về gen. Song song với việc tìm hiểu cơ chế cấp patent
để bảo vệ gen, học viên cũng đặt một mục với nội dung bằng chứng
nguồn gốc để cấp patent liên quan đến gen. Đây là phần gây tranh cãi
nhiều nhất hiện nay của TRIPs trong các vịng đàm phán Doha. là liệu có
bắt buộc phải đưa ra bằng chứng nguồn gốc của vật liệu sáng tạo khi nộp
đơn xin cấp patent hay không. Pháp luật chuyên ngành về bảo tồn thiên
nhiên như Công ước đa dạng sinh học, Hướng dẫn Bonn và luật pháp các
nước, khu vực cũng đặt ra vấn đề này.

13

14

Thứ hai: Sử dụng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện có để bảo hộ
hình thức thể hiện của tri thức truyền thống dưới hình thức bảo hộ quyền
tác giả;
Thứ ba: Sử dụng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện có để bảo hộ
danh tiếng, uy tín và yếu tố có vai trị chỉ dẫn thương mại đối với các sản
phẩm truyền thống dưới hình thức bảo hộ nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh;



2.3. Một số mơ hình bảo vệ tri thức truyền thống trên thế giới
2.3.1. Bảo vệ tri thức truyền thống theo quan điểm pháp luật Mỹ
Các quy định chủ yếu tập trung tại Đạo luật về mỹ thuật và thủ công
thổ dân da đỏ năm 2000 (Indian Arts and Crafts Act - IACA), dữ liệu
USPTO về biểu hiện chính thức của các bộ tộc người Mỹ bản xứ - phần
dữ liệu được thiết lập kèm Đạo luật thi hành Hợp đồng luật nhãn hiệu
năm 1998 (USPTO Database of the Trademark Law Treaty
Implementation Act). Tuy nhiên các quy định về quyền sở hữu trí tuệ
(chủ yếu là xem xét việc cấp bằng sáng chế) cũng rất quan trọng giúp
Hoa Kỳ giải quyết tốt vấn đề quản lý tri thức truyền thống.
Hoa kỳ cũng xây dựng một cơ sở dữ liệu và khuyến khích các quốc
gia khác xây dựng một cơ sở dữ liệu về tri thức truyền thống để thực hiện
việc loại trừ cấp bằng bảo hộ không trung thực...
2.3.2. Bảo hộ tri thức bản địa theo pháp luật Philippines
Những quy định về bảo hộ tri thức truyền thống được nêu trong Hiến
pháp Philippines năm 1987, theo đó Nhà nước cơng nhận, tôn trọng và
bảo hộ các quyền của cộng đồng văn hóa bản địa nhằm bảo tồn và phát
triển các nền văn hóa, truyền thống và thiết chế của những cộng đồng
này. Luật về quyền của người bản địa - Luật cộng hòa số 8371
(Indigenous Peoples Right Act of 1997 (IPRA) cũng quy định bảo hộ các
quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức bản địa của các cộng đồng (Điều 32,
Điều 34). Ngồi ra, hiện nay, Philippine cịn có 3 dự luật đang trình quốc
hội, quy định về việc thiết lập một hệ thống bảo hộ các quyền sở hữu trí
tuệ của cộng đồng trong đó có tri thức truyền thống.
2.3.3. Bảo hộ tri thức bản địa theo pháp luật Trung Quốc

Varieties of Chinese Traditional Medicine). Bên cạnh đó, việc xây dựng
một cơ sở dữ liệu về tri thức truyền thống đặc biệt là ngành y dược học

đang được tích cực xây dựng. Cơ sở dữ liệu này được xem là một phần
phụ lục của Luật Patent.
Chương 3
BẢO HỘ VÀ CHIA SẺ LỢI ÍCH TRI THỨC BẢN ĐỊA
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1. Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa ở Việt Nam
Cũng như một số các quốc gia đang phát triển Việt Nam hiện đang
đứng trước một thách thức lớn trong việc xây dựng một hệ thống pháp
luật đầy đủ và chi tiết để bảo hộ hệ thống tri thức truyền thống của mình
do có những hạn chế về lập pháp, lịch sử pháp lý còn quá mới mẻ với
vấn đề tri thức bản địa, chuyên gia nghiên cứu vấn đề này hầu hết đều
thuộc khoa học chuyên ngành, chuyên gia pháp lý hầu như chưa có và
chưa có sự chẩn bị đầy đủ về kiến thức pháp lý để giải quyết và tham gia
tư vấn cũng như tham gia đàm phán tầm quốc tế khi có sự kiện liên quan
tới quyền lợi về tri thức truyền thống của mình. Tuy nhiên ý thức được
tầm quan trọng của tri thức truyền thống, chúng ta bước đầu đã có những
cơng nhận, tạo điều kiện để việc bảo hộ đối tượng này tốt hơn thông qua
đường lối, chủ trương và các văn bản pháp lý mới.
3.1.1. Chính sách pháp luật về bảo vệ và chia sẻ lợi ích tri thức
bản địa ở Việt Nam hiện nay

