Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Quản lý văn hóa trong xu thế xã hội hoá trên địa bàn tỉnh bắc kạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.8 KB, 112 trang )

Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
Mục lục
Trang
Mở đầu:
1
Chơng I: XÃ hội hoá văn hoá và quản lý hoạt động văn hoá trong
cơ chế
5
1.1
thị trờng.
5
1.1.1
Tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá trong cơ chế 5
1.1.2
thị trờng.
9
1.1.3
Tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá nh một hệ
12
1.2
thống sản xuất.
17
1.2.1
Hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trờng.
17
1.2.2
Quản lý hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trờng. 22
Chơng II: XÃ hội hoá văn hoá ở nớc ta hiện nay.
XÃ hội hoá văn hoá.
25


2.1
Đờng lối chính sách của Đảng và Nhà nớc về xà hội hoá 25
2.1.1
văn hoá.
25
2.1.2
Thực trạng quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xÃ33
2.1.3
hội hoá ở
36
2.2
tỉnh Bắc Kạn.
Diện mạo đời sống kinh tế văn hoá xà hội tỉnh Bắc 44
2.2.1
Kạn.
44
2.2.2
Đặc điểm về tự nhiên.
51
2.2.3
Kinh tế xà hội tỉnh Bắc Kạn.
Đời sống văn hoá xà hội ở tỉnh Bắc Kạn.
55
Chơng Thực trạng quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xÃ
III:
hội hoá ở
57
tỉnh Bắc Kạn.
3.1
Thực trạng quản lý nhà nớc về hoạt động văn hoá

57
thông tin.
3.1.1
Thực trạng quản lý hoạt động văn hoá thông tin.
59
Thực trạng quản lý hoạt động dịch vụ văn hoá trên 62
3.1.2
địa bàn
3.2
tỉnh Bắc Kạn.
66
Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động văn hoá trong66
77
3.2.1
xu thế xà hội hoá
81
3.2.2
ở tỉnh Bắc K¹n hiƯn nay.
1


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
Kết luận Những yêu cầu khách quan và qui luật tất yếu của

quản lý hoạt động
văn hoá trong xu thế xà hội hoá.
Chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nớc về
xây dựng và
phát triĨn kinh tÕ x· héi ë níc ta hiƯn nay.

ChÝnh sách và pháp luật về quản lý hoạt động văn hoá
thông tin.
Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt đông văn hoá trong
xu thế xà hội
hoá ở tỉnh Bắc Kạn hiện nay.
Quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xà hội hoá.
Tổ chức hoạt động văn hoá trong xu thế xà hội hoá.
TàI

liệu

tham

83

Lời mở đầu:
1. Đặt vấn đề:
Xà hội hoá nói chung, xà hội hoá các hoạt động văn hoá nói riêng
là một chủ trơng lớn của đảng và Nhà nớc ta nhằm động viên sức
ngời, sức của, của các tầng lớp nhân dân, huy động mọi tiềm năng,
trí tuệ vµ vËt chÊt cđa toµn x· héi tham gia vµo hoạt động văn hoá
nhằm làm cho các hoạt động văn hoá là họat động của toàn dân,
toàn dân có quyền tham gia sáng tạo, cung cấp, phổ biến và tạo ra
nhiều sản phẩm, tác phẩm, công trình văn hoá có chất lợng, phong
phú và đa dạng, dân tộc và hiện đại, không ngừng nâng cao mức
hởng thụ văn hoá của nhân dân. Với quan điểm chỉ đạo và định
hớng của Đảng là Nhà nớc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý văn hoá,
đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng nguồn lực đầu t,
đồng thời đổi mới mục tiêu, phơng thức và nguồn vốn đầu t. Tập
chung nguồn lực đầu t cho các mục tiêu u tiên, chơng trình quốc

2

khảo


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
gia về phát triển văn hoá, hỗ trợ đầu t cho các vùng miền núi, biên
giới hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có
nhiều khó khăn; chuyển đổi toàn bộ các đơn vị sự nghiệp công
lập thuộc ngành văn hoá sang cơ chế cung ứng dịch vụ công ích có
đầy đủ quyền tự chủ về tổ chức, quản lý và hạch toán đầy đủ
chi phí, cân đối thu chi, thực hiện đúng mục tiêu, nhiệm vụ, thờng
xuyên nâng cao hiệu quả, chất lợng dịch vụ, sản phẩm đảm bảo
quyền lợi và cơ hội sáng tạo bình đẳng của ngời hởng thụ.
Đây là chủ trơng đúng đắn của Đảng trong việc triển khai
thực hiện xà hội hoá hoạt động văn hoá trong cả nớc. Trớc xu thế toàn
cầu hoá, giao lu văn hoá mở rộng cùng với sự tác động mạnh mẽ của
cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới, sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin viễn thông những thành tựu về văn hoá nghệ thuật của
thế giới đà nhanh chóng đến với nhân dân ta. Đó là thời cơ thuận
lợi để văn hoá Việt nam phát triển và tiếp thu các tinh hoa của thế
giới, sáng tạo và vun đắp nên những giá trị mới; song cũng nhiều
nguy cơ khó lờng, trớc những âm mu diễn biến hoà bình của các
thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải thận trọng xem xét, nghiên
cứu và xác định từng bớc đi thích hợp để đáp ứng xu thế của thời
đại. Xà hội hoá các hoạt động văn hoá cũng là hoạt động mới mẻ, đÃ
có bớc tiến mới với triển vọng mới, nhng cũng có nhiều khó khăn phức
tạp đan xen giữa xà hội hoá và thơng mại hoá cùng với sự tác
động của cơ chế thị trờng đà ảnh hởng không nhỏ tới t tởng, hành

vi của các chủ thể tham gia vào hoạt động xà hội hoá.Trớc hết là
đáng lo ngại về tính tự phát trong việc quay lại cái cũ, nhân danh
trở về nguồn và cả tính tự phát trong việc đón nhận cái mới
.xen lẫn trong những phong tục lành mạnh, đà kh«i phơc kh«ng Ýt
3


