Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tim Hieu Hoai Thanh PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 121 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TỪ SƠN </b>



<b>TÌM HI</b>

<b>Ể</b>

<b>U HỒI THANH </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>T</b>

<b>Ừ</b>

<b> S</b>

<b>Ơ</b>

<b>N </b>



<b> </b>



<b>TÌM HIỂU HỒI THANH </b>



<i><b> </b><b>CU</b><b>Ố</b><b>N SÁCH NÀY </b><b>ĐƯỢ</b><b>C XU</b><b>Ấ</b><b>T B</b><b>Ả</b><b>N NHÂN </b></i>
<i><b> K</b><b>Ỷ</b><b> NI</b><b>Ệ</b><b>M 100 N</b><b>Ă</b><b>M SINH NHÀ V</b><b>Ă</b><b>N </b></i>


<i><b> </b></i><b>HOÀI THANH </b>
<b> (1909-1982) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>HỒI THANH - NG</b>

<b>ƯỜ</b>

<b>I </b>

<b>Đ</b>

<b>I TÌM CÁI </b>

<b>ĐẸ</b>

<b>P </b>


<b>TRONG V</b>

<b>Ă</b>

<b>N CH</b>

<b>ƯƠ</b>

<b>NG</b>

<b>(1)</b>


Cuộc đời Hoài Thanh từ thuở thiếu thời cho đến lúc trái tim ngừng đập là
một chuỗi dài những cuộc tìm kiếm đầy thích thú mê say cái hay và vẻ đẹp văn
chương. Như một nhà địa chất cần mẫn, yêu nghề, Hoài Thanh đã phát hiện
được khơng ít vàng ngọc của thơ ẩn trong lớp bụi thời gian hoặc trong các mạch
chìm nổi của cuộc đời, nhất là trong hiện tại.


Một thời gian dài trước Cách mạng, thơ mới là niềm say mê, là nơi trú
ngụ bình yên của tâm hồn Hồi Thanh trước mọi sóng gió của cuộc đời.


“ Tôi vốn rất say mê thơ mới ngày từ khi mới ra đời. Thơ mới hầu như là
cái vui duy nhất của tôi hồi bấy giờ”(2) .



<i>Thi Nhân Việt Nam</i> là đứa con tinh thần được ra đời trong sự say mê,
trong niềm “ vui duy nhất” của Hoài Thanh, của một người trong cuộc đổi mới
thơ ca Việt Nam giai đoạn 1932- 1941 (chữ thơ ca Việt Nam tôi dùng ở đây là
thơ ca công khai “ hợp pháp” được in trên sách báo thời kỳ ấy). Đứa con này
vừa mới ta đời được bạn đọc thời bấy giờ đón nhận và bạn đọc các thế hệ sau
tìm kiếm, sách ra đầu năm 1942 liền tái bản ngay cuối năm ấy (3) .




(1)<sub> “L</sub><i><b><sub>ờ</sub></b><b><sub>i cu</sub></b><b><sub>ố</sub></b><b><sub>i sách</sub></b></i><b><sub>”</sub></b><sub> nhân tái bản </sub><i><sub>Thi nhân Vi</sub><sub>ệ</sub><sub>t Nam, </sub></i><sub>NXB Văn học, HN.., 1988.</sub>
(2)<i><sub>Tuy</sub><sub>ể</sub><sub>n t</sub><sub>ậ</sub><sub>p Hoài Thanh, </sub></i><sub>tập I, tr.303. </sub>


(3)<i><sub> Thi nhân Vi</sub><sub>ệ</sub><sub>t Nam </sub></i><sub>do Nguyễn Đức Phiên ( tức Hoài Chân, đồng tác giả) xuất bản. </sub>


- Đầu năm 1960, <i>Thi Nhân Việt Nam </i>được Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội in rônêô làm tài
liệu tham khảo cho sinh viên.


- Năm 1968, NXB Hoa Tiên in lại ở Sài Gòn.
- Năm 1985, NXB Đông Nam Á in lại ở Paris.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tác giả <i>Thi nhân Việt Nam</i> đã “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người” (<i>Thi nhân </i>
<i>Việt Nam, </i>tr.392). Khơng chỉ để hiểu mà cịn say theo hồn người. 169 bài thơ
của 46 nhà thơ có mặt trong <i>Thi nhân Việt Nam </i>như hồ với giọng bình của tác
giả để hát lên bài ca sầu não, mộng mơ, vui vội, buồn sâu, đau đớn, ngơ ngác
trước cuộc đời. Bài ca dường như bất tận của những tâm hồn, những con người
“đầu thai lầm thế kỷ” muốn ru hồn mình tới “tận cuối trời Quên”.


Sự say mê thơ mới, sức quyến rũ của thơ mới lúc bầy giờ quả là lớn. Đối
với tác giả <i>Thi nhân Việt Nam</i>, suốt một thời gian dài, cái say thơ đã thấm vào
máu thịt, đã trở thành máu thịt nên khơng dễ gì rứt bỏ. Mặc dầu, có khi người


say thơ cũng mơ hồ cảm thấy đây là một thứ tình say có “dáng dấp Liêu Trai”.


“Say thơ cũng như say người. Có khi đúng, có khi sai. Có khi đúng mặt
này, sai mặt khác. Nhưng đã say thì khơng phải dễ rứt mình ra được” (<i>Thi nhân </i>
<i>Việt Nam , </i>tr.122).


Có lẽ vì thế mà sau sáu năm đi theo Đảng, tham gia cách mạng và kháng
chiến, năm 1951, Hồi Thanh mới có được một cái nhìn dứt khốt thể hiện trong
chương II: <i>Nhìn lại thơ cũ 1932 – 1945, </i> ở quyển <i>Nói chuyện thơ kháng chiến. </i>


Trong chương ấy, ở trang 12, có đoạn Hồi Thanh viết: “Cịn xét về phương
diện khách quan thì ngày trước hay bây giờ những câu thơ buồn nản hay thơ
mộng vẩn vơ cũng đều là đồng minh của giặc. Giặc chỉ có thể xây dựng cơ đồ
của chúng trên phần bạc nhược của con người. Chúng ta khơng dám làm người
thì chúng nó mới có khả năng làm giặc”.


Cách nhìn nhận ấy có phần thái quá. Song trong hoàn cảnh lịch sử bấy
giờ, một chút thái quá có khi lại cần thiết. Kiên quyết phủ định niềm say mê sai
lạc trong con người cũ của mình một cách thành thực bao giờ cũng là điều đáng
quý.


Tám năm sau, vào đầu năm 1959, trong bài soạn “Về văn thơ lãng mạn
tiểu tư sản 1930 - 1945” để giảng cho lớp văn III Đại học Sư phạm và Đại học
Tổng Hợp Hà Nội, Hoài Thanh viết trong phần kết luận:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

chủ yếu là ở lòng tin. Cho nên bọn thực dân dung dưỡng mà cách mạng lại tiến
hành đấu tranh với thơ lãng mạn tiểu tư sản.


Trong hoàn cảnh ngày nay tuy cách mạng đã thắng lới trên một nửa nước,
đại bộ phận tiểu tư sản đã đứng trong hàng ngũ cách mạng nhưng tư tưởng tư


sản và tiểu tư sản mà nhiều anh em chúng ta vốn hô hấp một lần cùng với sữa
mẹ vẫn có sức lơi cuốn chúng ta. Có những câu thơ rầu rĩ, nó cứ ngân nga âm ỉ
trong lịng, bám vào đầu óc ta như đỉa. Cần phải bôi vôi vào mà rứt nó ra.


Nhưng lại phải nhớ rằng tư sản và nhất là tiểu tư sản nước ta cũng có khả
nang đi với cách mạng, Chút lòng yêu đời yêu nước cịn thể hiện trong thơ
khơng nên tuỳ tiện mà vứt đi. Vẫn cần phải trân trọng. Và nên nhớ phần ấy
nhiều hơn là phần tiêu cực, dầu nhớ để phê phán cũng vậy” (1)


Từ cách nhìn nhận thơ mới có phần thái qúa trong <i>Nói chuyện thơ kháng </i>
<i>chiến </i>(1951), đến đây Hồi Thanh đã có cái nhìn độ lượng thể tất nhân tình, sát
với gíá trị thật của thơ mới nhiều hơn. Tuy vậy có một nhận định cơ bản về thơ
mới, tác giả <i>Thi nhân Việt Nam </i>- trong các bài viết cũng như sổ tay ghi chép sau
này, trong lúc trao đổi chuyện trò với bạn bè hoặc con cái - khơng thay đổi: mặt
chính của thơ mới là tiêu cực.


Trong đề cương chuẩn bị cho buổi nói chuyện về thơ mới ở Đại học tổng
hợp hồi tháng 11 - 1962 Hoài Thanh ghi ở mục “Vào đề”:


“ Mọi người đồng ý trong thơ mới 1930 - 1945 có nhân tố tích cực và
nhân tố tiêu cực. Cái chỗ không đồng ý là tỷ lệ giữa hai bên.Về phần tôi, <i>tôi vẫn </i>
<i>nghĩ tiêu cực là chính”</i> ( Tơi nhấn mạnh T.S.).


Buổi nói chuyện ấy, theo yêu cầu của nhà trường, chủ yếu nêu cái tích cực
của thơ mới nhằm mục đích để người nghe tiếp thu được cái hay của thơ. Hoài
Thanh ghi tiếp trong đề cương bài nói : “ yêu cầu ấy cùng phù hợp với tôi: tôi




(1)<sub> Chép trong di cảo</sub><sub>viết tay của Hoài Thanh hiện gia đình cịn giữ. Các ý trong đoạn văn này </sub>


đến tháng 11 - 1964 Hoài Thanh đã đưa vào trong bài viết <i>Một vài ý kiến về phong trào thơ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nghĩ phê phán cái dở trong văn thơ khơng gì bằng qn qch nó đi. Đó là cách
phê phán của quần chúng”. (1)


Xem các ghi chép trong đề cương chuẩn bị bài nói kể trên, tơi thấy Hoài
Thanh đã chọn những bài thơ hay trong phong trào thơ mới của các nhà thơ nổi
tiếng như: Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu
Trọng Lư, Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, Thâm Tâm, Đồn Văn cừ, Anh
Thơ,.... để bình luận, phân tích những cái hay, cái tích cực của thơ mới được
khái quát trong những tiểu mục như sau:


- Phong vị đậm đà của cảnh sắc quê hương.
- Thái độ trân trọng đối với người lao động.
- Tấm lòng thiết tha với đất nước.


- Lịng khát khao u đời.


- Tình u phong phú, tha thiết và đắm say.


- Những đóng góp quan trọng về ngôn ngữ nghệ thuật của thơ mới (2)
Nhưng, hai năm sau, vào tháng 11- 1964, có lẽ Hồi Thanh muốn đề
phịng “cách nhìn đời theo lối “Thơ mới” nên trong bài viết <i>Một vài ý kiến về</i>
<i>phong trào thơ mới và quyển</i> “ <i>Thi nhân Việt Nam”,</i> Hồi Thanh nhấn mạnh:


“Nhìn chung thơ mới chìm đắm trong buồn rầu, điên loạn, bế tắc. Đó là
chưa nói đến phần hiển nhiên là sa đoạ. Nguy hiểm nhất là nó lại tạo ra một thứ
say sưa trong đó. Hình như khơng buồn rầu, khơng điên loạn, khơng bế tắc thì
khơng hay, khơng sâu.



Bế tắc đã biến thành một thứ lý tưởng. Một thứ lý tưởng như thế bao giờ
cũng nguy hiểm, <i>trong một hoàn cảnh cần phải đấu tranh quyết liệt lại càng </i>
<i>nguy hiểm. (Tôi nhấn mạnh - T.S) </i> cho nên mặt chính của thơ mới phải nói là



(1)<sub> Di cảo viết tay. </sub>


(2)<sub> Nh</sub><sub>ữ</sub><sub>ng ý ki</sub><sub>ế</sub><sub>n nh</sub><sub>ậ</sub><sub>n xét, phân tích cái giá tr</sub><sub>ị</sub><sub> tích c</sub><sub>ự</sub><sub>c c</sub><sub>ủ</sub><sub>a th</sub><sub>ơ</sub><sub> m</sub><sub>ớ</sub><sub>i trong bu</sub><sub>ổ</sub><sub>i nói chuy</sub><sub>ệ</sub><sub>n này v</sub><sub>ề</sub><sub> sau </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mặt tiêu cực. Ngay những nhân tố tích cực cũng chìm ngập trong khơng khí bế
tắc ấy khơng gỡ ra được”.


Tháng 8-1977, mười ba năm sau khi viết bài vừa kể trên, Hồi Thanh
muốn được “nói thêm vài lời nữa” với độc giả miền Nam, nhất là độc giả trẻ “đã
đọc và ưa thích quyển <i> Thi nhân Việt Nam,</i> đã bắt gặp trong<i> Thi nhân Việt Nam </i>


và nói chung trong “thơ mới” một tiếng đồng tình, đồng điệu”. Hoàn Thanh
nhắc nhở nhẹ nhàng mà vẫn dứt khốt:


“Ngày nay hồ bình đã lập lại, hồn cảnh đã đổi khác. Trong hoàn cảnh
mới, nên chăng nhìn<i> Thi nhân Việt Nam </i> một cách khác? Tơi nghĩ chúng ta sẽ
tiếp tục trân trọng phần hay, phần đẹp trong thơ mới như ta vẫn nhận định trước
đây. Nhưng phần ấy khơng phải là phần chính. Phần chính là thơ xi tay như
nước chảy xi dịng” (1) . Mà vơ luận trong hồn cảnh nào cùng không thể chấp
nhận chuyện buông xuôi. Nhất là khắc phục hậu quả của chủ nghĩa thực dân cũ
và mới, của ba mươi năm chiến tranh xâm lược, xây dựng lại đất nước bị tàn phá
nặng về về nhiều mặt, là một sự nghiệp đòi hỏi ở mỗi chúng ta rất nhiều cố gắng
và hy sinh, kể cả những cố gắng và hy sinh lớn nhất” (<i>Tuyển tập Hoài Thanh, </i>


Tập II, tr.308).



Như vậy trong vòng gần ba mươi năm (từ 1951 đến 1977). trước sau Hồi
Thanh vẫn dứt khốt coi tiêu cực là mặt chủ yếu của “thơ mới” và <i>Thi nhân Việt </i>
<i>Nam. </i>Đánh giá <i>Thi nhân Việt Nam</i>, Hoài Thanh không tách rời với việc đánh
giá “thơ mới”: <i>Thi nhân Việt Nam</i> là một hợp tuyển “thơ mới” giai đoạn 1932 -
1941, viết về <i>Thi nhân Việt Nam</i> không thể nào không căn cứ vào một nhận định
khoa học về phong trào “Thơ mới” ( <i>Tuyển tập Hoài Thanh</i>, tập II, tr.294). Đặt




(1)<sub>Trong bài viết, Hồi Thanh có dẫn bốn câu thơ trong bài </sub><i><sub> Ng</sub><sub>ườ</sub><sub>i thay </sub><sub>đổ</sub><sub>i </sub><sub>đờ</sub><sub>i tôi, Ng</sub><sub>ườ</sub><sub>i </sub></i>


<i>thay đổi thơ tôi </i> của Chế Lan Viên, dụng ý để độc giả miền Nam hiểu thêm tâm sự của một
nhà thơ nổi tiếng của phong trào “thơ mới”; và cũng là tâm sự chung lớp người “thơ mới” đi
theo cách mạng khi nhìn lại quá khứ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

vấn đề như vậy là đúng về cơ bản nhưng chưa đủ. Dù sao cũng phải nhìn nhận
thơ mới với tư cách là một trào lưu, một khuynh hướng văn học mà sự hình
thành và phát triển, tồn tại và lụi tàn có q trình và quy luật riêng của nó. <i> Thi </i>
<i>nhân Việt Nam </i>chỉ là một mặt cắt ngang ở ranh giới của thời phát triển và suy
tàn.


<i>Thi nhân ViệtNam </i> có chứa khá nhiều yếu tố tiêu cực của “thơ mới”
nhưng không phải là tất cả. Hoài Thanh đã cảm nhận thấy điều ấy nhưng chưa
có dịp đi sâu và hình như cũng khơng có ý định đi sâu. Trong bài viết năm 1977
đã nhắc ở trên, Hồi Thanh có nói thống qua: “Trong <i>Thi nhân Việt Nam</i> khơng
có bài thơ nào là thơ phản động và nói chung cũng khơng phải là thơ đồi truỵ.
Chẳng những thế, có khơng ít bài thơ rất đậm đà phong vị q hương, rất có tình
với đất nước, rất tha thiết yêu đời. Ra đời dưới ách thống trị tàn bạo của thực
dân phong kiến “thơ mới” không dám đương trường đả kích qn thù nhưng


khơng phải khơng nói lên cái ấm ức, cái đau khổ của người làm thơ. Có thể nói
đó là một tiếng thơ yêu nước và trên thực tế, hầu hết các nhà thơ mới có tên tuổi
về sau đều tham giá đánh Pháp rồi đánh Mỹ cho đến ngày toàn thắng”.


Nhìn chung, qua mấy lần nhận định, đánh giá “thơ mới” và <i>Thi nhân Việt </i>
<i>Nam</i>, Hoài Thanh mới dừng sâu vào việc đánh giá thái độ trách nhiệm trước
cuộc đời của các nhà thơ mới và tác giả <i>Thi Nhân Việt Nam. </i> Các giá trị văn học
thực sự của “thơ mới” và tác phẩm phê bình văn học <i>Thi nhân Việt Nam</i> rõ ràng
là đã và đang tồn tại trên thực tế, trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ đã
qua, Hoài Thanh còn dè dặt chưa quan sát, đánh giá đầy đủ. Riêng đối với <i>Thi </i>
<i>Nhân Việt Nam, </i>đứa con tinh thần của mình , Hồi Thanh đã tự phê phán hết sức
nghiêm khắc(1) . Trái lại, khơng ít những nhà nghiên cứu, phê bình, nhà thơ nhà
văn có tên tuổi đã đánh giá <i>Thi nhân Việt Nam </i>đạt tình, thấu lý hơn(2).




(1)<sub>“Sai lầm không chỉ là ở chỗ đã quá đề cao quá đáng nhà thơ này hay nhà thơ kia. Có thể nói </sub>
tồn bộ sự đánh giá ở đây là sai từ gốc sai đi. Ngay những đoạn có vẻ đúng, thật ra vẫn là sai
và sai về căn bản” ( <i>Tuyển tập Hoài Thanh, </i> tập II, tr.304).


Cái “ sai về căn bản” của tác giả <i> Thi nhân Việt Nam </i> theo Hoài Thanh là:


“ Trong hồn cảnh mất nước thì việc đầu tiên đối với nhà văn học cũng như nhà khoa
học là phải góp sức giành lại chủ quyền, đâu có phải là miệt mài trong chuyện tiếng nói và
văn thơ” ( <i>Tuyển tập Hoài Thanh,</i> tập II, tr.305).


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Nhân đây có lẽ cũng nên tìm hiểu vì sao Hồi Thanh có cái nhìn nghiêm
khắc với “thơ mới” và nhất là tự phê phán <i> Thi nhân Việt Nam</i> một cách quá
nghiêm khắc như thế.



Chúng ta đã biết cuộc tranh luận nghệ thuật hồi 1935-1936, kéo dài đến
1939, Hoài Thanh bị xem như là chủ tướng của phái “ nghệ thuật vị nghệ
thuật”.Cuộc tranh luận này Hoài Thanh đã tường thuật và tự phê bình một cách



- “ Tác phẩm đáng nói trong những năm 1930 - 1945 có phần chắc là cuốn Thi nhân Việt
Nam cộng tác với Hồi Chân. Chúng ta cịn nhớ rằng dưới ảnh hưởng của tư tưởng Mác – Lê-
nin, tác giả đã tự phê bình rất nghiêm khắc. Vẫn biết rằng tập sách chưa thể nói là đã có một
lập trường vững chắc và phương pháp biên soạn chưa phải đã thực sự khoa học, cách đánh giá
các tác phẩm thơ xuất bản trong mười năm 1930 -1940 cũng đang dành phần khá rộng để thảo
luận; người viết sách rõ ràng đã bị giới hạn về nhiều phương diện trong khi trình bày một tập
văn tuyển khá phức tạp như vậy. Dầu sao Hoài Thanh và Hoài Chân cũng đã đọc hộ chúng ta
trong ngoài một vạn bài thơ và bao nhiêu bài văn nữa; dầu sao thì qua gần 400 trang sách ấy
chúng ta cũng đã bắt gặp khá nhiều ấn tượng. khá nhiều suy nghĩ về nghệ thuật thơ mới.
Riêng về phần tôi sau khi đọc tác phẩm và đặc biệt là sau khi xem lại bài tựa cuốn sách, tuy
tôi không đồng ý với hai tác giả về một số điểm nhưng quả tình tơi vẫn để ý tới nhiều đoạn
văn thật sự hấp dẫn. Và một điều khá lạ, là ngay từ hồi ấy, cảm tưởng của tơi là tập sách trong
khi có vẻ như tán dương cuộc thắng lợi của thơ mới cũng đã cho thấy một ít dấu hiệu về sự
kết thúc một thời kỳ khi cái mới đang trở thành cái cũ” (<b>Đặng Thai Mai</b>, <i>Thương tiếc đồng </i>
<i>chí Hồi Thanh</i>, Báo Văn Nghệ, số ra ngày 10-4-1982).


- “Anh là người yêu thơ mới từ buổi đầu chớm nụ; chăm chú theo dõi suốt mười năm
cho đến ngày nở hoa, đơm quả, chọn những bài hay nhất trong hàng nghìn bài đăng trên mặt
báo, có bài cịn là bản thảo, in thành” hợp tuyển” kèm theo những lời bình trang nhã, duyên
dáng đầy cảm xúc. Để đầu sách là một bài nghiên cứu công phu về phong trào Thơ mới, qua
đó có thể thấy anh say thơ đến mức nào! Các anh - phải nói các anh vì tập này anh soạn chung
với Hồi Chân - giở hết các chồng báo cũ, tìm hết ý kiến người nọ, người kia phát biểu khắp
nơi để nhận cho ra tính chất của phong trào, phong cách từng nhóm, những điểm chung và
điểm riêng, biện luận thế nào là thơ mới : “ thơ mới” khác với “ thơ cũ” ở chỗ nào, vì sao
“thơ mới” được thanh niên ham chuộng như vậy... Bài ấy viết kỹ đến nỗi sau này có người


bàn lại , tuy nhận định khác đi ít nhiều, nhưng thấy các anh khơng bỏ sót một tư liệu nào quan
trọng cả” ( <b>Trương Chính-</b><i>Lời giới thiệu “ Tuyển tập Hoài Thanh”</i> tập I, tr.11).


- “<i>Thi nhân Việt Nam</i> với bài nghiên cứu về thơ mới có thể coi là một cơng trình lớn
về phê bình trước Cách mạng tháng Tám. Nếu coi cuốn sách “ là một bước chìm sâu hơn nữa
vào con đường nghệ thuật “ vị nghệ thuật” ( Phan Cự Đệ : <i>Hoài Thanh</i>, in trong tập <i> Nhà văn </i>
<i>việt Nam </i>(1945-1975), tập I, của Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức ) thì tất nhiên cũng đúng một
phần nhưng chưa thấy được ưư điểm cơ bản của cuốn sách” ( <b>Vũ</b> <b>Đức Phúc</b>, <i>Hoài Thanh,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

nghiêm túc, thành thật(1). Cái đích của phái “nghệ thuật vị nhân sinh” đứng đầu
là Hải Triều không chỉ nhằm phê phán quan điểm của phái “ nghệ thuật vị nghệ
thuật” mà chủ yếu là nhằm tập hợp lực lượng cách mạng, cổ vũ khí thế cách
mạng của các tầng lớp quần chúng thông qua việc tuyên truyền, phổ biến quan
điểm mác xít về văn học nghệ thuật. Đối với văn nghệ sĩ thuộc trào lưu lãng
mạn tiểu tư sản lúc bấy giờ thì đây có thể xem như một sự đánh thức của cách
mạng. Đánh thức ra khỏi cơn mộng du chính trị. Hồi Thanh nhớ lại: “ Hồi ấy
chúng tơi bị lay dữ. Nói cho phải thì chúng tơi khơng phải khơng dụi mặt một ít.
Nhưng rồi chúng tơi lại nhắm nghiền mắt lại, một phần vì tự ái nhưng phần
chính là vì tâm trí cịn mê” ( <i>Tuyển tập Hoài Thanh,</i> tập II, tr.91). Đi vào cách
mạng và những ngày đầu kháng chiến, Hoài Thanh nhìn lại thấy mình mới “ tỉnh
một nửa thơi” : “ Tơi đi vào cách mạng, lịng rất vui nhưng với sự yên trí rằng
trời đất cũ của tôi cũng đi vào một thể; từ ánh trắng bát ngát trong <i> Truyện Kiều </i>,
ánh nắng vàng ngơ ngẩn buồn trong thơ mới, đến các loại về quan niệm con
người muôn thuở, văn chương muôn thuở.v.v..Tất cả những thứ ấy đối với tơi có
sức quyến rũ rất ghê và nhất là có giá trị như những chân lý khách quan không
thể nào phủ nhận. Tơi tự nghĩ: muốn gì thì gì trời đất vẫn chỉ có bấy nhiêu sơng
núi sơng hoa lá, lịng người cũng chỉ có chừng ấy buồn vui, u ghét nên văn
chương rồi cũng thế thôi”( <i>Tuyển tập Hoài Thanh</i>, tập II, tr.292). Từ “tỉnh một
nửa” đến tỉnh hẳn là cả một chặng đường dài. Đến sau chiến thắng Thu - Đơng
Việt Bắc năm 1947, Hồi Thanh mới bắt đầu đi vào bước ngoặt rẽ sang đường


mới: “ Có lần đi trong rừng, men theo một dịng suối, tơi vừa đi vừa ơn lại mấy
câu thơ của Tản Đà; rõ ràng là suối bên mình và suối trong thơ khác nhau lắm
rồi. Tơi ao ước có những vần thơ khác. Có thể nói từ đó trong trí tơi bắt đầu hình
thành những quan niệm khác về nghệ thuật văn chương. Mà cũng bắt đầu thơi.
Từ đó về sau cịn phải trải qua nhiều phấn đấu ( <i>Tuyển tập Hoài Thanh,</i> tập II,
tr.293).


Hoài Thanh dần dần nhận ra sai lầm lớn nhất của đời mình trước tháng
Tấm 1945 là “ thoát ly cách mạng, lấy văn chương làm nơi lánh nạn, vùi đầu
vào


---


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

chuyện không đâu để trốn tránh trách nhiệm, trốn cuộc đời” ( <i>Tuyển tập Hoài </i>
<i>Thanh, </i>tậpII, tr.290). Sai lầm này tập trung vào thời gian tranh luận nghệ thuật
“cũng là một cách cố giữ lấy chi mình cái quyền say mê thơ mới, nói một cách
khác là cái quyền thốt ly cách mạng” (<i>Tuyển tập Hồi Thanh</i> , tập II, tr.303).


Như vậy đó, Hồi Thanh ln chân thành là lúc đúng lẫn lúc sai. Trong
văn chương và trong cả cuộc đời. Sự tự phê phán q nghiêm khắc của Hồi
Thanh là điều có thể hiểu được. Hoài Thanh kiên quyết phủ định con người cũ
của mình. Vì vậy Hồi Thanh thật lịng lo lắng cho những ai, nhất là lo cho các
bạn trẻ đi lạc sang con đường mòn bế tắc của mình đã đi trước đây. Mặt khác,
cuộc đấu tranh tư tưởng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đặc biệt là trong
lĩnh vực văn học nghệ thuật mấy chục năm qua, thường vẫn trở lại những vấn đề
cơ bản đã đặt ra hồi tranh luận nghệ thuật. (Tất nhiên các vấn đề này đặt ra ở cấp
độ khác, mang những màu sắc khác và có những yêu cầu khác). Là một trong
những người được Đảng giao trách nhiệm lãnh đạo lĩnh vực văn nghệ, Hồi
Thanh càng thêm e ngại cái cũ có cơ hội sống lại. Hồi Thanh thường nói tới
trách nhiệm của người cầm bút, ln đề phịng những lệch lạc về lập trường tư


tưởng trong bối cảnh lịch sử cụ thể của vài chục năm qua là điều cần thiết. Và
trên thực tế, khơng thể nói khác được.


*


Trong việc tiếp nhận các giá trị văn học nghệ thuật có một chân lý hiển
nhiên không thể phủ nhận được là: mỗi thời đai, mỗi lớp người có những thái độ
và mức độ tiếp nhận khác nhau. Các tác phẩm dở và các giá trị giả tất nhiên sẽ bị
công chúng và thời gian vứt vào sọt rác lịch sử. Các tác phẩm hay, các giá trị
văn học chân chính của dân tộc và nhân loại, dầu có những hạn chế do lịch sử và
thời đại tạo ra, bao giờ và ở đâu cũng có sức sống trong lịng nhân dân, được
nhân dân gìn giữ và trân trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

sự nhìn nhận đúng đắn và chân thành của chúng ta về hiện tượng văn học phong
phú và phức tạp này. Tôi tin rằng các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, phê
bình, nhà văn, nhà thơ và cả bạn đọc của chúng ta sẽ trân trọng ghi nhận và
nghiên cứu nghiêm túc các lời tâm sự, các lời tự phê phán của Hoài Thanh,
Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên,…và các nhà thơ khác trong cuộc.
Những cơng trình nghiên cứu cơng phu của nhiều nhà nghiên cứu về văn học
hiện đại sẽ là tài liệu q bổ ích khơng thể bỏ qua. Các hiện tượng tương tự
trong văn học thế giới sẽ được quan sát cẩn thận để giúp ta suy nghĩ sâu hơn, Và
điều cần thiết phải làm là có một sự điều tra xã hội học có độ thơng tin đáng tin
cậy để có thể rút ra những kết luận cần thiết làm cơ sở cho việc nhận định, đánh
giá một cách thực sự khoa học.Thực tiễn đời sống chính trị - xã hội và đời sống
văn học nghệ thuật của đất nước ta hiện nay đang tạo ra bầu khơng khí thuận lợi
và các điều kiện thuận tiện cho công việc nghiên cứu thú vị và bổ ích này.


*


Tơi khơng có tham vọng và cũng không đủ sức để làm cái công việc nêu ở


trên. Ở đây tôi chỉ xin nêu lướt một vài suy nghĩ xen lẫn với hồi ức về <i>Thi nhân </i>
<i>Việt Nam </i>và tác giả <i>Thi nhânViệt Nam</i> với hy vọng mơ hồ rằng may góp phần
bé nhỏ có ích cho những ai cùng mối quan tâm với tơi trên vấn đề nhìn nhận đầy
đủ hơn về “Thơ mới” và cuốn <i>Thi nhân Việt Nam. </i>


Cha tơi và Hồi Chân (em ruột ơng) bắt tay vào biên soạn <i>Thi nhân Việt </i>
<i>Nam </i> lúc tôi mới được năm, sáu tuổi. Gần nửa thế kỷ đã trơi qua cùng với bao
sóng gió của cuộc đời….Bấy giờ gia đình chúng tơi sống ở Huế. Cha mẹ tơi th
một căn nhà xồng xĩnh ở ngã tư “ga - ra Nghẹt”, phía gần trường Thuận Hố.
Giáp tường với căn nhà tôi ở là nhà một ông thợ rèn. Suốt ngày dội sang bên nhà
tôi tiếng đập, gõ chát chúa và tiếng thụt bễ lò rèn phập phù. Cha tôi viết <i>Thi </i>
<i>nhân Việt Nam </i>trong luồng âm thanh nhọc nhằn ấy, nhất là vào những ngày hè
oi ả của xứ Huế. Cha mẹ tơi kể lại: năm ấy (1941) gia đình tơi sống hết sức lao
đao. Nguồn sống chính của gia đình tôi (gồm ông tôi, mấy người anh em của
cha tôi, cha mẹ và ba con) trông cậy vào đồng lương dạy tư của cha tôi. Vậy mà
vào năm đó chính quyền thực dân cấm cha tơi đi day. Lấy gì mà sống? Mẹ tơi
phải mở qn sách, cha tôi chạy vạy xin đi dạy lại. Nửa năm sau chúng mới cho
cha tôi dạy ở trường Thuận Hố.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Cơm áo khơng đùa với khách thơ</i>


(XUÂN DIỆU)


Đọc <i>Thi nhân Việt Nam </i>ta thường thấy các nhà thơ và tác giả như đắm
chìm trong mơ mộng vẩn vơ và có cảm giác hình như họ là những người sống
sung sướng, đầy đủ và nhàn rỗi. Đó là thế giới thơ của họ. Thật ra, ở đời thường
trong số họ khơng ít người đang đắm chìm hoặc sắp đắm chìm thực sự vì manh
áo, miếng cơm. Họ là tư sản, là “ phú hào” ở đâu trong đầu óc, trong sách vở
Tây mà họ vớ để đọc, chứ dưới ánh mặt trời họ tồn tại trong hình dáng đầy đủ
của con người lao động làm th:



<i>Chóng hết trang máu lẫn mồ hơi </i>
<i>Từng dịng đánh đổi lấy ngơ khoai </i>
<i>Giữa khi ơng chủ buôn văn ấy </i>
<i>Tiệc rượu lầu cao ngả ngốn cười </i>


(TRẦN HUYỀN TRÂN)(1)


Họ khát khao, mơ ước nhiều. Những khát khao tội nghiệp thơi mà cũng
chẳng được. Có lẽ vì vậy mà họ cố đưa hồn mình đến những cõi huyền ảo hoặc
cố tạo ra những mơ mộng để tự huyễn mình:


<i>Tơi chỉ là người mơước thơi, </i>
<i>Là người mơước hão! Than ơi! </i>
<i>Bình minh chói lói đâu đâu ấy, </i>
<i>Cịn chốn lịng riêng u ám hồi. </i>


(THẾ LỮ)
Họ ao ước:


<i> Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối, </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>Cịn hơn buồn le lói suốt trăm năm. </i>


(XUÂN DIỆU)


Nói về thơ mới, Xuân Diệu thường nhắc đến hai chữ “<i>đau đời</i>”. Đau vì
nỗi đời vất vả. Đau vì kiếp làm dân một nước nơ lệ. Đau vì tủi nhục, nghèo hèn
cứ gắn hồi với thân phân. Theo tơi, nỗi đau đời chính là cái hạt cơ bản tạo nên


cái đẹp cần giữ gìn, trân trọng trong “thơ mới”. Thái độ mãn nguyện, sự lạuh
nhạt, sự hững hờ trong cuộc sống là kẻ thù của sự sáng tạo nghệ thuật. Có đau
đời mới nảy ra khát vọng đổi đời. Rõ ràng là trong “thơ mới” đã thấy thấp
thoáng ngọn lửa của khát vọng đổi đời. “Thơ mới” và các nhà “thơ mới” là sản
phẩm tất yếu của lịch sử, của giai cấp, của thời đại. Đừng đòi hỏi thơ của họ
phải sáng chói như mặt trời hoặc sáng rực như ngọn đèn pha chiếu rõ đường
phải đi, nơi phải đến. Họ bị giam hãm trong một môi trường thiếu năng lượng,
thiếu chất đốt của lịng tin làm sao thơ họ có đủ chất sáng? Điều đáng quý là
trong “thơ mới” đã lập loè “ngọn lửa Đancô” trên thảo nguyên mịt mùng của
cuộc đời: ngọn lửa của tình yêu người, yêu non sông đất nước, yêu tiếng mẹ
đẻ,….


Cuối chặng đường của “thơ mới” ngày một hiện rõ sự bế tắc mà mầm
mống của nó đã chứa sẵn từ chặng đường đầu tiên: sự chán nản, thất vọng.
Song, khi xem xét sự bế tắc này theo tơi, nên và rất cần nhìn thấy bên dưới, phía
sau tấm chắn ấy là sự quằn quại, đau đớn của những tâm hồn, những con người
bé nhỏ, cô đơn.


<i>Đường về thu trước xa lăm lắm </i>
<i>Mà kẻđi về chỉ một tôi! </i>


(CHẾ LAN VIÊN)


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Đọc “thơ mới” nếu không cảm nhận được cái hồn của nhà thơ “tràn ra đầu
ngọn bút”, không thấy các nhà thơ đã:


<i>Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh </i>


(HÀN MẠC TỬ)



thì chỉ bằng chưa nên đọc hoặc phải đọc kỹ hơn, đọc bằng trái tim của mình rồi
hãy truyền thơng tin cảm nhận được để cho óc đốn định, xử lý sau.


Cái đau đớn, cái bế tắc của “thơ mới” là ánh phản chiếu cái bể khổ bế tắc
của xã hội cũ, là bóng hình, là tiếng kêu than về thân phận con người của các
nhà thơ. Về mặt nào đó có thể nói: hầu như thân phận của các nhà “thơ mới”,
của tác giả <i>Thi nhân Việt Nam </i>trong cuộc đời cũ na ná như thân phận nàng Kiều:


<i>Những là rày ước mai ao </i>


Thế rồi sau bao năm chìm nổi trong vũng bùn xã hội nhơ nhớp phải cất
lên tiếng than đau đớn:


<i>Đã buồn cả ruột lại dơ cảđời! </i>


Trong dịp học tập bảo vệ Đảng tháng 5 - 1970, cha tơi có tự nhận xét về
quãng đời thanh niên của mình:


“…Trong tuổi thanh niên, tôi không phải không cảm thấy cái nhục làm nô
lệ cho giặc ngoại xâm, tôi cũng muốn cất đầu lên. Bị giặc đạp xuống, tôi mất
tinh thần những vẫn chưa chịu cúi đầu hẳn. Tôi vẫn muốn cất đầu lên thấp hơn
lần trước một ít. Nhưng cứ mỗi lần cố cất đầu lên thì lại bị chúng đạp xg sâu
thêm một tầng nữa. Và cứ thế cho đến lúc tơi khơng cịn đủ sức cất đầu lên
nữa”(1) .


Đấy là bi kịch của Hồi Thanh và có lẽ cũng mang tính bi kịch chung của
thế hệ các nhà “thơ mới”. Hoài Thanh đã ghi lại rất đúng cái tâm trạng bế tắc lúc
bấy giờ:





</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

“Đời chúng ta đã nằm trong vịng chữ tơi. Mất bề rộng ra đi tìm bề sâu.
Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong
trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên,
ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên
cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận.


Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.


Thực chưa bao giờ thơ ca Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế.
Cùng lịng tự tơn, ta mất ln cả cái bình n thời trước” (<i>Thi nhân Việt Nam, </i>


tr.54).


Xét cho cùng, cái bế tắc của “thơ mới” cũng giống như cái đêm tối mịt
mùng của chị Dậu và cái đập phá, chửi bới khùng điên của Chí Phèo trong văn
học hiện thực phê phán của thời ấy. Nó có ý nghĩa nhân bản. Từ đó vang lên lời
kêu gọi khẩn thiết: “Hãy cứu lấy những con người đau khổ!”


*


Tháng 11- 1964. Lúc ấy cha tôi vừa viết xong bài : “ Một vài ý kiến về
phong trào “thơ mới” và quyển <i>Thi nhân Việt Nam”</i>. Cũng thời gian này tôi tạm
biệt những người thân để lên đường đi công tác ở chiến trường Nam Bộ. Phút
tạm biệt, đã ra đến cầu thang tơi cịn đề nghị cha tơi cùng tơi quay lại căn pịng
của gia đình. Tơi muốn nghe một lần cuối bản <i>Pơlơnex</i> nổi tiếng của M.
Ơghinxki(1) mà tơi rất u thích. Đó là một bản nhạc có giai điệu tuy buồn da
diết mà vẫn trong sáng và rất đẹp. Cha tôi hỏi: “Tại sao trước giờ lên đường đi
chiến trường con lại nghe một điệu nhạc buồn như vây?”. Tôi trả lời tôi rất xúc


động mỗi khi nghe bản nhạc này vì nhạc sĩ đã truyền cho tơi một tâm hồn đẹp
qua làn suối trong vắt của âm thanh. Bản nhạc tuy buồn nhưng lại gợi lên trong
tơi tình u tha thiết và khát vọng trong sáng.


---


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Cha tôi ngồi yên lặng trong khi tơi khốc lại ba lơ và chuẩn bị bước ra.
Bỗng cha tôi ngồi xuống ghế và bảo: “Con nghe thêm một lần nữa đi”.
Tôi bật công tắc máy hát. Giai điệu đẹp của bản nhạc lại tràn ngâp căn phịng và
tràn ngập lịng tơi, dạt dào những cảm xúc khó tả. Từ buổi chia tay thiêng liêng
ấy, bản <i>Pôlônex</i> trở thành một hiện diện trong đời sống tinh thần của tôi trên
đường hành quân, trong chiến hào, địa đạo, trong những thương nhớ, bâng
khuâng….và dài hơn là trên những chặng đường đời xa tít tắp.