Trung Quốc là quốc gia đang nỗ lực xây dựng cơ chế pháp lý để bảo
hộ tri thức truyền thống tích cực thông qua việc xây dựng văn bản pháp
luật như: Các quy định bằng văn bản pháp luật thể hiện rõ ràng nhất
trong Luật Patent năm 2000 (Patent Law 2000) và Các quy định về bảo
vệ sự đa dạng của y học cổ truyền (Regulationas on the Protection of

Đại hội Đảng lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh quốc tế mới phải gắn với phát
triển kinh tế tri thức: "Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo

ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh

15

16


tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng
nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của
nhân loại".

Đa dạng sinh học năm 2007, Luật Bảo vệ môi trường năm 2008... Về hợp
tác quốc tế, chúng ta cũng đã ký kết được các công ước quan trọng để
bảo hộ tri thức truyền thống như:

Văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và được nhấn mạnh
trong Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ
Chính trị về bảo vệ mơi trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa ,
hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu phát triển bền vững
, bảo tồn thiên
nhiên và đa dạng sinh học là một trong ba nhiệ m vụ trọng tâm của công
tác bảo vệ môi trường (bên cạnh các nhiệm vụ phòng ngừa và kiểm soát
ô nhiễm , cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường ) Cụ thể, kế hoạch
tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm
2020 được xác định là: Nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng
rộng rãi, có hiệu quả cơng nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống; xây
dựng công nghiệp sinh học trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật công
nghệ cao, sản xuất được các sản phẩm chủ lực, thiết yếu và đóng góp

quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân; tập trung nguồn
lực, đa dạng hóa hình thức đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư đối với
công nghệ sinh học, hình thành và phát triển thị trường cơng nghệ sinh
học để đến năm 2020 công nghệ sinh học của Việt Nam đạt trình độ tiên
tiến trong khu vực, một số lĩnh vực thiết yếu đạt trình độ, tiêu chuẩn quốc
tế. Cụ thể về đường lối phát triển thế chế thành luật chúng ta có: Quyết
định số 188/2005/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 04 tháng 3 năm 2005 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ
sinh học phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; Quyết định số: 14/2008/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 22 tháng 01 năm
2008 "Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học ở
Việt Nam đến năm 2020". Chúng ta cũng đã bước đầu có những nghiên
cứu và quy định bảo hộ liên quan tới tri thức truyền thống như Luật Bảo
tồn văn hóa 2001, Bộ luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật

- Cơng ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật,
cịn được gọi ngắn gọn là Cơng ước Berne, được ký tại Bern (Thụy Sĩ)
năm 1886, Việt Nam tham gia năm 2004;

17

18

- Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Việt
Nam tham gia năm 1949;
- Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế các nhãn hiệu năm 1891,
trong đó quy định việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu tại Văn phòng quốc tế
của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ở Geneva, Việt Nam tham

gia Thỏa ước này từ ngày 08/3/1949;
- Hiệp ước Hợp tác Patent (PCT) Washington 1970, Việt Nam tham
gia Hiệp ước từ ngày 10/3/1993.
- Hiệp định TRIPs - Hiệp định về các khía cạnh quyền sở hữu trí tuệ
liên quan tới thương mại trong khuôn khổ WTO, Việt Nam tham gia ký
kết năm 2006.
3.1.2. Thực trạng bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức bản địa
Do đặc điểm đối tượng sáng tạo của tri thức bản địa thường là tập
thể, đa dạng về tri thức, trải nghiệm qua nhiều thế hệ và thời gian nên
việc bảo hộ và chia sẻ lợi ích Tri thức bản địa gặp khơng ít những khó
khăn về cách thức, đường lối giải quyết các vụ việc thực tế phát sinh khi
chưa có những quy định hay hướng dẫn giải quyết cụ thể.
Mặc dù một nhiều đối tượng tri thức bản địa đã có quy định trong
luật sở hữu trí tuệ nhưng khi áp dụng thực tế lại rất khó khăn trong việc
xác định cơ chế xác lập, bảo hộ và thực thi các quyền đối với tri thức bản
địa, những biện pháp để quản lý các quyền, cơ chế đăng ký và bảo hộ các
Tri thức bản địa, việc lập các tài liệu về tri thức bản địa, việc đưa các tri
thức bản địa vào "tình trạng kỹ thuật" để tra cứu, xét nghiệm sáng chế.