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
nhng tập tục xấu nh: Bói toán, dồng bóng, rợu chè, mê tín, lễ lạt, cờ
bạc cả ở nông thôn và thành thị. Trong khi đó, sự du nhập ồ ạt
những băng hình, tranh ảnh,đĩa hát nớc ngoài, không đợc kiểm
soát đến nơi đến chốn, đà đầu độc đáng ngại đến nhận thức và
thẩm mỹ trong thế hệ trẻ, bắt đầu gây ra những diễn biến xấu
về lối sống. Bị mê hoặc về sắc thái thời thợng của văn hoá nớc
ngoài, nhiều chơng trình điện ảnh, sân khấu, âm nhạc, sách
báo rơi vào con đờng câu khách chạy theo thị hiếu rẻ tiền, lai
căng, hoặc có khi bị tê liệt không tìm thấy phơng hớng đến với
công chúng. Nhiều lĩnh vực nghệ thuật bị tiếp tục chao đảo, cha
tìm đợc hớng đi tích cực.
Trớc thực trạng trên, vấn đề đặt ra cho chúng ta là: Làm sao
vừa mở rộng xà hội hoá lại vừa nâng cao đợc chất lợng nghệ thuật,
đồng thời tăng cờng hiệu quả công tác quản lý nhà nớc nhằm
tạo ra đợc một môi trờng văn hoá phong phú, lành mạnh, văn minh,
đầy tính nhân văn. Trớc yêu cầu của quá trình hội nhập và những
đòi hỏi ngày càng đa dạng phong phú các loại hình hoạt động xÃ
hội hoá văn hoá cần chúng ta - những nhà quản lý quan tâm nghiên
cứu và làm thế nào để tạo điều kiện mở rộng xà hội hoá các hoạt
động văn hoá mà vẫn đảm bảo định hớng.
Trong cơ chế thị trờng, rõ ràng cần phải thay đổi các cách thức

quản lý để tác động thúc đẩy các hoạt động văn hoá nhạy cảm
hơn, năng động hơn theo kịp nhu cầu xà hội. Bản thân là cán bộ
quản lý của nghành văn hoá thể thao và du lịch tỉnh Bắc Kạn với
suy nghĩ và mong muốn đợc đóng góp một số ý kiến của mình
vào công tác quản lý văn hoá trong xu thế xà hội hoá ở địa phơng,
nên tôi chọn đề tài: Quản lý văn hoá trong xu thế xà hội hoá
4


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
trên địa bàn tỉnh bắc kạn hiện nayđể làm khoá luận tốt
nghiệp.
2. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài đề cập và nghiên cứu đến công tác quản lý các hoạt
động văn hoá trong xu thế xà hội hoá văn hoá trên phạm vi toàn
tỉnh Bắc Kạn
3. Phơng pháp nghiên cứu:
- Dựa trên nền tảng triết học duy vật biện chứng và các quan
điểm của Đảng và Nhà nớc về việc phát triển văn hoá trong giai
đoạn hiện nay căn cứ vào cơ sở lý luận khoa học của chuyên ngành
và liên ngành kết hợp các phơng pháp:
- Khảo cứu quan sát thực địa và phỏng vấn thăm dò
- Su tầm tổng hợp phân tích t liệu và tổng kết đúc rút kinh
nghiệm
- Dựa trªn lËp trêng cđa chđ nghÜa duy vËt biƯn chøng để
nhìn nhận vấn đề.
- Về thực tiễn:
Quá trình nghiên cứu có sử dụng các phơng pháp; điều tra, su
tầm, khảo cứu, hệ thống hoá, thống kê,phơng pháp kế thừa, phơng

pháp chuyên gia, cố vấn.
4. Đóng góp của đề tài:
Với những kiến thức và lý luận đợc trang bị trong khoá học
đồng thời là cán bộ quản lý của nghành văn hoá, thể thao &du lịch,
nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích góp phần cho công tác quản
lý văn hoá trong xu thế xà hội hoá ở địa phơng có hiệu quả hơn,
mong muốn đợc các thầy cô giáo bổ xung,chỉnh sửa, đề tài này
nếu đợc công nhận là chính xác và khoa học cũng sẽ là tài liệu
tham khảo cho những ai quan tâm đến công tác quản lý văn
hoá.trong xu thế xà hội hoá hện nay.
5. Bố cục của đề tài:
5


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận,đề tài đợc kết cấu 3 chơng
Chơng I
XÃ hội hoá văn hoá và quản lý hoạt động văn hoá trong cơ
chế thị trờng.
Chơng II
Thực trạng quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xà hội hoá
ở tỉnh Bắc Kạn.
Chơng III
Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế
xà hội hoá ở tỉnh Bắc Kạn hiện nay.

Chơng I
XÃ hội hoá văn hoá và Quản lý hoạt động văn hoá trong cơ
chế thị trờng

1.1. Tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá trong cơ chế
thị trờng.
1.1.1. Tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá nh một hệ
thống sản xuất:
Điểm xuất phát để nhìn nhận hoạt động văn hoá nh một hệ
thống tổ chức sản xuất là t tởng của học thuyết Mác- xít về sản
xuất vật chất là hai hình thái cơ bản của hoạt động ngời. Trong Hệ
t tởng Đức Mác và Ăng ghen viết về hai phơng diện hoạt động. Sự
chế tác thiên nhiên bởi con ngời và chế tác con ngời bởi con ngời.
Trong tập bốn bộ T Bản Mác nói đến hai trờng hợp sản xuất phi vật
chất và nhiều lần ông trở lại t tởng này. Chẳng hạn M¸c viÕt “Trong
6


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
nền sản xuất phi vật chất, ngay cả nếu chỉ đợc tiến hành để trao
đổi, sản xuất hàng hoá, vẫn có hai trờng hợp.
+ Những hàng hoá tồn tại tách biệt khỏi ngời sản xuất, do đó có
thể trong khoảng cách giữa sản xuất và tiêu dùng trở thành hàng
hoá.
+ Những sản phẩm gắn liền với hành động của ngời sản xuất
(Mác K. Ăng ghen. Ph. Tuyển tập, trang 49, Trang 103. Lý thuyết giá
trị thặng d. Bản tiếng Nga. Gạch dới dạng ý nhấn mạnh là của chúng
tôi).
Sản xuất tinh thần không những tạo ra các giá trị tinh thần đợc
khách quan hoá mà còn bao hàm cả việc hình thành văn hoá cá
nhân, văn hoá cộng đồng và sự giao tiếp văn hoá. Sản xuất cũng có
thể phân ra đối tợng lao động, quá trình lao động và kết quả lao
động. Tuy nhiên ở đây đối tợng lao động có thể là những quan hệ

xà hội và quá trình t duy nhân loại còn sản phẩm nhân loại có thể
tồn tại không tách khỏi hành động sáng tạo của con ngời sản xuất
trực tiếp.
Sự phát triển sản xuất tinh thần nh một ngành tơng đối độc
lập trong hoạt động xà hội đà tạo ra đội ngũ đặc biệt những ngời
làm việc chuyên môn hoá. Tuy nhiên, sức phát triển mạnh mẽ đời
sống tinh thần còn phụ thuộc vào sự tham gia vào lĩnh vực này của
đông đảo nhân dân lao động. ở đây, có ý nghĩa quan trọng là
t tởng Mác về mối quan hệ giũa sự phát triển lực lợng sản xuất và
thời gian tự do, sự phát triển tính cách con ngời thông qua sử dụng
thời gian tự do có văn hoá và tác dụng của nó đối với sự phát triển
lực lợng sản xuất.
7