Năm 1972, tơi từ chiến trường vượt Trường Sơn lần thứ hai ra Hà Nội
nhận công tác mới. Cha con tôi lại chung sống với nhau. Tôi thường trị chuyện
với cha tơi về những năm tháng chiến trường. Khi tôi kể chuyện hành quân dọc
Trường Sơn và ở chiến trường tôi và đồng đội thưởng mở đài Sài Gòn để nghe
thơ và nhạc tiền chiến vậy mà vẫn công tác và đánh giặc rất hăng, vẫn lạc quan
u đời. Cha tơi có vẻ khơng đồng tình nhưng khơng phê phán tơi. Các bài thơ,
bài hát ấy gắn liền với kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi kể tên các bài thơ tôi đã đọc
trong <i>Thi nhân Việt Nam </i>hồi còn nhỏ, nhắc lại cả lời bình của cha tơi. Tơi
khẳng định với cha tơi các bài thơ đó vẫn hay. Tôi thấy cha tôi suy nghĩ rất
nhiều về những điều tơi nói. Nhưng, đến năm 1977 cha tôi lại viết bài <i>“Thêm </i>
<i>một vài lời về quyển </i>Thi nhân Việt Nam<i>”</i> mà tư tưởng chủ yếu của bài viết này
là đề phòng cho lớp thanh niên khỏi bị nhiễm lối sống buông xuôi trước những
yêu cầu gắt gao của giai đoạn lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

ba tuần trước khi cha tôi mất, nhà xuất bản Văn học báo cho ơng biết: <i>Tuyển tập </i>
<i>Hồi Thanh </i>tập I đã bắt đầu xếp chữ. Cha tôi mừng lắm nhưng tỏ ra khó có hy


vọng được thấy mặt quyển sách của mình. Lúc bấy giờ cha tôi đã yếu lắm nhưng
ông vẫn vui vẻ chuyện trị với chú tơi (Hồi Chân), với chúng tơi và với bạn bè
về công việc làm tuyển tập. Nhân đó tơi hỏi : “ Tại sao cha khơng cho tuyển


<i>Một thời đại trong thi ca?”</i>(1)<i> . </i>Cha tơi trả lời dứt khốt: “Lúc này chưa nên”.


Một lần khác, vẫn ở bên giường cấp cứu, sôi nổi, vui vẻ, chúng tôi bàn về
thơ “chân dung nhà văn” đang lưu hành trong giới văn chương. Cha tôi khe khẽ
đọc lại mấy câu thơ “thơ chân dung” nói về ơng mà ai đó đã đọc cho ơng:


<i>Vị nghệ thuật một nửa đời </i>
<i>Nửa đời còn lại vị người cấp trên </i>(2)


<i>“Thi nhân” còn một chút duyên </i>
<i>Chẳng cầm cho vững lại lèn cho đau!.... </i>


Đọc xong, cha tơi bình:


- Tay này nó biết mình mê Kiều nên nó dùng lối lẩy Kiều để vẽ chân dung
mình thì khéo thật. Tuy vậy câu thứ hai nói oan và nói ác quá. Cha biết có khơng
ít người nghĩ như thế về cha.


Nói xong, cha tơi có vẻ hơi buồn buồn.


Tơi cịn nhớ, đêm giao thừa tết năm 1982, tơi ngồi đón xn với cha tơi
trong phịng cấp cứu bệnh viện. Đêm ấy ơng nói với tơi rất nhiều buồn vui trong
cuộc đời, trong thơ văn. Tôi nhớ mãi lời ông nói với tơi đêm đó:


---



(1)<sub> Bài tổng kết phong trào Thơ mới ở đầu cuốn </sub><i><sub> Thi nhân Vi</sub><sub>ệ</sub><sub>t Nam </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

“ Cha viết văn đã 50 năm nhưng cơng việc cha thích nhất là dạy học và
bình thơ, bình thơ hay, vơ luận là của ai. Cha biết văn chương của cha cũng vầy
vậy thơi. Nếu khơng có cuốn <i>Thi nhân Việt Nam </i>thì khơng chắc gì người ta đã
cơng nhân cha thực sự là một nhà văn.


“ Một đời làm văn cha chỉ tìm cái hay cái đẹp để bình. Đó là điều ham
muốn của cha. Vậy mà cha đã vấp phải khối chuyện phiền: kẻ yêu, người ghét.
Thậm chí cha cịn bị vu cáo, bị nói oan. Cha biết như vậy nhưng không thể sống
khác, viết khác cái tạng của mình. Điều mà cha có thể hoàn toàn yên tâm và tự
hào trước lúc đi xa là cha đã sống và viết hoàn toàn trung thực. Đó là cái quý
nhất mà cha muốn để lại cho các con”.


Tơi biết rõ cha tơi cịn một điều chưa toại nguyện là chưa hoàn thành
được lòng mong muốn ấp ủ từ lâu: viết tiếp một <i>Thi nhân Việt Nam </i>mới, theo
cách của ơng. Ơng đã bắt tay vào việc sưu tầm, ghi chép từ nhiều năm. Di cảo
của ông để lại bồn bề tài liệu, tư liệu cho cơng trình ấy. Nhưng rồi,“ lực bất tịng
tâm”….


Vì Đời và Thơ, ơng đã sống mê say, sống hết mình. Với ơng, Thơ và Đời
tuy hai mà một, tuy một mà hai, hoà quyện. Ông đã đi xa, xa mãi nhưng chuyện
thơ của ông vẫn ấm hơi nồng của cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

nhận tác phẩm. Thực tế đã chứng minh điều này. Xin đừng lo. Sâm là vị bổ mà
dùng quá liều lượng cũng có thể gây chết người. Nọc rắn là chất làm chết người
nhưng biết dùng thì lại trị được bệnh, cứu được người. Vấn đề đặt ra là mục
đích, liều lượng và cách sử dụng cùng với sự am hiểu của người thầy thuốc.


Tháng 10-1988



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<b>V</b>

<b>Ớ</b>

<b>I “THI NHÂN VI</b>

<b>Ệ</b>

<b>T NAM”, CĨ PH</b>

<b>Ả</b>

<b>I “ LÀ M</b>

<b>Ộ</b>

<b>T B</b>

<b>ƯỚ</b>

<b>C </b>



<b>CHÌM SÂU H</b>

<b>Ơ</b>

<b>N N</b>

<b>Ữ</b>

<b>A VÀO CON </b>

<b>ĐƯỜ</b>

<b>NG NGH</b>

<b>Ệ</b>

<b> THU</b>

<b>Ậ</b>

<b>T </b>



<b>V</b>

<b>Ị</b>

<b> NGH</b>

<b>Ệ</b>

<b> THU</b>

<b>Ậ</b>

<b>T” C</b>

<b>Ủ</b>

<b>A HOÀI THANH? </b>



Trong cuốn “Nhà văn Việt Nam (1945-1975)” tập I, nxb Văn học H.1982,
cố giáo sư Phan Cự Đệ có bài nghiên cứu khá cơng phu về sự nghiệp văn học
của Hoài Thanh. Với cách nghiên cứu tỉ mỉ, nghiêm túc và đặc biệt là với tình
cảm quý mến, trân trọng thể hiện qua từng trang viết, về cơ bản, giáo sư đã nêu
bật được những đóng góp của Hồi Thanh cho nền phê bình văn học nước nhà-
đặc biệt là từ sau Cách mạng tháng Tám. Tuy vậy có một nhận định về tác phẩm
“ Thi nhân Việt Nam “ do cố giáo sư nêu ra theo tôi là chưa thoả đáng. Phan Cự
Đệ cho rằng “Thi nhân Việt Nam”: “<i>Là một bước chìm sâu hơn nữa vào con </i>
<i>đường nghệ thuật vị nghệ thuật”. </i>


Nhận định trên của Phan Cự Đệ đã khơng được ơng Vũ Đức Phúc hồn
tồn đồng tình. Trên “ Tạp chí Văn học” số 2 - 1982, ở bài viết về Hồi Thanh,
ơng Vũ Đức Phúc cho rằng nhận định ấy “ thì tất nhiên cũng đúng một phần
nhưng chưa thấy được ưu điểm cơ bản của cuốn sách (TNVN - T.S. chú)”.


Riêng tơi, với tu cách là người có nghiên cứu về “ Thi nhân Việt Nam” tôi
dám khẳng định rằng “Thi nhân Việt Nam” không thể và không phải là tác phẩm
được úp lên cái mũ “ nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nó lại càng khơng phải là một
sản phẩm “vị nghệ thuật” theo nội hàm của phái “ nghệ thuật vị nhân sinh” mà
trong cuộc tranh luận “nghệ thuật v ị...” hồi 1935, 1936 đã gán cho Hoài Thanh


Trong bài viết ngắn này không tôi muốn lạm bàn về cuộc tranh biện ồn ào
thuở xa ấy vì đã có nhiều bài viết, nhi ều cuốn sách nghiên cứu công phu, khách



quan, khoa học cùng với những tư liệu gốc sinh động của nhiều giáo sư, nhà lý
luận phê bình đã đánh giá đúng đắn về đúng/sai, về được / chưa được v.v…của
cuộc tranh luận “ nghệ thuật vị…” Tôi tin rằng: với thời gian và những đổi mới
của thời đại, mọi giá trị đã và sẽ trở về đúng vị trí của nó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

“Thi nhân Việt Nam”, sau mười năm theo dõi và say mê nghiên cứu “Thơ
mới” (từ 1932 đến 1941), Hoài Thanh ( cộng tác với Hoài Chân) đã viết xong
“Thi nhân Việt Nam” trong một căn nhà nhỏ số 5 đường Phó Đức Chính thành
phố Huế. Đó là một căn nhà (kiểu cấp 4) thuê của một viên đội xếp (chức vụ
tương đương với trưởng cơng an phường hiện nay). Hồi Thanh vừa đi dạy học
ở trường Thuận Hố (do ơng Tơn Quang Phiệt và một số bạn bè của ông mở)
vừa cắm cúi viết “ Thi nhân Việt Nam” trong tiếng bễ thụt phù phù và tiếng búa
đập chát chúa của hàng xóm làm nghề lị rèn. Sách viết xong cuối năm 1941
(tháng 11) được ơng Hồi Chân (tức Nguyễn Đức Phiên) đưa ra nhà Thuỵ Ký ở
Hà Nội in ngay cuối năm ấy. In theo phương thức “tự xuất bản”. Vì vậy ở bìa
trong của sách có ghi: “Nguyễn Đức Phiên xuất bản”. Sách phát hành đầu năm
1942 (tự phát hành), bán rất chạy nên cuối năm 1942 đã phải tái bản và cũng
được bán hết.


Sau 1942, “ Thi nhân Việt Nam” chịu số phận mang kiếp “ bèo dạt mây
trôi” chìm nổi như thân phận nàng Kiều ( chìm là chính), thời gian chìm nổi gấp
hơn ba lần thân phận nàng Kiều: gần 50 năm (!).


Tơi vừa nói gần 50 năm, “Thi nhân Việt Nam” “ chìm là chính” vì mãi
đến năm 1960, “ Thi nhân Việt Nam” mới được trường Đại học Tổng Hợp Hà
Nội xin phép in lại theo lối in rônêô với số lượng bản in rất hạn chế dành cho
giáo viên và sinh viên khoa ngữ văn tham khảo.


Ở Sài Gòn, năm 1968, nxb. Hoa Tiên in lại hai lần một cách dè dặt (vì


Hồi Thanh là..” Việt cộng”).


Năm 1985, nxb Đông Nam Á do một vị linh mục Thiên chúa giáo đứng ra
xuất bản ở Paris. Vị linh mục này có viết thư cho tơi biết rằng “sách bán chậm”
mà khơng nói lý do.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

vậy để vượt qua được một số áp lực “nặng ký” bấy giờ, nxb. Văn học tìm ra
được một “cái chốt an toàn” là đề ở bìa trong của cuốn sách là “ Sách nghiên
cứu”(!).


Một điều trớ trêu: tôi và Phan Hồng Giang là hai người con được Hoài
Thanh ghi trong “Mấy lời để lại cho các con cháu” trước khi ông mất rằng hai
chúng tơi có trách nhiệm giữ gìn và chăm sóc các cơng trình nghiên cứu, bài vở,
bản thảo để lại của ơng nhưng thật tình mà nói đến lúc này (tháng 5-2008) chúng
tôi không thể đưa ra con số “ Thi nhân Việt Nam” đã được tái bản chính xác là
bao nhiều lần. Đơn giản là bởi cái tình trạng coi thường pháp luật về bản quyền
của một số nhà xuất bản và nhất là một số doanh nghiệp có cái tên “nhà sách”
này nọ đã cho in lại TNVN mà không một lời xin phép gia đình Hồi Thanh và
những người thừa kế hợp pháp. Mới gần đây thôi, khoảng đầu tháng 3-2008,
tình cờ tơi xem một hàng sách ở via hè đường Nguyễn Chí Thanh thấy có bán
TNVN. Lật vội bìa sau thấy đề tên một nhà sách ở 808 đường Láng. Điều ấy có
nghĩa, theo quy định hiện hành, nhà sách ấy là “đầu nậu” in và phát hành. Lật
trang cuối cuốn sách có ghi: “Biên tập: Ban văn học nước ngoài” (của nxb. Văn
học). Chúng tôi gọi điện hỏi nxb. Văn học: tại sao sách in từ năm 2006 mà gia
đình không được hỏi ý kiến để cho phép in? Đại diện nxb. trả lời đại ý: “ Nhà
sách bậy lắm, họ in rồi cũng không báo và nộp sách cho nxb. Để chúng tơi có ý
kiến với họ”. Ô hay, giấy phép nxb., cấp mà nxb. cũng không theo dõi xem đối
tác làm ăn thế nào. Đấy chưa kể hà cớ gì “ Ban văn học nước ngoài” của nxb.
Văn học lại đứng ra “ biên tập” cuốn sách này? Không biết người ta “ vị…” cái
gì khi khơng chỉ nhà sách và nxb. kể trên mà còn nhiều nhà sách làm “đầu nậu”


cho vài nhà nxb. khác đã in TNVN không biết bao nhiêu lần rồi mà chẳng một
lời xin phép gia đình Hồi Thanh theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

người ta đã in lại TNVN một cách không hợp pháp (không xin phép gia đình
Hồi Thanh) ít nhất là 5 lần. Những trường hợp in lậu theo lối “luộc sách” phổ
biến hiện nay thực tình tơi khơng nắm chắc được là bao nhiều lần.


Từ thân phận “chìm nổi” của TNVN vừa kể trên, có thể rút ra một vài
nhận xét như sau:


- “Thi nhânViệt Nam” chìm hay nổi hơn sáu mươi năm qua có nguyên
nhân là do biến thiên lịch sử , do “ thời tiết chính trị”. Dấu ấn thời đại trong các
thời điểm tái bản TNVN đều hiện ra rất rõ.


- Có nhu cầu tìm đọc rất lớn của nhiều thế hệ cơng chúng nên TNVN là
một trong nhiều tác phẩm văn học xuất bản trước Cách mạng tháng Tám được in
đi, in lại nhiều lần với số lượng phát hành rất lớn: cả trăm ngàn bản.


Từ hai nhận xét nêu trên, khó lịng có thể xem TNVN là một tác phẩm
“<i>chìm sâu hơn nữa vào con đường nghệ thuật vị nghệ thuật</i>”. Khơng lý gì nhiều
thế hệ bạn đọc hôm nay lại chạy theo trào lưu “nghệ thuật vị nghệ thuật” từng
nhiều lần bị lên án một cách chính thống trong thời gian khá dài?


Vậy vì sao “Thi nhânViệt Nam” đã và đang tiếp tục được bạn đọc yêu
mến, được đánh giá là một đỉnh cao của văn học hiện đại Việt Nam và tác giả
của nó là một nhà phê bình văn học kiệt xuất, một “thiên tài” văn chương như
nhiều nhà nghiên cứu và bạn đọc bình phẩm, thẩm định?


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

khơng dễ gì các tác giả hàng đầu và các bài thơ hay còn sống mãi với thời gian
trước bao biến đổi của thời đại suốt gần một thế kỷ vừa qua.



Tôi xin phép khơng phân tích, chứng minh cho những nhận định có tính
tổng qt về “Thi nhân Việt Nam” vừa nêu trên. Bởi vì đã có rất nhiều bài viết,
cơng trình nghiên cứu về “Thi nhân Việt Nam” được công bố trên các sách báo
của nhiều tác giả đã đưa ra những nhận định đúng đắn, khoa học được chứng
minh một cách đầy sức thuyết phục về giá trị đích thực và vĩnh cửu của “ thơ
mới” và “ Thi nhân Việt Nam”.


Lúc còn sống, những lần gặp tơi nhà thơ Huy Cận thường nói: “ Trong
Thi nhân Việt Nam có 40 nhà thơ thì Hồi Thanh là nhà thơ 41”. Huy Cận đánh
giá rất cao sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh. Ơng cho rằng Hồi Thanh
“.... là một nhà bình luận văn chương “ khơng tiền khống hậu” hiếm thấy trong
văn học thế giới. ( Xin xem : “ <i>Hoài Thanh với khát vọng chân thiện mỹ</i> “ - Từ
Sơn và Phan Hồng Giang biên soạn - Nxb. Hội nhà văn, H. 1999, tr.260)


Hồi 19 giờ ngày 17-6-2000 nhà thơ Huy Cận gọi điện cho tơi. Ơng bảo
tơi hãy nghe và ghi lại bài thơ ơng mới viết về Hồi Thanh. Bài thơ ấy tôi đã
mạn phép vong hồn nhà thơ Huy Cận đưa vào một bài viết của tôi đăng trên báo
“ Văn nghệ” số 24 ra ngày 16-6-2007. Tiện đây, tôi xin chép lại bài thơ ấy như
sau:


NHỚ HỒI THANH


<i>Lấy hồn tơi hiểu hồn người </i>
<i>Câu văn tri kỷ một thời thơ ca. </i>


<i>Cũng người một hội đâu xa </i>
<i>Nỗi đau nhân thế cũng là niềm chung. </i>


<i>Trăm năm một hội tao phùng </i>


<i>Rằng thi hoại ấy bạn cùng thi nhân! </i>


“Nỗi đau nhân thế”, theo tôi, chính là hạt nhân làm nên giá trị vĩnh cửu
của “ Thơ mới” và “ Thi nhân Việt Nam”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<i>sinh</i> - Tác giả : Nguyễn Ngọc Thiện – nxb. Khoa học xã hội, Hà nội 2004 tr.210)
Ông Phan Văn Dật viết: “ Nếu nghệ thuật mà khơng vì nghệ thuật thì cịn đâu
cái tính chất nghệ thuật của nó đã chứ? Cịn nghệ thuật vị nhân sinh? Ba chữ “Vị
nhân sinh” ấy cũng bằng thừa. Thì nghệ thuật nào mà chẳng vị nhân sinh? Mà
xét cho cùng, cái gì lồi người đã bày ra trên cõi đất này, mà vần đời đời tồn tại,
thì tất nhiên là vị nhân sinh rồi”. Tác giả bài viết đã lần lượt điểm lại lịch sử hình
thành thuyết “Nghệ thuật vị nghệ thuật” mà người khởi xướng là Théophile
Gautier (và trước đó là V. Hugo) rồi sự hưởng ứng nhiệt liệt của Bauđelaire,
T.Banville, Buoilhet, Flaubert… Kế đó tác giả bài viết đã điểm lại khuynh
hướng nghệ thuật vị nhân sinh mà Romain Rolland là người khởi xướng cho đến
E.Picard (ở Bỉ), Puskin, Tolstoi, Gogol, Dostoevsky, Gorky… ở Nga v.v… là
những tác giả thuộc khuynh hướng xã hội chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh.
Phan Văn Dật đã chỉ ra rất cụ thể hoàn cảnh phát sinh cùng cái hợp lý và cái
chưa hợp lý của từng khuynh hướng. Cuối bài viết, Phan Văn Dật nói một cách
khơi hài mà vẫn rất nghiêm chỉnh:” Nói tóm lại, hai chữ nghệ thuật vốn có cái
nghĩa rất rộng. Sự rộng rãi nếu quả không phải là một cái tội, thì tại sao người ta
lại cứ tranh nhau thu hẹp cái phạm vi của nó là tại sao? Nó vốn có một thì cần gì
phải tìm cách chặt đơi nó ra: nó đáng u đáng q như một cơ gái đồng trinh
thì chuyện gì phải làm khổ nó mà bắt ép nó phải lấy những hai anh chồng mà
anh nào cũng có cái máu ghen ghê gớm là sao?..”. Phan Văn Dật cho rằng: “Ta
nên gọi một cách giản dị <i>nghệ thuật là nghệ thuật ( xin chớ hiểu lầm với nghệ</i>
<i>thuật vị nghệ thuật) mà đừng bắt nó phải vị riêng cái gì cả, chỉ tổ gây ra những </i>
<i>cuộc tranh luận không bao giờ xong mà thôi. Một điều người ta khơng nên qn </i>
<i>là đã nói đến nghệ thuật thì phải dụng tâm làm thế nào cho thật có nghệ thuật </i>
<i>mà</i> <i>thơi</i>” (Những dịng in nghiêng do tơi nhấn mạnh - T.S) . Đọc lại bài viết của


ông Phan Văn Dật khiến tôi nhớ lại trong cuộc hội thảo khoa học do Viện Văn
học tổ chức năm 1992 nhân 50 năm ra đời “Thi nhân Việt Nam” và 10 năm ngày
mất nhà văn Hoài Thanh nhà thơ Hồng Trung Thơng có phát biểu một ý ngắn
gọn nhưng rất sâu sắc: “ Nghệ thuật vị nghệ thuật là nghệ thuật vị nhân sinh”


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>Hải Triều, theo anh, nghệ thuật có thể phản ánh gián tiếp. Không nhất thiết bức </i>
<i>tranh nào cũng trình bày bằng hình ảnh cơng nơng. Một bơng hồng rung rinh </i>
<i>dưới ánh mặt trời trong sương sớm sao lại không được xem là nghệ thuật vị</i>
<i>nhân sinh?Anh Gấm khơng biết do đâu mà lại có chuyện bơng hồng này nó vốn </i>
<i>là một hình ảnh tơi từng đưa ra để nói về nghệ thuật và đã bị phái vị nhân sinh </i>
<i>phê phán rất gắt gao. Anh Duẩn lúc bấy giờ là bí thư xứ uỷ Nam Kỳ” </i>( Xem


<i><b>Hoài Thanh</b></i><b> - </b><i><b>Di bút và di c</b><b>ả</b><b>o</b></i> - Từ Sơn sưu tầm và biên soạn – nxb. Văn học -
Hà Nội 1993- tr.55)


Vậy là đã rõ quan điểm nghệ thuật của Hoài Thanh phù hợp với bản chất
hằng tồn tại của nghệ thuật - một sản phẩm do con người tạo ra, vì con người, vì
khát vọng hướng con người vươn tới một thế giới Chân - Thiện - Mỹ để con
người có thể hồn thiện chính mình và đồng loại.


Tơi nghĩ: Với “Thi nhân Việt Nam”, Hồi Thanh đã và đang trên đường
tìm về tâm hồn Việt thanh khiết, cao quý được thể hiện qua những vần thơ,
những hồn thơ mang đậm hương sắc dân tộc trong một thời đại cơ hồ như bị Âu
hoá và nỗi đau lớn nhất của con người Việt Nam lúc bấy giờ là bị làm nô lệ, bị
mất nước. Hoài Thanh cũng như các nhà thơ mới bị giam hãm trong một môi
trường thiếu năng lượng, thiếu chất đốt của niềm tin nên thơ của họ cũng như
cuộc sống của họ có những hạn chế, tầm nhìn của họ còn chưa đủ thấy được
tương lai tươi sáng của ngọn lửa Cách mạng đang nhen nhóm để đưa dân tộc tới
một cuộc đổi đời lớn sau này. Nhưng dù sao trong trái tim họ cũng đã lập loè
“ngọn lửa Đancô” trên thảo nguyên mịt mùng của cuộc đời. Đó là ngọn lửa của


tình yêu con người Việt Nam, yên non sông đất nước Việt Nam, yêu tiếng mẹ
đẻ.. Họ “<i>Muốn mượn tâm hồn bạch chung (</i> của dân tộc - TS) <i>để gửi nỗi băn </i>
<i>khoăn riêng... họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ</i>
<i>đảm bảo cho ngày mai”.</i> Đó là lời kết trong bài mở đầu cuốn “Thi nhân Việt
Nam”<b>: Một thời đại trong thi ca. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<i>biểu trong thế kỷ này… Theo tơi, nói quan điểm nghệ thuật của Hoài Thanh </i>
<i>trước cách mạng là “V<b>ị</b><b> dân t</b><b>ộ</b><b>c”</b></i>( TS nhấn mạnh) <i> có lẽ thoả</i> <i>đáng hơn cả” </i>


(Xem “ <b>Hoài Thanh với khát vọng Chân - Thiện - Mỹ</b>”, Từ Sơn và Phan
Hồng Giang biên soạn nxb. Hội nhà văn Hà Nội 2000 - tr.277).


<i>Tháng 5 năm 2008 </i>


( Bài này vi<i>ết theo yêu cầu của một để tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của </i>
<i>khoa Ngữ văn - Đại học sư phạm Hà Nội . Đã báo cáo tại một buổi hội thảo do Ban chủ</i>


<i>nhiệm đề tài tổ chức hồi tháng 8-2008. Đã trích đăng một phần chủ yếu trên báo “Văn nghệ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>THI NHÂN VI</b>

<b>Ệ</b>

<b>T NAM</b>



Thi nhân Việt Nam : tác phẩm nghiên cứu - phê bình văn học về phong
trào “ thơ mới” của Hoài Thanh và Hoài Chân, tác giả chủ yếu là Hoài Thanh .
(1909- 1982).


Thi nhân Việt Nam là một cơng trình nghiên cứu cơng phu, một bản tổng
kết nghiêm túc có sức thuyết phục cao bởi các tư liệu phong phú, hệ thống, bởi
các nhận định sắc sảo về quá trình phát sinh, về cuộc đấu tranh thắng lợi của cái
mới, về sự phát triển mười năm của phong trào “ thơ mới” ( 1932-1941) đã làm
nên một thời đại mới của thi ca trong nền văn học hiện đại nước nhà. Cơng trình


cũng đã nêu ra được những nguyên nhân từ xã hội, thời đại và từ con người sáng
tạo thơ ca để lý giải sựphát sinh tất yếu của phong trào “Thơ mới”. Các tác giả
của Thi nhân Việt Nam còn đưa ra những gợi ý để hướng các nhà thơ gắn bó
hơn nữa với cội nguồn dân tộc và ngôn ngữ dân tộc trong quá trình đổi mới sáng
tạo thơ ca.


Thi nhân Việt Nam còn được xem là một hợp truyền thơ đặc sắc. Nét đặc
sắc rõ nhất là tác giả Thi nhân Việt Nam đã “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”
(TNVN tr.390-391). Không chỉ để <i><b>hi</b><b>ể</b><b>u</b></i> mà còn <i><b>say</b></i> theo hồn người. 169 bài thơ
của 46 nhà thơ có mặt trong Thi nhân Việt Nam như hồ với giọng bình của tác
giả để hát lên bài ca sầu não, mộng mơ, vui vội, buồn sâu, đau đớn, ngơ ngác
trước cuộc đời. Đó là bài ca dường như tiếng nức nở, thở than một lớp thanh
niên trí thức nặng tình với quê hươg đất nước, với ngôn ngữ dân tộc nhưng tự
cảm thấy bất lực trước cuộc đời đầy nỗi đau nhân thế”. Lớp người này cho rằng
mình đã “<i>đầu thai lầm thế kỷ</i>” nên mượn thơ ca, nghệ thuật để ru hồn mình “<i>tận</i>
<i>cuối trời Quên</i>” ( Thơ Vũ Hoàng Chương).


Một nét đặc sắc khác là tác giả Thi nhân Việt Nam đã chọn đúng những
tác giả tiêu biểu của phong tràoThơ mới”, phát hiện đúng cái “ thần”, cái độc
đáo trong sáng tạo của từng tác giả thông qua lời bình trang nhã, duyên dáng đầy
cảm xúc chân thành, tế nhị với từng tác giả, từng bài thơ, câu thơ. Nhiều nhà thơ
trở thành tác giả quen thuộc của các thế hệ bạn đọc Việt Nam hơn nửa thế kỷ
qua một phần quan trọng là nhờ có mặt trong Thi nhân Việt Nam.




</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

“ Tôi rất say mê “ thơ mới” ngay từ khi “ thơ mới” ra đời. “ Thơ mói” hầu
như là cái vui duy nhất của tôi hồi bấy giờ” ( <i><b>Tuy</b><b>ể</b><b>n t</b><b>ậ</b><b>p Hoài Thanh</b></i> , tập I tr.
303) Thi nhân Việt Nam là đứa con tinh thần được ra đời trong niềm đắm say
ấy. Với tác giả Thi nhân Việt Nam , sự say mê ấy đã trở thành một thái độ sống:


hình như trên đời chỉ có thơ là nơi trú ngụ bình n của tâm hồn. Thực ra, sau
khi được hoà nhập vào cuộc sống lớn của Cách mạng, của dân tộc sau 1945,
Hồi Thanh đã nghiêm khắc nhìn lại: “ Trong hồn cảnh mất nước thì việc đầu
tiên đối với nhà văn học cũng như nhà khoa học là phải góp sức giành lại chủ
quyền đầu có phải là miệt mài trong chuyện tiếng nói và văn thơ” ( <i><b>Tuy</b><b>ể</b><b>n t</b><b>ậ</b><b>p</b></i>
<i><b>Hoài Thanh</b></i>, tập II tr 305) Sự tự phê bình về thái độ trách nhiệm của nhà văn
trước sự nghiệp dân tộc cũng như Hồi Thanh đã nhìn nhận là đúng đắn và cần
thiết.


Hơn nửa thế kỷ đã qua đi với bao đổi thay lớn lao của đất nước, của dân
tộc. Hầu hết các nhà thơ trong Thi nhân Việt Nam và tác giả Thi nhân Việt Nam
đã trở thành những nghệ sĩ - chiến sĩ trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Ngày nay chúng ta trân trọng và giữ gìn và ghi nhận công lao của các thi sĩ thời
“ thơ mới” trong việc đổi mới thơ ca, làm giàu thêm tiếng việt và văn học Việt
Nam. Và với Thi nhân Việt Nam, cho đến nay vẫn là tác phẩm nghiên cứu - phê
bình hay nhất về “Thơ mới” bởi nó đã dựng nên đài kỷ niệm bất chấp thời gian
cho “Thơ mới”. Tác phẩm mang rất đậm dấu ấn của người tạo ra nó: một Hoài
Thanh tài hoa, tinh tế, thành thực - một nghệ sĩ, một nhà thơ độc đáo của ngành
phê bình văn học Việt Nam.


Xuất bản lần đầu năm 1942, được tái bản ngay cuối năm ấy. Đến năm
1996 Thi nhân Việt Nam đã được tái bản mấy chục lần ở trong và ngoài nước
với hàng chục vạn bản cho nhiều thế hệ bạn học. Riêng nhà xuất bản Văn học
(thuộc Bộ Văn hoá thông tin) từ 1988 đến nay (2009) đã xuất bản hoặc liên kết
xuất bản Thi nhân Việt Nam tới ba mươi bảy lần(1) . Trong lịch sử văn học hiện
đại Việt Nam chưa có tác phẩm nghiên cứu phê bình văn học nào được tái bản
nhiều lần như vậy.





</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b>HỒI THANH - NG</b>

<b>ƯỜ</b>

<b>I THI</b>

<b>Ế</b>

<b>T THA G</b>

<b>Ắ</b>

<b>N BĨ </b>


<b>V</b>

<b>Ớ</b>

<b>I V</b>

<b>Ă</b>

<b>N HOÁ DÂN T</b>

<b>Ộ</b>

<b>C </b>



Phát biểu khai mạc Hội thảo “ <i><b>Hoài Thanh - </b></i>cuộc đời và sự nghiệp” ngày
8-7-1999 nhân kỷ niệm 90 năm sinh nhà văn Hoài Thanh, nhà thơ Hữu Thỉnh
bấy giờ là tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam (nay ông là chủ tịch Hội nhà Văn
Việt nam) nhận định: “<i> Toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Hoài Thanh cho </i>
<i>phép chúng ta đi đến kết luận: ông là một nhân cách lớn, đôn hậu, trung thực và </i>
<i>giản dị; một tâm hồn gắn bó với Nhân dân và Đất nước; một tài năng văn học </i>
<i>hiếm thấy trong nền văn hoá Việt Nam ở thế kỷ 20; người có những đóng góp </i>
<i>xuất sắc cho sự hình thành và phát triển của nền văn học cách mạng nước ta”(1)</i>


Nhận định vừa nêu trên là hồn tồn chính xác và công bằng đối với cuộc
đời và sự nghiệp nhà văn Hoài Thanh - một nhận định mà lúc Hồi Thanh cịn
sống và cả một thời gian khơng ngắn sau khi Hoài Thanh đi vào cõi vĩnh hằng
khơng phải là khơng có một số người cố ý hoặc vơ tình khơng nhìn nhận đúng
những đóng góp của Hồi Thanh vào sự nghiệp văn hố - văn nghệ Việt Nam
thế kỷ 20 và nhân cách của một người cầm bút suốt cuộc đời vì dân tộc, vì sự
trường tồn của nền văn hố dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Giáo sư - nhà văn Đặng Thai Mai viết về Hoài Thanh: “<i>Điều chắc chắn là </i>
<i>rồi đây nói đến văn học cổ</i> <i>điển, văn học hiện đại của dân tộc mỗi nhà nghiên </i>
<i>cứu nghiêm túc sẽ khơng thể khơng đọc Hồi Thanh” (2).</i> Thật vậy, cho đến
nay, theo tư liệu chúng tôi sưu tầm được, đã có hơn 150 cơng trình nghiên cứu,
bài viết với độ dày tổng cộng chừng 2000 trang in nghiên cứu về Hồi Thanh.
Hầu hết các cơng trình và bài viết ấy đều ghi nhận những đóng góp xuất sắc của
Hồi Thanh trên phương diện phê bình văn học nhất là trong lĩnh vực phê bình
thơ. Các học giả và các nhà nghiên cứu đều khẳng đinh: Hoài Thanh là một tài
năng xuất sắc hiếm có trong lĩnh vực phê bình văn học Việt Nam thế kỷ 20 ( có
tác giả đã khơng ngần ngại xếp Hoài Thanh là một thiên tài văn học nước nhà);


là một nghệ sĩ lớn, là một nhà thơ trong phê bình thơ v.v….Những đánh giá rất
đúng và rất đáng trân trọng ấy đã dựng nên bức chân dung trung thực về một
Hoài Thanh nhà văn, Hồi Thanh - nghệ sĩ. Tuy vậy, sẽ có một bức chân dung
hoàn chỉnh hơn về Hoài Thanh nếu nghiên cứu, tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp
của Hồi Thanh từ một cách nhìn tổng qt hơn để thấy Hồi Thanh là một nhà
văn hố lớn suốt một cuộc đời gắn bó thiết tha với dân tộc và văn hóa dân tộc.


Văn chương đối với Hồi Thanh có một thời (thời trước Cách mạng tháng
Tám) được ông xem như một thứ đạo, một tôn giáo để thờ phụng, phó thác niềm
tin và tình u say đắm cái đẹp. Nếu nghiên cứu không đầy đủ bối cảnh xã hội,
hoàn cảnh sống của Hoài Thanh cùng với lớp thanh niên trí thức thời bấy giờ và
quan sát bằng cách nhìn hiện nay thì ta dễ dàng cho Hoài Thanh là đồ đệ của
chủ nghĩa duy mỹ của trường phái “ nghệ thuật vị nghệ thuật”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Sinh ra từ một gia đình nhà Nho sa sút nơi làng quê xứ Nghệ nghèo nàn
nhưng rất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng “ <i> Hoài Thanh là đứa con </i>
<i>đẻ mà lịch sửđã có đơn đặt hàng cho thời đại theo khuôn khổ của những truyền </i>
<i>thống dân tộc. Nói như vậy để nhấn mạnh vào một nét đặc biệt trong công thức </i>
<i>là sự kết hợp thành lứa đôi di truyền qua các thế hệ giữa hai yếu tố truyền thống </i>
<i>và yếu tố cách mạng của thời đại mà các thế hệ thừa kế sẽ tiếp thu qua dịng sữa </i>
<i>mẹ cùng một lúc với khơng khí của đất trời quê hương cùng những mùi vị thơm </i>
<i>ngọt khác của đồăn trong cây cỏ” (5). </i>


Trước khi trở thành nhà văn, Hoài Thanh là một thanh niên yêu nước đã
dấn thân vào con đườngcủa người chiến sĩ cách mạng. Ơng đã tham gia việc địi
ân xá cụ Phan Bội Châu và lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Năm 1927, Hoài
Thanh gia nhập Tân Việt Cách mạng đảng. Năm 1930, ông bị thực dân Pháp bắt
giam ở Hà Nội rồi lại giải về giam ở nhà lao Vinh, bị kết án tù treo 6 tháng. Sau
đó ơng lại bị đuổi khỏi trường Bưởi vì chứa sách cách mạng. Tự học, thi đỗ tú
tài Tây, ông đi làm báo <i>Phổ Thông</i> rồi ra làm báo tiếng Pháp <i>Le Peuple</i> ( Nhân


dân) để đả kích thực dân Pháp mà khơng bị kiểm duyệt. Tờ báo này ra được 3
số, số 4 đang in thì Hồi Thanh bị trục xuất khỏi Hà Nội để rồi bị quản thúc tại
quê nhà. Lúc ấy là cuối năm 1930 - khi phong trào Xô viết Nghệ An đang diễn
ra rầm rộ. Hồi Thanh ngơ ngác khơng hiểu gì hết về phong trào này. Ông kể lại
trong một bài viết sau này rằng: đêm khuya, ơng ngồi một góc vườn nghe người
làng đi biểu tình hơ to khẩu hiệu: “ <i>Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ</i>”.
ơng băn khoăn: “ <i> Vì sao lại bạo lực chính trị trong cuộc biểu tình đêm ấy khơng </i>
<i>chĩa vào bọn Pháp mà lại chĩa vào những người dẫu sao cũng là đồng bào của </i>
<i>mình cả thơi”</i> (6). Bây giờ nhìn lại, ta có thể thấy Hồi Thanh khi ấy chỉ ý thức
được vấn đề dân tộc mà chưa hiểu biết gì về vấn đề đấu tranh giai cấp là một
ngọn cờ được giương lên trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<i>lui một bước thứ nhất về chỗ viết bài những bài có tính chất chống đối trên mặt </i>
<i>báo. Rồi lại rút lui một bước thứ hai về chỗ chỉ cịn ít nhiều chống đối lễ giáo </i>
<i>phong kiến bằng văn thơ, thực chất là hồn tồn thốt ly cách mạng, thốt lý </i>
<i>chính trị chống đối và tìm chỗ</i> <i>ẩn nấp trong văn thơ” </i>(7). Đó là lời tự phê bình
nghiêm khắc, triệt để, đầy tính Đảng của đảng viên Hồi Thanh vào lúc đã có 25
năm tuổi Đảng.


Bi kịch của Hoài Thanh thời trước 1945 cũng là bi kịch chung của lớp
thanh niên trí thức nặng lịng u nước, u dân tộc, ghét thực dân phong kiến
nhưng bơ vơ giữa những ngã ba đường vì khơng tìm được người chỉ đường sáng
suốt. Lớp người ấy có khát vọng lớn nhưng “ lực bất tòng tâm” và, từ trong đấy
sâu tâm hồn họ, ẩn dấu ít nhiều sự yếu đuối, khiếp sợ trước sự đàn áp tàn bạo
của bọn thực dân phong kiến đang thống trị đất nước. Hoài Thanh đã ghi lại rất
đúng tâm trạng đầy chất bi kịch ấy: “ <i>Đời chúng ta nằm trong vịng chữ tơi. Mất </i>
<i>bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh...Phương Tây đã trao trả</i>
<i>hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, </i>
<i>một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lịng tin đầy đủ…”</i> Bi kịch ấy diễn
ra thường trực trong cuộc sống của họ. Họ tìm lối thốt bằng cách: “ <i>Bi kịch ấy </i>


<i>họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ</i> <i>đã </i>
<i>chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng </i>
<i>Việt. Tiếng việt, họ nghĩ là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến </i>
<i>lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng. </i>


<i>Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nẩy mầm hy vọng”</i>(8)


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<i>dồi dào và mạnh mẽ</i> <i>ấy họ sẽ tìm ra những vần thơ không phải chỉ dành riêng </i>
<i>cho chúng ta, một bọn người có học mới, mà có thể làm nao lịng hết thảy người </i>
<i>Việt Nam”. (9)</i> Như vậy, Hoài Thanh đã sớm nhận thức được con đường đúng
đắn nhất của nghệ thuật văn chương là bám chắc và gắn bó chặt chẽ với truyền
thống dân tộc, tâm hồn dân tộc được hình thành và phát triển từ ngàn xưa cho
đến nay từ lớp người đông đảo nhất của xã hội: người nông dân, người lao động.