Muốn vậy, chúng ta phải có hướng dẫn cụ thể về hướng xác lập các
phương thức bảo hộ quyền của người nắm giữ tri thức bản địa theo
phương thức bảo hộ nào của Luật Sở hữu trí tuệ, phương thức bảo vệ tác
giả hay quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn
hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý... Việc thiết lập một cơ sở dữ liệu,
nơi dùng để kiểm tra, đối chiếu thông tin về tình trạng của các tri thức
bản địa cũng rất cần thiết khi muốn xem xét cấp một quyết định bảo hộ,
tuy nhiên chúng ta vẫn chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu này.
Một số vụ việc khác được giải quyết thành công theo hướng áp dụng
phương thức bảo hộ của các sản phẩm thuộc sở hữu trí tuệ như sáng chế, nhãn

hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa… Ví dụ: Sáng chế "Thuốc cai nghiện
ma túy từ thảo mộc", nhãn hiệu hàng hóa "Dầu gió Trường Sơn và Hình".
Việt Nam cũng đã bắt đầu quan tâm bảo vệ tri thức truyền thống
cũng như quyền của người nắm giữ tri thức này thông qua việc ghi nhận:
Bảo vệ quyền tập thể của nhóm người, buộc dẫn chiếu xuất xứ sản phẩm,
tác phẩm khi tác giả của sáng chế hay tác phẩm có yêu cầu bảo hộ theo
một phương thức bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ, hoặc đặt ra yêu cầu tôn
trọng giá trị truyền thống, di sản, văn hóa, mơi trường nếu là tác phẩm
hay sáng chế muốn nhận được chứng nhận bảo hộ… Tuy nhiên về tổng
thể vẫn cần có những giải pháp chung, đồng bộ để có thể đưa ra hướng
giải quyết cho mỗi trường hợp thuộc các mảng khác nhau của loại hình
tri thức này.
3.1.3. Bảo hộ và chia sẻ lợi ích các hình thức biểu hiện văn hóa
dân gian

trang phục, nhạc cụ và các hình mẫu kiến trúc dân gian khác được thể
hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào (Điều 23 khoản 1 Luật Sở hữu trí
tuệ 2005).
Quyền tác giả của văn học nghệ thuật dân gian Việt Nam hay các
quyền tác giả của các loại hình thể hiện văn hóa dân gian được xác định
thuộc bảo hộ của Nhà nước từ Hiến pháp 1992 (Điều 30 quy định Nhà
nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện
đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân
tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân;
Điều 32 quy định về việc nhà nước tạo điều kiện để nhân dân thưởng
thức, bảo trợ để phát triển tài năng phát triển văn hóa, khuyến khích phát
triển đa dạng các loại hình văn hóa dân tộc. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy
định các tác phẩm nghệ thuật dân gian được bảo hộ theo cơ chế quyền
tác giả (Điều 14); Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 mặc dù chưa có quy

định cụ thể về đối tượng tri thức truyền thống cũng như quyền tác giả của
tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhưng đã để ngỏ khi quy định:
"Đối tượng quyền tác giả bao gồm mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh
vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và
bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không
phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào".
3.1.4. Bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền thống

Biểu hiện của văn hóa dân gian cụ thể là: thể hiện bằng ngôn ngữ,
bao gồm truyện thơ, câu đối dân gian; thể hiện bằng âm nhạc bao gồm
bài hát và nhạc cụ dân gian; thể hiện bằng hành động bao gồm các điệu
múa, vở kịch và nghi lễ nghệ thuật dân gian; thể hiện lồng trong một vật
thể tồn tại ở dạng hữu hình bao gồm các bức tranh vẽ, tượng, tác phẩm
điêu khắc, đồ gốm, khảm, mộc, tác phẩm kim loại, đá quý, dệt, thảm,

Tri thức truyền thống theo pháp luật Việt Nam được bảo hộ theo một
số phương thức bảo hộ như của quyền tác giả, sáng chế, chỉ dẫn địa lý, bí
mật kinh doanh…Các văn bản pháp luật có thể kể đến … Thông tư
01/2007/TT-BKHCN Ngày 14 tháng 2 năm 2007, hướng dẫn thi hành
Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí
tuệ về sở hữu cơng nghiệp ghi nhận (Điểm 23.11); Điều 750 của Bộ luật
Dân sự 2005 cũng quy định để ngỏ cho phép các luật gia có thể áp dụng