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
Với tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thời gian tự do rất cần
thiết để phát triển tự do, để sản xuất các giá trị tinh thần và trớc
hết là sản xuất ra bản thân ngời lao động với những thuộc tính văn
hoá phong phú.
Tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất tinh thần của nhân
dân trong thời gian tự do là nội dung chủ yếu và thực chất đối tợng
nghiên cứu của chúng tôi.
Nhìn nhận hoạt động văn hoá nh một hệ thống sản xuất có
nghĩa bộ máy quản lý hành chính không là tất cả, cũng không là
chủ yếu, phát triển sự nghiệp này trớc hết phải gắn liền với việc mở
rộng mạng lới thiết chế sự nghiệp .nh những đơn vị sản xuất trực
tiếp tạo ra sản phẩm. Sự phong phú số lợng và chất lợng, sự phân
bổ đều khắp mạng lới ấy và một tầng lớp nhân sự chuyên môn

gắn liền với chúng, hình thành những trung tâm văn hoá tiêu biểu
cho diện mạo đời sống tinh thần của nhân dân và là dấu hiệu xÃ
hội văn hoá cao.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý một bộ phận nhất định những
hoạt động ngời, có thể xem văn hoá nh quá trình sản xuất tinh
thần và khách thể hoá chúng nh những giá trị tinh thần và giá trị
vật chất, những thuộc tính của bản thân con ngời với t cách chủ
thể của quá trình hoạt động.
Bất kỳ văn hoá của cộng đồng xà hội có giai cấp nào cũng cấu
thành bởi hai dòng văn hoá: Văn hoá chính thống của giai cấp đại
diện cho phơng thức sản xuất hiện hành và văn hoá dân gian của
các giai cấp thực hành phơng thức sản xuất ấy.
Về mặt xà hội học lao động, ngời ta gọi văn hoá dân gian là văn
hoá nghiệp d và mặt xà hội học thời gian là hoạt động rỗi bởi
8


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
phần lớn những hoạt động này chủ yếu diễn ra trong thời gian rỗi
(thời gian tự do ).
XÃ hội có giai cấp đối kháng, giai cấp thống trị về kinh tế đồng
thời thống trị về tinh thần. Tầng lớp đặc biệt, tầng lớp Hệ t tởng
của xà hội đà hình thành để thực hiện nhiệm vụ đó (Mác.K sách
đà dẫn trang 109). Chính tầng lớp này đóng vai trò quyết định
trong sản xuất các giá trị tinh thần. Hoạt động văn hoá của họ là
chuyên nghiệp, hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này, diễn ra nh
quá trình lao động xà hội. Trái lại, với đại bộ phận nhân dân, thời
gian lao động xà héi trùc tiÕp s¶n xt ra cđa c¶i vËt chÊt. Nhân
dân tham gia sản xuất tinh thần chủ yếu dới hình thái hoạt động

rỗi, nghĩa là tự biểu hiện trong nghỉ ngơi, giải trí. Vì vậy có thể
gọi quá trình thực hiện bản chất ngời ấy là giải trí- sáng tạo văn
hoá.
Trớc chủ nghĩa xà hội, văn hoá dân gian là hiện tợng tự phát của
nhân dân lao động.và là hoạt động tinh thần của ngời lao động.
Một sự thật phổ biến nh không khí, lâu dài nh lịch sử loài ngòi là:
Sáng tạo văn hoá là quyền năng của mỗi cá nhân với t cách con ngời
xà hội - đơn vị cấu thành xà hội. Giải phóng quyền năng sáng tạo ấy
và sự nở rộ các hoạt động ngời chỉ có dới chủ nghĩa xà hội, trớc hết
và cơ bản là mở rộng số lợng và tăng chất lợng thời gian rỗi.
Hoạt động là một phơng thức tri thức của cá nhân, là điều
kiện thiết yếu tiến hành sản xuất tinh thần cho sự phát triển toàn
diện cá nhân. Văn hoá quần chúng ngày nay là cái tơng ứng với văn
hoá dân gian trớc đây.
Tuy nhiên có những khác biÖt:
9


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
Nếu văn hoá dân gian là hiện tợng tự phát dới các chế độ chính
trị khác, thì dới chế độ xà hội chủ nghĩa, văn hoá quần chúng là
đồi sống tinh thần của nhân dân đợc Nhà Nớc tổ chức quản lý, đợc
Đảng lÃnh đạo và hệ thống các cơ quan chuyên môn tổ chức chỉ
đạo. ở đây có hai mặt gắn bó chặt chẽ và quy định lẫn nhau:
Một mặt là hoạt động tự thoả mÃn nhu cầu cơ bản của quần chúng
lao động . Mặt khác là trách nhiệm tổ chức quản lý của Nhà Nớc.
Chủ nghĩa xà hội tạo cơ sở khách quan cho sự thống nhất hai mặt
này. Đây là bản chất văn hoá quần chúng, sản phẩm của sự thống
nhất quyền lợi chính trị - kinh tế giữa Nhà Nớc và nhân dân.