Trước khi viết <i>Thi nhân Việt Nam</i>, từ đầu những năm 30, Hồi Thanh đã
dành nhiều cơng sức và suy nghĩ vào việc tìm hiểu và phát hiện các giá trị tinh
thần vơ giá của nền văn hố dân tộc. Ơng nghiên cứu lịch sử văn hố Việt Nam
và đã viết một bài có giá trị phát hiện về cuốn <i>Việt Nam văn hoá sử cương</i> của
Đào Duy Anh (10). Nghiên cứu <i>Truyện Kiều</i> của Nguyễn Du, Hoài Thanh đã
viết nhiều bài gây được chú ý và hoan nghênh của dư luận, đặc biệt là bài diễn
thuyết ở hội Quảng Tri ( Huế): <i>Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du:</i> <i><b> T</b><b>ừ</b></i>


<i><b>H</b><b>ả</b><b>i</b></i>(11). Hoài Thanh đặc biệt chú trọng nghiên cứu ca dao, tục ngữ và các thể
loại văn chương bình dân để từ đó ơng đưa ra nhiều khuyến nghị đối với người
sáng tác thơ văn trong hàng loại bài viết như: <i> Cần phải có một thứ văn chương </i>
<i>mạnh mẽ hơn, Xin mách các nhà văn một nguồn văn, Chân lý không ở trong </i>
<i>sách. Về văn học, xứ ta cũng còn là một đất hoang,…(12). </i>


Sau cuộc tranh luận “ <i>Nghệ thuật vị</i>…” hồi 1935-1936 Hoài Thanh thấy
cần trình bày trước dư luận một cách đầy đủ và có hệ thống nhân sinh quan, thế


giới quan và quan điểm văn học nghệ thuật của mình và những người có chung
quan điểm với ơng những điều mà trong cuộc tranh luận ông và các bạn ơng
chưa nói hoặc khơng thể nói được. Cuốn <i><b>V</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng và hành </b><b>độ</b><b>ng</b></i> ra đời hồi
giữa năm 1936 đã thể hiện ý tưởng ấy của Hoài Thanh ( viết chung với Lưư
Trọng Lư và Lê Tràng Kiều với danh nghĩa văn phái Phương Đơng do Hồi
Thanh chủ biên và chấp bút). Cuốn sách vừa in xong, chưa kịp phát hành thì đã
bị chính quyền thực dân Pháp tịch thu và cấm lưu hành đến hơn 60 năm sau mới
đến được với bạn đọc hơm nay (13).


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

cùng của người mình”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện đã nhận xét rất
đúng về cuốn <i><b>V</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng và hành </b><b>độ</b><b>ng</b></i> rằng cuốn sách “ <i> vô hại về ý thức </i>
<i>nghệ thuật thuần tuý, nhưng lại chứa đựng những mần mống của tư tuởng tự do </i>
<i>phóng túng vượt ra ngồi khn khổ gị bó, ở thái độ dám phê phán những mặt </i>
<i>trái của xã hội, sự bất kính trước những tín điều nguỵ tạo cốt duy trì sựổn định </i>
<i>và sự phục tùng, ở lời kêu gọi hành động, dấn thân để thay đổi tình thế. Những </i>
<i>tư tưởng đó tuy chưa phải là những nhân tố của ý thức hệ vô sản, nhưng đã rõ </i>
<i>cốt cách của tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc của tầng lớp thanh niên </i>
<i>trí thức tiểu tư sản thành thị - nó khơng hiền lành chút nào mà nguy hiểm cho sự </i>
<i>cai trị nhân dân bằng các thủ</i> <i>đoạn ngu dân, thủ tiêu tự do, bóp nghẹt dân chủ, </i>
<i>ni dưỡng bóc lột, bất cơng và áp bức tràn lan”.(14)</i> Phải công nhận là bọn
thực dân Pháp thống trị thời ấy rất “ tinh”: chúng để cho các bên tham gia cuộc
tranh luận “ <i>nghệ thuật vị…”</i> tha hồ cãi nhau về vô sản, tư bản, phú hào về đấu
tranh giai cấp v.v...nhưng hễ bàn tới việc cần hành động để thoát khỏi ách đè
nén thống trị của chúng như các tác giả <i><b>V</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng và hành </b><b>độ</b><b>ng</b></i> đã bàn thì
khó bề chúng để cho yên.


Tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt, là một tình yêu lớn của Hồi
Thanh từ thời cịn trẻ cho đến cuối đời. Khơng nghiên cứu tiếng Việt dước góc
độ nhà hàn lâm nhưng những phát hiện của ông về từ vựng, về thanh âm, về ngữ
nghĩa, về cấu trúcv.v…và đặc biệt là nghiên cứu khả năng diễn đạt hết sức


phong phú, đa dạng của tiếng Việt trong văn chương, Hồi Thanh đã có nhiều
phát hiện mới lạ và lý thú trong các cơng trình và bài viết về văn hoá, văn học
Việt Nam trước cũng như sau Cách mạng tháng Tám (1945). (15)


Giờ đây đọc lại những trang viết của Hoài Thanh trước 1945 chúng ta
cảm nhận rõ tình yêu thiết tha đến mức say đắm của ông đối với các giá trị tinh
thần cao đẹp của dân tộc đã có từ ngàn xưa và cả những giá trị mới xuất hiện
đương thời. Tất cả đều được ông nâng niu quý trọng dù các giá trị ấy có cái là
khối vàng ròng to lớn dễ nhận biết, cái cái chỉ mới là những hạt vàng li ti lẫn
trong cát hoặc còn là viên ngọc bị bao lớp bụi thời gian che phủ. Với tấm lòng
trân trọng và với con mặt tinh đời, ông đã làm sáng lên rực rỡ nhiều giá trị trong
nền văn hoá, văn học của dân tộc góp phần khơng nhỏ cho các giá trị ấy trường
tồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Tác phẩm đầu tiên của Hoài Thanh viết sau Cách mạng tháng Tám là
cuốn <i><b>Có m</b><b>ộ</b><b>t n</b><b>ề</b><b>n v</b><b>ă</b><b>n hố Vi</b><b>ệ</b><b>t Nam</b></i> được xuất bản hồi đầu năm 1946. (16) Đây
là tác phẩm giàu tính chiến đấu và có sức thuyết phục cao bởi lý lẽ sắc bén và
tình cảm chân thành của tác giả đối với văn hoá dân tộc.


Khẳng định mạnh mẽ có một nền văn hố Việt Nam khơng phải là điều dễ
được sự đồng tình đối với những học giả thực dân và khơng ít người thuộc giới
trí thức nước ta vào lúc ấy. Họ th ường coi văn hoá Việt Nam là con số khơng
khi đem so sánh với văn hố phương tây. Vào thời điểm ấy, khi toàn dân tộc


đang hồ hởi bắt tay vào việc xây dựng và bảo vệ nước cộng hoà non trẻ dưới sự
lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh thì việc khẳng định <i>có một nền văn hố Việt </i>
<i>Nam</i> rất đáng tự hào là điều hết sức cần thiết.


Trong tác phẩm kể trên, Hoài Thanh đã là một trong những người đầu tiên
phát hiện và khẳng định khả năng dị thường của văn hoá Việt Nam giúp cho dân


tộc ta khơng bị đồng hố suốt hàng ngàn năm nô lệ, giúp cho dân tộc ta chiến
thắng ngoại xâm, mở mang bờ cõi, dựng nên một nền văn hiến lâu đời, tạo thế
và lực vững chắc trước mọi bão táp của lịch sử dân tộc.Tiếp đó, Hồi Thanh nêu
lên một vài tính chất hết sức cơ bản thể hiện bản sắc của văn hoá Việt Nam. Ông
đã phát hiện và chứng minh những nét đặc sắc của <i>tình</i> và <i>điệu</i> tâm hồn dân tộc
bộc lộ trong tiếng Việt, trong văn chương - nhất là văn chương bình dân để dẫn
tới một nhận xét tinh tế rằng: “ <i>người Việt chúng ta sống trong nhịp điệu, thanh</i>
<i>âm nhiều hơn trong tư tưởng</i>”. Từ nhận xét ấy, ơng cho rằng dân tộc ta cịn rất
trẻ, trẻ chứ không phải là sơ sinh, nên dân tộc ta còn nhiều sinh lực, còn tiến xa.
Tác giả cho rằng: “... <i>văn hoá Việt Nam quý ở phần tình cảm hơn ở phần tư</i>


t<i>ưởng, ở phần tiềm thức hơn ở phần hữu thức</i>”. Vì vậy, văn hố Việt Nam rất
khó hiểu đối với học giả phương tây. Muốn hiểu văn hoá Việt Nam phải có sẵn
mối tình, phải là người đồng điệu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<i>không đồ sộ nhưng vẫn tiêu biểu cho một đời sống tinh thần dồi dào và nhiều </i>
<i>vẻ”. </i>


Trong tác phẩm trên Hoài Thanh đã chỉ ra rất đúng mối quan hệ giao lưu
văn hoá Việt Nam với các nền văn hoá khác. Tác giả cho rằng tâm hồn rộng mở
đón gió bốn phương của dân tộc ta từ ngàn xưa đến nay đã làm đẹp hơn, phong
phú hơn vốn văn hoá dân tộc mà vẫn khơng đánh mất bản sắc của mình. Tác giả
kịch liệt phản đối lối “khư khư thủ cựu”, nệ cổ. Tác giả đã tìm ra quy luật phát
triển của văn hố là biến đổi khơng ngừng theo cụôc sống của dân tộc và thời
đại : “ <i> Gọi bằng Việt Nam là một sự thực luôn luôn thay đổi với cuộc sống </i>
<i>không ngừng. Làm sao có thể níu lại cuộc sống khơng ngừng?Cái điều hơm nay </i>
<i>ta gọi là tính chất Việt Nam có phải từ bao giờ vẫn là tính chất Việt Nam đâu”. </i>


Ở phần cuối tác phẩm, tác giả chỉ ra quy luật kế thừa và phát triển của văn
hoá trong mối quan hệ biện chứng: kế thừa để phát triển, phát triển để kế thừa.


Nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới là sáng tác ( hiểu
theo nghĩa sáng tạo như hiện nay chúng ta thường nói - T.S.) . Sáng tạo ra nhiều
giá trị văn hố mới có tính dân tộc lại vừa có tính quốc tế như chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “ <i> Gốc của văn hoá mới là dân tộc : nếu dân tộc hố mà phát </i>
<i>triển đến cực điểm thì tức là tới chỗ thế giới hố đó; vì, lúc bấy giờ văn hoá thế</i>
<i>giới sẽ phải chú ý đến văn hố của mình, phải làm bạn với văn hố của mình, và </i>
<i>văn hố của mình sẽ chiếm được một địa vị ngang với nền văn hố thế giới. </i>
<i>Mình có thể bắt chước những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu Mỹ, nhưng điều </i>
<i>cốt yếu là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của người thì mình cũng phải có cai </i>
<i>hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà khơng trả”. </i>(17)


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

yêu mến thiết tha và niềm tin mãnh liệt của Hoài Thanh đối với dân tộc Việt
Nam và văn hố Việt Nam. Niềm tin ấy của ơng đã được lịch sử chứng minh
qua hai cuộc kháng chiến thần thánh vì độc lập tự do, vì phẩm giá của con người
trong thời đại mới: thời đại Hồ chí Minh.


Trước Cách mạng tháng Tám 1945 sự <i>trở về</i> với văn hố dân tộc của Hồi
Thanh ít nhiều cịn mang màu sắc duy tâm, siêu hình như ông đã có lần tự phê
phán. Cách mạng và kháng chiến đã mở ra một con đường sáng tạo cho sự <i>trở về</i>


sâu sắc hơn, khoa học hơn. Chúng tôi sẽ bàn tới vấn đề này vào một dịp khác
bởi khn khổ bài viết này chỉ có hạn. Ở đây chúng tôi chỉ xin nhắc đến tên một
số tác phẩm đáng chú ý mà ông đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu các giá
trị lớn của văn hố dân tộc và các vấn đề có tính chiến lược trong đường lối để
đề xuất các kiến nghị nhằm xây dựng nền văn hoá mới của đất nước ta. Đó là
các cuốn sách: <i>Quyền sống của con người trong truyện Kiều</i>, <i>Nhân văn Việt</i>
<i>Nam, Xây dựng văn hố nhân dân, Nói chuyện thơ kháng chiến, Phan Bội Châu,</i>
<i>Phê bình và tiểu luận</i> ( ba tập) và rất nhiều bài nghiên cứu, bài báo bàn về ngôn
ngữ Việt Nam, về các thể thơ xưa, về mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, về
nền giáo dục và sách giáo khoa, về việc đặt tên xóm, tên xã, về quyền làm chủ


của người đọc, về đời sống văn hố nơng thơn hiện nay.vv….Nếu nhìn một cách
tổng qt hơn ta có thể nói: toàn bộ sự nghiệp của Hoài Thanh đều hướng vào
việc phát hiện, giữ gìn và phát huy mọi giá trị văn hoá dân tộc từ xưa đến nay.
Thật vậy, nếu khơng có <i>Thi nhân Việt Nam , Quyền sống của con người trong</i>
<i>truyện Kiều, Nói chuyện thơ kháng chiến</i> cùng với các cơng trình nghiên cứu
đặc sắc về văn chương bình dân, về văn học cổ điển Việt Nam, về thơ Hồ Chí
Minh, thơ Tố Hữu, thơ của các nhà thơ thời chống Pháp rồi chống Mỹ thì sẽ có
khơng nhiều thì ít các giá trị hết sức quý báu trong đời sống tinh thần dân tộc
hoặc sẽ bị lãng quên, hoặc sẽ không toả sáng được đầy đủ. (18)


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

vươn tới sự hồn thiện làm lẽ sống cho mình. Về sau này khi ông đã nhiều chục
năm đi vào cuộc sống lớn của cách mạng và dân tộc, ông nói rõ thêm về “ tia
lửa” về sự huyền diệu của vũ trụ và cuộc sống mà ông đã nghĩ tới từ mấy chục
năm trước: “<i> Từng có lúc tôi nghĩ mỗi lớp người sinh ra, lớn lên, tung hồnh </i>
<i>trong cuộc sống rồi tàn đi cũng ví như một đợt pháo hoa, gồm đủ màu sắc cứ kế</i>
<i>tiếp nhau vô cùng vô tận, kể cũng đẹp nhưng cái đẹp đơn thuần màu sắc ấy vẫn </i>
<i>chưa xứng với lịch sử</i> <i>đẹp tuyệt vời của vũ trụ. Nhất là từ khi giữa cái mênh </i>
<i>mông của vật chất vô tri, vô giác, sự sống bỗng xuất hiện và từ những hình thái </i>
<i>ngun thuỷ thơ sơ khơng ngừng tiến lên những hình thái vơ cùng phong phú </i>
<i>ngày càng có thêm tự do, thêm ánh sáng. Tia lửa thiêng cứ thế nhen lên, nhen </i>
<i>lên mãi. Vũ trụ thoát dần cảnh đêm dài mù mịt và cuối cùng đã bừng sáng lên </i>
<i>trong bàn tay và khối óc của con người, lần đầu tiên tự mình nhìn thấy mình và </i>
<i>tự mình làm chủ lấy mình trong mn một. Từ bấy đến nay đã có mấy chục vạn </i>
<i>năm, và chúng ta vẫn không ngừng tiến lên trong đấu tranh, trong đau khổ, </i>
<i>trong phấn khởi hân hoan cho đến lúc cả cuộc đời toàn là tự do, toàn là ánh </i>
<i>sáng, người thực sự trở thành chúa trời và người với trời là một “ </i>(20).


Nghĩ nhiều về vũ trụ và nhân sinh để tìm một lẽ sống đúng, hài hồ trong
tình u say đắm vẻ đẹp và sự huyền diệu của con người cùng cuộc sống là điều
thường trở đi trở lại trong những dịng viết của Hồi Thanh. Vẻ đẹp cùng với sự


huyền diệu của vũ trụ và nhân sinh là lĩnh vực vô hạn vô cùng cho sự sáng tạo
văn hoá, nghệ thuật. Giá thử mọi sự thật, mọi con người đều có lời giải đáp sẵn,
khơng cần tìm hiểu, khám phá thì thế giới này, cuộc đời này sẽ buồn tẻ biết bao.
Và nếu vậy cũng sẽ khơng có sự tồn tại của niềm say mê lớn của nhân loại là
sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá, nghệ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<i>đều hiện ra rồi biến đi không ngừng không nghỉ. Một sự phung phí ngồi sức </i>
<i>tưởng tượng của người ta. Một sự vung phí như thế chỉ có thể bắt nguồn từ một </i>
<i>sự giàu có cũng ngồi sức tưởng tượng của người ta”. </i>(21) Những suy nghĩ về
vũ trụ và nhân sinh của Hoài Thanh từ thuở thanh niên đến cuối đời cho chúng
ta thấy cuộc hành trình đầy tình yêu say đắm và trân trọng của ông đối với cuộc
đời, với con người, với các giá trị văn hoá, nghệ thuật. Qua những dịng viết đầy
tâm huyết của ơng để lại cho đời, ta thấy hiện lên tư chất của một nhà văn hoá
lớn mang dáng dấp của một nhà hiền triết hài hồ vẻ đẹp của hai dịng văn hố
Đơng - Tây.


Hồi Thanh đã sống và viết đúng như ơng tự dặn mình: “<i>Nếu lấy sự</i>
<i>nghiệp cá nhân làm trung tâm, làm cứu cánh thì cuộc đời dầu oanh liệt nhất </i>
<i>cũng chẳng đáng kể vào đâu so với cái trường cửu của loài người, cái vô cùng </i>
<i>của trời đất. Nhưng nếu trái lại lấy trời đất, lấy loài người làm trung tâm, làm </i>
<i>cứu cánh thì cuộc đời bé mọn nhất miễn là đi đúng hướng mãi mãi sẽ cứ còn </i>
<i>trong cái vô cùng, cái trường cửu.”</i> (22).


Trong thư thăm hỏi hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung đang lâm trọng bệnh hồi
tháng 7 năm 1977, Hoài Thanh tâm sự với người bạn thân đã từng cùng ông làm
cuộc hành hương tìm về các giá trị cội nguồn của dân tộc ở các đình chùa vùng
đồng bằng và trung du Bắc Bộ hồi giữa năm 1943: “ <i> Dẫu chưa đóng góp được </i>
<i>gì nhiều thì cuộc đời của mỗi chúng ta cũng là một giọt nước trong biển cả</i>
<i>mệnh mơng và giọt nước khơng phải chỉ có chua với chát mà cùng có nhiều </i>
<i>phần ngọt, phần trong. Và đến ngày nào đó chúng mình ra đi thì chúng mình </i>


<i>cũng có thể nhẹ nhàng ra đi với ý nghĩa ấy, phải không anh”. </i>(23).


Người bạn thân, người đồng điệu đã từng sẻ chia rất nhiều với ông những
điều tâm đắc về văn hoá nghệ thuật dân tộc đã nhẹ nhàng về cõi vĩnh hằng sau
khi đọc lá thư tâm sự của Hoài Thanh không lâu. Và, gần năm năm sau, vào
ngày 14-3-1982 Hoài Thanh đã nhẹ nhàng lướt đi xa như một vì sao băng bay
vút qua bầu trời văn hố Việt Nam thế kỷ hai mươi và để lại một vệt sáng dài
rực rỡ.


<i>Láng Trung, những ngày cuối năm 2000 </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<i><b>Chú thích: </b></i>


<i>(1)Xem báo <b>V</b><b>ă</b><b>n ngh</b><b>ệ</b> số ra ngày 17-7-1999 </i>


<i>(2) <b>Đặ</b><b>ng Thai Mai</b>: Thương tiếc đồng chí Hồi Thanh, bài viết cho báo <b>V</b><b>ă</b><b>n ngh</b><b>ệ</b>, tháng 4 </i>
<i>-82, in trong phần phụ lục của bộ<b>Hoài Thanh toàn t</b><b>ậ</b><b>p</b> ( gồm 4 tập) do <b>T</b><b>ừ</b><b> S</b><b>ơ</b><b>n</b> sưu tầm và </i>
<i>biên soạn. Nhà xuất bản <b>V</b><b>ă</b><b>n h</b><b>ọ</b><b>c</b>, Hà Nội 1999. Tập 4, tr.1127. </i>


<i>Xin lưu ý bạn đọc: Từ sau chú thích này trởđi, chúng tơi chỉ ghi số tập và số trang của <b>Hồi</b></i>
<i><b>Thanh toàn t</b><b>ậ</b><b>p</b>để bạn đọc tiện tra cứu. </i>


<i>(3) Tập 4, tr.1042 </i>
<i>(4) Tập 4, tr.1025 </i>
<i>(5) Tập 4, tr.1041 </i>
<i>(6) Tập 3, tr.172 </i>
<i>(7) Tập 4, tr.924 </i>
<i>(8) Tập 1, tr. 311 </i>
<i>(9) Tập 1, tr.298 </i>
<i>(10) Tập I, tr.112 </i>


<i>(11)Tập 1, tr.13 </i>


<i>(12) Tập 1, các trang: 28,67,77,85 </i>


<i>(13) Toàn văn cuốn sách này in lại trong tập 1, từ tr.172 </i>


<i>(14)<b>Nguy</b><b>ễ</b><b>n ng</b><b>ọ</b><b>c Thi</b><b>ệ</b><b>n</b>: </i>Hành trình đến với bạn đọc của<i><b>V</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng và hành</b><b>độ</b><b>ng</b>, bài </i>
<i>viết nhân dịp xuất bản <b>V</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng và hành </b><b>độ</b><b>ng</b> ( nxb. Hội nhà văn, Hà Nội 1999) in </i>
<i>lạitrong cuốn <b>Hoài Thanh v</b><b>ớ</b><b>i khát v</b><b>ọ</b><b>ng chân thi</b><b>ệ</b><b>n m</b><b>ỹ</b> do <b>T</b><b>ừ</b><b> S</b><b>ơ</b><b>n</b> và <b>Phan H</b><b>ồ</b><b>ng Giang</b></i>


<i>biên soạn, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2000. tr.318 </i>


<i>(15) Hầu như toàn bộ các trang viết của Hồi thanh đều có bàn kỹ hoặc thống qua về tiếng </i>
<i>Việt. </i>


<i>(16) Cuốn sách này có in lại toàn văn trong tập2, tr.5 </i>


<i>(17) Tập 2, tr.31 Đoạn trích lời của Hồ chủ Tịch này tác giả lấy báo Cứu Quốc số ra ngày </i>
<i>9-10-1945 </i>


<i>(18) Các cuốn sách, cơng trình và bài viết của <b>Hồi Thanh</b> sau 1945 đã in lại trong các tập </i>
<i>2,3,4 </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

<b>DI BÚT C</b>

<b>Ủ</b>

<b>A HOÀI THANH </b>



Trong một bức thư viết từ ngày 12 đến 15 - 8 - 1978 dài mười một trang
gửi cho các con, cha tôi đã dành nhiều trang để nói những suy nghĩ về lẽ sống
của ông khi lâm vào cảnh già yếu, có đoạn viết:


<i>“Khi cha nghĩ cuộc sống chỉ</i> <i>đáng sống nếu biết hướng vào một mục đích </i>


<i>đúng và làm được những việc có ích thì tất nhiên đó là chân lý. </i>


<i>Nhưng chân lý ấy cũng như mọi chân lý phải uyển chuyển và linh hoạt. </i>
<i>Nghĩa là có những lúc và trong những phạm vi nào đấy chỉ sống không thôi </i>
<i>cũng đã là một chuyện tốt, một chuyện hay rồi. Sự suy nghĩ của cha đã có lúc </i>
<i>hơi cứng nhắc trên vấn đề này cũng như trên nhiều vấn đề khác nữa".</i> Bạn đọc có
thể xem tồn văn bức thư này trong “ <b>Hoài Thanh-Di bút và di cảo</b>” nxb. Văn học,H 1993,
tr.158)


Sự suy nghĩ "có lúc hơi cứng nhắc" "trên nhiều vấn đề khác nữa" chắc
chắn đã làm cha tơi có nhiều băn khoăn trăn trở. Tơi rất hiểu cha tơi khơng dễ gì
thay đổi ý kiến trên các vấn đề về lẽ sống cũng như trên các vấn đề văn chương.
Người ta có thể khơng đồng tình, thậm chí khơng bằng lịng và trách cứ ông điều
này, điều nọ nhưng khó ai có thể chê trách ơng về nhân cách. Khơng ai có thể
nói rằng ơng là loại người "sớm nắng chiều mưa", đổi màu theo ánh sáng để
mưu cầu danh lợi trong cuộc đời và trong thơ văn. Vì vậy nếu có ai đó "nói oan,
nói ác" (chữ dùng của Hồi Thanh) cho ơng thì ơng chỉ buồn chứ ông không
giận. Và, dĩ nhiên, ông rất tự tin vào sự trung thực của mình. Tự tin một cách
bướng bỉnh như ông đã từng viết trong <i>Thi nhân Việt Nam. </i>"Biết làm sao chiều
được tất cả mọi người? Âu là tôi chỉ chiều tôi vậy". Vì "ái ngại hay khinh ghét,
khi xem thơ tơi chỉ biết có thơ", "chạy đi đâu cũng khơng thốt cái tơi thì tơi cứ
là tơi vậy. Hay dở tính trời" <i>(Thi nhân Việt Nam, </i>tr. 372 - 373). Trong bức thư
kể trên cha tôi viết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<i>khi ra trường bao giờ cha cũng ngủ ít, chơi ít mà làm việc rất nhiều và cũng tự</i>
<i>nghĩ mình làm những việc có ích nhưng vì tách rời cuộc sống lớn của dân tộc, </i>
<i>của nhân loại nên rốt cuộc khơng biết mình sống như thếđể làm gì. Cho nên rặt </i>
<i>buôn. Cả quyển Thi nhân Việt Nam nếu khơng phải là một tiếng khóc dài thì </i>
<i>cũng là một tiếng thở dài não nuột. </i>



<i>Từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là trong kháng chiến có thể nói tình </i>
<i>hình khác hẳn. Đời sống vật chất nhiều khi rất thiếu thốn nhưng tinh thần thì </i>
<i>khác hẳn, có thể nói ln ln lạc quan. Có lẽ khơng phải ngẫu nhiên mà trong </i>
<i>khi nói và viết về thơ Bác Hồ, đó là nét cha nêu lên nổi bật nhất. Cha đã tìm </i>
<i>đúng cái điều cần thiết nhất đối với cha và nói chung đối với những người trí </i>
<i>thức đi theo cách mạng". </i>


Lạc quan, tin tưởng, trung thành với sự nghiệp, với lý tưởng của Đảng
một cách chân thành là điều dễ thấy trong những trang viết của Hoài Thanh từ
sau Cách mạng tháng Tám. Với Hồi Thanh, sống, nghĩ, nói và viết gần như là
một. Ông viết là do niềm say mê vẻ đẹp của thơ văn, do sự thôi thúc nội tâm chứ
không bởi một sự ràng buộc hoặc sức ép nào (1)


Trong di cảo của Hoài Thanh từ các sổ tay ghi chép đến thư từ trao đổi, từ
các bản thảo, bản nháp đến các tập sách đã in khơng có sự biến dạng hoặc đổi
khác về nội dung mà chỉ có sự trau chuốt về câu chữ, sự sắp xếp lại hơi văn,
mạch văn hoặc sự bổ sung về tư liệu nhằm làm sáng tỏ hơn các nhận định.


---


(1) Trừ một lần là do sức ép của tổ chức. Trong Di bút, Hồi Thanh có cho biết sau


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Riêng trong <i><b>Di bút, </b></i>các trang viết của Hoài Thanh như lắng đọng lại với
nhiều tâm tư sâu nặng của một người sắp đi xa, đi mãi.


*


Tập <i><b>Di bút </b></i>này có 23 đoạn và một bức thư khơng gửi. Tổng độ dài của <i><b>Di </b></i>
<i><b>bút </b></i>chừng bốn mươi trang đánh máy. Cái tên <i><b>Di bút </b></i>là do chúng tôi đặt. Ở trang
đầu, Hoài Thanh đề là <i>Chuyện thơ... II </i>có ý tiếp theo tập <i>Chuyện thơ... </i>đã được


nhà xuất bản <i>Tác phẩm mới</i> xuất bản năm 1978.


Vốn cẩn thận, ngay dưới đầu đề, Hoài Thanh ghi trong ngoặc đơn : (<i>Có những </i>
<i>chuyện nếu muốn đưa in cần cân nhắc kỹ). </i>Bên dưới dòng này là một mũi tên
chỉ vào hai chữ <i>tuỳ bút </i>và ở góc trang đầu ghi ngày 3 - 3 - 1979,...


Đến ngày 6 - 10 - 1980 ở đoạn đánh số 19, Hoài Thanh suy nghĩ lại:
"Những mẩu ghi chép ở đây gọi bằng <i>Chuyện thơ... II </i>có lẽ khơng đúng bằng
gọi là <i>Tuỳ bút </i>theo cái nghĩa muốn ghi thì cứ ghi, phóng bút mà ghi, khơng cần
phải đắn đo tính tốn gì hết. Na ná như chữ <i>notes</i> trong tiếng Pháp. Nếu dùng
chữ <i>ghi chép </i>thì khơng ổn vì có gì mà chép đâu. Một mình chữ <i>ghi </i>thì khó hiểu
và cũng có thể gây hiểu sai".


Ở đoạn tiếp theo, đánh số 20, Hoài Thanh viết :


"Phần lớn tập tuỳ bút này chắc là không được in và cũng không nên được
in. Thường tôi viết là nhằm vào hàng trăm hàng ngàn người đọc. Người đọc tập
này có lẽ chỉ có một vài người là con, là em, là cháu và đọccũng chỉ để biết vậy
thơi. Nhưng sao tơi vẫn cứ muốn viết. <i>Có những điều khơng viết ra thì thấy bứt </i>
<i>rứt, khơng chịu được”. </i> (Tôi nhấn mạnh - T.S.).


Ngày 12 - 10 - l980 ở đoạn đánh số 22, Hoài Thanh nhắc các con nhập cái
thư viết dở cho anh L. vào tập tuỳ bút này và ghi rõ :


'Tất cả đều là di bút của cha, không dám nói là để lại cho đời, chỉ để lại
cho các con thôi !".


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Chúng tôi đã công bố một số đoạn trong <i><b>Di bút </b></i>của Hoài Thanh trên tuần
báo <i>Văn nghệ </i>và <i>Tạp chí</i> <i>Văn học. </i>Hơn mười năm về trước, những điều Hoài
Thanh viết trong <i><b>Di bút </b></i>đúng là "muốn đưa in cần cân nhắc kỹ". Trong bầu


khơng khí của xã hội đổi mới tồn diện hiện nay, chúng tơi nghĩ, nếu <i><b>Di bút </b></i>


được in lại toàn bộ có thể giúp cho chúng ta hiểu thêm cuộc đời của Hoài Thanh
cùng với các suy nghĩ của ông về đất nước, về sự nghiệp cách mạng. về nghệ
thuật, về vũ trụ, nhân sinh,...và về thời đại ông đã sống. Lời để lại của một người
trước khi vĩnh biệt cuộc đời bao giờ cũng thiêng liêng và chân thật. Hôm nay,
trong cuộc hội thảo này (1)tôi xin phép được ôn lại những điều cốt yếu nhất Hoài
Thanh đã viết trong tập <i><b>Di bút </b></i>với hy vọng góp thêm một tiếng nói có ích nào
đó chăng.


Gần một nửa tổng số trang của <i><b>Di bút, </b></i>Hồi Thanh ghi lại những suy nghĩ
của mình về thực trạng tiêu cực của đất nước cuối những năm bảy mươi, đầu
tám mươi. Trong bức thư không gửi cho anh L, Hồi Thanh lưu ý đến tình trạng
sa sút tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên do cái mà ngày nay
chúng ta thường gọi là cơ chế quan liêu bao cấp đã làm trì trệ xã hội. Hồi
Thanh nhắc lại chuyện đồng chí Phạm Văn Đồng đãi tết một số văn nghệ sĩ. Khi
bánh chưng dọn lên, nhà văn Tô Hồi nói với đồng chí Phạm Văn Đồng : "Thưa
anh, gọi bằng bánh chưng là phải xanh và phải vng góc. Cái bánh này khơng
vng góc và cũng khơng xanh". Hồi Thanh bình:"Tơi khơng rõ anh Tơ có
thông thạo như thế không. Nhưng dầu sao đến Thủ tướng Chính phủ mà cũng
khơng có được cái bánh chưng đúng là bánh chưng thì thật là một điều đáng suy
nghĩ". Trong bức thư khơng gửi này, Hồi Thanh phê phán rất nhiều những "cái
khổ không cần thiết" do cơ chế quan liêu, bao cấp tạo ra: khơng có hàng tiêu
dùng, xếp hàng triền miên, hống hách cửa quyền, v.v. Hoài Thanh khuyên các
nhà lãnh đạo đất nước nên vi hành như Bác Hồ đã từng đi xếp hàng mua thịt ở
chợ Đồng Xuân : "Các anh cũng nên có những lần đi như thế. Cái biết qua đọc
báo cáo và nghe phản ánh không thể thay thế được cái biết qua cảm xúc trực





</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

tiếp, cái biết của người trong cuộc". Bức thư này viết từ tháng 10 - 1977, trong
phần nháp Hoài Thanh ghi: "Chạy theo lợi nhuận nhiều khi làm hại cho xã hội
nhưng cũng có sự kích thích cần thiết : xí nghiệp tự tổ chức cho cơng nhân đi
làm, tư sản mua thóc khác ta mua,...". Trong bản chính của bức thư, Hồi Thanh
cho rằng sự sa sút tinh thần trách nhiệm không phải là do làm công tác tư tưởng
chưa tốt mà "phần chắc là vì thiếu những biện pháp thích đáng để hỗ trợ cho
công tác tư tưởng", theo Hoài Thanh, "biện pháp quan trọng nhất là khen thưởng
và kỷ luật phải cơng minh. Khen thưởng thì ta có khen thưởng nhưng q ít cịn
kỷ luật thì cơ hồ khơng có". Như vậy, có thể tạm nhận xét : Hoài Thanh khá
nhạy cảm trước thực trạng trì trệ của xã hội. Gần mười năm sau, năm 1986, Đại
hội Đảng VI khởi xướng sự nghiệp đổi mới xã hội toàn diện, triệt để, sâu sắc.
GiáHồi Thanh cịn sống đến hiện nay, hẳn ông rất mừng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Theo Hoài Thanh "tình thương ấy mà khơng có hoặc có mà lệch lạc thì
đâu có thể nói được là đã nên người". Hồi Thanh viết: "Trong nhân dân ta,
nguời nhìn đúng nhất, nghĩ đúng nhất, sống đúng nhất chắc chắn là Bác Hồ
mn ngàn kính u.<i><b> Nh</b><b>ư</b><b>ng </b><b>đ</b><b>úng nh</b><b>ấ</b><b>t không nh</b><b>ấ</b><b>t thi</b><b>ế</b><b>t là lúc nào c</b><b>ũ</b><b>ng </b></i>


<i><b>đ</b><b>úng". </b></i>(Tôi nhấn mạnh-T.S.) Cũng trên sự nhìn nhận lúc ấy trong <i><b>Di bút </b></i>Hồi
Thanh đã ghi lại cách nhìn nhận sai của đồng chí Lê Duẩn đối với Nguyễn Du
và <i>Truyện Kiều, </i>đối với điệu vọng cổ ở Nam Bộ ; ghi lại thái độ ngập ngừng của
đồng chí Trường Chinh trên vấn đề Nguyễn Du và <i>Truyện Kiều, </i>v.v.


Chúng ta đều biết Hoài Thanh "say" <i>Truyện Kiều </i>như thế nào. Cha tơi
thường nói với chúng tơi: “Nếu Đảng lên án gắt gao <i>Truyện Kiều</i> như phái vị
nhân sinh ngày trước thì chắc là cha khơng vào Đảng"(1) Trong <i><b>Di bút </b></i>đoạn 6
Hồi Thanh có nhắc đến hai câu thơ của Tố Hữu :


<i>Tiếng thơ ai động đất trời </i>



<i>Nghe như non nước vọng lời ngàn thu </i>


và viết : "Có thể nói là ngược hẳn những ý kiến anh Duẩn đã nói với tôi ngày
trước. Anh Tố Hữu vốn rất phục sức suy nghĩ của anh Duẩn nhất là trên những
vấn đề đường lối. Nhưng rõ ràng là trên một vấn đề cụ thể, vấn đề <i>Truyện Kiều</i>


anh vẫn giữ cách nhìn cách nghĩ của anh. Vì anh biết anh đã nhìn đúng, nghĩ
đúng. Và phải xem đây là một nét riêng của người cộng sản". Hoài Thanh viết
tiếp : "Năm 1948 sau khi viết xong quyển sách nhỏ về <i>Truyện Kiều, </i>tơi có đưa
anh Tố Hữu xem. Lúc bấy giờ chúng tôi cùng sống trong một xóm nhỏ trên bờ
sơng Thao. Xem xong, anh Tố Hữu chỉ nói vắn tắt : "Hay !". Do đó tơi đã mạnh
dạn đưa in. Sách in ra liền được báo Đảng - tờ <i>Sự thật </i>- giới thiệu và khen. <i>Giá </i>
<i>tôi không được gặp anh Tố Hữu mà lại gặp một cán bộ lãnh đạo có ý kiến khác </i>
<i>hẳn về</i>Truyện Kiều<i> thì bước đường đi theo Đảng của tơi chắc đã gặp thêm khó </i>
<i>khăn khơng ít" </i>(Tơi nhấn mạnh - T.S.).




</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Một mảng ghi quan trọng khác trong <i><b>Di bút </b></i>của Hoài Thanh là về người
cha của ông : cụ Nguyễn Đức Tương, về mẹ của chúng tôi : bà Phan Thị Nga và
kế mẫu của chúng tôi : bà Nguyễn Thị Bền. Đây là những trang viết rất cảm
động về tình cha con, vợ chồng, về ảnh hưởng của những người thân yêu nhất
đối với sự nghiệp cách mạng của Hoài Thanh. Hoài Thanh ghi lại hồi năm 1930
ông bị đuổi học khỏi trường Bưởi vì hoạt động chống thực dân Pháp. Nếu khơng
bị đuổi học, thi tốt nghiệp xong ông sẽ được đi làm công chức lương mỗi tháng
trên dưới 100 đồng (thời ấy chỉ cần ba, bốn đồng một tháng là đủ ni sống một
người).


Buồn q Hồi Thanh viết thư cho cụ thân sinh. ít hơm sau ơng nhận
được thư trả lời của cụ thân sinh. Trong thư cụ lấy tích ngựa tái ơng để khun


giải Hồi Thanh. Trong <i><b>Di bút, </b></i>Hoài Thanh viết : "Bức thư thầy tơi viết vào đầu
năm 1930. Từ đó đến nay đã hơn năm mươi năm. Sau này nhiều lần nghĩ lại, tôi
thấy chuyện thầy tôi kể không chỉ là một lời an ủi suông. Việc tôi bị "ngã ngựa”
lần ấy thực sự có tạo thêm điều kiện cho tôi đi vào văn học, đi vào cách mạng, đi
vào văn học cách mạng".


Về tình yêu của Hoài Thanh, trong lá thư đầu tiên viết từ Huế gửi cho mẹ
chúng tôi (lúc bấy giờ ở Hội An) đề ngày 7 Avril 1933 (hiện gia đình cịn giữ
được) cha tôi viết : "Tôi quen biết không đến nỗi ít lắm, song bên nữ giới chưa
từng quen thân một người nào, thành ra trong tâm hồn như thiếu đi một nửa.
Trời đất sinh ra, hai người mới là một, một người chỉ là nửa mà thơi".


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Đọc lại những dịng này ít nhiều ta cũng đã thấy đằng sau một Hoài
Thanh nghệ sĩ hình như đã thấp thống một Hồi Thanh hơi "cứng nhắc" (như
ông tự nhận xét) khi nghĩ rằng ái tình "khơng phải để gây hạnh phúc mà đề gánh
một phần việc ở đời". Mấy năm sau, ông đã không chịu nổi những lời phê phán
gay gắt của phái "nghệ thuật vị nhân sinh" có lẽ vì ơng đã tự tin là mình sống
đúng.


Mẹ tôi vốn là một người viết văn, làm báo rất xông xáo. Bà tham gia
Đảng Cộng sản từ năm 1930. Ra tù bị mất liên lạc. Bà tiếp tục viết văn, viết báo
rồi gặp và yêu cha tôi. Trong <i><b>Di bút, </b></i>cha tôi kể lại cho chúng tôi nghe về mẹ
chúng tơi khá kỹ càng. Ơng nói với chúng tơi : 'Sự thực mẹ săn sóc cha, săn sóc
các con một trăm phần, cha và các con chưa săn sóc mẹ được một phần. Cha hay
vin lý do vì viết văn nên đầu óc vẫn bận chuyện đâu đâu nên khơng săn sóc
được. Sự thực thì chỉ là do ích kỷ, chỉ biết đến mình và việc làm của mình cho
dầu là việc làm có mục đích phục vụ”


Trong <i><b>Di bút, </b></i>Hồi Thanh nói với hương hồn người yêu, người vợ đầu
tiên của ông :



"Nguyên vẫn nhớ như in cái hình ảnh nhẹ nhàng, thanh thốt với chiếc áo
dài màu xanh nhạt hôm Tết 1934 lần đầu tiên Nga đến gặp Nguyên ở nhà chị Tài
Hội An(1) nhớ như in cái nhìn ngượng ngùng của Nga hơm Nga đưa cho Nguyên
gói thuốc lào nhỏ trong lá chuối, nhớ như in hình ảnh Nga âu yếm bế Cương
một hôm trời mưa trên đường Đoan Hùng sau khi cả nhà suýt chết vì bom Pháp,
nhớ như in cái cười sung sướng của Nga trước số nhà 20 Nguyễn Thượng Hiền
vẫy Nguyên đến ăn cơm quán buổi trưa, nhớ mãi chuyện Nga xơng pha khói lửa
trở vào trong cơ quan Nha thông tin ở gần Bắc Cạn đã bị bom đốt cháy để lấy
quyển <i>Thi nhân Việt Nam </i>rồi mang quyển sách đi qua bao đèo suối mặc dầu loại
thơ <i>Thi nhân Việt Nam</i> là loại thơ Nga đọc nó chẳng vào.