19

20


bảo hộ các biểu hiện sáng tạo liên quan tới tri thức truyền thống như sáng

chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý... Thực
tế chúng ta đã làm được việc này, theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ,
tới tháng 7/ 2008 đã có 13 chỉ dẫn địa lý đã được đăng ký bảo hộ - là các
địa danh nổi tiếng về nông thủy hải sản và các chế phẩm từ nông thủy hải
sản, ví dụ: Nước mắm Phú Quốc, Cam Vinh, Hồi Lạng Sơn, Chè San
Tuyết, Thanh long Bình Thuận, Gạo Hải Hậu, Vải thiều Lục Ngạn, Vải
thiều Thanh Hà, Cà Phê Buôn Mê Thuột…
3.1.4. Bảo tồn nguồn gen và bản quyền tri thức truyền thống về
nguồn gen
Luật Đa dạng sinh học 2007 là một bước đánh dấu quan trọng trong
việc bảo tồn và chia sẻ lợi ích từ gen. Luật quy định: Nhà nước khuyến
khích tổ chức, cá nhân thực hiện điều tra, thu thập, đánh giá, cung cấp
thông tin về nguồn gen để xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn gen và bảo
đảm quyền được tiếp cận cơ sở dữ liệu về nguồn gen (Điều 63). Về bản
quyền tri thức truyền thống về nguồn gen, Điều 64 luật này cũng quy
định: "1. Nhà nước bảo hộ bản quyền tri thức trùn thớng về ng̀n gen,
khuyến khích và hỡ trợ tổ chức , cá nhân đăng ký bản quyền tri thức
truyền thống về nguồn gen " và "Bộ Khoa học và Cơng nghệ chủ trì phối
hợp với bộ , cơ quan ngang bộ có liên quan hướng dẫn thủ tục đăng ký
bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen".
Liên quan tới việc đưa ra nguồn gốc của vật liệu sáng tạo, Thông tư
01/2007/TT-BKHCN Ngày 14 tháng 2 năm 2007, hướng dẫn thi hành
Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí
tuệ về sở hữu cơng nghiệp. Điểm 23.11: Đơn đăng ký sáng chế liên quan
đến nguồn gen hoặc tri thức truyền thống cịn phải có tài liệu thuyết minh
về nguồn gốc của nguồn gen và/hoặc của tri thức truyền thống mà tác giả
sáng chế hoặc người nộp đơn đã tiếp cận, nếu sáng chế trực tiếp dựa trên
nguồn gen và/hoặc tri thức truyền thống đó.
21


Về chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen, Luật Đa dạng sinh học
cũng đưa ra chính sách phân chia lợi ích cho các đối tượng có cơng
như: a) Nhà nước ; b) Tổ chức , hộ gia đì nh , cá nhân được giao quản lý
nguồn gen; c) Tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép tiếp cận nguồn gen
và các bên có liên quan khác được quy đị nh trong giấy phép tiếp cận
nguồn gen.
3.2. Một số kiến nghị xung quanh việc bảo hộ và chia sẻ lợi ích
tri thức truyền thống bằng pháp luật ở Việt Nam
Nhiệm vụ chung của các nhà làm luật nên đảm bảo một số các yêu
cầu sau khi tham gia xây dựng chính sách pháp luật bảo hộ tri thức
truyền thống:
Các nhiệm vụ cụ thể chúng ta phải làm có thể đưa ra như sau:
1. Xây dựng một định hướng chung về nguyên tắc và quy định pháp
luật về bảo hộ ti thức bản địa thông qua các quyết định quan trọng của
các cơ quan chức năng liên quan
2. Thống kê, tư liệu hóa các tri thức truyền thống thành một phần
trong tư liệu tham khảo, đối chiếu của quyền sở hữu trí tuệ.
3. Có những hướng dẫn cụ thể cho việc áp dụng luật sở hữu trí tuệ
để áp dụng cho việc bảo hộ tri thức truyền thống
4. Đẩy mạnh việc nghiên cứu hợp tác quốc tế về trao đổi kinh
nghiệm trong việc bảo hộ tri thức bản địa; cần xác định việc nghiên cứu,
tham khảo kinh nghiệm trong việc bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản
địa là việc làm quan trọng để từ đây có cơ sở để tham gia đàm phán hội
nhập các vấn đề liên quan tới quyền lợi của Việt Nam trong việc bảo vệ
tri thức bản địa; tham gia ký kết các điều ước quốc tế có các quy định
liên quan tới bảo hộ tri thức bản địa.
5. Xây dựng một đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tri
thức bản địa
22



6. Tuyên truyền, tăng cường nâng cao nhận thức của người dân về
giá trị của tri thức truyền thống, tầm quan trọng của việc bảo hộ khối tri
thức này. Khuyến khích hợp tác từ người dân.
7. Xây dựng một cơ chế chia sẻ lợi ích cụ thể và chi tiết.