Khi so sánh lịch đại sự khác nhau giũa văn hoá dân gian và văn
hoá quần chúng là khác nhau giũa hai kiểu sản xuất tinh thẩn trên
cơ sở hai kiểu sản xuất khác nhau, là tính liên tục của lịch sử đợc
thực hiện bởi sự gián đoạn lịch sử gữa hai loại hình văn hoá trên cơ
sở hai hình thái kinh tế xà hội. Khi so sánh đồng loại giữa văn hoá
và văn hoá quần chúng thì văn hoá là tổng thể và văn hoá quần
chúng là bộ phận. Tơng ứng với điều ấy, công tác văn hoá là hoạt
động Nhà nớc tổ chức quá trình sản xuất tinh thần, trên cơ sở phù
hợp với phơng thức sản xuất mà nó đại diện và phổ cập các giá trị
văn hoá bằng những phơng tiện mà nó sở đắc trong thời đại.
Nhng do bản chất chính trị của mình, nhà nớc xà hội chủ nghĩa
có thể tiến hành cả hai phần việc để xây dựng nền văn hoá : Tổ
chức quản lý văn hoá chuyên nghiệp và tổ chức quản lý văn hoá
quần chúng. Công tác văn hoá có thể phân ra làm hai mảng:
+ Tổ chức quản lý văn hoá chuyên nghiệp gồm cả sản xuất và lu thông phân phối, đem văn hoá đến quần chúng.
10


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
+ Tổ chức quản lý văn hoá quần chúng bao gồm cả hoạt động
sản xuất, trao đổi và tiêu dùng các giá trị tinh thần, đem quần
chúng đến văn hoá.
ở hệ thống thứ hai nhân dân trực tiếp tham gia quá trình sản
xuất sản phẩm văn hoá. Đây là hệ thống thiết chế sự nghiệp công
tác văn hoá quần chúng, đối tợng xem xét của chúng tôi trong tiểu
luận này.
Quá trình xà hội hoá và phát triển cá nhân, sự hình thành
nhân cách văn hoá bao giờ cũng diễn ra bởi hai chiều tác động liên
tục đan xen lẫn nhau, dệt thành những nhân cách cụ thể. Chiều

dọc là sự tác động của văn hoá xà hội đến toàn bộ đến cá nhân,
và chiều ngang sự vận động văn hoá của các nhân ấy, tức các
nhân tự xác định mình trong môi trờng văn hoá. Sự vận động này
thống nhất hai mặt giáo dục văn hoá và thoả mÃn nhu cầu văn hoá
toàn diện của con ngêi. TÝnh chÊt phong phó thùc sù vỊ tinh thần
của cá nhân hoàn toàn tuỳ thuộc vào tính chất phong phó c¸c mèi
quan hƯ thùc sù cđa chÝnh c¸c nhân ấy. ở đây con ngời thể hiện
trong sự vận động văn hoá trên ba mối quan hệ chủ yếu:
1. Cá nhân chiếm lĩnh giá trị văn hoá.
2. Cá nhân sáng tạo văn hoá.
3. Cá nhân nh đại biểu mang văn hoá, có quan hệ giao lu trao
đổi văn hoá, có quan hệ giao lu trao đổi văn hoá với nhau.
Tổ chức quản lý vận động văn hoá theo chiều ngang này nh là
một lĩnh vực sản xuất tinh thần, hệ thống công tác văn hoá quần
chúng bao gồm từ bộ máy quản lý Nhà nớc các cấp đến mạng lới các
đơn vị sự nghiệp. Bộ máy quản lý là Bộ văn hoá ở cấp
11


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
Trung ơng. Sở văn hoá tỉnh thành, Ban văn hoá quận huyện. Chức
năng cơ bản loại hình hoạt động này là quản lý nhà nớc về hành
chính pháp chế (Đờng lối của Đảng, tổ chức, kế hoạch, kinh phí).
Sản xuất tinh thần cũng đợc tổ chức thành hoạt động cụ thể
do các thiết chế sự nghiệp nh những đơn vị cơ sở tiến hành.
Hoạt động văn hoá nh một quá trình sản xuất. Chức năng quản lý
chỉ xuất hiện từ yêu cầu tổ chức và điều hành sản xuất. Các cơ
quan quản lý văn hoá chỉ phát huy tác dụng của mình thông qua
những đơn vị sản xuất nhằm tăng cờng hiệu quả kinh tế văn hoá

của chúng. Chỉ có bộ máy quản lý hành chính pháp chế gồm
những bộ, sở, ban, phòng tức là cha có đơn vị sản xuất trực tiếp
, tạo ra sản phẩm. Vì vậy, nếu giáo dục phải có trờng học, y tế phải
có bệnh viện thì văn hoá quần chúng phải có thiết chế sự
nghiệp nh cung văn hoá, nhà văn hoá, th viện, bảo tàng với t cách
là đơn vị sản xuất, chủ thể trực tiếp của công tác văn hoá quần
chúng.
Có thể phác thảo lợc đồ hệ thống tổ chức sản xuất văn
hoá nh sau:
Cấp quản

Trung ơng

Bộ máy quản lý
Bộ

văn

hoá(cục-vụ- Cung

viện)
Tỉnh, thành Sở

văn

Cơ sở sản xuất
văn

hoá.Trung


tâm

PPNVHCLB,
bảo tàng, th viện TW
hoá(Phòng, Nhà văn hoá, TTVH, triển lÃm,

ban)

th viện

Bảo tàng tỉnh
Quận, Huyện Phòng văn hoá thể Nhà văn ho¸, TTVHTT,Th viƯn
thao

Hun
12


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
XÃ, Phờng

Ban văn hoá thể thao Nhà văn hoá,TTVHTT xÃ

1.1.2. Hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trờng:
Đây là một vấn đề thời sự cấp bách đang đặt ra cho ngành
văn hoá. Nếu nh mấy năm gần đây, cơ chế thị trờng tác động
mạnh và có hiệu quả trên lĩnh vực kinh tế thì trên lĩnh vực văn hoá
diễn ra khá phức tạp. Từ khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, các hoạt động
văn hoá lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn. Nhiều đoàn nghệ

thuật không thể tự trang trải lấy thu bù chi; nhiều nhà văn hoá phải
đóng cửa hoặc biến hành rạp hát, rạp chiếu phim, hầu hết các đội
văn nghệ quần chúng, thông tin lu động ở cơ sở không còn hoạt
động. Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chững lại, có nguy
cơ khó tồn tại. Từ thực trạng đó, nảy sinh những hớng suy nghĩ và
hành động khác nhau. Một hớng cho rằng nói tới thị trờng là nói tới
hàng hoá; văn hoá cũng nh mọi thứ hàng hoá khác, mà không thấy
sản phẩm văn hoá có những nét riêng, dẫn đến tình trạng thơng
mại hoá các hoạt động văn hoá, chỉ chạy theo doanh thu, không
quan tâm tới hiệu quả xà hội. Chính vì vậy, trên thị trờng văn hoá
đà xuất hiện nhiều loại sản phẩm độc hại ảnh hởng xấu tới t tởng,
tình cảm ngời đọc, ngời xem. Hớng khác cho rằng hoạt động văn
hoá đà phục vụ chính trị, xây dựng con ngời mới thì ắt Nhà nớc
phải bao cấp, phải lo đảm bảo mọi điều kiện hoạt động. Từ đó
dẫn đến thái độ trông chờ, ỷ lại khiến cho hoạt động văn hoá bị
ngng trệ.
Phải nói rằng cơ chế thị trờng có những tác động tích cực tới
hoạt động văn hoá làm cho năng động, tuân thủ quy luật giá trị
của sản xuất hàng hoá, đáp ứng kịp thời nhanh nhạy nhu cÇu cđa
13