Nhưng nay còn Nguyên, Nguyên nhớ. Nay mai rồi ai nhớ ?




</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<i>Những người muôn năm cũ</i>
<i>Hồn ởđâu bây giờ</i>?


Nguyên tin rằng những phần đẹp nhất trong hồn ta, những việc làm đẹp
nhất của chúng ta sẽ cùng với núi sơng, đất trời này cịn mãi !".


Có lẽ khơng phải vơ tình mà Hồi Thanh ghi lại mẩu chuyện cuộc trao đổi
về nghệ thuật của đồng chí Lê Duẩn với hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm. Hoài Thanh
nghe hoạ sĩ thuật lại với ông lúc cùng nằm bệnh viện Thống Nhất hồi tháng 4 -
1981 <i>. </i>Hoài Thanh ghi lại trong đoạn cuối cùng của <i><b>Di bút </b></i>:


“Anh Duẩn nói về nghệ thuật. Anh nhắc đến cuộc tranh luận giữa Hoài
Thanh và Hải Triều. Theo anh, nghệ thuật có thể phản ánh gián tiếp. Khơng nhất
thiết bức tranh nào cũng trình bày những hình ảnh cơng nơng. Một bơng hồng


rung rinh dới ánh mặt trời trong sương sớm sao lại không được là "nghệ thuật vị
nhân sinh"? Anh Gấm không biết do đâu mà lại có chuyện bơng hồng này. Nó
vốn là một hình ảnh tơi từng đưa ra để nói về nghệ thuật và đã bị phái "vị nhân
sinh" phê phán rất gắt gao". Đó là câu chuyện xảy ra hồi năm 1947, lúc bấy giờ
đồng chí Lê Duẩn là bí thư xứ uỷ Nam Kỳ, trên dưới mười năm sau cuộc tranh
luận "nghệ thuật vị<i>...". </i>


Nghệ thuật đích thực bao giờ cũng tìm về cái đẹp, hướng con người tìm
đến cái đẹp của con người và thiên nhiên vũ trụ bao quanh họ. Mọi bão táp của
cuộc đời đã đến, đang đến sẽ đến nhng rồi sẽ qua đi tất cả. Cái còn lại là cái đẹp,
cái huyền diệu của cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

Hồi Thanh mất đã trịn mười năm.


Tôi tin rằng niềm tin của ông : <i>Những phần đẹp nhất trong hồn ta, những </i>
<i>việc làm đẹp nhất của chúng ta sẽ cùng tới núi sông này, đất trời này còn mãi </i>


đang trở thành hiện thực.
Hơm nay và cả mai sau.


<i>(Tạp chí Văn học</i>, số 3 - 1992)*


---


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<b>T</b>

<b>Ấ</b>

<b>M G</b>

<b>ƯƠ</b>

<b>NG SÁNG C</b>

<b>Ủ</b>

<b>A NG</b>

<b>ƯỜ</b>

<b>I CHA </b>



Hồi đầu năm 1950 ở chiến khu Việt Bắc, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có
gửi tặng tơi một cuốn sổ tay giấy dó khá dày khi biết tôi đã được vào học ở
trường Sư phạm. Bác Tưởng rất quý cha tôi, đã cùng cha tôi đi theo pháo binh
hồi cuối năm 1948(1). Đầu cuốn sổ tặng tơi, bác Tưởng có viết mấy dịng khun


tơi học thật tốt và một câu mà khơng bao giờ tơi qn được: <i>'Cháu có một người </i>
<i>cha rất tốt. Cha cháu là một tấm gương sáng, cháu cần noi theo". </i>


Hồi Thanh, thân phụ của tơi, vốn là con một nhà nho nghèo và đông con.
Trong một lá thư gửi cho tôi đề ngày 5/ 12/1977, cha tơi có viết: <i>"Con người cha </i>
<i>là một cỗ máy,ngót </i>65 <i>năm nay tù khi cha lên bốn</i>, <i>còn nhỏ tuổi hơn </i>Liên (2)<i>bây </i>


<i>giờ</i>- <i>đã làm việc rất căng, căng trong lúc đi học vì học chăm, vì có khi vừa học </i>
<i>vừa phái lo kiếm sống, lại càng căng trong lúc đi làm; cha từng có những năm </i>
<i>dạy đến 40 giờ một tuần chưa kể giờ soạn bài và chấm bài mà chấm luận tiếng </i>
<i>Pháp là một việc làm rất mệt và mất thời giờ. Từ hai năm nay vào trong này(3) </i>


<i>tuy đã về hưu nhưng cha vẫn viết liên tục.(4) </i>


Cha tôi đúng là một "cỗ máy" hoạt động không ngừng nghỉ. Từ thuở bắt
đầu biết quan sát, suy nghĩ cho đến bây giờ vào tuổi sáu mươi, ký ức tơi chẳng
bao giờ nhạt phai hình ảnh người cha thân yêu của mình ngày đêm cặm cụi làm
việc: dạy học, đọc sách, viết văn, viết báo, chữa bài vở, tự học, đôn đáo lo việc




(1) <i><sub> Xem bút ký </sub></i><sub>Một tháng đi.theo pháo binh </sub><i><sub>in trong </sub></i><sub>Hoài Thanh toàn tập, </sub><i><sub>t</sub><sub>ậ</sub><sub>p </sub></i><sub>3, </sub><i><sub>tr. </sub></i>


<i>698). </i>


(2) Cháu nội của Hoài Thanh.


(3) Từ cuối năm 1975 đến giữa năm 1981, Hoài Thanh nghỉ hưu ở thành phố Hồ Chí
Minh.



</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

"thượng vàng hạ cám" của người quản lý, phụ trách cơ quan... Chưa bao giờ tôi
nghe cha tôi than phiền là phải làm việc quá nhiều.


Từ nhỏ, cha tôi đã là một cậu bé rất thông minh nhưng để có được một sự
nghiệp văn chương đầy tài hoa để lại cho đời trước hết là nhờ cha tôi học tập và
lao động cật lực. Học và học một cách chăm chỉ, mê say. Vừa làm, vừa học. Vừa
đi học, vừa đi làm kiếm sống cho bản thân và gia đình: <i>'Như thế Hồi Thanh, </i>
<i>một anh chàng con trai suốt đời ăn mặc lúi xùi, một ơng thầy dạy tốn cho học </i>
<i>sinh thì bao giờ cũng khơng qn dùng tắm </i>giẻ <i>lau bảng đen để lau tay. Lau </i>
<i>giày và cả chấm những giọt mồ hơi trên trán; nhưng chính ơng thầy giáo khơng </i>
<i>bằng sắc ấy, khi cịn là một chú học sinh loắt choắt với chiếc quần cháo lòng đã </i>
<i>được các gia đình tranh nhau đặt cọc trước để</i> <i>đến mùa nghỉ hè thì </i>mời <i>về dạy </i>
<i>tốn cho con mình”. (</i>(1)


Cha tơi kể rằng, hơm ơng vào phòng thi vấn đáp để thi tốt nghiệp cao
đẳng tiểu học (năm 1928), ông bị viên giám thị người Pháp lầm tưởng là cậu bé
nhà quê nào đó hiếu kỳ xem thi nên đã đuổi "đi chơi chỗ khác" <i>. </i>Xuất trình giấy
tờ xong, cha tơi được vào thi môn vấn đáp bằng tiếng Pháp. Sự trả lời trôi chảy,
xuất sắc của ông cùng với kết quả các môn thi viết đã khiến cậu học sinh
Nguyễn Đức Ngun (tức Hồi Thanh) chiếm vị trí thủ khoa xứ Trung Kỳ thời
bấy giờ. Đó là kết quả của một quá trình học tập hết sức chăm chỉ trong những
điều kiện cực nhọc của một cậu học sinh nghèo. Về sau, tiếp tục học lên đến tú
tài, cha tôi vẫn luôn luôn giữ vị trí đầu bảng trong học tập.


*


Đọc văn của Hoài Thanh ta thường thấy thanh thốt, nhẹ nhàng, tơi tắn
mà khơng kém phần sâu lắng, gợi mở nhiều điều đáng suy nghĩ về lẽ sống, về
cái huyền diệu của cuộc đời. Có được nét riêng ấy tơi biết cha tơi đã lao động
cật lực trong suy nghĩ, tìm tịi, nghiên cứu... để tìm cách tiếp cận đến tận cùng vẻ


đẹp của văn chương và cuộc sống.


---


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

Tơi cịn nhớ, lần đầu tiên viết bài nghiên cứu về cảnh sắc thiên nhiên
trong <i>Truyện Kiều, </i>tôi đã đưa cho cha tôi xem. Bài viết không dài (chừng 10
trang) vậy mà cha tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần trong cả tuần (lúc ông có chút
thời gian rảnh) rồi mới ngồi lại gợi ý cho tơi. Tơi tưởng cha tơi gạch, xố, chữa
nhiều lắm nên rất hồi hộp lắng nghe. Khi lật từng trang viết của tôi, tôi thấy cha
tôi không gạch xố gì mà chỉ đánh dấu những chấm nhỏ ngồi lề, những câu,
chữ, ý cần góp. Hơm ấy, tơi cịn nhớ, ơng khơng bao giờ nói "con phải thế này" ,
"cần thế này" hoặc "phải bỏ chỗ này" v.v... mà chỉ nói "theo cha, con nên..."
hoặc "ý cha là thế, ý con thì sao?", v.v... Tứ buổi ấy, tôi hiểu ra một điều: phải
thực sự lao động viết văn mới có tấm lịng trân trọng với lao động viết của người
khác, dù là con mình.


Một lần đáng nhớ khác là trong phịng cấp cứu bệnh viện hồi đầu 1982.
Đêm ấy, tôi thấy cha tơi đã nằm n, thở đều, tơi liền rón rén tắt đèn phòng ngủ
đi vào khu vệ sinh, lợi dụng ánh đèn ở đây để viết một bài điểm thơ kịp nộp cho
tồ soạn sáng hơm sau. Mấy ngày sau, khi đọc ở báo có đăng bài tơi viết vội tối
hơm đó, tơi khơng thấy cha chê khen gì cả mà chỉ nói: “Cha đã đọc”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Mấy năm gần đây, tôi miệt mài đọc các tác phẩm và rất nhiều bản thảo, sổ
tay ghi chép của cha tơi mà gia đình cịn lưu giữ được để biên soạn bộ <i>Hồi </i>
<i>Thanh tồn tập. </i>Qua cơng việc này, tơi khâm phục sức làm việc cần cù, thái độ
lao động nghiêm túc và đầy say mê của cha. Tôi đã bỏ ra gần trọn 2 năm để đọc
hàng vài chục ngàn trang tác phẩm đã in sách và các bản thảo để lại mà khơng
tìm thấy bất kỳ một sự cầu thả kiểu "nhanh, nhiều, tốt, rẻ" nào đọng lại trên các
trang viết của ông.



</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<b>TR</b>

<b>Ả</b>

<b> L</b>

<b>Ờ</b>

<b>I PH</b>

<b>Ỏ</b>

<b>NG V</b>

<b>Ấ</b>

<b>N T</b>

<b>Ạ</b>

<b>P CHÍ “ TH</b>

<b>Ế</b>

<b> GI</b>

<b>Ớ</b>

<b>I M</b>

<b>Ớ</b>

<b>I” </b>


PV: <i>Là con trai nhà phê bình văn học Hồi Thanh, lại có lúc trái quan </i>
<i>điểm học thuật với cha mình (về nhân vật Từ Hải), xin ơng nói với bạn đọc </i>
<i>những suy nghĩ của ông liên quan tới văn hố phê bình. </i>


TỪ SƠN: Đúng là về quan điểm học thuật giữa cha tôi và tôi đôi khi có
những cách nhìn nhận khác nhau nhưng về nhân vật Từ Hải trong <i>Truyện Kiều</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Trên một số vấn đề học thuật khác, tôi thừa nhận là đơi khi tơi có những
nhận định “trái” với cha tôi. Bạn đọc dễ dàng nhận thấy điều này ở việc đánh giá


<i>Thi nhân Việt Nam, </i>ở việc nhìn lại cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề “ nghệ
thuật vị…” trong các bài viết của tôi về <i>Thi nhân Việt Nam </i>về cuộc tranh luận
và đặc biệt là trong công việc sưu tầm và biên soan <i>Hồi Thanh tồn tập</i> của tơi.


Tơi thường nghĩ: Trong cơng tác nghiên cứu, phê bình văn học nếu chỉ có
chuyện sắp hàng ngang và đi đều bước thì khó lịng đưa người ta đến chân lý
học thuật. Trong đời sống cũng như trong học thuật làm gì có mãi sự yên lặng
của mặt nước hồ thu - cho dù cảnh thu ấy là không thể thiếu, nhưng mãi như thế
lại hoá ra tẻ nhạt. Nước tinh khiết dù có vơ trùng, vơ hại nhưng thử hỏi mấy ai
chỉ muốn uống một loại nước như thế? Vấn đề đặt ra ở đây chính là trong nghiên
cứu, phê bình cần phải có một cách ứng xử có văn hóa. Đó là sự tơn trọng, lằng
nghe, tìm hiểu ý kiến, nhận định, sự khen chê của đồng nghiệp, của công chúng
với tinh thần thực sự cầu thị, với sự thẳng thắn, trung thực. Những ai cầm bút
muốn dành tất cả tâm huyết của mình cho sự tìm tịi, phát hiện ra chân lý của
cuộc sống, của thời đại đều cần có cách ứng xử ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

<b>M</b>

<b>Ộ</b>

<b>T CHI TI</b>

<b>Ế</b>

<b>T C</b>

<b>Ầ</b>

<b>N </b>

<b>ĐƯỢ</b>

<b>C NÓI </b>

<b>ĐẦ</b>

<b>Y </b>

<b>ĐỦ</b>

<b> H</b>

<b>Ơ</b>

<b>N </b>



<i><b> Hà n</b><b>ộ</b><b>i ngày 31-5-2007 </b></i>


<i><b>Tôi xin g</b><b>ử</b><b>i </b></i><b>Văn nghệ</b><i><b> bài vi</b><b>ế</b><b>t </b></i><b>Một chi tiết cần được nói đầy đủ hơn</b><i><b>. Qua bài vi</b><b>ế</b><b>t </b></i>
<i><b>tôi ch</b><b>ỉ</b><b> mu</b><b>ố</b><b>n giúp b</b><b>ạ</b><b>n </b><b>đọ</b><b>c hi</b><b>ể</b><b>u </b><b>đ</b><b>úng và hi</b><b>ể</b><b>u </b><b>đủ</b><b> v</b><b>ề</b><b> m</b><b>ộ</b><b>t v</b><b>ấ</b><b>n </b><b>đề</b><b> v</b><b>ă</b><b>n h</b><b>ọ</b><b>c mà GS.VS Phan C</b><b>ự</b></i>
<i><b>Đệ</b><b>đ</b><b>ã nh</b><b>ớ</b><b> nh</b><b>ầ</b><b>m ho</b><b>ặ</b><b>c hi</b><b>ể</b><b>u sai m</b><b>ộ</b><b>t n</b><b>ộ</b><b>i dung trích trong di bút c</b><b>ủ</b><b>a Hồi Thanh </b><b>đ</b><b>ã </b><b>đượ</b><b>c </b></i>
<i><b>báo ta công b</b><b>ố</b><b> h</b><b>ồ</b><b>i tháng 4-1988 ( tôi không nh</b><b>ớ</b><b> s</b><b>ố</b><b> báo ra ngày nào). C</b><b>ả</b><b> ba c</b><b>ụ</b><b> anh </b><b>Đệ</b></i>
<i><b>nh</b><b>ắ</b><b>c t</b><b>ớ</b><b>i </b><b>đề</b><b>u </b><b>đ</b><b>ã qua </b><b>đờ</b><b>i. Tôi </b><b>đ</b><b>ã </b><b>đị</b><b>nh không nh</b><b>ắ</b><b>c thêm n</b><b>ữ</b><b>a nh</b><b>ư</b><b>ng r</b><b>ồ</b><b>i l</b><b>ạ</b><b>i th</b><b>ấ</b><b>y c</b><b>ầ</b><b>n có trách </b></i>
<i><b>nhi</b><b>ệ</b><b>m v</b><b>ớ</b><b>i b</b><b>ạ</b><b>n </b><b>đọ</b><b>c khi h</b><b>ọ</b><b> ti</b><b>ế</b><b>p c</b><b>ậ</b><b>n v</b><b>ớ</b><b>i m</b><b>ộ</b><b>t thơng tin khơng </b><b>đ</b><b>úng, chí ít là khơng </b><b>đầ</b><b>y </b><b>đủ</b><b> có </b></i>
<i><b>th</b><b>ể</b><b> gây s</b><b>ự</b><b> nghi ng</b><b>ờ</b><b> v</b><b>ề</b><b> nhân cách c</b><b>ủ</b><b>a ba c</b><b>ụ</b><b> r</b><b>ấ</b><b>t </b><b>đ</b><b>áng kính và có cơng </b><b>đố</b><b>i v</b><b>ớ</b><b>i n</b><b>ề</b><b>n v</b><b>ă</b><b>n h</b><b>ọ</b><b>c </b></i>
<i><b>cách m</b><b>ạ</b><b>ng c</b><b>ủ</b><b>a chúng ta. </b></i>


<i><b>Tôi là ng</b><b>ườ</b><b>i g</b><b>ử</b><b>i </b><b>đế</b><b>n báo </b></i><b>Văn nghệ</b><i><b> m</b><b>ộ</b><b>t s</b><b>ố</b></i> <i><b>đ</b><b>o</b><b>ạ</b><b>n trong di bút c</b><b>ủ</b><b>a Hồi Thanh nên </b></i>
<i><b>tơi xin </b><b>đ</b><b>u</b><b>ợ</b><b>c nói rõ và </b><b>đầ</b><b>y </b><b>đủ</b><b> s</b><b>ự</b><b> ki</b><b>ệ</b><b>n này v</b><b>ớ</b><b>i d</b><b>ẫ</b><b>n ch</b><b>ứ</b><b>ng và v</b><b>ậ</b><b>t chúng tơi cịn l</b><b>ư</b><b>u gi</b><b>ữ</b><b>đượ</b><b>c. </b></i>
<i><b>Đ</b><b>ây khơng ph</b><b>ả</b><b>i là chuy</b><b>ệ</b><b>n “ki</b><b>ệ</b><b>n cáo” ho</b><b>ặ</b><b>c cơng kích ai mà ch</b><b>ỉ</b><b> là m</b><b>ộ</b><b>t cơng b</b><b>ố</b><b> có tính h</b><b>ọ</b><b>c </b></i>
<i><b>thu</b><b>ậ</b><b>t nh</b><b>ằ</b><b>m giúp b</b><b>ạ</b><b>n </b><b>đọ</b><b>c hi</b><b>ể</b><b>u </b><b>đ</b><b>úng và hi</b><b>ể</b><b>u sâu h</b><b>ơ</b><b>n v</b><b>ấ</b><b>n </b><b>đề</b><b> khó nh</b><b>ọ</b><b>c mà b</b><b>ấ</b><b>t c</b><b>ứ</b><b> nh</b><b>ữ</b><b>ng ai </b></i>
<i><b>sáng t</b><b>ạ</b><b>o v</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng </b><b>đề</b><b>u ph</b><b>ả</b><b>i v</b><b>ậ</b><b>t vã su</b><b>ố</b><b>t m</b><b>ộ</b><b>t </b><b>đờ</b><b>i c</b><b>ầ</b><b>m bút </b><b>để</b><b> hy v</b><b>ọ</b><b>ng c</b><b>ố</b><b>ng hi</b><b>ế</b><b>n cho </b><b>đờ</b><b>i </b></i>
<i><b>nh</b><b>ữ</b><b>ng tác ph</b><b>ẩ</b><b>m hay, t</b><b>ự</b><b> mình ph</b><b>ấ</b><b>n </b><b>đấ</b><b>u </b><b>để</b><b> g</b><b>ạ</b><b>t </b><b>đượ</b><b>c ra kh</b><b>ỏ</b><b>i quá trình sáng t</b><b>ạ</b><b>o nh</b><b>ữ</b><b>ng k</b><b>ế</b><b>t </b></i>
<i><b>qu</b><b>ả</b><b> t</b><b>ầ</b><b>m th</b><b>ườ</b><b>ng r</b><b>ấ</b><b>t d</b><b>ễ</b><b> m</b><b>ắ</b><b>c ph</b><b>ả</b><b>i. Nh</b><b>ữ</b><b>ng gì tơi </b><b>đề</b><b> c</b><b>ậ</b><b>p ch</b><b>ỉ</b><b> là chuy</b><b>ệ</b><b>n v</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng. Tôi tin </b></i>
<i><b>r</b><b>ằ</b><b>ng b</b><b>ạ</b><b>n </b><b>đọ</b><b>c s</b><b>ẽ</b><b> th</b><b>ấ</b><b>y s</b><b>ự</b><b> suy ngh</b><b>ĩ</b><b> r</b><b>ấ</b><b>t chân thành c</b><b>ủ</b><b>a tôi</b><b>.</b></i> TỪ SƠN


*


<i>An ninh thế giới</i> <i>cuối tháng</i> (số 69 tháng 4 – 2007) trong mục “ <i>Trị</i>
<i>chuyện cuối tháng”</i> có thuật lại cuộc trò chuyện với giáo sư - viện sĩ Phan Cự
Đệ do Đặng Hồng Quang thực hiện. Tôi đã đọc liền một mạch bài tường thuật
cuộc trò chuyện khá thú vị này. Tơi rất cảm kích trước những tình cảm trân
trọng của giáo sư - viện sĩ Phan Cự Đệ dành cho thân phụ tôi là nhà văn Hồi
Thanh. Tuy vậy có một chi tiết cuối buổi trị chuyện, có lẽ do khn khổ bài báo
nên GS.VS Phan Cự Đệ đã đưa ra một chi tiết chưa đầy đủ về Hồi Thanh khi
ơng nói: “ <i> Trước đây trên tờ</i> Văn nghệ<i> có người viết rằng đồng chí Trường </i>
<i>Chinh có lần đã bảo Huy Cận là vulgaire” (tầm thường)</i>… <i>Chuyện đến tai đồng </i>
<i>chí Trường Chinh và đồng chí ấy mời ngay Huy Cận đến, bảo: Tơi chưa bao giờ</i>


<i>nói như thế cả, đấy là họ nói vậy</i>…(ANTG cuối tháng, số 69, tháng 4-2007,
tr.9., cột 4 dòng thứ 38 đếm từ dưới lên)


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Hồi Thanh gặp đồng chí Trường Chinh, tơi thấy cần nói lại đơi đều. Di bút của
Hồi Thanh, khi ơng đặt bút viết từng đoạn, từng đoạn ngắn suốt từ tháng 3-
1979 đến cuối năm 1980 ông chỉ hy vọng để cho các con, em cháu “đọc cho biết
vậy thôi”(1). Chắc chắn Hồi Thanh khơng nghĩ được hơn 10 năm sau, khi ông
đã đi xa từ đầu năm 1982, gần như tồn văn di bút của ơng đã được cơng bố
rộng rãi nhờ có sự nghiệp đổi mới đã diễn ra trên toàn đất nước dưới sự khởi
xướng và lãnh đạo của Đảng. Trong một số đoạn di bút đã cơng bố trên báo <i>Văn</i>
<i>nghệ</i> có đoạn di bút Hoài Thanh đánh số 9. Toàn văn đoạn di bút ấy Hoài Thanh
viết như sau:


“ <i> Anh Trường Chinh có lần nói với tơi” Huy Cận ngày xưa tư tưởng lạc </i>
<i>hậu nhưng thơ lại có những bài viết rất nên thơ. Ngày nay tư tưởng tiến bộ hơn </i>
<i>nhưng sao thơ lại tầm thường, lại vulgaire thế?”. </i>


<i> Kể ra, thơ Huy Cận ngày nay không phải bài nào cùng tầm thường </i>
<i>nhưng phần lớn phải nó ilà tầm thường là rất ít nên thơ. Và cũng khơng phải chỉ</i>
<i>một mình thơ Huy Cận là như thế. </i>


<i>Vậy suy nghĩ như thế nào trên vấn đề này? Thơ tầm thường, thơ vulgaire </i>
<i>thì khơng thể là thơ, lại không thể xem thơ tiến bộ. Tư tưởng tiến bộ không nhất </i>
<i>thiết lúc nào cũng được thể hiện thành thơ. Ở rất nhiều người là như vậy. Ở Huy </i>
<i>Cận cũng có thể là như vậy. Điều đó khơng có gì là lạ. </i>


<i>Cịn một tiếng thơ dầu có phần lạc hậu nhưng nếu chân thành, nếu được </i>
<i>thốt lên từ</i> <i>đáy lòng một con người lương thiện thì vẫn có thể nên thơ. Chỉ trừ</i>
<i>những gì tàn ác, xấu xa, dơ dáy cịn thì cuộc sống tự nó vẫn là một bài thơ” </i>



Để giúp bạn đọc hiểu thêm thái độ trân trọng của Hoài Thanh với những
giá trị thực sự của Huy Cận, tơi xin phép trích thêm ở đây một số đoạn Hoài
Thanh viết trong di bút, đoạn đánh số 10:


“ <i>Thơ Huy Cận ngày xưa có hai câu:</i>


Nắng đã xế về bên xứ bạn


Chiều mưa trên bãi nước sơng đầy


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

Có một sự thật trong mối quan hệ giữa hai người trong giới văn chương từ
lâu nay là: có thể có những lúc nào đó họ khơng ưa nhau về cá tính, về cách
sống, cách ứng xử v.v…nhưng họ vẫn q những cơng trình sáng tạo có giá trị
đích thực của nhau. Trong lời “Nhỏ to” ở cuối cuốn <b>Thi nhân Việt Nam</b>, Hồi
Thanh có tâm sự: “ <i>Có người thơ tuyệt đẹp mà đối với tơi lại tồn những cử chỉ</i>
<i>rất mực xấu xa...Nhưng thơ tơii nói ra làm gì. Những cử chỉ xấu xa kia là bề</i>
<i>ngoài, phần sâu sắc nhất trong tâm hồn họđã ghi với những vần thơđẹp. Tôi tin </i>
<i>như thế….Nếu bảo rằng tôi không ái ngại người này, khinh ghét người kia, thì e </i>
<i>khơng thực. Nhưng ái ngại hay khinh ghét khi xem thơ tơi chỉ biết có thơ. Tơi </i>
<i>không hề nghĩđến danh vọng của người hay của tôi. Danh vọng q thật, nhưng </i>
<i>cịn có điều q hơn danh vọng, quý hơn hết thảy: lòng ngay thẳng mà ít nhất </i>
<i>cũng giữ trọn trong văn chương”. </i> Có thể ai đó nghĩ rằng: hai “cụ” Hồi Thanh
và Huy Cận khơng ưa nhau. Điều này chẳng cịn biết hai “cụ” ở đâu để hỏi thực
hư. Chẳng lẽ phải tìm về thế giới bên kia gặp hai “cụ” để hỏi? Có điều tơi xin
cung cấp cho bạn đọc một bài thơ của chú Huy Cận(2) đã đọc cho tơi nghe và ghi
lại trong cuộc trị chuyện qua điện thoại vào hồi 19giờ ngày 17-6-2000. Bài thơ
ấy như sau:


<b> Nhớ Hoài Thanh </b>



<i> Lấy hồn tôi hiểu hồn người </i>
<i> Câu văn tri kỷ một thời thơ ca </i>
<i> Cũng người một hội đâu xa </i>


<i> Nỗi đau nhân thế cũng là niềm chung. </i>
<i> Trăm năm một hội tao phùng </i>


<i> Rằng thi thoại ấy bạn cùng thi nhân! </i>


Đến đây chắc bạn đọc có thể nhìn thấy rõ ràng sự khác biệt về thông tin
đã nêu trên báo ANTG với đoạn di bút của Hoài Thanh đã được công bố trên
báo <i>Văn nghệ</i> hồi năm 1988 ( khoảng tháng 4-1988 - T.S). Sự khác biệt giữa
một bên thơng tin rằng đồng chí Trường Chinh <i>“có lần đã bảo Huy Cận là </i>
<i>vulgaire ( tầm thường)…”</i> và một bên thuật lại lời đồng chí Trường Chinh băn
khoăn về chất lượng thơ Huy Cận ngày trước và ngày nay ( sau Cách mạng).


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

một nhà thơ truyền lại ngọn <i>“ Lửa thiêng”</i> cho đời mà cịn là một nhà văn hố
lớn, một chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá của Đảng.


Tơi cũng hồn tồn tin vào những điều cha tơi ghi lại lời đồng chí Trường
Chinh nói với cha tôi về thơ Huy Cận ngày xưa và ngày nay. Cha tơi viết những
dịng di bút kể trên vào thời điểm người sắp lìa xa cõi đời khi người nghĩ: <i>“Có </i>
<i>những điều khơng thể viết ra thì thấy bứt rứt, khơng chịu được” </i>( xin xem chú
thích 1 ở dưới bài này<i>). </i>


Có một sự thật mà bất kỳ những ai đã thành cơng ít nhiều trong sáng tạo
nghệ thuật đều tự biết: những đứa con của sự sáng tạo nghệ thuật do mình sinh
ra không phải lúc nào cũng tuyệt vời xinh đẹp làm say lòng người. Ai dám đoan
chắc rằng những đứa con tinh thần của mình hồn tồn khơng có ít hoặc nhiều
khuyết tật, thậm chí có lúc chính người sinh ra nó cịn khơng dám nhìn? <i>Truyện</i>


<i>Kiều</i> - kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du - không phải khơng thể tìm thấy một
đơi câu thơ tầm thường. Hai câu ở cuối <i>Truyện Kiều</i>: “ <i>Một nhà phúc lộc gồm</i>
<i>hai - Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần”</i> chẳng đã từng bị khơng ít nhà bình
luận Kiều chê là tầm thường đó sao?


<i>Tháng 5 - 2007 </i>
(1) Trong di bút, đoạn đánh số 20 Hoài Thanh viết: <i>“ Phần lớn tập tuỳ bút này chắc là </i>
<i>không được in và cũng không nên được in. Thường tôi viết là nhằm vào hàng trăm, hàng ngàn </i>
<i>người đọc. Người đọc tập này có lẽ chỉ có vài người: là con, là em, là cháu và đọc cũng chỉ</i>
<i>để biết vậy thôi. Nhưng sao tôi vẫn cứ muốn viết? Có những điều khơng viết ra thì thấy bứt </i>
<i>rứt khơng chịu được”.</i> Đoạn này Hồi Thanh viết trong sổ tay hồi cuối năm 1980. Hơn một
năm sau, vào ngày 14-3-1982 Hoài Thanh mất. Bạn đọc có thể tìm đọc gần như tồn bộ di bút
của Hoài Thanh trong cuốn “ <b>Hoài Thanh - di bút và di cảo</b>”nxb. Văn học, 1993 hoặc trong
<b>HoàiThanh toàn tập</b>, tập 4- nxb Văn học, 1999. Cả hai cuốn này đều do Từ Sơn sưu tầm và
giới thiệu. Trong bài viết này để đảm bảo độ chính xác của đoạn trích trong di bút của Hồi
Thanh chúng tôi xin đăng bản copy chụp lại trong sổ tay của Hoài Thanh. Bạn đọc nào cần
xem bản gốc bút tích di bút của Hồi Thanh xin liên hệ với người viết bài này qua số điện
thoại (04)38359464 hoặc viết thư liên hệ qua địa chỉ: <b>“ TừSơn - nhà số 31, ngõ 97 Nguyễn </b>
<b>Chí Thanh , Phường Láng Hạ, quận Đống Đa - Hà Nội” </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63></div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<b>NH</b>

<b>Ữ</b>

<b>NG S</b>

<b>Ự</b>

<b>ĐẶ</b>

<b>T </b>

<b>Đ</b>

<b>I</b>

<b>Ề</b>

<b>U KHÔNG </b>

<b>Đ</b>

<b>ÚNG S</b>

<b>Ự</b>

<b> TH</b>

<b>Ậ</b>

<b>T </b>


Trên tờ <i>Văn nghệ công an</i> số 1 tháng 1-2004 tác giả Đặng Vương Hưng
có bài viết” Nhà thơ Xuân Sách tiết lộ chuyện xuất bản tập <i>Chân dung nhà văn</i>”
ghi lại buổi trò chuyện của tác giả với ông Xuân Sách về tập vè đả kích, châm
biếm 99 nhà thơ, nhà văn đương đại - những khuôn mặt đã làm sáng giá nền văn
học cách mạng hiện đại Việt Nam - của ông do nhà xuất bản Văn học cho in
năm 1992.


Đây là một cuốn sách phác hoạ những chân dung méo mó xun tạc sự
thật, khơng đúng với sự khẳng định phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ nhà văn cách


mạng Việt Nam đã ghi trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng.


Có điều rất không đúng trong lời ông Xuân Sách thuật lại cho tác giả
Đặng Vương Hưng ghi lại trong bài báo. Trong một cuộc nóí chuyện điện thoại
với Phan Hồng Giang vào những ngày giáp Tết vừa qua, tác giả Đặng Vương
Hưng cho biết ơng cịn giữ băng ghi âm cuộc trị chuyện với ơng Xn Sách, lời
của ông Xuân Sách in trong bài báo là chép từ băng ghi âm ra. Vậy là ở đây
khơng có chuyện “thêm mắm, thêm muối” của nhà báo mà là lời tiếng của ông
Xuân Sách. Tôi hoan nghênh <i>Văn nghệ công an</i> số 2, tháng 2 - 2004 đã có lời
cáo lỗi của Ban biên tập và tác giả bài báo đã “ <i>chỉ lấy tư liệu từ một phía( do </i>
<i>nhà thơ Xuân Sách cung cấp) nên có một số chi tiết trong bài báo cịn chưa thật </i>
<i>chính xác và khách quan”.</i> Ban biên tập và tác giả đã “<i>chân thành cáo lỗi một số</i>
<i>nhà văn có tên trong bài viết nêu trên cùng bạn đọc”. </i>Đây là một lời tự phê bình
nghiêm túc đáng được ghi nhận.


Trong bài viết này tôi chỉ vạch ra những điều không đúng của ông Xuân
Sách khi ông làm vè chân dung thân phụ của chúng tơi là nhà văn Hồi Thanh,
người đã được Chủ tịch nước tặng giải Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

lần gặp tôi khơng hề nghe ơng Xn Sách nói chuyện hoặc đọc mấy câu về thân
phụ tôi. Phan Hồng Giang cũng cho biết khoảng thời gian ông Xuân Sách viết
mấy câu vè ấy Giang đang làm nghiên cứu sinh ở Matcơva.


Tôi được biết mấy câu vè này là đầu năm 1982 ở bên giường bệnh cấp
cứu của cha tôi ở bệnh viện Việt Xô. Hôm ấy người em dâu của tơi (ơng Xn
Sạch có nói tới trong bài báo, người em này công tác trong cùng một cơ quan
với ông Xuân Sách cho đến năm 1980 - khi ơng Sách vì chuyện riêng phải xin di
cư vào Đồng Nai rồi Vũng Tàu) đọc mấy câu vè ấy cho cha tôi và tôi nghe.
Chuyện này tôi đã kể lại trong “ <i>Lời cuối sách</i>” của cuốn <i>Thi nhân Việt Nam</i> do
nhà xuất bản Văn học tái bản năm 1988 và đều được in lại trong các lần tái bản


sau này. Đoạn viết ấy như sau: “ <i>Một lần khác ở bên giường cấp cứu, sôi nổi, </i>
<i>vui vẻ, chúng tôi bàn về thơ “ Chân dung nhà văn” đang lưu hành trong giới </i>
<i>văn chương. Cha tôi khe khẽđọc lại mấy câu thơ chân dung nói về ơng mà ai đó </i>
<i>đọc cho ông: </i>Vị nghệ thuật một nửa đời / Nửa đời lại phải vị người cấp trên<i> / </i>
<i>(Nguyên bản của ông Xuân Sách viết là </i>người ngồi trên)” Thi nhân” còn một
chút duyên / Chẳng cầm cho vững lại lèn cho đau ( <i>Câu này nguyên bản viết</i>
“ lại vò cho nát…)” Đọc xong cha tơi bình<i>:” Tay này nó biết mình mê Kiều nên </i>
<i>nó dùng lối lẩy Kiều để vẽ chân dung mình thì khéo thật. Tuy vậy câu thứ hai </i>
<i>nói oan và ác quá. Cha biết có khơng ít người nghĩ như thế về cha. Nói xong cha </i>
<i>tơi có vẻ hơi buồn buồn”. </i>


Sự thật là như vậy.


Cái câu thứ hai mà Hồi Thanh cho rằng nói oan và nói ác người em dâu
của tơi có nói với cha tơi hơm ấy rằng tác giả của nó đã sửa lại một chút: từ lúc
đầu, tác giả viết “ <i>nửa đời sau lại vị người cấp trên</i>” thành “ <i>nửa đời lại </i>phải<i> vị</i>


người ngồi trên”.


Từ sự thật này tơi thấy rất cần nói đến chi tiết khơng đúng thứ hai của
ông Xuân Sách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

<i>mạnh- T.S.) nhà văn Hồi Thanh đã nói lời cảm ơn, rồi khen Xn Sách là </i>
<i>người sống có tình”.</i> Cụ nói với Xuân Sách: ‘<i>Về cái chân dung ấy mà…anh viết </i>
<i>thế tôi đau lắm nhưng mà cũng không sai. Tơi chỉ xin anh sau này có in thì chữa </i>
<i>lại một chữở câu thứ hai: </i>Nửa đời sau lại vị người ngồi trên<i> thành </i>Nửa đời sau
phải vị người ngồi trên”. Tác giả Đặng Vương Hưng ghi lại lời Xuân Sách rằng:
“<i>Có lẽ bài thơ chân dung làm Xuân Sách ân hận nhất là về nhà văn Hồi </i>
<i>Thanh”</i>. Cịn nữa, Xn Sách thừa nhận (theo sự ghi lại của Đặng Vương
Hưng): “ <i>Cho dù cụ Hồi Thanh chấp nhận, nhưng từ</i> <i>đó ơng ln cảm thấy </i>


<i>mình đã làm điều khơng phải với tác giả</i> Thi nhân Việt Nam”


Những điều ông Xuân Sách tơi vừa dẫn ở trên khó làm cho người ta tin
rằng ông đã thực sự ân hận về cái điều mà ơng nói là “<i>làm điều khơng phải với</i>
<i>tác giả</i> Thi nhân Việt Nam<i>”.</i> Bởi ông đã tự mâu thuẫn với chính mình. Cụ thể
là:


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Hồi Thanh nói như ơng đã tưởng tượng là có thật thì sao ơng khơng sửa lại theo
đúng cái mà ơng gọi là đề nghị của cụ Hồi? Lại nữa, ai cũng thừa nhận Hoài
Thanh là người rất tinh tế trong việc sử dụng câu chữ trong văn chương. Khơng
thể nào Hồi Thanh lại có một đề nghị hết sức“ngớ ngẩn”về dùng chữ như Xuân
Sách đã kể. Khơng biết ơng Xn Sách có nhận thức được rằng mức độ phê
phán trong câu “<i>nửa đời sau lại vị người ngồi trên</i>” là nhẹ hơn “<i>nửa đời sau lại</i>


phải<i> vị người ngồi trên</i>” hay không? Rõ ràng là câu trước mức độ đả kích chỉ
nhằm vào một người, cịn câu sau (thay bằng chữ phải) thì mức độ đả kích đã
mở rộng giới hạn: đả kích vào một cơ chế rất tầm bậy là bắt người ngồi dưới
phải nịnh bợ người ngồi trên vì người ngồi trên thích như thế. Ơng Xn Sách
định ám chỉ cơ chế nào đây? Hoài Thanh là một nhà văn chân chính có đầy đủ
phẩm chất u nước, yêu dân tộc, yêu Đảng, yêu và thực tâm gắn bó với sự
nghiệp của Đảng, của dân tộc thể hiện trong lối sống cũng như trong toàn bộ văn
nghiệp của ông.Công lao và sự nghiệp của ông đã được Đảng, Nhà nước và rất
đông các thế hệ cơng chúng ghi nhận. Các phẩm chất ấy Hồi Thanh ngời sáng
giữa thanh thiên bạch nhật khi ông cịn sống cũng như khi ơng đã mãi mãi đi xa.


Đó là một sự thật khơng cần bàn cãi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

đây, ai là người “vị người ngồi trên”? Tôi đã cất công nhiều năm để sưu tầm và
biên soạn bộ <b>Hoài thanh toàn tập</b> ( gồm 4 tập với độ dày khoảng 5000 trang –
Nxb. Văn học 1999) và viết nhiều bài cùng các cơng trình nghiên cứu về Hồi


Thanh với mong ước dựng được một chân dung tương đối đầy đủ,chính xác,
khoa học nhằm cung cấp cho những ai từng yêu mến sự nghiệp văn chương và
con người Hoài Thanh có được một cách nhìn đúng đắn cả ưu lẫn nhược điểm
trong thân thế và sự nghiệp của Hoài Thanh.