KẾT LUẬN
Tri thức bản địa là phần không thể thiếu được trong đời sống sinh
hoạt và tâm linh của người dân bản địa. Tri thức bản địa mang đặc trưng
của mỗi vùng miền và là phần quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh
của mỗi quốc gia. Trong thời kỳ tồn cầu hóa, với sự phát triển vượt bậc
của khoa học kỹ thuật, tri thức bản địa ngày càng được biết đến với vai
trò là cơ sở cho các sáng tạo kế tiếp mang lại những nguồn lợi khổng lồ.
Công cụ pháp lý bảo hộ tri thức truyền thống mặc dù đang gặp phải
những khó khăn nhất định trong việc đưa ra khái niệm chính xác về tri
thức truyền thống, phương thức bảo hộ, cách thức tiến hành bảo hộ…
nhưng cộng đồng quốc tế cũng như cá nhân mỗi quốc gia vẫn nỗ lực
nhằm tìm kiếm sự thống nhất về biện pháp để bảo vệ, mơ hình và nội
dung bảo vệ thơng qua các vịng đám phán của các thể chế lớn như
WTO, WIPO…
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng một khung pháp
lý bảo hộ tri thức truyền thống, Việt Nam bắt đầu có những nghiên cứu
về nguồn trí thức này thơng qua các dự án phát triển hỗ trợ và khuyến
khích người dân bảo tồn và phát triển tri thức bản địa đồng thời với
việc thống kê và ghi nhận những tri thức này như một phần quan trọng
của cộng đồng dân cư; Xây dựng những quy định có thể áp dụng quản
lý việc tiếp cận, khai thác nguồn tri thức bản địa thông qua các luật
chuyên ngành.


một giải pháp phục vụ cho các cá nhân và người dân ở cộng đồng các địa
phương đáp ứng được những tiêu chuẩn, yêu cầu phù hợp để được bảo vệ
hợp pháp. Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có liên quan
tới bảo hộ tri thức bản địa rất quan trọng, nó đảm bảo cho chúng ta có thể
trang bị một cách đầy đủ và khách quan những yêu cầu nghiên cứu pháp lý
bảo hộ. Hiện tại những cơng ước về sở hữu trí tuệ mà chúng ta ký kết như
Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật 1886, Công
ước Paris 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Thỏa ước Madrid về đăng ký
quốc tế các nhãn hiệu năm 1891... đã phát huy vai trị của mình trong việc
điều chỉnh bảo hộ một số mảng của tri thức bản địa như văn học nghệ
thuật, quyền sở hữu công nghiệp… Tuy nhiên, do đặc điểm của tri thức
bản địa có những khác biệt so với các đối tượng được bảo vệ trong luật
về quyền sở hữu trí tuệ, tri thức bản địa lại là đối tượng phạm trù rộng so
với phạm vi điều chỉnh của luật về quyền sở hữu trí tuệ hiện nay, chính
vì vậy việc tìm kiếm một giải pháp giải quyết cho từng trường hợp bảo
hộ cụ thể cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng ở tầm vĩ mơ cũng như rất
cần có sự hợp tác hơn nữa giữa các bộ ngành liên quan.
Trong giới hạn các nguồn tài liệu cũng như thông tin thu thập được,
học viên mong muốn đưa ra những tập hợp phân tích, nghiên cứu và kiến
nghị góp phần vào q trình xây dựng và hồn thiện pháp luật bảo hộ tri
thức truyền thống. Tuy nhiên, với một chủ đề phức tạp và dàn trải đòi hỏi
sự xem xét thấu đáo và kỹ lưỡng hơn nữa, học viên sẽ cần có quá trình
nghiên cứu tiếp nối sâu sau đề tài này.

Vì chưa có luật chuyên ngành điều chỉnh riêng về đối tượng là tri
thức bản địa nên luật về quyền sở hữu trí tuệ hiện nay và tiếp tục sẽ là
23

24



Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Splitter.
A watermark is added at the end of each output PDF file.

To remove the watermark, you need to purchase the software from

/>


×