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
ngời tiêu dùng sản phẩm văn hoá. Nếu nh trớc kia có những hình
thức hoạt động mòn cũ hàng chục năm không thay đổi, thì nay
không thể tồn tại trong cơ chế thị trờng. Cơ chế thị trờng là cơ
chế điều tiết khách quan theo quy luật giá trị và quy luật cung
cầu. Trong cơ chế bao cấp, các hoạt động văn hoá thờng xem nhẹ
những quy luật này. Dựng một vở kịch, một bộ phim, ngời ta ít

quan tâm đến yếu tố ngời xem vì số ngời xem đông hay vắng
không ảnh hởng tới ngời làm ra sản phẩm, kinh phí đà có Nhà Nớc lo
rồi ! Nhng trong cơ chế thị trờng, khách đông hay vắng, ảnh hởng
trực tiếp tới túi tiền ngời làm và số phận cơ sở làm ra sản phẩm.
Cho nên mọi hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trờng đều phải
xuất phải từ nhu cầu tiêu dùng văn hoá của nhân dân. Sản phẩm
văn hoá phải đánh trúng sự mong mỏi và thị hiếu lành mạnh của
mọi ngời. ĐÃ đến lúc ngành văn hoá cần rà soát lại các hình thức
hoạt động ở mỗi lĩnh vực, tìm ra u điểm, nhợc điểm để sáng tạo
ra những hình thực hoạt động thích hợp trong thời kỳ mới, có khả
năng thu hút đông ngời tham gia. Các hình thức hoạt động văn hoá
chỉ có thể tồn tại trên cơ sở chất lợng cao và đáp ứng đúng nhu
cầu văn hoá của nhân dân. Từ đó văn hoá vẫn có khả năng làm
kinh tế. Thực tế đà diễn ra trong lúc nhiều nhà văn hoá đình đốn,
thì có một số nhà văn hoá lại hoạt động sầm uất đông vui hơn trớc;
trong lúc nhiều đoàn nghệ thuật sống dở, thì một số đoàn lại làm
ăn khấm khá, đi lên. Tất cả đều do các cơ sở có chịu năng động
đổi mới hình thức hoạt động, áp dụng tốt ma - két - tinh trong văn
hoá hay không. Thực tế cho thấy những nhà hát,rạp chiếu phim ở
một số nơi lúc nào cũng đông khách là vì họ luôn đổi mới chơng
trình, hoạt động đa dạng và phong phú từ đó có ®ñ nguån thu
14


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
để tồn tại và phát triển. Để thực hiện quy luật cung cầu của cơ chế
thị trờng, tổ chức các hoạt động văn hoá cũng thay đổi. Mỗi hình
thức hoạt động văn hoá không phải cứ tồn tại bất di bất dịch mÃi mÃi
mà luôn thay đổi, phát triển thêm theo nhu cầu. Nhng hoạt động

văn hoá trong cơ chế thị trờng phải đặt trong sự quản lý chặt chẽ
của Nhà nớc. Nh đà nói, văn hoá không giống nh các loại hàng hoá vật
chất khác, ngoài việc thoả mÃn nhu cầu còn có trách nhiệm hớng
dẫn và điều chỉnh nhu cầu để xây dựng con ngời mới. Cho nên
không phải bất kì hoạt động văn hoá nào cũng có thể kinh doanh
đợc. Hiệu quả của sản phẩm văn hoá nhiều khi không thể tính
bằng tiền mà ẩn tàng trong những giá trị tinh thần đà bồi bổ cho
việc xây dựng con ngời mới.ở những lĩnh vực này, đòi hỏi Nhà nớc
có những hỗ trợ nhất định. Không thể bắt buộc các đoàn nghệ
thuật truyền thèng d©n téc nh chÌo, tng, d©n ca, móa rèi nớc,
hoặc các đoàn nghệ thuật cổ điển nh âm nhạc thính phòng,
nhạc vũ kịch, ba lê cũng lấy thu bù chi nh các đoàn nghệ thuật hiện
đại thời thợng nào khác. Không thể không trợ cấp cho những vở
kịch, bộ phim nãi vỊ trun thèng nh»m gi¸o dơc phÈm chÊt con
ngời mới hoặc những tiết mục nghệ thuật dành cho thiÕu nhi.
SÏ lµ chung chung nÕu chóng ta chØ dõng lại ở những quan
niệm tởng nh là mâu thuẫn, rằng văn hoá cần trợ cấp và bao cấp,
rằng văn hoá cũng có khả năng làm
kinh tế. Trong văn hoá có biết bao nhiêu lĩnh vực. Cần thiết phải
chia các lĩnh vực đó theo nhóm: Nhóm hoàn toàn không doanh thu
cần bao cấp, nhóm có nhu cầu trợ cấp và tự cấp bao nhiêu phần
trăm, nhóm có thể trang trải. Tất nhiên, sự phân chia này không
thể máy móc tế nhị và phức tạp. Dù sao vẫn cần một sự hoạch ®Þnh
15


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
đó để có chính sách đầu t kinh phí hợp lý nhằm phát triển nền
văn hoá mới dân tộc, hiện đại. Rõ ràng hoạt động văn hoá trong cơ