Những điều tơi nói trong bài viết này chỉ nhằm giúp bạn đọc hiểu đúng
về nhà văn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến: Hoài Thanh


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

<b>V</b>

<b>Ề</b>

<b> “ HOÀI THANH TOÀN T</b>

<b>Ậ</b>

<b>P”</b>



<b>(Lời nói đầu “Hồi Thanh tồn tập”) </b>


<b>T</b>ừ lâu, tơi đã có mong ước được sưu tầm và biên soạn một tồn tập phản
ánh tương đối đầy đủ, chính xác sự nghiệp văn học và một phần nào cuộc đời
nhà văn Hồi Thanh. Đó âu cũng là mong ước thơng thường của một người ít
nhiều đã và đang làm cơng việc nghiên cứu, phê bình văn học. Song, điều thôi
thúc tôi hơn là trong đạo làm con khơng thể khơng tìm hiểu, nghiên cứu sự
nghiệp và cuộc đời bậc đã sinh thành và dưỡng dục mình. Tơi biết mình có một
thuận lợi là đã từng nhiều chục năm chia xẻ với cha mình bao điều riêng - chung
trên những chặng đường đời đầy ngọt bùi và cũng khơng ít đấng cay. Vì vậy tơi
đã âm thầm chuẩn bị cho việc thực hiện mong ước nói trên từ nhiều năm nay.
Và, giờ đây, được sự khích lệ, cổ vũ, giúp đỡ của Nhà xuất bản Văn học, <i>Toàn </i>
<i>tập Hoài Thanh </i>đến được với bạn đọc.


Trong công việc sưu tầm và biên soạn, tôi luôn luôn giữ vững một nguyên
tắc căn bản: tơn trọng tồn bộ những trang viết của Hồi Thanh đã in thành sách
đăng trên báo hoặc còn ở dạng dì cảo để lại trong các quyển vở, sổ tay và thư từ
mà gia đình cịn giữ được. Điều này có nghĩa là những trang in trong <i>Tồn tập</i>


này Hồi Thanh vốn viết như thế nào thì giữ nguyên như vậy.



</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Ngoài ra, cuối bộ <i>Tồn tập, </i>ở tập IV, chúng tơi có để trong phần phụ lục
thư mục về Hoài Thanh. Thư mục này chưa được đầy đủ vì tư liệu chúng tơi sưu
tầm cịn thiếu nhưng dù sao cũng giúp bạn đọc tra cứu được ít nhiều.


<i>Tồn tập Hồi Thanh </i>được xuất bản lần này tập hợp đầy đủ các tác phẩm
đã được in thành sách của Hoài Thanh - từ quyển đầu tiên tới quyển cuối cùng.


Tất nhiên, tơi khơng đưa vào <i>Tồn tập </i>hai tập <i>Tuyển tập Hồi Thanh </i>đã
được in năm 1982, vì phần lớn các bài trong <i>Tuyển tập</i> là chọn từ các tác phẩm
đã in sách và ba tập <i>Phê bình và tiểu luận. </i>Một số bài trong <i>Tuyển tập </i>nếu chưa
in ở sách nào của Hồi Thanh thì mới đưa vào <i>Toàn tập. </i>Cuốn <i>Thơ Tố Hữu </i>Hoài
Thanh biên soạn, Nhà xuất bản Giáo dục in năm 1977 cũng khơng có mặt trong


<i>Tồn tập </i>vì lời bình luận, phân tích các tác phẩm của Tố Hữu đã có trong các
bài viết về Tố Hữu in trong <i>Toàn tập </i>lần này. Ngoài ra, một số bài báo đã đăng
trên các báo trước và sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 của Hoài Thanh nếu
được tác giả đưa vào nội dung một số cuốn sách chúng tơi xin phép bạn đọc
khơng đưa vào <i>Tồn tập </i>để tránh sự trùng lặp. Vì khn khổ bộ sách có giới hạn
nên chúng tơi cũng khơng đưa vào <i>Toàn tập </i>các tác phẩm dịch của Hoài Thanh
như <i>Nhà nước và cách mạng </i>(dịch của V.I.Lênin), <i>Cách mạng Trung hoa và </i>
<i>Đảng cộng sản Trung Quốc </i>(dịch của Mao Trạch Đông), <i>Tôi đã học viết như thế</i>
<i>nào </i>và <i>Văn học Xơ viết </i>(dịch của M.Gorki).


Khó khăn lớn cho người sưu tầm biên soạn là các bài báo, nhất là các bài
Hoài Thanh viết trước tháng 8-1945, cho đến nay chưa thể sưu tầm được đầy đủ.
Tơi chưa có cách nào để sưu tầm các bài báo viết bằng tiếng Pháp dưới
bút danh <i>Le Nhà q </i>của Hồi Thanh vì các thư viện lớn ở trong nước không
lưu giữ được. Tôi hy vọng trong tương lai gặp điều kiện thuận lợi tôi sẽ sưu tầm
được đầy đủ hơn.(1)



</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

trang ghi chép khá bề bộn và rất khó đọc (vì nét chừ quá run được viết khi Hoài
Thanh đã yếu) của Hồi Thanh cịn để lại cho gia dình.


Tồn tập Hồi Thanh gồm có 4 tập:


<i>- Tập một: </i>các bài viết và sách đã in trước tháng 8-1945.


<i>- Tập hai: </i>gồm 8 cuốn sách từ : <i>"Có một nến văn hoá Việt Nam” đến hết </i>
<i>tập 3 tập “ Phê bình và tiểu luận”. </i>


- <i>Tập ba: </i>gồm hai cuốn “<i>Chuyện thơ...", "Phan Bội Châu" </i>cùng với các
tập, các bài bút ký đã in thành sách (trừ tập<i>Chuyện miền Nam </i>xuất bản năm
1955, nhà xuất bản <i>Vănnghệ, </i>có nội dung trùng với <i>Nam bộ mến yêu </i>và bài ký


<i>Khúc ruột miền Trung </i>nên chúng tôi không đưa vào tập này.


<i>- Tập bốn: </i>gồm các bài báo, bài nghiên cứu đã hoặc chưa đăng báo và
chưa đưa vào cuốn sách nào của Hoài Thanh cùng với di bút và di cảo. Cuối tập
bốn có phần <i>Phụ lục </i>gồm một số bài viết về Hoài Thanh của các nhà nghiên
cứu, nhà văn và người thân trong gia đình. Cuối sách là thư mục về Hoài Thanh.


Qua bốn tập của <i>Tồn tập </i>bạn đọc sẽ thấy ngịi bút của Hồi Thanh ngày
càng đậm nét từ sau Cách mạng tháng Tám với nhiều tác phẩm có giá trị đã
được ra đời. Thực tiễn sự nghiệp văn học của Hoài Thanh đã chứng minh nhận
định: <i>"Thực ra các công trình có </i>ý <i>nghĩa lớn của Hồi Thanh lại là trước Cách </i>
<i>mạng tháng Tám" </i>(2) là sai lầm và chí ít là thiếu vơ tư khách quan.


<i>* </i>
<i>* * </i>



<i>Toàn tập Hoài Thanh </i>đã được xuất bản. Người sưu tầm và biên soạn sách
hy vọng sẽ mang lại cho bạn đọc quý mến một bộ sách phản ánh tương đối đầy
đủ chính xác sự nghiệp văn học cùng với đơi nét chủ yếu về cuộc đời và con
người nhà văn Hồi Thanh.


Nếu được như vậy thì đó là niềm hạnh phúc lớn đối với chúng tôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Tơi khơng nghĩ là sự nghiệp văn học của Hồi Thanh chỉ toàn những tác
phẩm xuất sắc. Trong <i>Toàn tập </i>bạn đọc sẽ thấy rõ chỗ mạnh chỗ yếu và cả
những thiếu sót (thậm chí sai lầm), hạn chế của ngịi bút Hồi Thanh. Điều tơi
tin và hiểu một cách chắc chắn là: Hoài Thanh đã sống và viết hoàn toàn trung
thực.


<i>Hà Nội, tháng 1 năm 1998 </i>


----


(1) xin xem chú thích số (3) ở trang 118 cuốn sách này (bài: “Ngạc nhiên....” để có thơng
tin mới cập nhật về tư liệu


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

<b>Đ</b>

<b>ƠI L</b>

<b>Ờ</b>

<b>I NĨI THÊM V</b>

<b>Ề</b>

<b> “HỒI THANH TỒN T</b>

<b>Ậ</b>

<b>P” </b>



<i><b>(Phát bi</b><b>ể</b><b>u t</b><b>ạ</b><b>i h</b><b>ộ</b><b>i th</b><b>ả</b><b>o khoa h</b><b>ọ</b><b>c v</b><b>ề</b><b> s</b><b>ự</b><b> nghi</b><b>ệ</b><b>p v</b><b>ă</b><b>n h</b><b>ọ</b><b>c c</b><b>ủ</b><b>a Hoài Thanh t</b><b>ạ</b><b>i </b></i>
<i><b>Vi</b><b>ệ</b><b>n v</b><b>ă</b><b>n h</b><b>ọ</b><b>c, ngày 13 - 8 - 1999) </b></i>


Cho phép tôi được nói thêm đơi lời <i>về Hồi Thanh tồn tập </i>cơng trình do
tơi biên soạn - gồm 4 tập, Nhà xuất bản <i>Văn học </i>vừa mới ấn hành.


Trong một bức thư đề ngày 25-8-1979 gửi cho tơi, Hồi Thanh có viết:



<i>"Vềđề nghị viết hồi ký văn học cha cũng chưa trả lời. Cha muốn suy nghĩ</i>
<i>thêm một tí rồi mới trả lời. Nhưng hiện giờ, trong suy nghĩ của cha, nếu viết để</i>
<i>in thì cha khơng muốn viết vì sẽ có nhiều chuyện khơng nói được. Viết để khơng </i>
<i>in thì cha rất muốn viết. Với tư cách là một người viết báo, viết văn nhất là với </i>
<i>tư cách một cán bộĐảng tham gia lãnh đạo phong trào văn nghệ, văn học trong </i>
<i>mấy chục năm nay, cha biết khá nhiều chuyện trong đó có những chuyện có thể</i>
<i>nói là rất hay. Song những chuyện ấy dễđến giữa thế kí XXI chưa biết đã có thể</i>
<i>in ra chưa. Cha khơng biết cịn sống được mấy năm nữa nhưng khả năng viết thì </i>
<i>chắc chỉ cịn một vàì năm nữa thơi. Cha khơng muốn dùng một vài năm ấy để</i>
<i>viết những điều cha khơng thích viết". </i>


Như vậy là về cuối đời, Hoài Thanh rất muốn viết những điều "để khơng
in" cho dù "trong đó có những chuyện có thể nói là rất hay".


Chúng ta hẳn đã đọc 23 đoạn <i>Di bút </i>của Hoài Thanh được ông viết từ
tháng 3-1979 đến tháng 10-1980 với sự thơi thúc "có những điều khơng viết ra
thì thấy bứt rứt không chịu được" (đoạn 20). 23 đoạn <i>Di bút </i>ghi lại trong sổ tay
có lẽ có những chuyện Hoài Thanh nghĩ rằng "dễ đến giữa thế kí XXI cha biết
đã có thể in ra chưa". Hồi Thanh chắc khơng ngờ rằng chỉ mới hai năm sau,
năm 1993, hầu như toàn bộ 23 đoạn trong <i>Di bút </i>đã đựơc in ra và đến với bạn
đọc cả nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

biên soạn không thể vượt khỏi những ràng buộc tất yếu của bối cảnh xã hội và
thời đại hiện nay. Điều đáng mừng là 4 tập của <i>Hoài Thanh toàn tập </i>đã in lại
được toàn bộ các cuốn sách Hoài Thanh đã cho xuất bản và hầu như toàn bộ các
bài báo chưa in thành sách của Hồi Thanh. Có thể nói hơn 90% những trang
viết đã in và chưa in của Hồi Thanh đã có trong <i>Tồn tập. </i>


Tơi rất tiếc là Hồi Thanh đã hủy hết cuốn nhật ký viết bằng tiếng Pháp


được ông ghi đều đặn các suy nghĩ và sự kiện trong đời riêng từ đầu những năm
30 đến 1943. Mấy đoạn nhật ký viết bằng tiếng Pháp được tôi nhờ ông Huy Anh
dịch ra và in trong <i>Di bút </i>- <i>di cáo </i>của Hoài Thanh năm 1993 là do Hoài Thanh
tự chép lại trong một cuốn vở học trò đưa lại cho tơi hồi năm 1981. Hồi Thanh
cho tơi biết ông đã đốt cuốn nhật ký và chỉ giữ lại mấy đoạn đó thơi.


Trong <i>Hồi Thanh tồn tập </i>cịn thiếu toàn bộ các bài báo viết bằng tiếng
Pháp dưới bút danh <i>Le Nhà q </i>của Hồi Thanh vì tơi cha sưu tầm được.


Ngồi ra, tơi xin phép bạn đọc lược bộ ba bài viết trong cuộc đấu tranh tư
tưởng hồi 1957 đã in trong <i>Phê bình tiểu luận </i>tập I, một số đoạn trong một số
bài chính luận Hồi Thanh viết hồi năm 1979 và một số bài, một số câu, đoạn
không phù hợp với các mối quan hệ xã hội hiện nay. Tất nhiên lược bỏ đoạn
nào, câu nào, bài nào tôi đều có chú thích để bạn đọc tiện tra cứu. Tơi làm như
vậy vì nghĩ rằng người biên soạn có thể được phép lược đi những điều chưa phù
hợp hoặc không phù hợp với bối cảnh lịch sử - cụ thể. Và chỉ được phép như
vậy thôi chứ không được phép<i>, </i>thêm chữ, thêm câu, thêm ý vào nguyên tác<i>. </i>Tôi
đã giữ vững nguyên tắc ấy khi biên soạn <i>Hoài Thanh toàn tập. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

<b> </b>


<b>“HỒI THANH BÌNH TH</b>

<b>Ơ</b>

<b> VÀ NĨI CHUY</b>

<b>Ệ</b>

<b>N TH</b>

<b>Ơ</b>

<b>”* </b>



<b>(Trích “</b>Lời giới thiệu” in ở đầu cuốn sách)


Hoài Thanh (1909 - 1982) là một trong những nhà nghiên phê bình văn
học hàng đầu của văn học hiện đại Việt Nam.


... Cuộc đời của Hoài Thanh từ thuở thiếu thời cho đến lúc trái tim ngừng
đập là một chuỗi dài những cuộc tìm kiếm đầy thích thú, mê say vẻ đẹp của văn


chương, đặc biệt là thơ. Khơng ít vàng ngọc của thơ ẩn trong lớp bụi thời gian
hoặc trong các mạch chìm nổi của cuộc đời được Hồi Thanh phát hiện, khám
phá để rồi với nghệ thuật bình thơ tài hoa , Hồi Thanh đã làm tỏa sáng cái hay,
cái đẹp cửa thơ và tâm hồn thanh khiết của các thế hệ nhà thơ xuất sắc trong
nhiều thời đại của đất nước, dân tộc ta từ cổ chí kim.


Tác phẩm gây tiếng vang lớn trong công chúng đầu tiên của Hồi Thanh
là <b>Thi nhân Việt Nam</b>. Đó là cơng trình tổng kết một cách sâu sắc, chuẩn mực
về phong trào Thơ mới 1932 - 1941. Tác phẩm được viết bằng một giọng văn
đầy xúc cảm, trí tuệ, có sức khái qt, tính lý luận sắc sảo cùng với những lời
bình thơ duyên dáng, ý nhị về các nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới thời
bấy giờ. Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, bạn đọc đã nhận xét ông là “nhà thơ
phê bình”(1)1 là nhà phê bình "đã mang được vào trang viết những phẩm chất của
một nghệ sĩ "làm say đắm các nhà thơ"(2),v.v. Nhà tllơ Huy Cận cho rằng Hoài




1<sub>(l) Thiếu Mai, </sub><i><sub>Phê bình th</sub><sub>ơ</sub><sub> hay t</sub><sub>ự</sub><sub> phê bình, </sub></i><sub>trong cuốn </sub><i><sub>Hoài Thanh và Thi </sub></i>


<i>nhân Việt Nam, </i>NXB Hội Nhà văn, H., 1995, tr. 68.


(2) Anh Ngọc. <i>Nhà phê bình làm say đắm cácnhà thơ</i>trong cuốn Hồi Thanh <i>với khát vọng </i>
<i>Chân Thiện Mỹ, </i>Từ Sơn và Phan Hồng Giang biên soạn, NXB Hội Nhà văn, H., 20OO, tr.
243.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

Thanh là "nhà bình luận thơ tài hoa của cả một thời", “ một nhà bình luận văn
chương khơng tiền khống hậu hiềm thấy trong văn học thế giới”(3). Nhà Văn
Vũ Tú Nam nhận xét Hoài Thanh là một con người tài hoa, rất tài hoa, và hêt
mực trumg thực cho đến tận ngày cuối cùng đối với thơ và đối với đời”(4)<sub>. Còn </sub>



nhiều, rất nhiều đánh giá đầy trân trọng và yêu mến đối với Hoài Thanh.


Từ sau cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, tâm hồn và ngịi bút của Hồi
Thanh như được tiếp thêm nguồn năng lượng mới mạnh mẽ giúp ông sáng tạo
thêm nhiều tác phẩm phê bình văn học - chủ yếu vẫn là những tác phẩm phê
bình thơ, có giá trị toả sáng trong nền văn học cách mạng, kháng chiến và xây
dựng xã hội mới ở thời đại Hồ Chí Minh. Các tác phẩm : Có một nền văn hoá
Việt Nam . Quyền sống của con người trong "Truyện Kiều” của Nguyễn Du,
Nói chuyện thơ kháng chiến, Phê bình và tiểu luận (ba tập), Chuyện thơ..., v.v.
là những tác phẩm được công chúng văn học đón nhận nồng nhiệt. Riêng đối với
học sinh, sinh viên và giáo viên ở nhà trường từ cấp học phổ thông đền bậc đại
học và cả sau đại học, những tác phẩm của Hoài Thanh ngày càng trở lên gần
gũi, thân thiết.


Năm 2000, Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước truy tặng Hoài Thanh Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật cho cụm tác phẩm xuất sắc của
ơng: Nói chuyện thơ kháng chiến, Phê bình và tiểu luận (ba tập) và Thi nhân
Việt Nam. Giải thưởng cao quý nhất về văn học và nghệ thuật của Nhà nước
dành cho Hoài Thanh là một sự khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn, xứng với đóng
góp to lớn của ông đối với nền văn học dân tộc hiện đại Việt Nam


*


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

Thỉnh thoảng có nói đến cái dở là cũng cốt cho nổi cái hay mà thôi. Chứ
dở thì giữa đời thiếu gì mà phải đi tìm trong thơ!. Cũng trong Thi nhân Việt
Nam khi bình về thơ Anh Thơ, Hoài Thanh đưa ra một quan điểm, mới đọc
tưởng như có điều gì “thần bí:. “<i>Thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi </i>
<i>mộng, mặt đất với các vì sao. Thơ khơng cốt tả mà cốt gợi, gợi cảnh cũng như</i>
<i>gợi tình”.</i> Nhưng ngẫm kỹ lại, ta thấy Hoài Thanh đã nắm bắt được cái thần của
thơ. Thơ hay, đương nhiên. Vì thơ dở thì làm gì có thần! Về sau này, năm 1970,


trong Phê bình và tiểu luận, tập III, Hoài Thanh khi viết Một vài suy nghĩvề thơ,
đã nói rõ hơn quan điểm về sự say mê vẻ đẹp trong các bài thơ hay, một quan
điểm chi phối suốt sự nghiệp bình thơ, giảng thơ và nói chuyện thơ của ơng:
“lấy hồn tơi để hiểu hồn người”. Hồi Thanh viết: “Thích một bài thơ, theo tơi
nghĩ, trước hết là thích một cái nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một
cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người”.


Hơn năm mươi năm trong sự nghiệp bình thơ, giảng thơ nói chuyện thơ,
Hồi Thanh đều xuất phát từ quan điểm cơ bản ấy. Chinh vì vậy đã có nhiều thế
hệ học sinh, sinh viên ở các trường từ trung học đến đại học, nhiều bạn yêu thơ
ở ngồi đời và khơng ít các thế hệ nhà thơ đã "mê" Hồi Thanh giảng thơ, bình
thơ, nói chuyện thơ. Hấp lực chủ yếu Hoài Thanh tạo ra cho cơng chúng là do
ơng đã khổ cơng tìm kiếm trong hàng vạn, hàng vài chục vạn bài thơ dài, ngắn
của hàng ngàn người làm thơ từ cổ chí kim những bài thơ hay, những nhà thơ
xuất sắc để bình luận về cái hay, cái đẹp, những hồn thơ đẹp trong nền thơ ca
của dân tộc. Trong Thi nhân Việt Nam, Hồi Thanh có lần tâm sự : “ Lắm khi
xem một trăm bài thơ, chỉ có một bài trích được. Tơi đã đọc tất cả một vạn bài
thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở”. Chợt nghĩ trong tình hình người đọc
than phiền rằng hiện nay đang có tình trạng “lạm phát” thơ… xồng xồng và
khó đọc, nếu Hồi Thanh cịn sống, để tìm được một bài thơ hay liệu ông phải
cất công đọc bao nhiêu bài?


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<i>chuyệnbình thơ</i>” đăng trên <i>Tạp chí Văn học</i> số 6 năm 1979, Hoài Thanh đã nêu
ra một số điểm cần thiết trong cơng việc của người bình thơ: cần trau dồi thường
xuyên vốn sống, vốn hiểu biết về cuộc đời, về văn hoá dân tộc và thế giới cần
tìm hiểu kỹ tác giả và hồn cảnh ra đời của bài thơ; cần nắm vững ngôn ngữ thơ
và tiếng Việt; cần có sự đồng điệu giữa người bình thơ với cơng chúng, v.v.
Hồi Thanh đặc biệt nhấn mạnh việc trau dồi tình cảm đúng, tình cảm đẹp, nói
một cách khác, người bình thơ phải thực sự cùng hoà một nhịp với điệu tâm
luồn cao đẹp, trong sáng của bài thơ và nhà thơ. Rất tiếc trong khuôn khổ bài


viết này tôi không đủ điều kiện để làm rõ cái hay, cái hấp dẫn trong nghệ thuật
bình và nói chuyện thơ của Hồi Thanh. Với một số bài trích theo giới hạn của
chương trình dạy và học ở trường phổ thông trong tuyển tập này, tôi hy vọng và
tin rằng bạn đọc sẽ thấy rõ được những nét cơ bản nhất trong nghệ thuật bình
thơ tài hoa và chuẩn mực của Hoài Thanh.


*


Ngồi bài “<i><b>M</b><b>ộ</b><b>t </b><b>đ</b><b>ơi </b><b>đ</b><b>i</b><b>ề</b><b>u tâm s</b><b>ự</b><b> trên câu chuy</b><b>ệ</b><b>n bình th</b><b>ơ</b></i>” của Hồi
Thanh đặt ngay trước “phần một”, cuốn sách được cấu tạo theo ba phần chính:


<b>- </b><i>Phần một</i><b>: Trân trọng vốn xưa</b>. Phần này người biên soạn trích tuyển
các bài viết, bài giảng (ở đại học) về các tác giả Nguyễn Trái, Nguyễn Du, Đoàn
Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiềul, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu..


<b>- </b><i>Phần hai</i><b>: Một thời đại trong thi ca.</b> Phần này chủ yếu trích từ tác
phẩm nổi tiếng của Hoài Thanh - <b>Thi nhân Việt Nam</b>. Chúng tơi tuyển chọn
trọn vẹn lời bình của Hồi Thanh về mười sáu tác giả (trong đó có Tản Đà là
gạch nối giữa hai thời kỳ cũ - mới), (còn lại là mười lăm gương mặt rất tiêu biểu
cho phong trào Thơ mới như Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Bính,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

Tên sách là <b>Hồi Thanh - Bình thơ và nói chuyện thơ</b> nhưng chúng tơi
vẫn tuyển lời bình của Hồi Thanh về hai tác phẩm Đại cáo bình Ngơ của
Nguyễn Trãi và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộ<b>c</b> của Nguyễn Đinh Chiếu vì hai tác
phẩm này rất giàu chất thơ và cũng là hai tấc phẩm được trích học trong nhà
trường phổ thông.


Hy vọng cuốn sách này có thể giúp ích được một cách thiết thực cho
việc dạy và học văn hiện nay trong nhà trường phổ thông. Mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn.



H à N<i>ội, tháng 10- 2007 </i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

<b>HOÀI THANH - V</b>

<b>Ớ</b>

<b>I KHÁT V</b>

<b>Ọ</b>

<b>NG </b>


<b>CHÂN - THI</b>

<b>Ệ</b>

<b>N - M</b>

<b>Ỹ</b>



(Lời kết thúc <i>cuộc hội thảo” Hoài Thanh </i><b>- </b><i><b>cu</b><b>ộ</b><b>c </b><b>đờ</b><b>i và s</b><b>ụ</b><b> nghi</b><b>ệ</b><b>p" nhân ký </b></i>
<i>niệm 90 năm sinh nhà văn Hoài Thanh (1909 </i>– <i>1999</i>)


Trước hết cho phép tơi tỏ lịng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành
của Ban tổ chức hội thảo và gia đình nhà văn Hồi Thanh tới q vị lãnh đạo,
các vị khách quý, các bác, các chú, các chị, các anh đã tới tham dự và đọc tham
luận tại cuộc hội thảo với sự quan tâm đầy nhiệt tình đối với sự nghiệp văn học
dân tộc ta trong thế kỷ 20 khi chúng ta đã đi đến cột mốc cuối cùng của thế kỷ
hôm nay-thông qua cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn, nhà văn hoá lớn, nhà
nghiên cứu, lý luận phê bình văn học xuất sắc của văn học Việt Nam thế kỷ 20,
một chiến sĩ ưu tú của Đảng trên mặt trận văn hóa hơn nữa thế kỷ qua là nhà văn
Hoài Thanh.


Thưa quý vị,


Ban tổ chức đã nhận được 27 bản tham luận. Trong cuộc hội thảo này, 11
bản tham luận đã được đọc. Do thời gian bị hạn chế, còn 16 bản tham luận chưa
đọc được. Ban tổ chức thành thật xin lỗi các tác giả. Chúng tôi hy vọng sắp tới
các báo, tạp chí và các phương tiện thơng tin đại chúng sẽ đăng tải đầy đủ cả 27
bản tham luận đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề cần nhìn nhận thêm hoặc
đánh giá lại trong cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Hoài Thanh. Chúng tôi
cũng hy vọng vào một dịp nào đó sẽ ra mắt bạn đọc một tập sách gồm tất cả


nhưng bài viết và cơng trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Hoài
Thanh.


Trong phạm vi lời kết thúc cuộc hội thảo, xin phép q vị cho tơi được
tóm lược lại, chắc chắn là chưa đầy đủ - một vài nội dung chủ yếu đã đề cập
trong các bản tham luận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

tham luận đều tập trung vào ba nội dung chủ yếu là: con người, cuộc đời, nhân
cách văn hóa; đánh giá sự nghiệp văn học của Hồi Thanh; nhìn nhận lại giá trị
của <i>Thi nhân Việt Nam, </i>nhìn nhân lại cuộc tranh luận nghệ thuật hồi 1935 -
1936. Có một số tác giả đề cập cả ba hoặc hai trong ba nội dung vừa kể với độ
đậm nhạt khác nhau, nhưng hầu hết các tác giả đều hướng sự nghiên cứu, quan
sát của mình vào một nội dung nhất định.


Thơng qua ký ức, hồi ức về các kỷ niệm trong thời gian sống, làm việc
hoặc tiếp xúc với Hoài Thanh các tác giả Hoài Chân, Vũ Cao, Vũ Tú Nam, Lê
Minh, Trần Bảng, Vũ Đình Phịng, Phan Trọng Luận, Hồng Diệu... đã kể lại cho
chúng ta nghe những điều cảm động khó qn về “người bạn”, “người đồng
chí", "người thầy" , về một "con người tài hoa, trung thực, giàu tình cảm"<i>... </i>Các
tác giả đều chung nhận xét: đằng sau cái dáng cao gầy tóc húi cua, ăn mặc khắc
khổ, dáng vẻ trầm ngâm, ít nói là một Hoài Thanh đằm thắm, tâm hồn rộng mở,
cao đẹp; một tấm lòng nhân hậu, chân thành, trung thực với bạn bè, đồng chí,
người thân và rộng hơn, với tất cả mọi người. Phan Trọng Luận đã tìm thấy ở
Hồi Thanh: <i>"Con người. ấy khơng chỉ tài hoa về văn chương mà cịn tốt lên vẻ</i>
<i>đẹp của một nhân cách văn hóa kết hợp được giữa khát vọng đối mới lý tưởng </i>
<i>chính trị thẩm mỹ với phong độ cao thượng hiền hòa theo nếp sống nho phong". </i>


Vũ Tú Nam hướng về hương hồn Hoài Thanh với những lời trân trọng:
“<i>Ký niệm 90 năm ngày sinh của ơng, ớ thế giới bên kia. Hồi Thanh có thể hồn </i>
<i>tồn n tâm về sụ</i> <i>đánh giáơng của hậu thế. Hồi Thanh là một con người tài </i>


<i>hoa, rất tài hoa, và hết sức trung thực, trung thực cho đến tận những ngày cuối </i>
<i>cùng đối với Thơ và đối với Đời”. </i>


Nghiên cứu, đánh giá sự nghiệp văn học của Hồi Thanh có loạt bài tham
luận của các tác giả: Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Khải, Nguyễn Văn Hạnh,
Nguyễn Đình Chú, Phong Lê, Huỳnh Khái Vinh, Hoàng Ngọc Hiến, Trường
Lưu, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Bao, Ngô Văn Phú, Chu Hảo, Trần Mạnh Hảo,
Vũ Quần Phương, Anh Ngọc, Phạm Xuân Nguyên, Trần Hạnh Mai, Nguyễn <i>Thị</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

Đánh giá sự nghiệp văn học của Hồi Thanh trước tháng Tám 1945 khơng
thể khơng nhìn nhận lại quan điểm nghệ thuật của Hồi Thanh thể hiện qua cuộc
tranh luận nghệ thuật hồi 1935 -1936, qua cuốn <i>Văn chương và hành động </i>và


<i>Thi nhân Việt Nam. </i>


Chúng ta đã thích thú đọc lại bài báo "<i>Kiến giải thêm về Hoài Thanh</i>"
(đăng trên <i>Văn Nghệ</i> số ra ngày 8 - 5 - 1999) thay cho bản tham luận của nhà
văn Nguyễn Khải. Thích thú vì chúng ta đồng tình với nhận xét: Hoài Thanh "là
nhà lý luận văn học theo quan điểm mác xít rồi, mà cịn hơi máy móc nữa" sau
khi Nguyễn Khải trích dẫn một số bài viết của Hoài Thanh trên <i>'Tiểu thuyết thứ</i>
<i>bảy </i>từ trước khi Hoài Thanh tham gia cuộc tranh luận "nghệ thuật <i>vị...". </i>Trong
thư ngày 24/5/1999 gửi cho một thành viên của Ban tổ chức hội thảo Nguyễn
Khải đã viết: "<i>Tôi rất ngạc nhiên vả cũng rất thích thú nữa khi nhận ra qua các </i>
<i>bài viết .gốc là nhà phê bình Hồi Thanh suốt một đời khơng hề thay đổi chủ</i>
<i>kiến của mình : ấy là văn chương phải gắn liền với nhân sinh, với người lao </i>
<i>động. Ơng cịn hy vọng từ trong tầng lớp những người lao động sẽ có những văn </i>
<i>sĩ của mình để bộc lộ</i> <i>đợc đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của giới mình. Sự phát </i>
<i>hiện ấy thực lã bất ngờ với tôi, vì trước đây tơi vẫn nghĩ ơng là người chủ xướng </i>
<i>nghệ thuật vị nghệ thuật</i>".



</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

Cùng cách tiếp cận như Nguyễn Bao, nhà lý luận phê bình trẻ Phạm Xuân
Nguyên tự đặt cho mình nhiệm vụ "với <i>thái độ khoa học nghiêm túc, tôi thấy đã </i>
<i>đến lúc phái "minh oan </i>" <i>cho Hoài Thanh". </i>


Vũ Quần Phương sau khi trích dẫn nhiều đoạn trong “<i>Văn chương và </i>
<i>hành động” </i>(l)2<sub> đã đi </sub><sub>đến khẳng định "</sub><i><sub>M</sub><sub>ộ</sub><sub>t ng</sub><sub>ườ</sub><sub>i v</sub><sub>ị</sub><sub> ngh</sub><sub>ệ</sub><sub> thu</sub><sub>ậ</sub><sub>t khơng th</sub><sub>ể</sub><sub> có t</sub><sub>ư</sub></i>
<i>tưởng ấy". </i>


Hình như muốn "chiêu tuyết" cho hương hồn Hồi Thanh, giáo sư
Nguyễn Đình Chú trong tham luận "Với <i>Hồi Thanh tiên sinh: đơi điều tơi </i>
<i>muốn nói" </i>đã nhận xét khá xác đáng kiểu tư duy cầu tính trong phương pháp phè
bình văn học của Hồi Thanh đã tạo ra các tác phẩm xuất sắc của ông. Nguyễn
Đình Chú đã có những kiến giải khá sâu sắc về con đường đầy trắc trở, chông
gai nhưng cũng rất say lịng người của Hồi Thanh khi khẳng định cái <i>Tôi </i>- <i>cá </i>
<i>thể</i> trước Cách mạng và khi toàn tâm toàn ý trở về với cài <i>Ta </i>sau Cách mạng.
Trên con đường này Hoài Thanh đã đi đến những đỉnh vinh quang nhưng đồng
thời ông cũng lâm vào trạng thái bi kịch với những mặc cảm tội lỗi và bao nỗi
nhọc nhằn theo ông đến cuối đời khiến ông đã hơn một lần thành thật chối bỏ
những đứa con tinh thần khôi ngô tuấn tú của mình.


Một trong những đứa con tinh thần ấy là <i>Thi nhân Việt Nam. </i>


Năm 1992, nhân kỷ niệm 50 năm <i>Thi nhân Việt Nam ra </i>đời và 10 năm
ngày mất của Hoài Thanh, một cuộc hội thảo khoa học về <i>Hồi Thanh và</i> <i>Thì </i>
<i>nhân Việt Nam </i>do Hội Nhà văn và Viện văn học tổ chức đã giúp chúng ta nhìn
nhận và khẳng định những giá trì đích thực của <i>Thi nhân Việt Nam </i>- một tác
phẩm được công chúng và thời gian xếp vào hàng tác phẩm xuất sắc của văn học
hiện đại Việt Nam thế kỷ 20 và tác giả của nó được cơng nhận là một nhà phê
bình văn học tài hoa xuất chúng.





(1)<i> Hoài Thanh viết trong </i><b>Văn chương và hành động</b>: <i>"Chúng tôi nhận r</i> ằ<i>ng trước tình thế</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

Trong cuộc hội thảo nhiều tham luận đã trở lại với công việc tiếp tục
khẳng định giá trị lớn lao của <i>Thí nhân Việt Nam </i>và tài năng bậc thầy của Hoài
Thanh trong phê bình văn học.


Nhà thơ Huy Cận cho rằng: “<i>với</i> Thi nhân Việt Nam, <i>Hồi Thanh có biệt </i>
<i>tài tổng kết hay và chính xác một phong trào thơđang diễn ra là</i> Thơ mới<i>. Đó là </i>
<i>một nhà bình luận văn chương "khơng tiền khống hậu” hiếm thấy trong văn </i>
<i>học thế giới”. </i>


Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh đã tìm thấy ở Hồi Thanh trong Thi nhân
Việt Nam<i>: "... có một niềm tin tưởng thực sự rất đáng trân trọng và một tấm </i>
<i>lịng có tầm nhân bản đúng đắn của nó". </i>


Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh bàn về phương pháp tiếp cận văn chương của
tác giả <i>Thi nhân Việt Nam </i>và đi đến kết luận: "<i>ởông quan niệm đã hịa làm một </i>
<i>với sở thích, thành cảm xúc tự nhiên của tâm trí... Ở ơng, phê bình gắn liền với </i>
<i>lý luận, khoa học kết hợp với nghệ thuật". </i>Cùng mạch suy nghĩ trên, giáo sư
Huỳnh Khái Vinh đã nhận xét bình thơ của Hồi Thanh từ <i>Thi nhân Việt Nam</i>


cho đến thơ Cách mạng đã là: "người <i>đầu tiên vạch ra đường viền và góp phần </i>
<i>quan trọng vẽđường viền của bức tranh thơ hiện đại </i>".


Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đọc lại <i>Thi nhân Việt Nam</i> <i>"bàng hồng nhận </i>
<i>thấy trình độ phê bình của ta hiện nay kém hơn Hồi Thanh thời bấy giờ". </i>Nhà
thơ Anh Ngọc cho rằng với <i>Thi nhân Việt Nam, </i>Hồi Thanh là "<i>nhà</i> <i>phê bình </i>
<i>làm say đắm các nhà thơ" </i>và anh kết luận:<i> phong trào Thơ mới đã giúp Hoài </i>


<i>Thanh trớ thành Hồi Thanh, và đến </i>lượt <i>mình, Hồi Thanh lại làm rạng danh </i>
<i>cho phong trào Thơ</i>mới, <i>để rồi nhu một cặp lương duyên Trời định cá hai cùng </i>
<i>dắt tay nhau đi vào cõi bất tử của lịch sứ văn học nước nhà”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

kháng chiến v.v. . <i>. </i>Nhiều bản tham luận đã đánh giá cao các tác phẩm Hoài
Thanh viết sau tháng Tám 1945 (chiếm hơn 5/6 tổng số trang trong <i>Hoài Thanh </i>


toàn <i>tập, </i>bốn tập với tổng độ dày xấp xỉ 5000 trang, Nhà xuất bản văn<i> học, </i>


tháng 7/1999, <i>TừSơn </i>sưu tầm và biên soạn).


Tham luận của giáo sư Phong Lê đã cung cấp cho chúng ta một cách nhìn
tồn diện và cơng bằng về sự nghiệp văn học của Hoài Thanh trong suốt một
chặng đường dài hơn nửa thế kỷ đi tìm cái Đẹp của Văn chương (và cũng là của
cuộc Đời).


Phong Lê kết luận: <i>"ơng là người kiên trì đi tìm chân lý trong văn chương </i>


- <i>học thuật, chân lý đó trong thế ký 20 đầy những sự kiện, những biến động, </i>
<i>nhũng đổi thay, những cách mạng…là khơng </i>dễ <i>dàng tìm kiếm, và do vậy không </i>
<i>thể dứt điếm một lần. Với Hoài Thanh thật đúng cái định nghĩa chân lý, kề cả</i>
<i>chân lý trong văn chương học thuật là cá một q trình. Q trình của khách </i>
<i>quan thơng qua kinh nghiệm chủ quan. Một chủ quan không chút dễ dãi mà phải </i>
<i>bao trăn trớ kiếm tìm. Có điều cuối cùng trong kiếm tìm, Hồi Thanh đã khơng </i>
<i>tựđánh mất bản thân, và ông vẫn là ông”. </i>


Bài tham luận <i>"Từ Hoài Thanh đến ... Hoài Thanh" </i>của nhà thơ Trần
Mạnh Hảo cũng có một cái nhìn bao qt sự nghiệp văn học của Hồi Thanh.
Anh đã có cách nhìn khoa học và cơng bằng khi đánh giá các bước thăng trầm
trong sự nghiệp của Hoài Thanh và anh dứt khốt khẳng định: <i>"Hồi Thanh </i>-



</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

Sự nghiệp văn học của Hoài Thanh phản ánh trung thành lẽ sống và khát
vọng cao đẹp trong cuộc đời của ông. Văn là người. Nhiều tác giả tham luận đã
tìm được chân dung đích thực của Hồi Thanh qua các tác phẩm của ơng. Đó là
con người có “một tâm hồn thơ nhân bản" (Trường Lưu), là con người "<i>nghiêm </i>
<i>túc, thẳng thắn, chân tình, tâm huyết và cũng hóm ngầm"</i> (Ngơ Văn Phú) và,
điều quan trọng nhất trong chân dung Hoài Thanh là con người của "<i>khát vọng </i>
<i>thành thực</i>. Theo Phạm Xuân Nguyên, <i>khát vọng thành thực </i>là nét cơ bản nhất
trong con người và sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh: <i>"khát vọng thành </i>
<i>thực đã chắp cánh cho sáng tạo của họ (các nhà thơ mới </i>- T.S.),<i> quan trọng hơn </i>
<i>đã giúp họ sống. Hoài Thanh đã sống cái thành thực đó của thời đại mình, với </i>
<i>đủ sự hay dớ vinh nhục, hệ lụy đa mang do từ thành thực. Thành thực là tin yêu </i>
<i>con người”</i> <i>. </i>Chúng ta đồng tình với Phạm Xuân Nguyên và nói thêm: cao hơn
sự thành thực, Hồi Thanh đã sống và viết hồn tồn trung thực. Đó là một con
người trung thực suốt đời cả lúc đúng lẫn lúc sai. Bời vì ơng u CON NGƯỜI,
u CUỘC SỐNG trong sự cố gắng không ngừng để vươn tới Chân-Thiện,Mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

<b>HOÀI THANH V</b>

<b>Ớ</b>

<b>I QUÊ H</b>

<b>ƯƠ</b>

<b>NG X</b>

<b>Ứ</b>

<b> NGH</b>

<b>Ệ</b>



Tơi cịn nhớ hồi tơi mới học những năm đầu của bậc tiểu học ở Huế, nhà
trường có quy định: học sinh phải đề tên, năm sinh, quê quán ở “ ê-ti -két” (nhãn
vở). Ở mục quê quán, cha tôi chỉ cho tôi đề “ Làng Kim Cẩm, tổng Kim
Nguyên, , huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An .Địa danh ấy là quê nội của tôi, nơi
cha tơi cất tiếng khóc chào đời. Sau này làng q ấy cịn có tên gọi là thơn
Hồng Các. Hiện nay là xóm 22, xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc.