chế thị trờng cần đợc kế hoạch hoá. Kế hoạch là công cụ của quản
lý. Song trong tình hình mới, kế hoạch này không phải Dội từ trên
xuống mà đợc hình thành từ các cơ sở xuất phát từ nhu cầu văn
hoá của nhân dân. Có một điều mà các nhà lập kế hoạch nên quan
tâm tới, đó là tiềm năng văn hoá trong nhân dân. Trớc đây, chúng
ta đà đề ra phơng châm Nhà nớc và nhân dân cùng làm, thiết
nghĩ trong cơ chế thị trờng phơng châm này càng phải đợc thực
hiện triệt để. Có nhiều lĩnh vực văn hoá có thể giao cho nhân
dân, kể cả t nhân nuôi dỡng. Nhà nớc chỉ quản lí nội dung và chất
lợng. Nguồn kinh phí ít ỏi của Nhà nớc không nên đầu t tràn lan mà
tập chung vào những vấn đề cốt lõi, ra tấm ra miếng.
Hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trờng đang gặp rất nhiều
khó khăn, đòi hỏi tất cả các cơ sở văn hoá năng động, sáng tạo tìm
lối ra để tồn tại và phát triển.
1.1.3. Quản lý hoạt động văn hoá tromg cơ chế thị trờng:
* Quản lý nhà nớc về văn hoá:
Quản lý nhà nớc về văn hoá là hoạt động của bộ máy nhà nớc
trong lĩnh vực hành pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ
thống chính trị, Nhà nớc đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho
mổi công dân đều đựơc thực hiện các quyền cơ bản của mình,
trong đó có các quyền về văn hoá nh quyền tự do ngôn luận,
quyền tự do báo chí, quyền học tập, sáng tác, phê bình văn học
nghệ thuậtNhà nớc có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo sự hài
hoà giữa các thành tố văn hoá, điều tiết lợi ích văn hoá của các giai
16


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp

tầng, các yêu cầu phát triển và thoả mÃn nhu cầu văn hoá của toàn
xà hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nớc đóng vai trò rất
quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn giữa phát triển
kinh tế và văn hoá.
Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là sự nghiệp của toàn xà hội. Nhà nớc thực hiện hoạt động
quản lý đối với văn hoá điều đó không có nghĩa Nhà nớc là ngời
sáng tạo ra nền văn hoá mà Nhà nớc có vai trò định hớng cho sự phát
triển của nền văn hoá theo hớng đà đợc xác định là nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhà nớc thực hiện những hoạt
động nhằm hớng vào sự thống nhất t tởng, tuyên truyền các chủ trơng chính sách của Đảng và Nhà nớc, tăng cờng hoạt động giáo dục
xây dựng lối sống đạo đức lành mạnh.
Quản lý Nhà nớc về văn hoá đòi hỏi phải tiến hành những hoạt
động cụ thể, do đó cần giới hạn phạm vi khái niệm văn hoá để có
thể xác định đợc những mảng hoạt động quản lý nhà nớc đối với
văn hoá. Có thể chia hoạt động quản lý Nhà nớc về văn hoá thành
các mảng cơ bản sau:
- Quản lý nhà nớc về Văn hoá nghệ thuât.
- Quản lý nhá nớc về Văn hoá - Thông tin.
- Quản lý nhà nớc về Văn hoá xà hội.
- Quản lý di sản văn hoá.
Việc phân chia hoạt động quản lý nhà nớc về văn hoá thành các
mảng hoạt động nh trên chỉ mang tính tơng đối bởi bản thân
kháI niệm văn hoá là khái niệm đa nghĩa, bao trùm lên mọi hoạt
động của con ngời.
17


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp

Trong quản lý văn hoá, Nhà nớc không nên xác lập một khuôn
mẫu định sẵn cho nền văn hoá vì nh vậy sẽ tạo ra sự áp đặt từ
trên xuống, không phát huy đợc tính sáng tạo, tính phong phú vốn
có của văn hoá dân tộc. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò
của Nhà nớc đối với văn hoá là tạo dựng khung cảnh van hoá - xà hội
thuận lợi cho sự phát triển, làm cho văn hoá thực sự trở thành động
lực và mục tiêu của phát triển kinh tế - xà hội. Để đạt đợc điều đó,
Nhà nớc cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho phát triẻn văn hoá,
thiết lập một cơ chế quản lý văn hoá hợp lí đảm bảo đợc các quyền
tự do dân chủ của công dân, xá định rõ thẩm quyền và nâng cao
chất lợng hoạt động của các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng
quản lý văn hoá. Đặc biệt cần phân biệt rõ chức năng, thẩm quyền
của cơ quan quản lý văn hoá với các cơ quan, tổ chức trực tiếp thực
hiện các hoạt động văn hoá.
ở trung ơng, cơ quan có chức năng quản lý nhà nớc về văn hoá
là Chính phủ và Bộ văn hoá - thông tin. Chính phủ thống nhất quản
lý và phát triển sự nghiệp văn hoá trên phạm vi cả nớc, thi hành các
biện pháp để bảo tồn , phát triển nền văn hoá dân tộc Việt Nam,
bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn hoá, nghệ thuật,
chống việc truyền bá t tởng phản động, đồi truỵ, bài trừ mê tín, hủ
tục. Trong quản lý văn hoá, Chính phủ có một số quyền hạn cụ thể
nh: Trình dự án luật, pháp lệnh về hoạt động văn hoá, quyết định
quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp văn hoá, quyết định
chính sách đầu t, tài trợ, hợp tác với nớc ngoài, ban hành quyết định
quản lý nhà nớc và các chế độ chính sách khác về văn hoá. Với cơng
vị là ngời đứng đầu Chính phủ, Thủ tớng Chính phủ ký các quyết
định, nghị định của Chính phủ, ra quyết định, chỉ thị vỊ qu¶n
18



Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
lý văn hoá và hớng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với
tất cả các ngành, địa phơng và cơ sở; thủ tớng Chính phủ có quyền
đình chỉ việc thi hành hoặc bÃi bỏ những quyết định về quản lý
văn hoá của Bộ trởng Bộ văn hoá - thông tin và uỷ ban nhân dân,
chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng
trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nớc cấp trên.
Các văn bản pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt
động văn hoá khi thực hiện xà hội hoá hoạt động văn hoá trong nền
kinh tế thị trờng, Đồng thời pháp luật cũng quy điịnh những vùng
cấm trong hoạt động văn hoá đợc quy định rõ để định hớng văn
hoá, khái quat ở 5 điểm sau:
- Nghiêm cấm hoạt động phản động về chính trị ;
- Nghiêm cấm hoạt động làm băng hoại về đạo đức, phá hoại
nhân phẩm;
- Nghiêm cấm hoạt đông xâm phạm quyền tác giả;
Quản lý hoạt động văn hoá theo pháp luật sẽ góp phần tích cực
vào việc lập lại trật tự kỷ cơng trong tình hình văn hoá xà hội hiện
đang có nhiều lộn xộn; gữi gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong
điều kiện toàn cầu hoá và mở rộng quan hệ quốc tế, đảm bảo
quyền lợi và trách nhiệm của các văn nghệ sĩ và nghệ nhân; tăng
cờng hợp tác giữa các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp và các
tổ chức xà hội và toàn dân tham gia vào các hoạt động và phát
triển văn hoá..
* Quản lý hoạt động văn hoá:
Xà hội hoá quản lý văn hoá là xu thế tự nhiên của bất kỳ xà hội
nào. Ngoài hình thức Nhà nớc trong việc quản lý văn hoá cần thực
hiện các hình thức tự quản của nhân dân trong việc bảo vệ và
19



Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
phát triển văn hoá, đảm bảo đợc tính đa dạng của văn hoá và đáp
ứng đợc nhu cầu văn hoá của toàn dân.
Thế giới đà quá quen thuộc với khái niệm thị trờng chỉ thuộc
kinh tế. Và trên lĩnh vực kinh tế, thị trờng và hàng hoá là hai khái
niệm đi đôi với nhau, có cái này mới có cái kia.
Thị trờng và hàng hoá đợc phát triển dới chế độ T bản chủ
nghĩa, đợc coi là thuộc tính của Chủ nghĩa t bản. Mời năm trở lại
đây, ở một số nớc xà hội chủ nghĩa, thị trờng và hàng hoá đợc coi
là sự phát triển tất yếu của nhân loại. Trung Quốc lại có quan điểm
Thị trờng xà hội chủ nghĩa. Cho đến nay trong sách báo, thị trờng là sự phát triển phạm trù chỉ có trong kinh tế chính trị.
Trên thực tế, dù kinh tế là yếu tố quyết định, thì một xà hội
phát triển không thể chỉ có kinh tế. Kinh tế và văn hoá là những
nền tảng của xà hội văn minh: Nền tảng vật chất và nền tảng tinh
thần. Quan điểm đó phù hợp với định hớng chung của Đảng và Nhà
nớc ta trong quản lý văn hoá trong cơ chế trị trờng hiện nay.
1. Quan hệ biện chứng giữa chấn hng, bảo tồn, phát triển văn
hoá dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới.
2. Quan hệ biện chứng giữa mở cửa, giao lu và sự hứng chịu
trong quá trình đó (sự sùng ngoại và bài ngoại). Mở cửa là điều kiện
của giao lu; giao lu là phải có cái hơn và cái thiệt, cái thiệt, cái mất,
nhng nhất thiết phải có định hớng xà hội chủ nghĩa.
3. Quan hệ giữa văn hoá chuyên nghiệp và việc xà hội hoà nghệ
thuật do các thành phần kinh tế khác chi phối.
ở đây phơng pháp, phơng thức, hình thái hoạt động là đa
dạng, đa sắc, nhng nội dung đề tài, chủ đề, t tởng là do Nhà nớc
phải nắm và quản lý.

20


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
4. Quan hệ giữa tính kế hoạch của nhà nớc và những mặt tích
cực, tiêu cực của kinh tế thị trờng, của thị trờng văn hoá. ở đây
tính định hớng, tính điều tiết kế hoạch của các cơ quan quản lý
là hết sức quan trọng, có tính chất quyết định.
5. Mối liên hệ biện chứng giữa bản thân văn hoá và các hình thái
ý thức xà hội khác nh: văn hoá và chính trị, văn hoá và kinh tế, văn
hoá và đạo đức, văn hoá và tôn giáo.
Khi Nhà nớc định ra chủ trơng, chính sách, nghị quyết về văn
hoá, phải tính đến mối quan hệ biện chứng giữa chúng; không
tính đến mối quan hệ đó chính sách văn hoá trở thành một thực
thể tĩnh, không đa lại kết quả, thậm chí sai lầm.
6. LÃnh đạo, quản lý văn hoá trong phát triển, một mặt cần
tránh đầu óc cục bộ địa phơng, khu vực hoá, làm ngành nào chỉ
biết ngành đó, thiên vị ngành mình, địa phơng mình, không
hay biết gì đến các ngành, lĩnh vực khác.
7. Nâng cao dân trí và phát triển khoa học, công nghệlà
những nhiệm vụ hàng đầu trong quản lý văn hoá.
8. Trong quản lý văn hoá cần ngăn ngừa và khác phục sự lÃnh đạo
mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu, đồng thời đòi hỏi ngời lÃnh đạo
văn hoá có một nhÃn quan mẫn cảm và tầm nhìn rộng lớn trong thời
đại hiện nay. Trong tình hình hiện nay thì bảo thủ, trì trệ, thiếu
năng động cần tránh, nhng cấp tiến, nóng vội, phóng tay là cũng có
tội.
9. Quản lý văn hoá ở bất cứ quốc gia nào cũng phải tuân theo
nguyên tắc (từ trờng quyền lực theo cách gọi của alvin Tohler nhà

văn, nhà nghiên cứu ngời Mỹ) gồm 3 thành tố cũng là 3 công cụ của
hoạt động văn hoá.
21


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
- Hệ thống hành chính, pháp luật.
- Các thiết chế và phơng tiện vật chất.
- Tri thức văn hoá.
Vì vậy cần:
- Nghiên cứu để tổ chức lại bộ máy Nhà nớc về văn hoá đủ mạnh
từ trung ơng đến cơ sở, nhất là cần tăng cờng quản lý văn hoá ở
cấp huyện, xÃ.
- Hoạt động văn hoá thông tin là hoạt động sự nghiệp gồm
nhiều ngành nghiều nghề trong mỗi ngành, nghề có đặc thù, có
nội dung, có phơng pháp, kỹ thuật riêng và có đội ngũ đợc đào tạo
chuyên sâu.
- Đảm bảo cho Văn hoá Nhà nớc đóng vai trò chủ đạo và
đồng thời mạnh dạn xà hội hoá các hoạt động văn hoá, vận dụng
cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, cơ chế nhiều thành
phần và cơ chế mở trong hoạt động văn hoá, nhằm khai thác mọi
nguồn lực bên trong và bên ngoài
- Những sản phẩm văn hoá là loại sản phẩm hàng hoá đặc
biệt mà giá trị của chúng không chỉ bằng tiền.
Phân biệt đợc cơ chế kinh doanh trong lĩnh vực văn hoá là
không lấy lợi nhuận làm mục đích, mà tất cả vì sự hởng thụ và sáng
tạo tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
- Gia tăng công tác đối ngoại, mở rộng giao lu văn hoá với nớc
ngoài, đi đôi với cuộc đấu tranh chống các loại văn hoá độc hại,

phản động từ bên ngoài vào văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ
vào nớc ta không chỉ bằng đờng bộ, đờng biển mà còn bằng đờng
sóng vô tuyến điện, chống sự xâm nhập hữu hình và vô
hình.
22