Trong bài bút ký “Về làng”(1) Hoài Thanh nhớ lại ấn tượng từ xa xưa về
làng quê của mình: “ <i> ngày xưa, tơi vẫn nghĩ tỉnh tôi vào loại nghèo nhất trong </i>
<i>cả nước, huyện tôi vào loại nghèo nhất tình và làng tơi lại vào loại nghèo nhất </i>
<i>huyện” </i>



Trước Cách mạng tháng Tám rồi tiếp tục đến là hai cuộc chiến tranh cùng
với bao biến thiên lịch sử khác vùng đất ấy có lẽ vẫn bị xếp cuối bảng của sự đói
nghèo.


Nhưng cái đói nghèo khơng khi nào xố đi, làm tan biến đi ý chí vượt qua
các thử thách khốc liệt của đất trời và lịch sử, không thể làm cho con người nơi
đây cúi đầu xuống cam chịu số phận thiệt thòi. Ngược lại, con người nơi đây đã
ngẩng cao đầu đầy khí phách xứ Nghệ, cống hiến cho đất nước, cho lịch sử, cho
văn hố dân tộc khơng ít anh hùng, liệt sĩ, hiền tài…được nhiều thế hệ con
người Việt Nam ghi nhớ.


“ <i>Đầu thế kỷ này ( thế kỷ 20- T.S) có những cơn gió Lào trắng đêm, trắng </i>
<i>tóc, liên tiếp ném một cách vơ hồi kỳ trận những đồn ngựa chiến hung hăng </i>
<i>như ngựa Mơng cổ trên những cánh đồng làng nung nấu trên 100 độ và đốt </i>
<i>cháy các nhà ngói cũng như nhà tranh, và những đêm ấy thì người ơng nội của </i>
<i>chúng tơi và Hồi Thanh từ sau phong trào Văn thân đổ vỡ lại suốt đêm thắp </i>
<i>hương viết nốt tập</i> Nam sử diễn ca ( Thử đốt lò hương cho đến sáng - Để xem
mưa gió đến bao giờ?)(2).


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

<i>sẵn là sự kết hợp…Và khi ấy, những người mẹ và người vợ Việt Nam đã kẻ trước </i>
<i>người sau đứng lên đánh bại quân man di kia ( </i>bọn xâm lược - T. S) <i>ở những </i>
<i>chận triến Thermophyles mãi mãi anh hùng.(3) </i>


Quê hương đã ban cho Hoài Thanh “<i> một số vốn riêng, rất đặc biệt như</i>
<i>giàu mọi hiểu biết về vườn ruộng xóm làng, thành thạo cái nghề</i> <i>đánh chim, thả</i>
<i>diều sáo, tách từng chân rạ</i> <i>để bắt cá rô, trèo cây lấy tổ chim, đương trưa hè </i>
<i>vào các bờ ao sục sạo tìm hoa dẻ và cuối cùng xin cho phép gọi là hạt vốn của </i>
<i>thơđể sau này nếu gặp đất tốt đem gieo thì cũng có thể mong vun xới thành thơ</i>
<i>được: </i> Chị An ơi! Chị có thấy gì khơng - Chị chỉ thấy mặt trời lầm bụi, bãi cỏ


xanh rì mà thơi”.


*


<i>Như thế hai đứa tôi. </i>
<i>Như thế Hoài Thanh. </i>


<i>Như thế những đứa trẻ ra đời trong những năm quốc phá gia vong (4). </i>


Hoài Thanh gắn bó với làng quê cho đến năm bước vào tuổii mười chín.
Thời tuổi thơ, Hồi Thanh ít nhiều có tham gia cơng việc ruộng vườn khi cịn
học trường làng. Đến khí học lên bậc cao đẳng tiểu học ở Vinh ông phải vừa làm
gia sư, vừa mở lớp học hè dạy thêm để tự nuôi mình và giúp đỡ gia đình. Năm
1928 ơng ra Hà Nội học trường Bưởi ( Bây giờ là trường Chu Văn An - T.S).


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

...(7)


Hoài Thanh làm thợ sửa mo rát rồi dạy học tư, viết báo, viết “ Văn
chương và hành động “ viết “ Thi nhân Việt Nam”suốt hơn 15 năm ở Huế. Cuối
năm 1945, theo một sắc lệnh của chủ tịch Hồ Chí Minh (ký ngày 10-10-1945) về
việc thành lập trường Đại học văn khoa, Hoài Thanh được điều ra Hà nội dạy
đại học. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hoài Thanh từ Việt Băc về quê đưa vợ
con đi Việt Bắc cho đến 1955 mới trở về Hà Nội nhận các nhiệm vụ mới: Vụ
trưởng vụ Nghệ thuật, giáo sư trường Đại học sư phạm và Tổng hợp, Viện phó
viên văn học, tổng thư ký Hội liên hiệp văn học nghệ thuật, chủ nhiệm tuần báo
Văn nghệ…Năm tháng trơi qua…nhiều lần Hồi Thanh chỉ được ghé qua làng
quê chốc lát, dài là một đơi ngày, có khi chỉ là một vài giờ rồi phải đi ngay vì
cơng việc. Nỗi nhớ làng quê vẫn đau đáu trong ông. Mãi đến năm 1961, ngót ba
mươi năm Hồi Thanh mới có dịp thật sự về làng một thời gian. Cảm xúc và ấn
tượng chuyến và làng năm ấy đã được Hoài Thanh ghi lại đậm nét trong bài ký:


“ về làng” đăng lần đầu trên báo <i>Thống nhất</i> số 224 ra ngày 15-9-1961. Hoài
Thanh xúc động viết “ <i>Chân tôi bước trên con đường làng cát mịn mà nhưđang </i>
<i>đi ngược về quá khứ, một quá khứ xa thăm thẳm khơng những vì năm tháng mà </i>
<i>cịn vì những thay đổi lớn đã xảy ra. </i>


<i>Xa xa đã trông thấy những ngọn tre lơ thơ</i> <i>đàng sau khoảng vườn cũ. </i>
<i>Những ngọn tre ấy thân yêu biết mấy đối với tôi. Ngày xưa, những lần đầu tôi </i>
<i>phải xa nhà lên tỉnh học, khi ngoảnh lại nhìn thấy mấy ngọn tre đu đưa, nước </i>
<i>mắt tôi cứ trào ra, khơng sao cầm lại được. Trong đầu óc non trẻ của tôi hồi </i>
<i>bấy giờ, giữa cuộc sống tràn đầy lạnh nhạt, gian dối và ác độc, chỉ nơi đây là có </i>
<i>tình thương. Giờđây, cuộc sống đã thay đổi và cách tơi nhìn cuộc sống cũng đã </i>
<i>thay đổi, nhưng mấy ngọn tre kia trong lịng tơi vẫn có một vị trí riêng. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

<i>lại thành những chiếc cườm tím, nhớ mấy bụi hồng tinh ở sau nhà thường có </i>
<i>chim chắt làm tổ nhớ cái giường tre nơi mẹ tôi mất, cái bàn đọc sách của thầy </i>
<i>tôi, nhớ bao nhiêu nét mặt hiền lành, tội nghiệp”. </i>


Về lại giữa làng quê năm ấy, Hoài Thanh “ <i>Tự nhiên tơi lại nói giọng của </i>
<i>q tơi, một giọng nói rất khó hiểu với địa phương khác vì chẳng những khơng </i>
<i>phân biệt nặng ngã, hỏi sắc mà mới nghe tựa hồ như khơng có dấu nào phân </i>
<i>biệt với dấu nào. Nhưng tơi thì nghe lại thấy nhẹ nhẹ thanh thanh</i>”.


Trong bài ký, Hoài Thanh ghi lại khá đậm nét những con người,c ảnh đời
cơ cực cũ ở làng quê thuở xa xưa với những cảnh người nghèo chết đói, cảnh
bọn cơn đồ đi địi nợ, cảnh Tây đoan, Tây mật thám, lính lê dương hành hạ dân
“dữ hơn cả đàn chó nhà giàu’. Cùng với những cảnh thảm thương đó là cả một
thế giới vơ hình đầy những thánh thần ma quái đè nặng lên cuộc sống của những
con người hiền lanh, bất lực trước thời thế. Hoài Thanh viết: “ <i>những bóng đen </i>
<i>kia đã nặng đè lên cả một đoạn đời tôi, nhất là đã nặng đè lên sự suy nghĩ của </i>
<i>tôi trong thời niên thiếu. Cho nên mặc dầu nhớ tiếc tuổi xuân, Trăm nghìn lần </i>


<i>tôi cũng không muốn trở về cuộc đời cũ… Nói rằng trên đường về q, tơi tưởng </i>
<i>nhưđang đi ngược về quá khứ, nhưng thật ra cũng bởi tôi vẫn cịn mang cả q </i>
<i>khứ trong mình. Nhận thức của tôi đã đổi thay trên nhiều mặt. Nhưng đối với </i>
<i>làng tôi, nhận thức của tôi cơ hồ vẫn y nguyên là nhận thức cũ. Có thể hình </i>
<i>dung như tơi đã ngủ ln một giấc ngủ ba mươi năm, nay bỗng tỉnh dậy thì cả</i>
<i>một cuộc sống quanh mình đã hồn tồn đổi khác”. </i>


Hồi Thanh đã trân trọng ghi lại trong bài bút ký những thay đổi tốt đẹp
trong đời sống của làng q mình dẫu thời ấy cịn nhiều gian khó. Kết thúc bài
viết, Hoài Thanh sung sướng ghi lại xúc cảm dạt dào khi về làng quê thân yêu
cảu mình: “ <i>Cả cuộc sống tối tăm dày đặc trong hàng trăm năm, hơn nữa trong </i>
<i>hàng ngàn năm nay bỗng trở nên chan hoà ánh sáng. Chắc chắn là ở nhiều địa </i>
<i>phương khác, những thành tích chúng ta giành được còn lớn hơn nhiều. Nhưng </i>
<i>chưa bao giờ tôi cảm thấy sự nghiệp cách mạng kỳ diệu như khi tơi nhìn lại làng </i>
<i>tơi”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

hỏi: “ cây đa và đền Hội đâu rồi? “ Chắc không chờ tôi trả lời, ông sẽ dục tôi:
“Hai cha con ta đi vào nghĩa trang để thắp hương cho ông nội, tổ tiên, bà con
trong họ Nguyễn Đức, ông bác Nguyễn Đức Công (nhà ái quốc, tham gia sáng
lập Việt nam quang phục hội, bị chính quyền thực dân Pháp xử tử cùng với các
chí sĩ Trần hữu Lực ở trường bắn Bạch Mai Hà Nội năm 1916. Hai cụ được
chôn chung trong một mộ tại nghĩa trang họ Nguyễn Đức, chi cụ Hành tẩu. Cụ
Nguyễn Đức Công là thân sinh ông Nguyễn Đức Bính - TS) và em trai của con
là Nguyễn Đức Kiên nhé”. Tôi tin rằng sau khi thắp hương ở nghĩa trang dịng
họ, cha tơi sẽ ghé vào nhà thờ họ thắp hương và chắc chắn cha tơi sẽ địi đi ln
vào trong xóm để thăm nền nhà và mảnh vườn xưa, trò truyện cùng bà con cô
bác và không ngớt lời bày tỏ sự vui mừng, sung sướng, ngạc nhiên về sự đổi
mới mà ơng khơng thể hình dung được dịp ơng về làng hồi năm 1961.


<i>Láng Hạ, Hà Nội giữa tháng tư 2008 </i>



(<i>Đã đăng báo</i> : <b>Nghệ an cuối tuần</b><i>số ra ngày 18-5-2008</i>)


<b>CHÚ THÍCH: </b>


Tất cả các đoạn trích dẫn của c ác tác giả: Nguyễn Đức Bính (từ chú thích 2 đến chú thích 5)
Hồi Chân ( chú thích 6) và Hồi Thanh ( chú thích 1) trong bài viết này tơi đều rút ra từ
HỒI THANH TỒN TẬP (tập 3 và tập 4). Sách do Từ Sơn sưu tầm và biên soạn. Nhà xuất
bản văn học - Hà Nội 1999.


(1). Sdd. tập 3. tr.928
(2). Sdd. tập 4. tr.1035
(3). Sdd. tập 4. tr.1036-1037
(4). Sdd. tập 4. tr.1038
(5). Sdd. tập 4. tr.1042
(6). Sdd. tập 4. tr.1025


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

<i><b>Qua nh</b><b>ữ</b><b>ng bài vi</b><b>ế</b><b>t c</b><b>ủ</b><b>a Hoài Thanh trên báo Tràng An (Hu</b><b>ế</b><b>-1935-1936) </b></i>


<b>NG</b>

<b>Ạ</b>

<b>C NHIÊN: NGỊI BÚT TH</b>

<b>Ờ</b>

<b>I THANH NIÊN </b>



<b>C</b>

<b>Ủ</b>

<b>A HỒI THANH </b>



<b> TỪ SƠN </b>


Cách đây gần tám mươi năm, đầu năm 1930, Hoài Thanh đang học ở
trường Bưởi (trường phổ thông trung học Chu Văn An hiện nay) thì bị chính
quyền thực dân Pháp bắt giam ở Sở mật thám Hà Nội ( nay là trụ sở Sở công an
Hà nội) rồi bị giải về Vinh, giam ở nhà lao Vinh. Sau đó chúng kết án Hồi
Thanh sáu tháng tù treo và cho phép Hoài Thanh trở lại trường học.



Trở lại trường chưa được bao lâu Hoài Thanh lại bị đuổi học vì mật thám
Pháp khám ngăn tủ của ơng thấy ơng vẫn có sách chính trị chống đối chúng.


Bị đuổi học, Hoài Thanh ra ở trọ tại một quán cơm số nhà 32 Hàng Đồng.
Tại đây ông gặp Lưu Trọng Lư và một vài học sinh vừa bãi khóa ở Quốc học
Huế ra đang kiếm chỗ học tư. Hồi Thanh dạy các anh em đó học để có tiền tự
học đi thi tú tài Tây (vì đã bị đuổi học thì khơng được thi tú tài bản xứ).


Đỗ tú tài phần thứ nhất, Hoài Thanh được sự giới thiệu của một cây bút nổi
tiếng - nhà văn, nhà báo Ngô Tất Tố - ơng được nhận vào làm việc ở tồ soạn
báo <i>Phổ thơng</i>. Ngơ Tất Tố rất q mến Hồi Thanh. Trong cuốn <i>“ Phê bình </i>


Nho giáo<i> của Trần Trọng Kim”</i> Ngơ Tất Tố có lời đề tặng ở đầu sách:”<i>Tặng </i>
<i>Hoài Thanh- Nguyễn Đức Nguyên, một người trong sạch, có nghị lực trong lớp </i>
<i>thanh niên ngày nay”.</i> Có thể nói: Ngơ Tất Tố là người thầy quan trọng đầu tiên
dắt dẫn Hoài Thanh đi vào con đường văn chương, báo chí chân chính.


Những bài viết của Hoài Thanh và đồng sự trên tờ <i>Phổ thơng</i> ít nhiều đều
có tính chất đả kích chính quyền thực dân hồi bấy giờ nên thường bị kiểm duyệt
bỏ. Hoài Thanh và đồng sự bàn với chủ báo là Đặng Nguyên Quang ra thêm tờ


<i>Le Peuple</i> ( Nhân dân) mỗi tuần hai kỳ. Lúc bấy giờ, báo tiếng Pháp khơng bị
kiểm duyệt. Hồi Thanh và đồng sự tha hồ đả kích kẻ cầm quyền.Đây là tờ báo
đầu tiên bằng tiếng Pháp của người Việt Nam ở miền Bắc. Báo bán rất chạy. (
Tơi rất tiếc đã cất cơng nhiều lần đi tìm ở Thư viện Quốc gia nhưng Thư viện
khơng cịn lưu giữ được-T.S.).


<i>Le Peuple </i>ra được ba số, số 4 đang in thì có lệnh trục xuất Hồi Thanh và
Nguyễn Đức Bính (anh em con chú bác với Hoài Thanh cùng làm ở toà sọan).


Hai người bị bắt, giam ở Sở mật thám rồi bị giải về Vinh, đưa về quê nhà (xã
Nghi Trung, huyện Nghi Lộc ngày nay), giao cho lý trưởng quản thúc. Lúc bấy
giờ là cuối năm 1930. Hoài Thanh kể lại:


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

<i>quê tôi, hàng ngày chúng vẫn giết người khơng cần lý lẽ gì hết. Lại thêm nạn đói </i>
<i>đang hồnh hành. Tơi lên Vinh kiếm việc làm.”</i> (1)


Cuộc đời Hoài Thanh từ đấy rồi sẽ ra sao nếu khơng có cái buổi sáng đi
nhận việc làm cho một tên chủ lò gạch người Tây hồi bấy giờ?


Sáng hơm ấy, đúng hẹn, Hồi Thanh đi trên chiếc xe đạp cịng cọc của
mình từ q nhà lên thành phố Vinh để gặp chủ lò gạch nhận việc. Đi chưa được
nửa đường ( làng quê Hồi Thanh cách Vinh mười một cây số) thì xe bị xì lốp.
Hồi Thanh đến muộn. Viên chủ Tây cho Hoài Thanh một cái tát rõ đau và
mắng:” Buổi đầu nhận việc mà mày đến chậm, mày còn vác mặt đến gặp tao
làm gì?”. Hồi Thanh bị đuổi thẳng cổ và khơng được nói một lời thanh minh
cho lý do đến trễ.


Hoài Thanh lại bơ vơ đi tìm việc. Tên chánh mật thám Vinh Billet gọi ơng
đến gạ làm tay sai cho nó. Ơng một hai không nhận.


Một hôm đang lang thang trên đường phố Vinh, ông gặp ông Tôn Quang
Phiệt đang dọn đồ ra khỏi nhà một ông chủ người Hoa vì khơng muốn làm gia
sư ở đấy nữa, Ông Phiệt than phiền với Hoài Thanh rằng người chủ này đối xử
tàn tệ: coi ông như người ở. Đang bí tìm việc làm, Hồi Thanh đành cắn răng thế
chỗ ơng Tơn Quang Phiệt.


Ơng chủ người Hoa này là chủ khách sạn Cọng hòa ở Vinh. Hồi Thanh
làm gia sư ở đây khơng lâu. Một sự tình cờ, ơng Bùi Huy Tín, chủ nhà in Đắc
Lập ở Huế,có việc ghé qua, biết Hồi Thanh có bằng tú tài Tây bèn thương


lượng xin cho Hoài Thanh vào Huế làm thợ chữa mo-rát cho nhà in.. Lúc ấy là
năm 1931.


*


Trở lên là những điều tôi không mấy ngạc nhiên về một vài nét trong thời
thanh niên của thân phụ tơi: Hồi Thanh. Những điều ấy tôi thường được nghe
cha tôi kể lại hoặc đọc trong bản “Tự thuật” của ông dể lại mà tơi đã cho in
trong cuốn “ <i>Hồi Thanh-Di bút và di cảo”.</i>


Tơi thường tự cho mình là đã hiểu được nhiều về cha mình từ nhân cách,
tính tình đến tình cảm của ơng dành cho cho mọi người từ vợ con đến bạn bè,
cộng sự v.v...Tôi cũng tự cho rằng mình cũng đã tìm hiểu tương đối kỹ càng về
sự nghiệp văn chương của ông. Tôi đã dồn tâm sức suốt cả mười mấy năm trời
sau khi ông mất(3-1982) để sưu tầm và biên soạn bốn tập <i>“ Hoài thanh toàn </i>
<i>tập”</i>. Bộ sách ấy đã được nhà xuất bản Văn học cho in trong năm 1999- đúng
vào dịp kỷ niệm 90 năm sinh Hồi Thanh. Trong q trình sưu tầm và biên soạn
bộ sách tơi vẫn áy náy vì khơng sưu tầm được đầy đủ những bài báo, bài phê
bình văn chương Hồi Thanh đã đăng trên các báo, tạp chí hồi trước cách mạng
tháng Tám 1945.


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

gì. Sau ngày giải phóng Thủ đơ, nhiều lần cha mẹ tôi trực tiếp và nhờ một số
anh chị em đồng sự lục tìm ở thư viện Quốc gia và các thư viện khác ở nhiều nơi
nhưng kết quả không thu thập lại được bao nhiêu. Cha tơi thường nói với tơi
rằng ơng rất thích những bài ông đã cho đăng trên báo <i>Tràng An</i> và <i>La Gazette </i>
<i>de Hué</i> mà ông thường ký tên <i>Hoài Thanh, H.T</i>. và <i>Nhà Quê</i> hoặc <i>Le Nhà Quê</i>.
Đó là những bài viết trong thời gian từ đầu năm 1935 đến giữa năm 1936- khi
chính quyền Pháp cấm ông và bà Phan Thị Nga -vợ ông- không đuợc viết cho


<i>Tràng An</i> nữa.



Cha tơi thường nói ơng rất thích kiểu viết theo lối <i>notes</i> có nghĩa giống như
là <i>tùy bút</i> . Lối viết ấy cho phép người viết muốn ghi gì thì ghi, phóng bút mà
ghi, khơng cần phải tính tốn gì hết. Trên báo <i>Tràng An </i>và <i>La Gazette de Hué</i>


ông viết theo kiểu ấy và đã để cho ngịi bút của mình động đến mọi thứ chuyện
trên đời, trong xã hội mà người viết từng quan sát, nhận xét, suy nghĩ...mong sao
được chia sẻ với người đọc để cùng sống đẹp hơn, hay hơn,đúng hơn.


May sao, gần đây tôi đã tìm ra được hầu hết các bài viết của Hoài Thanh
trên báo <i>Tràng An</i> từ số 4 ra ngày 12-3-1935 đến số 130 ra ngày 9-6-1936.


<i>Tràng An</i> số 130 là số mà hai vợ chồng Hoài Thanh và Phan Thị Nga bị mật
thám Pháp cấm viết <i>Tràng An </i>từ đấy.


Có được sự may mắn này trước hết chúng tôi rất cám ơn nhà nghiên cứu
Lại Nguyên Ân trong quá trình tìm tư liệu trên báo chí trước 1945 đã phát hiện
ra Thư viện Quốc gia vẫn còn lưu giữ được gần trọn bộ <i>Tràng An </i>hai năm 1935
và 1936 mang ký hiệu J245. Ông Ân đã cung cấp cho tơi danh mục chủ yếu các
bài viết của Hồi Thanh và Phan thị Nga trên <i>Tràng An </i>1935,1936. Công việc
cịn lại của chúng tơi là vào thư viện xin scan và chụp lại các bài báo của Hoài
Thanh và Phan Thị Nga với sự giúp đỡ khá chu đáo của các cán bộ có nhiệm vụ
phục vụ độc giả ở phòng đọc báo.


*


Bảy mươi tư năm đã trôi qua. Hai tập báo <i>Tràng An </i>năm 1935 và 1936,
“già” hơn tôi hai tuổi, đã “gặp” nhau sau bao năm tơi tìm kiếm. Thời gian đã
thay màu báo. Báo đã ố vàng, rách nát khá nhiều. Chúng tôi nhẹ nhàng nâng niu
từng trang, từng trang để tìm bài cần tìm rồi nhờ cán bộ thư viện scan theo danh


mục tìm thấy. Rồi lại phải đến thư viện mấy lần nữa để chụp ảnh lại những bài,
đoạn scan thiếu hoặc quá mờ khiến các cô ở thư viện “dọa” sẽ không phục vụ
được nữa vì báo cũ nát quá. May mà rồi mọi việc cũng xuôi chèo, mát mái. Tư
liệu đã được lưu giữ kỹ trong máy tính của tơi và đã được tơi mày mị đánh máy
lại kịp in thành sách phục vụ bạn đọc quan tâm tới thân thế và sự nghiệp của
Hoài Thanh nhân năm 2009 này là đúng dịp kỷ niệm 100 năm sinh Hoài Thanh.


*


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

Trong một lá thư cha tôi gửi cho <i>“Dũng</i> (Từ Sơn)<i> và các con”</i> được viết từ
Sài Gòn ngày 12-15 tháng 8 năm 1978 ơng có bày tỏ cho các con nhiều vấn đề:
sống như thế nào là có ích; khi đã q già yếu thì nên có cách nhìn nhận cuộc
sống như thế nào, cơ sở khoa học của lòng yêu đời là thế nàov. v..Cuối bức thư
dài ấy ơng có viết:”<i>Các con lo lắng nhiều cho sức khoẻ của cha và của má. Lo </i>
<i>là phải. Nhưng lo lắng nhiều quá không nên và lo lắng nhiều mà khơng có điều </i>
<i>kiện giải quyết gì thì cũng như khơng. Thà bằng chuyển cái lo ấy vào chuyện </i>
<i>khác, lo làm việc cho tốt, lo ni dạy con cái cho tốt..., cũng có thể lo tìm hiểu </i>
<i>cha hơn, cha nghĩ các con nên hiểu cha ít ra cũng như anh Trương Chính đã </i>
<i>hiểu cha qua các bài viết của anh ấy về cha, nên chú ý hỏi cha những điều sau </i>
<i>này sẽ không thể nào hỏi được nữa...”</i>.


Đúng là chúng tơi cịn nhiều điều khơng thể nào hỏi cha mình được nữa.
Hoài Thanh mất đã gần ba mươi năm. Chúng tơi chỉ cịn có thể tìm các câu trả
lời những điều muốn biết về cha mình, về nhà văn Hoài Thanh ở trên các trang
sách báo, các trang di bút và di cảo của ông để lại. Thời gian, chiến tranh cùng
bao biến động trong cuộc sống riêng chung dã làm chúng hao hụt đi rất nhiều.
Và, chắc chắn những hao hụt ấy rất khó hoặc khơng thể nào tìm lại được. Chính
từ suy nghĩ này, chúng tôi đã cố gắng khôi phục lại những bài viết của Hoài
Thanh trên báo <i>Tràng An </i>năm 1935, 1936. Chúng tôi rất tiếc không sưu tầm
được các bài viết của Hoài Thanh trên tờ <i>Phổ thông, </i>tờ <i>Le Peuple</i> (xuất bản năm


1930 tại Hà Nội). Hoài Thanh đã viết nhiều bài bằng tiếng Pháp trên tờ <i>La </i>
<i>Gazette de Hué</i> xuất bản trong hồi 1935, 1936. Hiện nay ở Thư viện Quốc gia
chỉ có bộ <i>La Gazette de Hué</i> xuất bản năm 1937 ((một vài số) và gần đủ các số
của năm 1938 ( ký hiệu J244).Chúng tôi khơng tìm thấy bài nào của Hồi Thanh
trong bộ báo còn giữ được này.(3)


*


Ở trên tơi có nhắc lại chuyện nhân một sự tình cờ hồi 1931 mà Hồi Thanh
được ơng Bùi Huy Tín, chủ nhà in Đắc Lập (từ 1935 ơng Tín cũng là chủ nhiệm
của hai tờ báo: <i>Tràng An</i> và <i>La Gazette de Hué</i>), đưa vào Huế để làm thợ chữa
mo-rat. Sự tình cờ này đã tạo điều kiện cho Hoài Thanh dần trở thành một cây
bút viết báo và viết văn xuất sắc. Tất nhiên không phải ai làm nghề chữa mo-rat
rồi cũng trở thành nhà báo, nhà văn.


Điều này phụ thuộc rất nhiều vào khí chất và bản lĩnh của từng người. Ở
đời, gặp một hoàn cảnh ngẫu nhiên, một sự tình cờ nào đó có thể làm cho cuộc
đời một con người chuyển hướng ngược lại với điều ước muốn của mình. Đó là
điều ta thường thấy ở khá nhiều người. Nhưng không phải khơng có người gặp
một sự tình cờ nào đó đã giúp cho mình vượt lên chính mình hoặc phát huy
được khả năng của mình. Hồi Thanh thuộc vào trường hợp sau. Dù sao, nói cho
hết lẽ, nếu sáng hơm ấy ở Vinh, Hồi Thanh khơng đến muộn, không bị viên chủ
Tây tát và đuổi thẳng cổ thì liệu có một Hồi Thanh của <i>Thi nhân Việt Nam </i>
<i>khơng?</i> Hay là... ai mà đốn được?


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

Vậy là, từ năm 1931, hàng ngày chàng thanh niên Nguyễn Đức Nguyên từ
ngôi nhà trọ lợp tranh ở gần miếu Âm Hồn trong thành nội lê chân trên đôi guốc
mộc đi bộ đến nhà in Đắc Lập nằm trên đường Paulbert (nay hình như là đường
Trần Hưng Đạo) gần một đầu cầu Tràng Tiền để cắm cúi chữa những bản in
bằng chữ quốc ngữ hoặc chữ Pháp. Rời bỏ quê nhà, đi làm thợ ở nhà in vì <i>“bởi </i>


<i>ở nhà quê mà khơng có tư bản thì một mình khơng sao ni sống tám chín </i>
<i>người”</i>(4). Cơng việc làm th để kiếm sống này kéo dài đến năm 1936.


Nếu là người an phận, như vậy cũng là tạm ổn. Nhưng với Hồi Thanh,
mục tiêu sống của ơng từ thiếu thời cho đến ngày từ giã cõi trần ln ln sống
vì một niềm khát vọng lớn: vươn tới Chân -Thiện - Mỹ. Các bài viết thời thanh
niên, Hồi Thanh thường nói tới mơ ước được trở thành “con người hồn tồn”
chính là do sự thơi thúc này.


“ Con người hồn tồn”, theo quan niệm thời thanh niên của Hồi Thanh,
khơng phải là muốn thần thánh hóa con người mà chính là sự tự hoàn thiện trong
hoàn cảnh sống của từng người: “<i>...Có người phải vào sinh ra tử mới hồn tồn, </i>
<i>có người dùng lời nói, dùng ngịi bút, có người chỉ chăm sóc việc nhà, luyện tập </i>
<i>nữ cơng cũng hồn tồn.Cứ trung bình mà nói, bất kỳ người nào, nếu thực muốn </i>
<i>sửa mình, thực có nghị lực thực hành ý muốn đó, đều có thể trở nên người hoàn </i>
<i>toàn cả, hoàn toàn trong phạm vi hoàn cảnh, thời đại, giáo dục, nhất là bẩm </i>
<i>tính tự nhiên của mình. Nghĩa là khơng thể buộc ai cũng phải theo chung một lý </i>
<i>tưởng về hoàn toàn (un même idéal de perfection). Lý tưởng ấy phải mỗi người </i>
<i>mỗi khác. Mà có khác mới hay. Bằng ai cũng như ai, mn nghìn người sẽ như</i>
<i>một đội binh lớn, cuộc đời cịn lý thú gì?”.</i>(5)


Bảy mươi tư năm trước, chàng thanh niên Hoài Thanh đã vượt lên trên
hồn cảnh của một nguời thợ chữa mo-rat bình thường tìm cách “<i>dùng ngịi bút”</i>


để tự hồn thiện mình với hy vọng trở thành một “con người hoàn toàn” theo
quan niệm của mình, bằng tất cả <i>“nghị lực thực hành ý muốn đó”.</i> Điều này thể
hiện rất rõ trong các bài viết của Hoài Thanh đăng trên báo <i>Tràng An </i>hồi 1935,
1936.


*



<i>“...tơi là một anh học trị và một anh nhà quê. Lai lịch tôi cũng là lai lịch </i>
<i>một anh học trò và một anh nhà quê”</i>(6). Có lẽ vì thế, Hồi Thanh hay dùng bút
danh “<i>Nhà Quê”</i>( trên báo <i>Tràng An</i>) và <i>le Nhà Quê</i> ( trên báo<i> La Gazette de </i>
<i>Hué</i>). Dùng các bút danh ấy không phải là để “làm dáng độc đáo” mà thực sự
bắt nguồn từ trong tâm của ngòi bút Hồi Thanh thời trẻ: hướng lịng mình về
chốn hương thơn đang cịn chịu bao nhiêu điều vất vả, khổ đau. Nhiều bài viết
của Hoài Thanh trên <i>Tràng An </i>hồi 1935, 1936 đã thể hiện rất rõ tình cảm này.


Trong bài viết <i>‘Một sự hoang phí ghê</i> <i> gớm-Dân quê </i>( Tràng An số 4,
ngày 12-3- 1935) Hoài Thanh kể chuyện về anh Trinh :


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

<i>đi học nhưng chỉ xem những công việc vặt anh làm hàng ngày cũng đủ rõ trí </i>
<i>thơng minh của anh. </i>


<i> Có dạo tơi vẽ cho anh học quốc ngữ, anh chỉ học có mấy tối là biết viết </i>
<i>ngay. Giá từ hồi còn bé anh được đi học thì có lẽ anh hơn chúng ta biết chừng </i>
<i>nào. </i>


<i> Tôi rất tiếc, tiếc một người sẵn trí thơng minh như thế mà vì hồn cảnh </i>
<i>phải mai một. Tơi tiếc vì anh Trinh ở gần nhà tơi, rồi tơi lại tiếc vì cả bao nhiêu </i>
<i>anh Trinh khác ở khắp trong nước ta và ở các nước nữa. Mỗi lần tôi thấy một </i>
<i>đám đông lam lũ, tôi lại nghĩ: biết bao nhiêu óc thông minh phải mai một ở</i>
<i>trong ấy. Thực là một sự hoang phí vơ cùng.” </i>


Từ câu chuyện anh Trinh, tác giả nghĩ tiếp:


<i>“Mọi người chúng ta có thể sống một cuộc đời đầy đủ, dồi dào, sung </i>
<i>sướng gấp năm, gấp mười bây giờ. Sự hoang phí thì giờ, hoang phí nhân lực ở</i>
<i>thời này khơng sao kể xiết. </i>



<i>Nhưng tưởng khơng có sự hoang phí nào bằng sự hoang phí tơi nói trên </i>
<i>đầu bài này, vì hoang phí đây là hoang phí tinh thần. </i>


<i>Cứđứng về phương diện lồi người mà nói thì trên quả</i> <i>địa cầu khơng có </i>
<i>gì q bằng người ta. Cái tư bản lớn nhất của thế giới là người ta. Tôi nhớ như</i>
<i>một nhà văn sĩ Pháp, Anatole France, đã nói: “Muốn tăng giá trị quả</i> <i>địa cầu, </i>
<i>phải tăng giá trị con người ta” ( Pour mettre le globe en valeur, il faut mettre </i>
<i>l’homme en valeut</i>).


Tác giả mơ ước:


<i>“Tôi mơ</i> <i>ước một ngày - ngày ấy có lẽ tơi khơng được thấy- tồn thể</i>
<i>lồi người sẽ có thể phát triển mọi năng lực tự nhiên đã phú bẩm cho. Ngày </i>
<i>ấy cuộc đời, sẽ rực rỡ gấp trăm ngàn ngày nay. Ngày nay biết bao nhiêu </i>
<i>thiên tài chỉ vì khơng có cơ hội trau dồi mà không phát triển được; lồi </i>
<i>người bỏ phí mất một cái vốn tinh thần rất lớn. </i>


<i>Đã thế mà nhiều người gặp may được đi học lại thả giọng khinh bỉ, mạt </i>
<i>sát người khơng học hay ít học, tưởng như mình là giống khác vậy. Lầm lắm đó </i>
<i>các ơng!”</i>


Chúng ta cịn có thể nhận thấy tấm lịng ưu ái của Hồi Thanh với người
dân quê thời ấy qua rất nhiều bài víết khác trên <i>Tràng An</i> như :<i>Nghề trồng bắp ở</i>
<i>Trung kỳ (</i>Tràng An số 8 ngày 3-1-1935), <i>Tình cảnh dân làm muối rất đáng </i>
<i>thương</i>( Tràng An số 10 ngày 2-4-1935), <i>Muốn trừ cái tệ hà hiếp dân gian: Nên </i>
<i>cải cách hương thôn tự trị</i> (Tràng An số 18 ngày 30-4-1935)...


Các bài viết chúng tôi vừa nhắc sơ qua ở trên tác giả còn viết với giọng ơn
hịa với bọn cầm quyền lúc bấy giờ. Đến bài <i>“ Hãy nhìn về nơi thơn q”</i> ở


Tràng An số 58 ngày 17-9-1935, sau khi nêu rõ nỗi khổ cực ghê gớm của dân
quê hồi ấy, Hoài Thanh mạnh mẽ cảnh báo bọn cầm quyền Pháp và Nam triều
thời bấy giờ rằng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

<i>dung ngồi ở trên có ngồi đó được mãi chăng. Há không sợ một buổi mai kia cái </i>
<i>nền tảng sẽđổ mà cái tầng trên cũng đổ theo hay sao ? Cho nên vấn đề sinh tồn </i>
<i>của dân quê là vấn đề sinh tồn của hết thảy mọi hạng người trong nước, không </i>
<i>quan tâm đến không xong.” </i>


Hơn một tháng sau bài viết chúng tơi vừa trích dẫn trên, Hoài Thanh viết
bài:”<i>Cái họa bang tá ở Nghệ-Tĩnh”</i> đăng trên Tràng An số 68 ngày 22-10-1935
ông lại cảnh báo:


<i>“Thực mấy viên bang tá ở nhà quê lại muốn hách dịch hơn các quan bộ</i>
<i>trưởng. Tài sản, tự do, tính mệnh dân quê trong tay bọn ấy, bấp bênh làm sao! </i>


<i>Chánh phủ có cái trách nhiệm bảo hộ tài sản, tự do và tính mệnh của dân, </i>
<i>chúng tơi u cầu chánh phủ hãy vì dân mà bãi những chức bang tá ấy đi. </i>


<i>Các viên bang tá ở thôn quê vốn đặt ra để bắt cọng sản. Bây giờ khơng có </i>
<i>cọng sản nữa cho họ bắt thành họ phải bắt quàng. Chúng tôi đã thấy những viên </i>
<i>bang tá đâm ra bắt thuế, bắt rượu, bắt muối. Tuy vậy vẫn không đủ việc cho họ</i>
<i>làm. Khơng có việc họ phải sinh việc ra để níu lấy một cái chức vị</i> <i>đã đưa đến </i>
<i>cho họ sựăn trên ngồi trước nơi đình làng và nhiều quyền lợi khác. Ngày trước </i>
<i>vì cọng sản mà đặt ra bang tá, ngày nay lại chính bang tá sinh ra cọng sản. Cái </i>
<i>họa cọng sản đẻ ra cái họa bang tá thì cũng cịn cho đi là được, đến cái họa </i>
<i>bang tá trở lại đẻ ra họa cọng sản thì thực là sự khơng hay trong mọi sự khơng </i>
<i>hay!”</i>


Đọc những dịng trích trên, tất nhiên chúng ta hiểu , trong hoàn cảnh làm


báo “hợp pháp” bấy giờ, tác giả phải dùng cụm từ “cái họa cọng sản” cũng là
điều dễ hiểu khi ta biết lùi về hơn 70 năm trước. Điều quan trọng ở đây là Hồi
Thanh đã nhận ra (có lẽ bằng trực giác) cái chân lý mà chủ nghĩa Mác đã từng
nêu ra :”Nơi nào có áp bức, nơi ấy có đấu tranh!”.


Hồi Thanh mong người dân mình phải khắc sâu lòng căm thù với bọn thực
dân, phong kiến lúc bấy giờ để một ngày nào đó vùng lên thay đổi kiếp sống
nhọc nhằn bị bọn cầm quyền giàu sang chà đạp, coi con người dân quê lam lũ
như thú vật. Tôi thật ngạc nhiên khi đọc bài <b>“</b><i><b>Nh</b><b>ữ</b><b>ng </b><b>đ</b><b>i</b><b>ề</b><b>u không vui trong h</b><b>ộ</b><b>i </b></i>
<i><b>ch</b><b>ợ</b><b> Hu</b><b>ế</b><b>”.</b></i> Bài này đăng trên Tràng An số 102, ngày 6-3-1936. Tác giả cho
người đọc thấy nhiều cảnh rất thương tâm. Nào là cảnh <i>:” Một đứa con gái nhỏ</i>
<i>chừng mười một mười hai tuổi không biết làm thế nào để chui được vào trong </i>
<i>Hội chợ. Áo quần nó rách những lỗ to, mặt nó bơ phờ. Trời chiều lạnh.” </i>Em bé
đó đã bị<i> :”... một chú lính khố xanh - nắm tóc lơi ra và đánh túi bụi. Nó nằm lăn </i>
<i>ra giữa đất, nó khóc, nó lạy, nó vẫn bịđánh. Nó xin trở lại lấy cái nón; người ta </i>
<i>trả lời nó bằng mấy cái đấm chắc chắn của con nhà binh. </i>


<i>Ngoài đường có mụ bán nước kêu vói:” Đừng đánh nó, con điên đó mà!” </i>
<i>Nó vẫn bị</i> <i>đánh. Như thường.” </i>


Một cảnh khác, cảnh những con người bị coi như những con vật. Ngịi bút
Hồi Thanh quặn lên đau đớn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

<i>khiên bọc da của họ, những đồ tre, đồ gỗ, vừng, chè v. v... Họ cũng là một thứ</i>
<i>hàng để mua vui cho công chúng. Ngày ngày hàng vạn người qua lại trước mặt </i>
<i>họ, xúm lại chung quanh họ, cơng nhiên hạ những lời bình phẩm họ. Họ khơng </i>
<i>nói một lời, họ cũng khơng buồn cử</i> <i>động. Tơi thấy một thiếu nữ Mọi có khn </i>
<i>mặt xinh xinh ngồi yên đến hàng giờđồng hồ như một bức tượng. </i>


<i>Cơng chúng nhìn họ, họ nhìn lại với nét mặt căm hờn, tức tối và khinh khi. </i>


<i>Làm dân một giống hèn yếu, bất hạnh phải đưa làm trò chơi cho người khác </i>
<i>giống mà vẫn giữ</i> <i>được phẩm cách ấy tơi tưởng chỉ có người Mọi.Giá người </i>
<i>mình ở vào địa vị</i> <i>ấy thì sẽ ra thế nào? Mình sẽ bập bẹ tiếng người khác giống, </i>
<i>sẽ xen lẫn vào với người khác giống và nhai lại những cử chỉ của họ. Phải </i>
<i>chăng đó là sự bắt buộc của luật sinh tồn ?” </i>


Dưới ngịi bút Hồi Thanh, ơng khơng che dấu lịng cảm phục những con
người - những đồng bào chúng ta ở Tây Nguyên (hồi ấy người ta gọi một cách
coi thường là “người Mọi”). Tác giả cũng nhân đấy mà trách những người dân
mình- những người tự cho mình là “văn minh” hơn:


<i>“Đi xem Hội chợ mà trí tơi vơ vẩn cứ so sánh người Mọi với người mình. </i>
<i>Sự so sánh thực chẳng lấy gì làm vinh dự cho mình. Tơi thấy người mình, một </i>
<i>bọn thiếu niên, cũng là người có đi học, họp nhau thành đồn, thấy cơ nào xinh </i>
<i>xinh là chịng ghẹo một cách hết sức bất nhã. Có lần chúng vây một thiếu nữ rồi </i>
<i>giằng khăn áo người ta đến nỗi rách tươm. Lần thì chúng ngoặc cổ người ta hay </i>
<i>thốt ra những lời thô bỉ. Kinh đơ Huế vốn có tiếng là nơi phong nhã mà bây giờ</i>
<i>bỗng đưa ởđâu về những thói như vậy, thực là một điều đáng tiếc” </i>


*


Ngịi bút Hồi Thanh khơng chỉ cảnh cáo bọn cầm quyền thực dân và Nam
triều thời bấy giờ đàn áp, bóc lột dân q mà thơi. Khơng ít lúc ngịi bút ơng cịn
chĩa thẳng vào bọn chúng để vạch trần cái thói giả dối, lừa mị nhân dân ta của
chúng.


Hồi ấy là thời khủng hoảng kinh tế, bọn Tây cho đổ lúa, gạo xuống biển để
giữ giá, chúng còn pha chất độc vào lúa mì bán cho dân ta ni gia súc (người
khơng ăn được loại lúa mì này). Tác giả tố cáo:



<i>“Họ thấy gạo, thấy bắp của mình rẻ, họ mua về ni súc vật. Rồi ít lâu trở</i>
<i>chứng họ lại khơng mua nữa. Mua thì mất tiền, cái đó cố nhiên. Họkhơng muốn </i>
<i>mất tiền, họ nói với nhau :”Mấy thằng mọi bên An-nam có thức gì mình tống </i>
<i>sang cho chúng nó, mình lấy tiền, chớ mình là người thượng quốc, tội gì lại xuất </i>
<i>tiền ra mua của chúng nó.” </i>


<i> Lúa mì của họ nhiều; nhưng lúa mì tốt, giá mắc, khơng lẽ</i> <i>đem ni súc vật. </i>
<i>Khó gì: tốt, họ làm cho xấu đi, giá cao, họ làm cho giá hạ</i> <i>đi. Họ phá chất </i>
<i>(dénaturer) lúa mì. Chính phủ họ cũng xui dục họ phá chất lúa mì, cứ mỗi trăm </i>
<i>kilos chính phủ cấp cho 40 quan. Lúa mì phá chất, người ăn khơng được , chỉđể</i>
<i>ni súc vật, giá lại rất hạ, gạo với bắp ta không sao cạnh tranh nổi. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

<i>họ cố ý phá cho hư hỏng đi. Rồi lại có người xui họ,giúp tiền cho họ làm việc </i>
<i>thất đức </i>


<i> Từ</i> <i>đầu năm đến giờ họ phá hơn 50 vạn tấn lúa không biết rồi họ còn phá </i>
<i>mất bao nhiêu tấn nữa! </i>


<i> Tất có người hỏi sao các bác nhà quê Tây lại phải làm rắc rối như vậy, cứ</i>
<i>để vậy mà cho súc vật ăn có đuợc khơng? Ấy mình nghĩ thế là mình khơng văn </i>
<i>minh, người văn minh họ có những cái lý chẳng có lý gì hết. Họ có mười thúng </i>
<i>lúa, nếu để ngun, lúa nhiều tất giá lúa rẻ, họ chỉ</i> <i>để lại năm thúng, còn năm </i>
<i>thúng nữa họ phá đi. Họ làm vậy, họ tìm cái lợi của họ, họ cũng khôn chán, </i>
<i>nhưng cái xã hội dung thứ, xúi dục cho họ làm vậy thì ngu dại hết chỗ nói.” </i>(Bài


<b>“ </b><i><b>Nhà quê Tây”</b></i> Tràng An số 14 ngày 16-4-1935).


Tràng An số 15 ngày 19-4-1935, Hoài Thanh viết bài <b>“</b><i><b>Tây tr</b><b>ắ</b><b>ng </b><b>đẻ</b><b> ra </b></i>
<i><b>An-nam, Tây </b><b>đ</b><b>en và </b><b>đủ</b><b> các gi</b><b>ố</b><b>ng”</b></i> mỉa mai cái mà thực dân Pháp tự xưng nước
Pháp là “mẫu quốc” của các thuộc địa ở châu Á, châu Phi...: “Sự thực cái gia


đình lớn hơn trăm triệu con người gồm <i>mẫu quốc</i> Pháp và các ...<i>tử quốc</i>
An-nam, Phi châu thuộc Pháp, Ấn độ thuộc Pháp, Guadeloupe, Tahiti, Tuamotou
vân vân là như thế “


Hồi Thanh cịn viết một loạt bài đả kích thẳng chính quyền Bảo hộ và
Nam triều như: “<i><b>C</b><b>ũ</b><b>ng vì cái ơ tơ”:</b></i> tác giả mỉa mai cái hèn hạ của một viên
quan hay cơng chức gì đó của Nam triều vái theo chào một tên quan Tây vụt ô tô
qua cái ô tô của hắn đang đậu ở vệ dường. Bài “<i><b>T</b><b>ừ</b><b> tòa Khâm sang các b</b><b>ộ</b>”:</i>


vạch mặt lối “chạy chọt” các “quan Tây” ở toà Khâm để mau được bổ làm quan
các bộ Nam triều (Tràng An số 50 ngày 20-8-1935).


Bài “<i><b>Ng</b><b>ườ</b><b>i mình nói chuy</b><b>ệ</b><b>n giáo d</b><b>ụ</b><b>c”</b></i> (Tràng An số 51 ngày 23-8-1935) :
tác giả châm biếm tờ báo “<i>Sao mai”</i> đề ra cái chủ trương “Pháp-Nam thân
thiện” như vầy:


<i>“Tuổi nhỏ là cái tuổi vui chơi đùa nghịch - bạn đồng nghiệp nói - ai tốt là </i>
<i>bạn, ai xấu không chơi, chứ không biết phân biệt màu da ,phân biệt giaicấp; thế</i>
<i>mà không cho chúng nó chung lộn với nhau thì lớn lên chúng nó khơng hiểu </i>
<i>nhau, khơng cùng dắt tay nhau được... </i>


<i>Thế mà lạ thật, chính phủ là kẻ có trách nhiệm phải dìu dắt Pháp Nam lên </i>
<i>con đường thân thiện lại không cho Pháp-Nam học chung với nhau một trường, </i>
<i>mà người Nam hễ nhà khá có con học được thì lo chạy đủ cách sao cho con </i>
<i>mình được vào học chung trường với trẻ con Pháp như trường Lyscée Albert </i>
<i>Sarraut Hanoi đó. Xem thếđủ rõ bằng chứng rằng người Nam đã hiểu việc ích </i>
<i>lợi của sự thân thiện trong hai dân tộc Pháp Nam; vậy mà chính phủ hiện chưa </i>
<i>nhận thấy rõ được.” </i>


Hoài Thanh mỉa mai:”



</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

<i>Dầu sao cái ý kiến của bạn đồng nghiệp muốn cho trẻ con Pháp và trẻ con </i>
<i>Nam học chung với nhau là một ý kiến hay lắm. Nha Học chánh Đông Dương và </i>
<i>bộ Giáo dục Nam triều sẽ khơng bỏ qua. </i>


<i>Có điều nha Học chánh và bộ Giáo dục chắc phải nhờ báo </i>Sao mai<i> soạn </i>
<i>dùm cho mấy quyển sách giáo khoa. </i>


<i>Nếu không, ta sẽ</i> <i>được nghe những cậu bé tóc quăn mũi lõ cất giọng xì xồ xì </i>
<i>xào đọc những bài học như lối sau này: </i>


<i>“Cha tôi ngày hai buổi vác cày ra đồng làm việc để nuôi tôi ăn học...” </i>
<i>Hay là những cậu bé An-nam trăm phần trăm đêm đêm tụng kinh: </i>


<i>“Nos ancêtres, les Gaulois,..Nostroupes ocupérent la citadelle et mirent en </i>
<i>fuite l`armée annamite”(Tổ tiên chúng ta, người Gaulois...Qn lính chúng ta </i>
<i>chiếm lấy thành trì và đánh đuổi tụi lính An-nam). </i>


<i>Thành ra khi khơng dân mình hoá ra dân một nước độc lập. Như vậy cũng </i>
<i>oai nhưng hơi sai sự thật một tí.” </i>


Bài <i><b>“Lo làm gì th</b><b>ế</b><b>, ơng Hà </b><b>Đằ</b><b>ng?”</b></i>nhắc tới chuyện ơng ngun viện
trưởng viện Dân biểu Trung kỳ viết thư đòi chính phủ Pháp phải chọn một
nguời Việt Nam vào nghị viện Pháp mà quên mất rằng<i>:”.. Những chữ quốc </i>
<i>quyền, giang sơn kèm với những chữ tây agent diplomatique, immunités </i>
<i>diplomatiques khiến chúng tôi đã tưởng nước Nam chưa mất. Nhưng than ôi! </i>
<i>Bức thư của ông Hà Đằng chỉ</i> <i>được cái vui tai! Còn sự thực? Sự thực ông không </i>
<i>biết đến. </i>


<i>Sự thực là nuớc ta ngày nay mọi việc đều trong tay chính phủ Pháp. </i>



<i>... Người Pháp họ muốn đặt nguyên lão nghị viên cho Đông Dương chẳng </i>
<i>qua là để thay mặt những người Pháp ởĐông Dương. Và lẽ cố nhiên</i> <i>chỉ người </i>
<i>Pháp ở</i> <i>Đông Dương mới được quyền ứng cử và bầu cử. Đó là việc riêng của </i>
<i>họ. </i>


<i>Ơng Hà Đằng lo làm gì cho mệt.” </i>


Bài “<i><b>N</b><b>ộ</b><b>i các bình dân bên Pháp v</b><b>ớ</b><b>i dân ta” </b></i>( <i>Tràng An</i> số 125 ngày
27-5-1936) Hồi Thanh đã có sự phân tích khá sắc sảo về bản chất chủ nghĩa thực
dân đế quốc. Ông đặt vấn đề : dân ta khơng nên hy vọng gì nhiều vào chính phủ
bình dân mới lên nắm quyền ở Pháp thời ấy. Ông đã dự cảm rất đúng:


<i>“...Vậy thì đúng lý ra, nay đảng Xã hội lên cầm quyền một điều cần phải </i>
<i>làm là giả lại quyền tự chủ cho các dân tộc bị chinh phục. Nhưng các bạn cũng </i>
<i>thừa biết rằng cái lý khơng phải điều thường có </i>


<i>... Bởi vì lịng nhơn chẳng phải là điều chi phối mọi việc ở</i> <i>đời. Trong bài </i>
<i>xã thuyết Tràng An kỳ trước có câu:” Cường quyền là sự thực, cơng lý là mộng </i>
<i>tưởng. Mộng tưởng dù cao thượng cũng phải phục tùng sự thực”. Sự thực đây là </i>
<i>các cường quốc ngày nay dầu đỏ, đen gì cững vậy khơng bao giờ tự mình lìa với </i>
<i>các thuộc địa đâu. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

<i>người đói khổ</i> <i>ở xứ này, sẽ cho dân thuộc địa hưởng những quyền lợi không có </i>
<i>hại gì dến người Pháp như tự do hội họp, tự do ngôn luận vân vân. </i>


<i>Chúng tôi cũng muốn hy vọng như vậy. Nhưng chúng tơi cịn nhớ ông </i>
<i>Varenne, một đảng viên đảng Xã hội Pháp, và cái sắc lệnh 1927 của ông về báo </i>
<i>giới...Nhớ, thành chúng tôi không dám hy vọng nhiều</i>. (7)



<i>Thực ra, một nội các bình dân lên cầm quyền chính bên Pháp, chúng tôi </i>
<i>vẫn ưng hơn là một nội các khác. Nhưng ưng với khơng ưng mà làm gì? Chúng </i>
<i>tơi biết phận mình lắm mà!”. </i>


Trong các bài viết của mình về việc Tây xâm chiếm và cai trị nước ta, Hoài
Thanh đã vạch rõ được cái bản chất cướp nước, xâm luợc, tàn ác cùng với sự
đàn áp dã man của chúng đối với dân ta trong các bài như; “<i><b>H</b><b>ă</b><b>m ba tháng </b></i>
<i><b>n</b><b>ă</b><b>m- ngày th</b><b>ấ</b><b>t th</b><b>ủ</b><b> kinh </b><b>đ</b><b>ô” </b></i>(<i>Tràng An</i> số 33 ngày 21-6-1935), “<i><b>L</b><b>ệ</b><b> qu</b><b>ả</b><b>n thúc </b></i>
<i><b>làm kh</b><b>ổ</b><b> ng</b><b>ườ</b><b>i ta m</b><b>ộ</b><b>t cách vô ích” </b></i>(<i>Tràng An</i> số 79 ngày 29-11-1935), vân vân
và vân vân...


Hồi Thanh cũng khơng qn đề cao những người Pháp chân chính như nhà
văn cọng sản Henri Barbusse. Tác giả ca ngợi ơng là nhà văn có tài, có tấm lịng
u thương con người cùng khổ, lên án chiến tranh phi nghĩa, ca ngợi những vần
thơ hay về tình yêu, về thiên nhiên của Barbusse trong hai kỳ báo liền ( <i>Tràng </i>
<i>An</i> số 66 và 68 các ngày 15-10 và 22-10 1935).


Ông cũng đã hết sức đề cao tác phẩm <i>“Indochina S. O. S” </i>của nữ văn sĩ
PhápAndrée Viollis gọi tác phẩm ấy là “<i><b>M</b><b>ộ</b><b>t cu</b><b>ố</b><b>n sách b</b><b>ạ</b><b>o”</b></i>. Hoài Thanh viết:


<i>“Bà André Viollis hơn sốđông các bạn đồng nghiệp Ở chỗ bà không những </i>
<i>xem những điều người ta muốn cho xem, bà cịn tìm cách xem cho được những </i>
<i>điều người ta muốn dấu nữa. Những người hoặc sinh trưởng ở xứ này hoặc ở</i>
<i>lâu trong xứ này đối với bao nhiêu nỗi khổ cực của dân ta, như tuồng quen đi. </i>
<i>Chính ta là người chịu cực khổđơi lúc ta cũng như quen đi mà cho là thường. </i>


<i>Với tâm trí sáng suốt của một nguời hằng sống trong những khơng khí dễ</i>
<i>thở hơn, bà André Viollis đã làm cho cảm động, ghê sợ, tức tối vì những điều ta </i>
<i>vẫn biết mà ta cho là thường. Bà nhìn sự thực Đơng Dương bằng một cặp mắt </i>
<i>khơng thành kiến gì mờ ám, bằng một tấm lịng vơ tư và giàu tình cảm. </i>



<i>Những cảnh tối tăm trong ngục thất, những cảnh nheo nhóc của đám người </i>
<i>đói rét ở Vinh, những cảnh đau thương trong hồi dẹp loạn ở Nghệ - Tĩnh, dưới </i>
<i>ngịi bút bình dị của bà tưởng ai xem cũng phải cảm động và nhận là đúng với </i>
<i>sự thật. </i>


<i>Đúng với sự thật, đó là tư cách cốt yếu của một thiên phóng sự. Bà André </i>
<i>Viollis có đủ tư cách này. Trừ một vài điều lầm nhỏ khơng đáng kể, thiên phóng </i>
<i>sự này có thể gọi là hồn tồn.” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

Đọc đi đọc lại nhiều lần những bài viết của Hồi Thanh trên <i>Tràng An </i>hồi
1935, 1936 tơi càng ngạc nhiên về điều mà chúng ta thường gọi là “cái <i>phơng</i>


văn hố”- cái nền tảng cần có về kiến thức văn hóa của mỗi người, nhất là của
người mang danh là trí thức. Dù theo đuổi một ngành chun mơn sâu nào dó
“cái <i>phơng</i> văn hóa” bao giờ cũng là hành trang không thể thiếu cho bất kỳ một
ai.


Người ta thường nói : sự học ở nhà trường là rất quan trọng nhưng quan
trọng hơn là học ở ngay trường đời. Nguyên lý này đã được chứng minh cho vô
số trường hợp cụ thể trong xã hội của nhiều thời đại - trên thế giới cũng như ở
nước ta. Có một sự thực ai cũng thấy là ngay trong xã hội ta hiện nay, khơng
hiếm người có bằng cấp rất cao nhưng “cái <i>phơng</i> văn hóa” rất thấp, khơng ít
người bị xem là “ngớ ngẩn” khi phải đối diện với những vấn đề văn hóa cụ thể,
những vấn đề có khi chỉ bình thường, khơng có gì là “cao siêu” lắm.


Trở lại với các bài viết của Hồi Thanh hồi ơng mới ở tuổi hai mươi lăm,
hai mươi sáu. Tơi cứ ngạc nhiên hồi sao cái cậu “học trò nhà quê” tự kiếm sống
để vừa ni gia đình, vừa đi học lại có sự hiểu biết nhiều đến thế : từ ngoại ngữ,
toán học, khoa học cơ bản đến lịch sử, văn học cổ kim, đơng tây đến triết học,


văn hố học v.v... cho đến cả những vấn đề thời sự chính trị, kinh tế,luật
pháp...Chắc chắn là có khơng ít kiến thức Hoài Thanh thu nhận từ nhà trường
thời bấy giờ ( Hoài Thanh chỉ được học liên tục ở nhà trường từ tiểu học cho đến
thi xong “đip-lôm”-tương dương tốt nghiệp trung học phổ thông bây giờ. Từ cấp
tương đương trung học phổ thơng hiện nay, Hồi Thanh tự học là chính, vì tham
gia hoạt động chống đối chính quyền thực dân như đọan đầu bài này đã nhắc
tới). Điều chắc chắn nữa là HoàI Thanh đã học rất nhiều ở “trường đời” để trang
bị cho mình một “cái <i>phơng</i> văn hóa” khá vững chắc.


Các bài viết theo kiểu Hồi Thanh ưa thích- kiểu <i>notes</i> (tùy bút)- bộc lộ rất
rõ tầm kiến thức khá rộng và cũng khá sâu sắc của ông trên nhiều lĩnh vực.


Giữ chuyên mục “<i><b>Chuy</b><b>ệ</b><b>n rông”</b></i> (ký tên :Nhà Quê) trên báo <i>Tràng An</i>


đồng thời tham gia viết tương đồi đều đặn các mục <i><b>“ Có có khơng khơng”, </b></i>
<i><b>“Chuy</b><b>ệ</b><b>n v</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng”, “V</b><b>ă</b><b>n ngh</b><b>ệ</b><b>”,” Phê bình” </b></i>và các bài bình luận thời sự
chính tri, thời sự quốc tế, kinh tế, xã hội, văn hoá, phong tục, lễ nghi v. v...


</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

tác phẩm của Gide. Viết về Henri Barbusse, về Phật giáo v. v... Tác giả cũng đều
giữ đúng tác phong nghiên cứu sâu sắc, kỹ càng và tìm được cách thể hiện đạt
hiệu quả tối ưu theo ý mong muốn của mình.


Hơn một năm trời, Hồi Thanh đã viết hơn 100 bài dài ngắn khác nhau.
Thường thì bài viết chuyên mục <i>“Chuy<b>ệ</b><b>n rông”</b></i> chỉ chừng 300 đến 500 từ. Viết
cho các chuyên mục khác thường cũng chỉ chừng một cột báo. Viết các bài
chuyên luận thì dài hơn, có khi phải đăng đầy hơn hai trang báo ( như bài<i><b>” Hai </b></i>
<i><b>ba tháng n</b><b>ă</b><b>m- ngày th</b><b>ấ</b><b>t th</b><b>ủ</b><b> kinh </b><b>đ</b><b>ô”</b></i><b>)</b> hoặc phải đăng hai kỳ báo ( như bài


<i>“Phong tri<b>ề</b><b>u Ph</b><b>ậ</b><b>t giáo ph</b><b>ụ</b><b>c h</b><b>ư</b><b>ng”</b></i> hay bài viết về Henri Barbusse).



Bài viết nào của Hoài Thanh cũng mang đến cho người đọc một hoặc một
vài thông điệp tác giả muốn được bạn đọc cùng chia sẻ. Do vậy độ dài ngắn của
từng bài phụ thuộc rất chặt vào nội dung định nói.


Một bài “<i><b>Chuy</b><b>ệ</b><b>n rơng” : “Ch</b><b>ớ</b><b> có ch</b><b>ế</b><b>t trong thành Hu</b><b>ế</b>” </i>( <i>Tràng An</i> số 5
ngày 15-3-1935) tác giả mô tả lại những quy định nhiêu khê của nhà cầm quyền
ở Huế thời bấy giờ khiến người đọc muốn ...cười ra nước mắt! Tác giả cho biết:


<i>“Vô luận người chết là quan hay dân cũng phải chịu chun dưới cầu Thanh </i>
<i>Long cả. Tôi tưởng người chết mà cịn tí tri giác chắc cũng lấy làm tủi nhục cho </i>
<i>tấm hình hài mình cịn lưu lại ít lâu trên đất này. Mới ngày nào ra vào tự do có </i>
<i>khi lại nghênh ngang có lính gác bồng súng chào, mà bây giờ người ta tống đi </i>
<i>như kẻ có tội, tệ hơn nữa, như một vật ơ uế,thực tủi nhục, có thể chết đi được </i>
<i>nếu như như chưa chết một lần rồi. </i>


<i>Nói chơi vậy thơi, chớ người chết khổ thì khơng lấy gì làm chắc. Có điều </i>
<i>chắc là người sống khổ hết chỗ nói. Đưa quan tài xuống đò, rồi lại đưa quan tài </i>
<i>lên đò. Người đưa đám cũng phải thuê đò đi theo. Trời nắng còn khá, trời mưa </i>
<i>nữa mới rầy. Đường lối lên xuống bùn lầy, đò phải kết hai cái làm một, cất mái </i>
<i>đi mới để</i> <i>được quan tài, thành ướt át rõ khổ. Lại khi gặp kỳ lụt nước to, phải </i>
<i>đôi ba ngày nuớc rút mới đi được” </i>


Tác giả kết luận chua xót:


<i>“Thời bây giờ mà còn sự câu nệ như thế, có hơi vơ lý một chút. </i>
<i> Thực ở xứ này sống đã chật vật đến chết cũng chưa yên.” </i>


Cũng bàn về chuyện cái chết, Hồi Thanh có bàn về một đám ma thật và
một đám ma giả. Đám ma thật là đám tang bà Khơn Ngun Xương Minh hồng
thái hậu - bà nội vua Bảo Đại.



Tác giả tả đám ma này tuy là của bậc vua chúa nhưng chi là sự phóng to lên
các nghi thức cùng với sự tăng khối lượng các thứ cờ quạt, minh sinh, hương án
mà thơi. Vì vậy đám ma được dân chúng xúm nhau lại xem vui như xem hội.
Tác giả nhận xét:


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

<i>Nghĩ lại người mình kỳ thiệt. Vui buồn gì cũng chừng ấy lễ nghi. Cái chết, </i>
<i>điều nghiêm trọng nhất trong một đời, người mình xem như là chuyện chơi vậy. </i>
<i>Có kẻ lấy thế làm vinh dự cho chủng tộc vì đã biết khinh cái chết. Chúng tơi cho </i>
<i>đó là cái chứng cớ chắc chắn rằng dân tộc mình là một dân tộc trẻ con; trẻ con </i>
<i>đến nỗi không thể lý hội được sự nghiêm trọng của cái chết. Trong một bài thơ</i>
<i>Tây, người ta thấy mấy đứa bé nô đùa bên xác chết, người mình cũng chung một </i>
<i>tâm lý với mấy đứa bé con. </i>


<i>Lễ nghi là hình thức, tín ngưỡng là tinh thần. Ngày xưa người ta tin thì </i>
<i>những lễ nghi có cái ý nghĩa của nó. Bây giờ ngay trong những người có cái </i>
<i>phận sự thi hành lễ nghi còn mấy ai giữđược lòng tin? Còn mấy ai tin rằng đám </i>
<i>tang khơng có minh sinh chẳng hạn thì sẽ xảy ra những điều khơng hay cho linh </i>
<i>hồn người đã khuất? Đã thế thì cái minh sinh thành ra vô nghĩa. Tất cả tang </i>
<i>nghi xưa, ngày nay thành ra vô nghĩa. </i>


<i>Vô nghĩa và chướng mắt, và trái với cái ý nghĩa sống chết nữa, như trên đã </i>
<i>nói. Ai muốn tin tơn giáo nào, lý thuyết nào thì tin nhưng sống vui chết buồn là </i>
<i>điều tự nhiên trong lịng người, khơng có tôn giáo nào, lý thuyết nào chống lại </i>
<i>được. Lẽ tự nhiên như vậy, lễ nghi phải thích hợp với tự nhiên. </i>


<i>Làm sao ta lại không bắt chước lễ nghi đã giản dị mà có ý nghĩa của các </i>
<i>nước. Những đám quốc tang ta thường thấy trên màn ảnh nó nghiêm trang, oai </i>
<i>vệ biết chừng nào!” </i>



(<i><b>L</b><b>ễ</b><b> nghi c</b><b>ũ</b><b>ng ph</b><b>ả</b><b>i c</b><b>ả</b><b>i cách m</b><b>ớ</b><b>i </b><b>đượ</b><b>c-</b>Tràng An</i> số 87, ngày 27-12-1935)
Và mấy dịng trích sau đây là của Hoài Thanh ghi lại trong hội chợ Huế về
một đám ma giả:


<i>“Nghe đâu hiệu cho thuê ô tô đám ma có xin bày trong Hội chợ. Người ta </i>
<i>khơng cho, vì lẽ gì chắc ai cũng hiểu. Thế rồi họđược phép làm một đám ma giả</i>
<i>đi diễu khắp đường phố</i> <i>để... quảng cáo. Không cho phép bày trong Hội chợ mà </i>
<i>cho phép đi ngồi đường phố thì cái tệ lại gấp hai. </i>


<i>Bạn đọc thử tuởng tượng một đám ma y hệt như</i> <i>đám ma thực, cũng nhà </i>
<i>táng, cũng chiêng v.v. chỉ thiếu có người chết nằm trong quan tài, đi bước một </i>
<i>khắp các đường phố. Một bọn vô lại thấy hay hay đi theo, có đứa lại rống tíếng </i>
<i>khóc chơi:” Cha ơi là cha ơi!”. Cái cảnh tượng ấy diễn ra giữa lúc các đường </i>
<i>phố</i> <i>đều chật ních người đi xem Hội chợ. Thực là nhố nhăng, thực là chướng </i>
<i>mắt. </i>


<i>Nếu ởđời này có một điều nghiêm trọng, một điều khiến người ta e dè, điều </i>
<i>ấy là cái chết. Đối với cái chết lịng kính trọng, lịng lo sợ của người</i> <i>ta</i> <i>là sự tự</i>
<i>nhiên, cái chết không phải giống có thể</i> <i>đưa ra mà đùa, mà làm cuộc vui như</i>
<i>vậy được.” </i>


( <i><b>Nh</b><b>ữ</b><b>ng </b><b>đ</b><b>i</b><b>ề</b><b>u không vui trong h</b><b>ộ</b><b>i ch</b><b>ợ</b><b> Hu</b><b>ế</b>-</i> <i>Tràng An</i> số 102 ngày
6-3-1936)


</div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106>

*


Hoài Thanh có những suy nghĩ khá độc đáo về đạo Phật trong bài viết:”<i><b>M</b><b>ộ</b><b>t </b></i>
<i><b>quan ni</b><b>ệ</b><b>m v</b><b>ề</b></i> <i><b>đạ</b><b>o Ph</b><b>ậ</b><b>t: </b><b>Đạ</b><b>o Ph</b><b>ậ</b><b>t c</b><b>ủ</b><b>a tôi” </b></i>trên <i>Tràng An </i>số 21, ngày
10-5-1935.



Chúng ta đều biết, từ lâu rồi, thành phố Huế là một trung tâm Phật giáo của
cả nước với rất nhiều chùa và tín đồ thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội. Hồi Thanh,
sau 5 năm sống hịa mình trong cảnh sắc thiên nhiên và con người ỏ Huế, khi
viết bài này ơng chợt nhận ra: <i>“Đạo Phật cũng như dịng nước sông Hương, ánh </i>
<i>trời chiều trông tươi vui, ánh trăng lên trông huyền ảo, mà kẻ dạo chơi trên bờ</i>
<i>sông, người chèo thuyền dưới sông, mỗi người, tùy vị trí của mình trơng nước </i>
<i>sơng thấy một khác “. </i>Tác giả cho rằng đạo Phật không phải là một tơn giáo có
đấng chí tơn sinh ra mn lồi mà là một triết thuyết về cuộc sống dựa trên một
cơ sở khoa học. Ơng viết:


<i>“Riêng ý tơi, đạo Phật không phải là một tôn giáo. Đạo Phật là một cái </i>
<i>thuyết về triết học, có căn cứ vững vàng vào khoa học. </i>


<i> Có người tinh ranh hỏi bà láng giềng tơi:”Bà tin đức Phật Tổđem lịng từ</i>
<i>bi cứu vớt chúng sinh ra khỏi thế giới khổ hạnh. Nhưng đức Phật Tổ của bà thật </i>
<i>cũng lơi thơi. Đã có lịng thương mn lồi khơng muốn cho mn lồi chịu mọi </i>
<i>điều đau đớn, sao lại còn bày vẽ ra thế giới khổ hạnh này làm gì? Tự mình tạo </i>
<i>ra cái khổ rồi tự mình diệt đi, làm gì vậy?” Hỏi như thế là buộc cho Phật Tổ cái </i>
<i>quyền tạo hố mà vốn Phật Tổ khơng có. Đạo Phật là một đạo khơng có tạo </i>
<i>hố, khơng có một vị chí tơn gây dựng nên trời đất và mn lồi như thói </i>
<i>thường trong các tơn giáo; một đạo vô thần vậy (une religion sans dieu). Trời </i>
<i>đất và mn lồi tự nhiên vốn có như vậy, và cũng tự nhiên đi theo những luật </i>
<i>bất di bất dịch từ ngàn xưa. </i>


<i> Luật cốt yếu trong đó là luật luân hồi nói một cách khác là luật nhân quả</i>
<i>của các nhà khoa học. Nhân dun nào thì kết quảấy, khơng có sức gì, quyền gì </i>
<i>thay đổi được. Phép cứu vớt chúng sinh cũng khơng có gì khác hơn là làm cho </i>
<i>chúng sinh giác ngộ cái lẽ tự nhiên ấy và xử trí thế nào cho hợp lẽ. </i>


Trong một chuyên luận dài đăng liền hai kỳ báo (<i>Tràng An</i> số 43 và 44 các ngày


26 và 30-7-1935)mang tựa đề<b>:”</b><i><b> Phong tri</b><b>ề</b><b>u Ph</b><b>ậ</b><b>t giáo ph</b><b>ụ</b><b>c h</b><b>ư</b><b>ng”</b></i> Hoài Thanh
đã nêu ra khá nhiều lý giải có sức thuyết phục.<i> Người ta và mn vật mn </i>
<i>lồi đều là hình thức của cái năng lực tiềm tàng (8) tràn lan trong vũ trụ. Năng </i>
<i>lực ấy bản thể nó khơng phải là vật chất mà cũng khơng phải là tinh thần. Nên </i>
<i>lý thuyết của nhà Phật không duy tâm mà cũng khơng duy vật vì Tâm và Vật xét </i>
<i>cho cùng chỉ là một mà thôi. Năng lực ấy đại khái người ta có thể ví như một </i>
<i>luồng điện. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107>

<i> Có điều ta nên biết là cái thuyết về nguyên tử (théorie atomique) của hố </i>
<i>học ngày nay có nhiều chỗ rất giống cái vũ trụ quan nhà Phật.”</i>


Quan sát từ một tình hình đang diễn ra là thời ấy có một phong trào phục
hưng Phật giáo khá rầm rộ. Nhiều hội đoàn của Phật tử được thành lập, nhiều
sách báo, tạp chí nghiên cứu Phật học thi nhau ra mắt cơng chúng. Hồi Thanh
cho rằng có phong trào ấy là do bởi ba nguyên nhân lớn: lòng tự ái của chủng
tộc, lòng khát vọng một cái lý tưởng để theo và nạn kinh tế khủng hoảng.


Tác giả tỏ ra hết sức thận trọng khi viết bài này : <i>“Vì chuyện có liên quan </i>
<i>đến tín ngưỡng của mấy muơi vạn con người. Trong đó tuy có một số khơng ít </i>
<i>những kẻ tin vờ, những phường lợi dụng, nhưng ai cũng phải nhận rằng phần </i>
<i>đơng vẫn sơi nổi một lịng tin thành thực cùng những hy vọng thiết tha. Mà lịng </i>
<i>tín ngưỡng của người ta miễn là thành thực bao giờ cũng đáng kính trọng.” </i>


Cũng như bài viết “<b>Đạo Phật của tơi</b>”, tác giả khơng bình phẩm, lý giải,
phân tích gì về giáo lý của đạo Phật, về những nhà tu hành trụ trì ở các chùa, các
nhà nghiên cứu Phật học mà chỉ quan tâm và bình luận về mặt ý nghĩa xã hội
của phong trào. Đây là một cách tiếp cận đúng. Cũng thật đáng ngạc nhiên, cách
đây hơn 70 năm mà tác giả có cách tiếp cận vấn đề tơn giáo khơng khác gì mấy
với chính sách về tơn giáo của nhà nước ta hiện nay .



Theo Hoài Thanh, Cái nguyên nhân đầu tiên khiến phong trào Phật giáo
phục hưng là: “<i>lịng tự ái chủng tộc</i>”. Ơng viết:


<i>“Xét cho đúng, trong lòng hâm mộ</i> <i>đạo Phật của trí thức Việt Nam khơng </i>
<i>phải khơng pha lẫn một tí lịng tự ái tự nhiên của chủng tộc.Người mình, hay nói </i>
<i>rộng ra , tất cả các dân tộc yếu hèn châu Á, trong bao nhiêu</i> <i>thế kỷ nhắm mắt </i>
<i>bàn việc thiên hạ, tự thánh tự thần, khơng cịn xem ai vào đâu. Bất giác tiếp xúc </i>
<i>với người Âu thấy mn sự gì người ta cũng hơn mình, từ cái thân thể khoẻ</i>
<i>mạnh, đều đặn của người ta cho đến tàu bay, tàu lặn cùng những học thuyết </i>
<i>uyên thâm, những công nghiệp vĩ</i> <i>đại. </i>


<i> Trên lý thuyết, trí khơn mình khơng kịp người ta; chung tay vào việc làm, </i>
<i>mình khờ khạo khơng bằng người ta, thậm chí có lấy sức vũ phu đấu với nhau, </i>
<i>mình cũng yếu khơn địch nổi người ta. Nhìn trước nhìn sau người mình khơng </i>
<i>cịn thấy một ưu điểm nào hết, khơng cịn biết vin vào đâu để tự an ủi lấy một </i>
<i>vài phần. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108>

<i> Cho nên nếu bảo rằng phong triều phục hưng Phật giáo có bà con xa gần với </i>
<i>tinh thần chủng tộc tự giác và tư tưởng quốc gia mới phôi thai lên, tưởng không </i>
<i>xa sự thực mấy.” </i>


Về nguyên nhân thứ hai: “<i>lòng khát vọng một cái lý tưởng để theo</i>” tác giả cho
rằng đa số quần chúng đều mơ ước có một cuộc đời tốt đẹp hơn, chi ít cũng xây
dựng cho mình một niềm tin vào Đấng linh thiêng sẽ cứu rỗi cuộc đời mình.
Niềm tin ấy rất đáng trân trọng.:


<i>“....Gia dĩ người ta phàm có biết suy nghĩ ít nhiều khơng thể sống một cuộc </i>
<i>đời bông lông kéo dài theo ngày tháng, không mục đích để theo đuổi khơng chủ</i>
<i>nghĩa để phụng thờ. Sống như thế chẳng bao lâu,người ta sẽ thấy chán đời, </i>
<i>chán mình, khinh mình. Phần thiêng liêng trong tâm linh người ta buộc người ta </i>


<i>phải vượt mình ra ngoài những sự nhỏ nhen, tầm thường hàng ngày. Cuộc đời </i>
<i>cần phải có ý nghĩa, cần phải hiến cho một cái lý tưởng cao rộng hơn cái phạm </i>
<i>vi chật hẹp của một đời, một người... </i>


<i>Trở lên là nói hạng trí thức. Nhưng nếu chỉ có hạng trí thức thì sự hâm mộ</i>
<i>đạo Phật khơng thành được phong triều. Đạo Phật cũng như hết thảy các tôn </i>
<i>giáo đều tìm số</i> <i>đơng tín đồ trong quần chúng. Mà quần chúng thì ở</i> <i>đâu cũng </i>
<i>vậy và bao giờ cũng vậy đi theo đạo chỉ vì một lẽ: theo đạo để mua lấy một cái </i>
<i>hạnh phúc dưới đời này khơng tìm thấy. Lẽ này là quan trọng hơn</i> <i>cả. Bản tính </i>
<i>người ta vốn chẳng tin gì những sự vơ vẩn không đâu, người ta tin ở những sự</i>
<i>thực mắt thấy tai nghe hơn. Nhưng mỗi khi sự thực không đủ cho người ta thỏa </i>
<i>mãn, người ta liền mượn những sự mộng tưởng huyền ảo thay vào. Giá thử</i>
<i>người ta khơng bao giờ</i> <i>đói rét, khơng bao giờ</i> <i>đau ốm, không bao giờ gặp </i>
<i>những cảnh thương tâm thì có lẽ khơng ai theo đạo. Trái lại, càng khổ cực </i>
<i>nhiều, càng hay mục kích những tai biến bất kỳ nó vượt ra ngồi sức thao túng </i>
<i>của loài người, người ta lại càng dễ tin ở mọi sức mạnh vơ hình.” </i>


Về nguyên nhân thứ ba: <i>nạn kinh tế khủng hoảng</i>.Tác giả viết với một
giọng văn vừa bi lại vừa hài như muốn tỏ bày niềm xúc động về những bi hài
kịch trong xã hội thời bấy giờ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(109)</span><div class='page_container' data-page=109>

<i>đảm được ngày mai! Ngày mai! Ai còn biết ngày mai sẽ</i> <i>đưa tới những tai nạn </i>
<i>gì? </i>


<i> Người ta không dám tin ở ngày mai, người ta khơng dám tin ở trí khơn, ở sức </i>
<i>khoẻ của người ta cùng những sự làm ăn bình thường từ trước đến giờ nó vẫn </i>
<i>đưa đến cho người ta một cái hạnh phúc tầm thường mà chắc chắn. Người ta </i>
<i>chỉ tin ở sự may rủi. Người ta đi tìm hạnh phúc trong sự may rủi. Nát Bàn và </i>
<i>mọi sự sung sướng ở kiếp sau đều là sự may rủi, may thì có, rủi thì khơng. </i>
<i>Người ta thắp hương, người ta tụng kinh cũng như người ta mua vé xổ số, may </i>


<i>trúng số mười vạn, không may không trúng cũng chẳng sao. Thực ra, thắp </i>
<i>hương tụng kinh mà mong vào Nát Bàn nào có chắc gì hơn mua một vé xổ số mà </i>
<i>mong trúng số mười vạn! Nhưng kiếp này rồi còn kiếp sau, xổ số này rồi còn xổ</i>
<i>số sau. </i>


<i> Phật giáo được hâm mộ và cuộc xổ sốĐông Dương được hoan nghênh cùng </i>
<i>do một nguyên nhân và trong đạo Trời cũng như trong cuộc xổ sốĐông Dương, </i>
<i>luật luân hồi là một luật vô cùng tận.” </i>


*


Phần hai của bài viết dược đăng ở kỳ báo tiếp theo, tác giả muốn gửi tới các
bạn thanh niên thời bấy giờ một thông điệp về lẽ sống, về thái độ của người
thanh niên trước một bối cảnh xã hội “mờ mờ nhân ảnh” lúc bấy giờ.