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
- Gia tăng đầu t tài chính cho cuộc đấu tranh phòng, chống
những âm mu diễn biến hoà bình bằng văn hoá đang diễn ra
quyết liệt hằng ngày, hàng giờ nhất là ở các vùng hải đảo, sân bay,
bến cảng. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành văn hoá, nội
vụ, hảI quan hàng không, biên phòng và các cơ quan hữu quan
khác.
- Công nghiệp hiện đại hoá ngành có thể u tiên một số lĩnh vực
trớc.
+ Công nghiệp sản xuất nghe nhìn, điện ảnh, phát thanh
truyền hình, nghệ thuật sân khấu âm nhạc.
+ Các thiết chế văn hoá nghệ thuật.
1.2. XÃ hội hoá văn hoá nớc ta hiện nay.
1.2.1.XÃ hội hoá văn hoá:
Thuật ngữ xà hội hoá văn hoá theo cách hiểu thông thờng là biến
các hoạt động các nhân, t nhân trở thành hoạt động xà hội, nghĩa
là sẽ thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa vai trò các cá nhân đối
với xà hội, các thành viên đối với cộng đồng. Bởi các thành viên, các
cá nhân là những nhân tố cấu thành cộng đồng xà hội. Vì vậy họ
có những quyền lợi và nghĩa vụ nhất định, phải có ý thức và trách
nhiệm đống góp xây dựng cộng đồng xà hội. Xà hội hoá chính là
đỉnh cao của Nhà nớc và nhân dân cùng làm. XÃ hội hoá cũng là

thành tố trong đặc trng của cơ chế thị trờng.
Văn hoá là một hệ thống những giá trị và chuẩn mực xà hội. Nhng giá trị không tồn tại lơ lửng, siêu hình. Giá trị là nội dung, là
bản chất của văn hoá bao giờ cũng đợc khách quan hoá, đối tợng hoá
dới những dạng những hình thức (của nội dung), những hiện tợng
(của bản chất), những quan hệ và quá trình xà hội.
23


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
Lịch sử cho thấy, trong quy luật sinh tồn của nó, văn hoá là
giao lu, là tiếp biến là kế thừa và đổi mới không một thể
chế chính trị nào, một bộ máy quyền lực nào có thể bao cấp về
văn hoá tinh thần nói chung, về văn hoá chính trị nói riêng bởi một
lẽ hiển nhiên là nền tảng tinh thần của bất kỳ cộng đồng dân tộc
nào cũng đợc sản sinh và xây dựng trong chính cuộc sống thờng
nhật của mỗi ngời dân chứ không thể chỉ bằng món ăn ngoại nhập
từ ngoài vào hay trên xuống. Nền tảng tinh thần ấy là bản sắc dân
tộc và diện mạo đích thực của họ ở mỗi chặng đờng thăng trầm
của lịch sử.
Trong công cuộc xây dựng một tổ quốc Việt Nam giàu mạnh,
Đảng ta chủ trơng lÃnh đạo toàn dân xây dựng một nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Một trong những t tởng chỉ đạo của Đảng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cao cả đó
là :
Văn hoá văn nghệ là sự nghiệp của toàn xà hội. Phát triển các
hoạt động văn hoá văn nghệ của nhà nớc, tập thể và cá nhân theo
đờng lối của Đảng và sự quản lý của nhà nớc, khắc phục tình trạng
hành chính hoá các tổ chức văn hoá nghệ thuật, và xu hớn thơng mại hóa trong lĩnh vực này (Văn kiện Hội nghị lần thứ t Ban
chấp hành Trung ơng Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII, trang 55 ).
Nếu trên lĩnh vực kinh tế, vai trò quản lý của nhà nớc là sự điều

tiết theo định hớng xà hội chủ nghĩa thì trên lĩnh vực văn hoá có
khác. ở đây không có sự phân chia quyền lợi văn hoá giữa nhà nớc
và công dân, không có đa dạng hoá hình thức sở hữu các giá trị
văn ho¸
24


Nguyễn Chu Toàn
Khoá luận tốt nghiệp
Nhng việc sản xuất, bảo quản, lu thông và tiêu dùng các sản
phảm văn hoá lại không nhất thiết và không thể bao cấp nhà nớc
hoàn toàn. Đảng ta chủ trơng phát triển các hình thức hoạt động
văn hoá , văn nghệ của nhà nớc , tập thể và cá nhân.
XÃ hội hoá hoạt động văn hoá ở nớc ta hiện nay là nhằm huy
động tiềm năng, nguồn lực, mọi lực lợng, mọi thành phần kinh tế, xÃ
hội cùng tham gia sáng tạo và phát triển sự nghiệp văn hóa, là đa
dạng hoá, dân chủ hoá nhng không thơng mại hoá hoạt động văn
hoá. XÃ hội hoá hoạt động văn hoá là chuyển một phần công việc
của Nhà nớc cho nhân dân, tổ chức tập thể, t nhân làm, nhng Nhà
nớc không giảm nhẹ trách nhiệm. XÃ hội hoá hoạt động văn hoá đợc
thực hiện theo phơng thức Nhà nớc và nhân dân cùng làm, các tổ
chức, cá nhân, các thành phần kinh tế liên doanh liên kết với các
đơn vị Nhà nớc hoặc tự bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh làm dich
vụ trong lĩnh vực văn hoá và thực hiện theo đúng pháp luật. Đây là
một chủ trơng đúng đắn của Đảng, đợc Chính phủ cụ thể hoá
bằng Nghị quyết 90/CP và Nghị định 73/CP.
Thực hiện chủ trơng trên, Bộ Văn hoá Thông tin đà kịp thời chỉ
đạo công tác tuyên truyền rộng rÃi trong quần chúng nhân dân về
xà hội hoá hoạt động văn hoá. Đồng thời tổ chức cho toàn ngành học
tập, quán triệt ý nghĩa, nội dung Nghị quyết 90/CP và Nghị định

73/CP của Chính phủ nhận thức về xà hội hoá hoạt động văn hoá đÃ
đợc thể hiện nh sau:
- Mặt triển biến tích cực: Đến nay nhận thức chung cho rằng xÃ
hội hoá hoạt động văn hoá là hoạt động lớn của Đảng và Nhà nớc, là
xu thế tất yếu của sự nghiệp văn hoá thông tin. Nhà nớc phải giữ vai
trò chủ đạo, định hớng trong quá trình xà hội hoá, là lực lợng chủ
25


×