Một lần nữa tác giả bày tỏ sự thận trọng của mình đối với phong trào phục
hưng Phật giáo ; <i>“ trong lúc xét cỗi gốc một phong triều, chúng tơi hết sức giữ</i>
<i>trung lập,chỉ cốt tìm chân lý và khơng hề phụ thêm lời bài xích hay phê bình. </i>
<i>Chúng tơi khơng phải tín đồ</i> <i>đạo Phật, nhưng đối với lịng tín ngưỡng của bao </i>
<i>nhêu người, chúng tơi rất kính cẩn và khơng muốn xâm phạm đến một cách trái </i>
<i>lễ.”</i>


Tác giả nói rõ chỗ đứng của mình trên vấn đề này là: “ ...chúng tơi khơng
bình phẩm giáo lý đạo Phật, chúng tơi chỉ nói cái đạo Phật giữa đời, đạo Phật
của các nhà tu và của các môn đệ thực hành xưa nay mà thôi. Chúng tôi không
đứng về phương diện siêu hình học, chúng tơi chỉ đứng về phương diện xã hội.
Cái thuyết siêu hình của đạo Phật hoặc là một thuyết đúng với chân lý cũng nên.
Nhưng đúng hay không đúng, chúng tôi không cần biết. Chúng tơi chỉ biết cái
đạo Phật có người tin, có người theo. Một đạo lý dẫu hay mà chưa hề có ai tin
theo thì đối với xã hội cũng như khơng có. Khơng có khơng cần nói đến”.



Điều tác giả quan tâm không phải là học thuyết Phật giáo có từ thời Phật Tổ
hơn 2500 năm trước cùng với vô vàn kinh kệ và các pho giáo lý, các sách thuyết
lý còn lưu giữ và phát triển không ngừng cho đến hiện nay. Tác giả chỉ bàn về
những điều trái lý lẽ trong cái đạo Phật đang được thực hành trong xã hội hiện
tại.


Tác giả có nhắc đến một sự trái lẽ của đạo lý nhà chùa trong tiểu thuyết


<i>Hồn bướm mơ tiên</i> của Khái Hưng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(110)</span><div class='page_container' data-page=110>

<i>nhau đến cực điểm phải dằn lòng đoạn tuyệt với bao nhiêu cái vui nồng nàn của </i>
<i>ái tình và của cuộc đời hoạt động. </i>


<i> Hồn bướm mơ tiên chỉ nêu một sự trái lẽ. Trong đạo Phật còn bao nhiêu </i>
<i>sự trái lẽ phải, trái với lẽ sống</i>”


Theo tác giả, cái “đạo Phật thứ hai”- không phải học thuyết Phật giáo- đang
được thực hành lúc bấy giờ có nhiều sự “trái lẽ phải, trái với lẽ sống”.


Tác giả phản biện rằng:” <i>Đã phân tách ra đạo Phật trong lý thuyết của Phật </i>
<i>tổ cùng đạo Phật thực hành của người đời và dẹp cái đạo Phật thứ nhất về một </i>
<i>bên, chúng tơi khơng cịn ngần ngại gì mà khơng quả quyết nói rằng đạo Phật </i>
<i>thứ hai này có nhiều điều trái với sự sống. Một chứng cớ chắc chắn cho lời nói </i>
<i>của chúng tơi là nếu khắp cả các dân tộc tự nhiên đua nhau theo đạo Phật, đua </i>
<i>nhau theo một cách triệt để, nghĩa là vào chùa đi tu thì lồi ngưịi trong một </i>
<i>thời gian rất ngắn sẽ lên cõi Nát Bàn hết, hay nói cho rõ ra , sẽ chết đói hết, </i>
<i>chẳng cịn ai sống nữa đểđi tu” </i>


Tác giả khơng tán thành cái thái độ xa lánh cuộc đời, xa lánh thực tế cuộc


sống là điều không hợp với các quy luật của tự nhiên và xã hội từ bao đời nay:


<i>“Sự thực, cuộc đời như một con sơng,vẫn lặng lẽđi theo con đường của nó </i>
<i>từ xưa đến nay, khơng có lý thuyết nào ngăn đón được, khơng có sức gì lay </i>
<i>chuyển được. Những luật chi phối cuộc đời là những luật bất di bất dịch, khơng </i>
<i>có vì một lẽ gì mà thay đổi. Lý thuyết nào trái với các luật ấy nhất thiết sẽ bị xô </i>
<i>đổ cùng với bao nhiêu người tựa vào nó.. </i>


<i> ... Chân lý ở trước mắt ta chung quanh mình ta, ở trong cuộc đời thực tế</i>
<i>phong ba rộn rịp, xán lạn, huy hoàng, trong những kỳ công của khoa học, những </i>
<i>sự nghiệp bất hủ, những nỗi vui sướng cùng những nỗi đau thương của loài </i>
<i>người, từ khi có lồi người. Trong thế giới hữu sắc, hữu hình và hữu tình vậy. </i>
<i>Chúng tơi sống trong thế giới này một cuộc đời nồng nàn mà say sưa. Rồi một </i>
<i>ngày kia thế giới có tan ra, chúng tôi sẽ thản nhiên đi vào chốn hư vô, không </i>
<i>phàn nàn, không nhớ tiếc. Vũ trụ này cùng với loài người và mọi loài nếu chỉ</i>
<i>làm một vì sao băng trong đêm tối rồi vụt biến đi không trở lại cũng đủ rồi. </i>
<i>Chúng tôi không muốn hy vọng hơn nữa”. </i>


Bàn về đạo Phật, về phong trào phục hưng Phật giáo, thực ra Hoài Thanh
muốn kêu gọi các bạn trẻ cần phải có một sự dấn thân vào cuộc sống, vào công
việc xã hội phù hợp với lẽ phải, với quy luật của đời sống. Tác giả khơng đồng
tình với thái độ thốt ly đời sống , tự khốc cho mình chiếc áo “vô vi” ngoảnh
mặt làm ngơ trước mọi bất công của xã hội.


Trước một vấn đề phức tạp mang tính xã hội rộng rãi là phong trào phục
hưng Phật giáo thời bấy giờ, ngòi bút Hồi Thanh quả là có bản lĩnh vững vàng.
Bản lĩnh ấy không phải do “lên gân” hoặc “lên mặt dạy đời” mà rất mềm mại, có
lý, có tình dễ đi được vào lòng nguời. Cuối bài, tác giả bày tỏ một sự chia sẻ,
cảm thông rất chân thật:



</div>
<span class='text_page_counter'>(111)</span><div class='page_container' data-page=111>

<i>cho khách viếng chùa cái thi vị bóng hồng hơn trên đồi sắn cùng tiếng mõ, mùi </i>
<i>hương trong giây phút có thể làm người ta quên những sự mệt nhọc của cuộc </i>
<i>đời huyên náo thì cũng là một điều hay”. </i>


*


<i>“ Mục đích rõ rệt và tự nhiên của sự sống, là sự sống. Chúng tơi nói thêm: </i>
<i>mục đích ấy tự nhiên và chính đáng và nên theo. </i>


<i>Phải tin ở sự sống, phải hăng hái sống, phải làm thế nào cho cái đời của ta </i>
<i>và của mọi người chung quanh ta ngày một đầy đủ thêm, dồi dào thêm, đẹp đẽ</i>
<i>thêm: đó là một tín ngưỡng căn bản. </i>


<i>Tín ngưỡng ấy vứt đi, bao nhiêu việc lớn lao xưa nay vứt đi hết. Vì vô nghĩa. </i>
<i>Cả lâu đài văn minh, đồ sộ, đã dựng lên bởi bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, bao </i>
<i>nhiêu sựđau đớn, bao nhiêu sinh mạng, cũng thành ra vơ nghĩa.”</i>


Trên đây là mấy câu trích trong bài <i><b>“Ý ngh</b><b>ĩ</b><b>a </b><b>đờ</b><b>i ng</b><b>ườ</b><b>i”</b></i> mà Hoài Thanh đã
viết từ năm 1936 trong bài mở đầu cuốn <i><b>“V</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng và hành </b><b>độ</b><b>ng”</b></i>. Tơi
nghĩ, đây chính là niềm tin để sống trong một xã hội ngột ngạt thời Hoài Thanh
viết báo <i>Tràng An.</i>


Hồi Thanh dành cho mình một số thời gian để đi tìm vẻ đẹp văn chương
-một vẻ đẹp theo ông là thuần khiết của tâm hồn con người. Vẻ đẹp ấy có năng
lực làm cho con người tạm thời yên ổn trước mọi căng thẳng trong cuộc sống
thường ngày. Được đắm mình, hịa tâm hồn mình trong vẻ đẹp tâm hồn người
cùng cảnh sắc tuyệt vời của thiên nhiên là một niềm vui của cuộc sống. <i>“Cái </i>
<i>hay trong văn chương nó nhẹ nhàng, nó huyền diệu lắm.Nếu có thể ví được, </i>
<i>chúng tơi sẽ ví nó như con bướm xinh đậu trên bông hoa tuơi thắm, hay vừng </i>
<i>trăng vàng nhấp nhô trên mặt nước sông Hương. Một tiếng động, một hơi gió có </i>


<i>thể làm cho con bướm sợ, cho ánh trăng tan</i>” ( <i>“</i>Phong trào xem chuyện lịch
sử<i>”-Tràng An</i> số 32 ngày18-6-1935)


Trong mục “ Chuyện rông” ở <i>Tràng An</i> số 7(22-3-1935) dưới bút danh “Nhà
Quê”, Hoài Thanh dựng lên một cuộc đối thoại giữa một tín đồ sùng đạo Phật
với người bạn ngoại đạo của mình về sự đối chọi giữa hai quan niệm sống . Ơng
bạn sùng đạo thì cho rằng cần thốt tục để thốt mọi nỗi phiền muộn ở đời. Ví
như đừng yêu hoa vì hoa rồi tàn héo thì sẽ buồn; đừng sa vào tình ái vì khi tan
vỡ lại khổ đau v. v.


Người bạn yêu đời cãi lại rằng:” <i>Thì chúng tơi vẫn biết thế mà ai ngu độn </i>
<i>đến thế nào lại không biết một sự hiển nhiên như thế, nhưng chúng tôi vẫn cứ</i>
<i>yêu hoa. Bông hoa như thế kia anh bảo không yêu sao được? Chúng tơi lại u </i>
<i>hoa hơn vì chúng tơi biết hoa thường hiện ở</i> <i>đời này trong chốc lát thơi. Cái </i>
<i>Hay, cái Đẹp cần gì phải lâu bền mới hay, mới đẹp”</i>


Bạn của vị tín đồ cãi tiếp về sự đau khổ trên đời


</div>
<span class='text_page_counter'>(112)</span><div class='page_container' data-page=112>

<i>hững hờ với bao nhiêu cái hay, cái đẹp ởđời. Khóc chưa phải là khổ, khơng biết </i>
<i>cười, khơng biết khóc mới thực là khổ.Có như vậy mới là sống thực.” </i>


Trong bài <i>“Sông Hương”</i> (<i>Tràng An</i> số 12 ngày 9-4-1935) nhân vật Niên (
phải chăng chính là tác giả? ) ngồi bên bờ sông Hương suy nghĩ miên man về
đất trời về vũ trụ :


<i> “...ngày nào, ngày nào, một ngày đã lâu lắm, trong một vùng hoang vu, mù </i>
<i>bay sương phủ, luồng gió nhẹ lướt đám cỏ bồ làm rơi những giọt sương xuống </i>
<i>dịng nước suối róc rách. Rồi từ</i> <i>đó giọt sương đi. Đi ra chốn sóng ngang trời, </i>
<i>mênh mông, hung dữ. </i>



<i> Niên tin rằng giọt sương cũng biết vậy. Chẳng thế sao mãi bây giờ mới tới </i>
<i>đây như còn dùng dằng lưu luyến những đám cỏ bồ hoa thơm, những chốn núi </i>
<i>non lặng lẽ, những làng mạc êm đềm ấm áp như tổ chim cùng những đền, những </i>
<i>tháp, những thành qch, lâu đài đã lần lượt in bóng trong mình sương? </i>


<i>... Xa xa mấy ngọn đèn điện bên vệ</i> <i>đường bng xuống dịng sơng những </i>
<i>cây sào vàng song song, dập dờn, rung rinh. Niên ngắm cảnh, Niên tiếc, Niên </i>
<i>sợ: một hơi gió, một làn sóng là có thể phá tan cảnh đẹp trước mắt Niên.Trong </i>
<i>lúc đó Niên có cái cảm giác vũ trụ vơ cùng hoang phí mà cũng vơ cùng dồi dào. </i>
<i>Bao nhiêu cái xán lạn, cái rực rỡ, cái yêu kiều tạo ra trong nháy mắt, trong </i>
<i>nháy mắt lại thu đi một cách điềm nhiên vô ý thức</i>...”


Nhưng rồi cuộc đời thực kéo suy nghĩ của Niên về với thực tại :


<i>“Mườì một giờ. Một tiếng cịi tàu dài rồi những tiếng hậm hực, những tia </i>
<i>lửa tung trong bóng tối. Cảnh ấy Niên cịn lạ gì nhưng sao hơm nay trơng có </i>
<i>chiều ghê sợ vậy? Niên mơ màng như vụt nhớ cảnh mặt trời mọc ở một thế giới </i>
<i>u ám, lạ lùng nào. Lúc chíếc tàu xào xạc đi qua cầu Bạch Hổ, Niên thấy rõ ràng </i>
<i>cái vẻ khủng khiếp, hãi hùng của dịng sơng, Niên thống nghe tiếng ai rên </i>
<i>rỉ…” </i>


Đọc mấy dịng trích trên tơi cứ liên tưởng hồi đến những câu thơ cùng thời
của Xuân Diệu:


<i> Tôi muốn tắt nắng đi </i>
<i> Cho màu đừng nhạt mất; </i>
<i> Tơi muốn buộc gió lại </i>
<i> Cho hương đừng bay đi. </i>
<i> ... </i>



Nhưng rồi nhà thi sĩ, ở một bài thơ khác, ông cay đắng nhận ra:


<i> Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt </i>
<i> Cơm áo không đùa với khách thơ</i>


*


</div>
<span class='text_page_counter'>(113)</span><div class='page_container' data-page=113>

thuyết này. Xin xem bài <i>“ M<b>ộ</b><b>t bu</b><b>ổ</b><b>i</b></i> <i><b>nói chuy</b><b>ệ</b><b>n ngh</b><b>ệ</b><b> thu</b><b>ậ</b><b>t”</b></i> <b>Tràng An</b> số 118
ngày 28-4-1936. Bài có in trong sách này.)


Hồi Thanh có thực sự là đồ đệ của thuyết “nghệ thuật vị nghệ thuật” do
Théophile Gautier đề xướng và đã được một vài nhà văn danh tiếng Âu châu
nhiệt liệt tán thành hồi thế kỷ XIX không? Về vấn đề này, tôi không muốn và
thấy không cần bàn ở bài viết này. Bởi vì, cơng cuộc Đổi Mới được khởi xướng
từ 1986 đến nay đã gần ba mươi năm. Toàn bộ các lĩnh vực của xã hội và đời
sống tinh thần của nhân dân ta đã chuyển động theo hướng tích cực của sự
nghiệp Đổi mới. Nhiều giá trị văn chương trước đây từng bị phê phán hoặc bị
vùi dập oan uổng nay đã được trả lại vẹn nguyên giá trị và đã góp phần đáng kể,
đáng tự hào cho nền văn học dân tộc Việt Nam cận - hiện đại. Từ 1988 và cho
tới nay, <i>Thi nhân Việt Nam </i>đã tái bản trên 40 lần với vài chục vạn bản; rồi <i>Văn </i>
<i>chương và hành động </i>cùng với các bài Hoài Thanh viết trong cuộc tranh luận <i>“ </i>
<i>Nghệ thuật vị...” </i> cũng đã được tái bản hoặc có mặt trong nhiều hợp tuyển,
nhiều cơng trình nghiên cứu, được cơng bố rộng rãi. Hiện tượng ấy mang nhiều
ý nghĩa tích cực. Thiết tưởng tơi khơng cần phải nói gì thêm.


Hồi Thanh đã được “giải oan” khá nhiều qua các cơng trình nghiên cứu của
nhiều giáo sư, nhà lý luận, nhà khoa học và cả các bài viết về ông của nhiều nhà
văn cùng thời hoặc thuộc thế hệ sau ông. Hầu hết mọi người đều đã công nhận
ông là một nhà văn, nhà nghệ sĩ, nhà văn hố chân chính, một chiến sĩ tiên
phong trên trận địa văn nghệ cách mạng. Giải thưởng cao quý - giải Hồ Chí


Minh về văn học nghệ thuật - Nhà nước truy tặng ông là một sự khẳng định
mạnh mẽ cơng lao của Hồi Thanh đối với nền văn học dân tộc, nền văn học
cách mạng.


Tơi chỉ xin nói rõ thêm một vài điều về cuộc tranh luận ngày xưa ấy theo sự
tìm hiểu qua nhiều tư liệu tơi có trong tay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(114)</span><div class='page_container' data-page=114>

đổi được với ông . Tác giả luôn kính trọng ơng, xem ơng là người có thực tâm
trong cuộc tranh luận hồi 1935.


Hoài Thanh tự chấm dấu hết cho cuộc tranh biện mà ông cho là vơ bổ. Từ khi
nó nổ ra trực diện với Hồi Thanh là tháng 8-1936 thì hơn hai tháng sau, với bài
viết thứ tư, Hồi Thanh im tiếng. Ơng viết “ <b>Văn chương và hành động”(</b>giữa
năm 1936) với mong muốn mượn sách nói một cách ơn hồ, thành thực để đáp
lời cãi vã mạnh mẽ và có phần quy tội nặng nề cho Hoài Thanh của “chiến
tuyến hợp nhất’ lác đác kéo dài cho tới tận năm 1939. Tiếc thay, “<b>Văn chương </b>
<b>và hành động”</b> khơng làm được cái việc Hồi Thanh mong muốn vì nó bị cấm
ngay từ lúc sách mới in xong, chưa kịp phát hành. Một vài đoạn trong cuốn sách
ấy được đăng lẻ tẻ trên <i>Tao Đàn, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo </i>không đạt
hiệu quả mong muốn của tác giả<i>.</i>


Hơn bảy mươi năm đã qua rồi. Các bài tranh biện của cả hai bên đã công bố
rộng rãi.


Người đọc ngày nay rất dễ nhận ra cái điểm đồng quy, điểm đúng của cả hai
bên mà sao hồi ấy lại cứ phải cãi nhau, thậm chí "kết tội" này nọ cho nhau?


Tôi tạm tưởng tượng ra một câu chuyện “cổ tích tân thời” có tính chất “minh
họa thô sơ” về cuộc tranh luận ngày xa xưa ấy cho vui:



“...Có một ơng già dễ thường đến nay đã trên một trăm tuổi kể rằng: một
hôm, ông di vào một quán cơm quen thuộc ăn trưa theo lệ thường. Ngồi cùng
bàn với ông là một chàng thanh niên mang dáng vẻ nhà quê nhưng từ cách ăn
mặc cho đến lời ăn, cử chỉ. xem ra là người có học thức. Ơng già đốn có lẽ anh
chàng này hẳn là đang làm thuê cho ông chủ giàu có nào đó nhưng chắc lương
không cao nên chỉ thấy chàng gọi cơm với món canh hến. Chàng ta cứ tấm tắc
khen ông chủ quán có cách nấu cơm thật ngon và khéo. Và cái món canh hến
cũng q ngon và rẻ. Ơng già cũng tán thưởng và đồng tình với lời khen của cậu
thanh niên. Cả hai cùng cười vui ha hả.Ở bàn bên cạnh, có một nhóm người có
vẻ là dân thành phố vì nhìn mâm cơm của họ thấy có nhiều món ăn đắt tiền hơn
nhiều lần món cơm và canh hến của hai người. Bỗng đâu có mấy người ở bàn
bên nhảy sang chỉ mặt chàng thanh niên nói to: “ Cậu chỉ biết khen cách nấu ăn
của quán này là sai. Cậu phải biết: cơm ngon “<i>dẻo thơm một hột”</i> như vậy là”


<i>đắng cay mn phần</i>” khơng?”. Chàng thanh niên cịn chưa kịp hiểu tại sao khi
khơng lại có chuyện <i>đắng cay</i> trong hột cơm thì bị mấy người kia bồi thêm:”
Khơng có người nơng dân vất vả, đổ mồ hơi, sơi nước mắt thì làm sao mà có
cơm cho cậu ăn? Chỉ có bọn nhà giàu các cậu mới bày ra cái kiểu nấu nướng
phải thế này, phải thế kia thì mới ngon mà khơng hiểu gì nỗi khổ của người làm
ra lúa gạo”.


Sẵn máu hung hăng, hiếu thắng của tuổi trẻ nên họ cãi nhau to tiếng. Chán
quá, chàng thanh niên bỏ dở bữa cơm với canh hến đang ngon miệng và chỉ nói
lại một câu:“Hạt lúa, hột cơm từ người chân lấm tay bùn làm ra ai mà chả biết.
Nhưng cũng hạt gạo ấy mà có người nấu thành một thứ cơm <i>“trên sống, dưới </i>
<i>khê, tứ bề nhão nhoét</i>” thì ai mà nuốt nổi?”


</div>
<span class='text_page_counter'>(115)</span><div class='page_container' data-page=115>

nhà giàu, bênh cho bọn nhà giàu v.v..” “ Còn chàng thanh niên – ơng già kể tiếp
– hố ra chẳng phải là ai xa lạ: đó là người ơng vẫn đọc đuợc những bài báo của
cậu bênh vực dân quê, chửi bọn giàu sang bóc lột dân quê. Cậu ấy thường ký tên


duới các bài viết của mình là Nhà Quê đấy! Vì cậu ta viết các bài châm chọc nhà
cầm quyền, bênh vực người nghèo nên nghe đâu cậu ta bị cấm không được viết
báo nữa...”


Ông già kể chuyện ngày xưa ấy mất đã lâu rồi. Hố ra ơng cụ ấy là nhà giáo
nhưng cũng là một người viết văn chuyên kể chuyện những người nghèo khổ
trong xã hội. Giá ơng cịn sống đến bây giờ thế nào tơi cũng tìm gặp ơng để nói:’
Cụ ơi, cái đám cãi nhau ngày xưa ấy hoá ra sau 1945 hầu hết đều là cán bộ cách
mạng cả. Có người cịn làm rất to nữa đấy cụ a,” Cịn một chi tiết nữa tơi cũng
phải nhắc lại với ông già kể chuyện “cổ tích” (mà tơi bịa ra) rằng:” Cụ chắc cịn
nhớ hồi 1941 học giả Đặng Thai Mai đã viết trong cuốn <i>Văn học khái luận </i>nổi
tiếng một câu như vầy:’<i>Cuộc luận chiến giữa hai phái nghệ thuật vị nghệ thuật </i>
<i>và nghệ thuật vị nhân sinh ngày nay đã thành câu chuyện cũ”</i>


Đặng Thai Mai viết như vậy, tính từ lúc nổ ra cuộc tranh luận chỉ mới năm
năm. Năm năm mà “đã thành câu chuyện cũ”. Đã cũ rồi thì cũng chẳng cịn gì
để bàn lại cho “mới” hơn! ( Xin nói thêm: Thực ra thì vấn dề nêu ra từ đầu cuộc
tranh luận mà một bên dày công tra sách vở Tây để nói rằng “<b> nghệ thụật vị</b>


<b>nhân sinh” mới đúng.</b> Điều này cái gọi là phái “<b>nghệ thuật vị nghệ thuật” </b>đã
dồng tình ngay từ đầu cuộc tranh luận<b>. </b>trong khi cuộctranh luận nổ ra mới gần
một tháng rưỡi, Ở bài viết thứ hai, bài “<i>Tiếp theo bài”Văn chương là văn </i>
<i>chương</i>” ngày 1-10-1935, <i>Hồi</i> Thanh viết:”<i><b>Nói cho cùng, ngh</b><b>ệ</b></i> <i><b>thu</b><b>ậ</b><b>t nào mà </b></i>
<i><b>ch</b><b>ẳ</b><b>ng v</b><b>ị</b><b> nhân sinh, khơng vì cái sinh</b></i> <i><b>ho</b><b>ạ</b><b>t v</b><b>ậ</b><b>t ch</b><b>ấ</b><b>t thì c</b><b>ũ</b><b>ng vì sinh h</b><b>ọ</b><b>at tinh </b></i>
<i><b>th</b><b>ầ</b><b>n c</b><b>ủ</b><b>a ng</b><b>ườ</b><b>i ta</b></i> “)


*


Qua những bài viết đầy tính chiến đấu về các vấn đề xã hội, văn chương,
văn hóa, kinh tế, pháp luật, chính trị, tơn giáo v. v. ta thấy một Hồi Thanh, ngay


từ thời cịn độ tuổi thanh niên, đã có thái độ dấn thân vào mọi vấn đề của đời
sống xã hội. Cách dấn thân của Hồi Thanh là nói thẳng những suy nghĩ, những
kiến nghị, những kiến giải...mà ơng tự tin là mình nói đúng bằng một tấm lòng
chân thật , đầy sự ưu ái với những con người chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ nhất
trong xã hội thời bấy giờ. Với ngịi bút của mình, ông tìm mọi cách mỉa mai, phê
phán bọn cầm quyền thực dân và Nam triều làm cho bọn cầm quyền đương thời
rất khó chịu. Thậm chí ơng biết cái gọi là nhà nước Bảo hộ và Nam triều có thể
bắt giam, bỏ tù hoặc chi ít bắt ông phải “câm miệng”- nghĩa là tước quyền ngôn
luận của ông. Và chúng đã làm như vậy. Từ giữa năm 1936, chúng cấm ông viết


<i>Tràng An</i>, không chấp nhận để ơng tham gia tịa soạn báo. Liền sau đó, chúng
tịch thu cuốn “<b> Văn chương và hành động”</b> của ơng chỉ vì dù nội dung chính
của cuốn sách là chuyện văn chương, nhưng ông cũng đã nói thẳng trách nhiệm
của người cầm bút chân chính đối với xã hội là cần phải hành động chống mọi
bất công đang phơi bảy ra trước mắt mọi người bởi cường quyền gây ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(116)</span><div class='page_container' data-page=116>

Trong bài viết “<i>Hai giờ</i> <i>đêm đi xem lễ Nam Giao</i>” đăng trên <i>Tràng An</i> số
106 ngày 13-3-1936, Hoài Thanh ngơ ngác cảm nhận có một điều gì đó khơng
cịn phù hợp với bối cảnh mới của thời đại bấy giờ. Từ cảnh viên toàn quyền và
một vài quan Tây cao cấp cùng một số quan lại Nam triều (trong đó có một ơng,
ơng N.H.B. nhờ có mặc áo thụng xanh mà chui được lên đứng ở đàn tế thứ nhất
cùng nhà vua và các quan Tây. Giờ khắc thiêng liêng làm lễ cáo với Trời Đất
của nhà vua đã đến. Tác giả viết:


<i>“ Chừng ba giờ khuya, Hoàng thượng lễởđàn thứ nhất xong xuống đứng ở</i>
<i>đàn thứ nhì lạy bốn lạy, Ngài đội mũ bình thiên có tua ngọc, mặc áo cổn miễn, </i>
<i>người to cao trông rất oai nghi. Người ta khơng ngờ một người bận âu phục, </i>
<i>đánh ten-nít, chơi yacht mà trong lúc hành lễ lại có thể trịnh trọng và tự nhiên </i>
<i>được như vậy</i>”.



Tác giả ngơ ngác là phải. Một lễ tế thiêng liêng truyền thống lâu đời của
cha ông từ xưa giờ đây chỉ cịn thấp thống cái hình thức mờ mờ ảo ảo giữa trời
khuya ở chốn kinh thành cổ xưa. Nước đã mất vào tay ngoại bang rồi. Trời Đất
có biết cho chăng? Hồng đế vẫn làm lễ nghiêm trang, oai vệ nhưng “<i>Người ta </i>
<i>không ngờ một người bận âu phục, đánh ten-nit, chơi yacht mà trong lúc hành lễ</i>
<i>lại có thể trịnh trọng và tự nhiên được như vậy”</i>


Ở số báo trước, Hoài Thanh đã suy nghĩ về “Tương lai của lễ Nam Giao”:


<i>“ Lễ Nam giao, như nhiều người đã nói, có liên lạc mật thiết với sự thờ</i>
<i>phụng tổ tiên. Hoàng đế lấy tư cách là con Trời, làm lễ tế Trời để cầu hạnh phúc </i>
<i>cho mình và cho nhân dân. </i>


<i>Một lễ nghi có quan hệ như vậy cần phải hết sức thành kính. Đó là một </i>
<i>điều kiện khơng có khơng được. Điều kiện ấy hiện nay có hay không? Câu hỏi </i>
<i>ấy năm muơi năm về trước không ai nghĩ</i> <i>đến. Hồi bấy giờ cả toàn thể dân Việt </i>
<i>Nam đối với bao nhiêu sự</i> <i>đau đớn giữa đời chỉ biết ngây thơđể lòng tin ở thần </i>
<i>linh và ở Trời là chúa tể các vị thần linh. Không ai ngờ rằng tế Nam giao không </i>
<i>hợp lẽ và khơng có ích. </i>


<i>Nhưng đến nay thời thếđổi khác. Khoảng đầu thế kỷ hai muơi này đã thấy </i>
<i>bao nhiêu lâu đài xưa lần lần đổ nát. Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, </i>
<i>thần linh cũng thấy lũ dân đen lạnh lùng bỏ bàn thờ của mình đầy cát bụi đua </i>
<i>nhau đi sùng bái những vị thần linh mới ở tây phuơng sang. Núi sông Việt Nam </i>
<i>càng lâu càng thấy vắng bóng thần linh. Tiếng sét trong những cơn giơng tố</i>
<i>khơng cịn đủ sức khiến người ta cúi đầu; người ta bắt đầu bíết suy nghĩ. </i>


<i>Khoa học khơng thể nhìn nhận những vị thần linh</i> <i>mà người ta có thể kêu </i>
<i>cầu, có thể biếu lễ vật như biếu cho các quan vậy.” </i>



Hoài Thanh nghĩ tiếp:


</div>
<span class='text_page_counter'>(117)</span><div class='page_container' data-page=117>

<i>Vậy lễ Nam giao có thể cải cách cho hợp trình độ dân ta ngày nay khơng? </i>
<i>Tơi tưởng khó lắm. Sự dung hợp cái mới cái cũ trong lễ này là một điều chẳng </i>
<i>hay gì, </i>


<i>Tơi cịn nhớ có thấy trên một bức ảnh của trường Viễn đông bác cổ một cỗ</i>
<i>xe tứ mã trong đám rước Hoàng thượng lên Trai cung mà người đánh xe lại bận </i>
<i>âu phục và đội mũ tây trắng. Cái mũ tây trắng và bộ âu phục ở</i> <i>đây thật trơng </i>
<i>nó thế nào!” </i>


*


Tan lễ Nam Giao ra về, tác giả cay đắng nhận ra thân phận một người dân
mất nước,. Mất nước là mất tất cả. Mất luôn cả cái quyền làm chủ của con người
đã đành một lẽ. Đằng này, tác giả bực bội cảm thấy “<i>đến nỗi cái bóng của mình </i>
<i>cũng khơng tự chủđược” </i>:


<i>“Ra về, một mình đi bước một giữa hai rặng phi lao cao vút. Không một </i>
<i>hơi gió. Trăng trong suốt; trời xa thẳm, lạnh lùng. </i>


<i>Thỉnh thoảng một cái ô tô ầm ầm chạy tới sau lưng, ánh đèn pha in bóng </i>
<i>mình lên rặng tre trước mặt. Mình đi thong thả mà bóng mình lại cứ theo đèn ô </i>
<i>tô chạy nhưđiên cuồng và luôn ln thay đổi hình dạng. </i>


<i>Vơ vẩn tơi nghĩ bực về nỗi đến cái bóng của mình, mình cũng khơng tự chủ</i>
<i>được</i>.”


*



Như vậy đấy: Hồi Thanh và lớp người trí thức cùng thế hệ ông lúc đang độ
tuổi hai mươi! Những nẻo đường nào dẫn họ đến tương lai để có được các điều
kiện cần thiết cho họ vươn tới cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ là một câu hỏi khơng
dễ tìm lời giải đáp đúng nhất vào thời điểm ấy.


Riêng với Hồi Thanh, ơng chọn việc “dùng ngịi bút” để phấn đấu trở nên
“con người hồn tồn”- có nghĩa là sao cho càng ngày càng sống có ích hơn cho
cuộc đời , cho ngày một được gần hơn lẽ sống Chân - Thiện - Mỹ.


Và, thực sự ngòi bút ấy đã để lại cho người đọc hôm nay nhiều ngạc nhiên
về tâm hồn trong sáng, tấm lịng đậm tình người , ý chí kiên trì học hỏi, sự hiểu
biết sâu rộng của Hoài Thanh.


Qua những trang viết từ thời thanh niên của Hoài Thanh chúng ta càng hiểu
thêm về con đường ơng đã chọn thời ấy. Đó chưa phải là con đường <i><b>đ</b><b>úng nh</b><b>ấ</b><b>t</b></i>.
Nhưng trong hoàn cảnh thời bấy giờ của Hoài Thanh và nhiều thanh niên cùng
thế hệ với ông đã đi theo một con đường <i><b>đ</b><b>úng</b></i>. Hồi Thanh khơng phải là một
con người chỉ thờ “đạo văn chương” như một số người thường nghĩ. Ơng là
người gắn bó với Đời. Văn và Đời không sống tách biệt trong con người ông -
đúng hơn là trong tâm hồn ông. Ông luôn mơ ước văn phải hay mà hay trước hết
là truyền được cho người ta cái<i><b>đẹ</b><b>p c</b><b>ủ</b><b>a tâm h</b><b>ồ</b><b>n và c</b><b>ủ</b><b>a cu</b><b>ộ</b><b>c </b><b>đờ</b><b>i</b></i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(118)</span><div class='page_container' data-page=118>

tranh chống cái Ác, cái thái độ dửng dưng trước khổ đau của con người, cái thói
bạo ngược của những kẻ cầm quyền v. v. .. Đến nay, gần bảy mươi năm sau,
một nhà văn chiến sĩ đã nhắc nhở người viết văn cần có “tiếng nói xã hội”của
mình, Nguyễn Minh Châu viết:”...<i>Tôi nghĩ rằng thời nào và ởđâu cũng vậy, các </i>
<i>nhà văn chỉ có một việc chính và duy nhất là viết cho hay, ngoài ra, bằng uy tín </i>
<i>của mình, anh phải tham gia tiếng nói vào những vấn đề của con người, trước </i>
<i>những bất công, trước cái ác, anh khơng có quyền dửng dưng, thây kệ khi con </i>
<i>người bị</i> <i>đày đọa và chà đạp...”</i>



Con đường “<i>dùng ngịi bút”</i> ấy có thể chỉ mới là con đường cịn phải có
nhiều lúc mị mẫm gian khó, phải chịu nhiều áp lực hữu hình và vơ hình. Nhưng
thực tế đã chứng minh: Hồi Thanh và thế hệ thanh niên trí thức u nước thời
ơng đã dần tìm ra được con đường lớn của dân tộc từ sau tháng Tám 1945: con
đường cách mạng và kháng chiến, con đường đưa đất nước và dân tộc ta ra khỏi
kiếp làm nô lệ, ngẩng cao đầu trước thế giới để ngày nay cùng toàn dân tộc xây
dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh, một xã hội công băng, dân chủ, văn
minh.


<i> Láng Hạđầu Xuân Kỷ Sửu (20-2-2009)</i>


<b>TỪ SƠN </b>
<b>--- </b>


(1) Hoài Thanh – Di bút và di c<i><b>ả</b><b>o</b>, </i>nxb. Văn học, HN,1993, tr. 13 v à 14
(2) Hoài Thanh- Sđd., tr16


(3) Khi đưa in cuốn sách này, chúng tôi đã được nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân giúp
tìm được bộ La Gazette de Hue xuất bản năm 1935 và 1936 có in hơn 100 bài viết
bằng tiếng Pháp của Hoài Thanh trên hai mục thường xuyên của báo này là
mục”<b>Propos de Nhà Quê</b>” và mục “<b>Echos de Hue</b>” cùng một số bài chuyên luận
về kinh tế,chính tỵi, pháp luật v.v....


Vào một dịp thuận tiện, chúng tôi sẽcông bố sưu tầm mới này bằng song ngữ Pháp
Việt để bạn đọc tham khảo. (Từ Sơn chú).


(4) Hoài Thanh- S.đ.d, tr.152
(5) Hoài Thanh – S.đ.d. tr.154
(6) Như trên- tr.154



(7) Ngay trong thời Mặt trận bình dân cầm quyền bên Pháp, trong năm 1936 nhiều tờ
báo tíến bộ đã bị kiểm duyệt gắt gao và khơng ít tờ báo đã bị đóng cửa. Ngay Hồi Thanh đã
bị chính quyền thực dân cấm viết báo Tràng An từ tháng 6-1936 và bị chúng tịch thu cuốn
<i><b>V</b><b>ă</b><b>n ch</b><b>ươ</b><b>ng và hành </b><b>độ</b><b>ng khi sách còn chưa kịp phát hành. (T.S.) </b></i>


(8) Ngày nay người ta thường gọi là năng lượng vũ trụ. Theo định luật vật lý, năng
lượng này không thêm, không bớt mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(119)</span><div class='page_container' data-page=119>

M

C L

C



<b> TÌM HI</b>

<b>Ể</b>

<b>U HỒI THANH </b>



Trang
<i>1. Hoài Thanh - Người đi tìm cái đẹp trong văn chương </i>


<i>2. Với “Thi nhân Việt Nam” có phải là “một bước chìm sâu hơn nữa </i>
<i> vào con đường “ nghệ thuật vị nghệ thuật” của Hoài thanh? </i>
<i>3. Thi nhân Việt Nam( viết cho mục Hoài Thanh của </i>


<i>“ Từđiển bách khoa Việt Nam”). </i>


<i>4. Hoài Thanh - Người thiết tha gắn bó với văn hố dân. </i>
<i>5. Di bút của Hoài Thanh. </i>


<i>6. Tấm gương sáng của người cha. </i>
<i>7. Trả lời tạp chí“Thế giới mới”. </i>
<i>8. Một chi tiết cần được nói đầy đủ hơn. </i>
<i>9. Những sựđặt điều không đúng sự thật. </i>
<i>10. Về “Hồi Thanh tồn tập” </i>



<i>11. Đơi lời nói thêm về “Hoài Thanh toàn t ập”. </i>


<i>12.Về cuốn sách “ Hồi Thanh bình thơ và nói chuyện thơ”. </i>
<i>13. Hoài Thanh với khát vọng Chân-Thiện-Mỹ. </i>


<i>14. Hoài Thanh với quê hương xứ nghệ </i>


<i>15. Qua những bài viết mới sưu tầm được của Hoài Thanh trên </i>
<i> báo Tràng An (Huế 1935-1936) </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(120)</span><div class='page_container' data-page=120>

<b>TỪ SƠN </b>


<b>Tên thật</b>: Nguyễn đức Dũng


<b>Sinh</b>: ngày 31 tháng 5 năm 1936


</div>
<span class='text_page_counter'>(121)</span><div class='page_container' data-page=121>

<b>Công tác đã kinh qua</b>: giáo viên cấp I, 2, (1953-1956) cán bộ giảng dạy Đại học Sư phạm Hà nội
(1962-1964). Từ 1965-1972: Cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam ở chiến trường Nam bộ, lần
lượt đảm nhận các cơng tác: giáo dục,trí thức vận, tham gia tịa soạn báo V<i>ăn nghệ giải phóng, nghiên c</i>ứu, lý
luận-phê bình, huấn luyện... (từ 1965-1972), Cán bộ phụ trách lý luận-phê bình rồi phó tổng biên tâip báo V<i>ăn </i>
<i>nghệ</i> từ 1975-1986. Từ giữa năm 1986: chánh văn phịng Ban Văn hóa-văn nghệ Trung ương, viện trưởng rồi vụ


trưởng Vụ Văn hóa-văn nghệ Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương . Nghỉ hưu từ 1997. Sau nghỉ hưu tiếp tục
tham gia giảng dạy đại học một thời gian. Hiện đang là thành viên Hội đồng duyệt kịch bản phim truyện trung


ương.


<b>Tác phẩm chính</b>: Th<i>ạch Sanh (kh</i>ảo cứu, 1963); M<i>ấy vấn đề lý luận văn hoá trong sự nghiệp đổi mới </i>



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×