LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hà Thị Xuyên
LỜI CẢM ƠN
Sau gần 3 năm học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính thuộc
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, được sự quan tâm
giúp đỡ của các thầy, cô giáo đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của
PGS, Tiến sĩ Ngô Hữu Thảo, sự giúp đỡ của các bạn và đồng nghiệp trong cơ
quan, đến nay tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công
“Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh hiện nay”
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, chu đáo của
các giáo sư, tiến sỹ, các thầy, cô giáo, các đồng chí lãnh đạo Sở Nội vụ tỉnh
Bắc Ninh, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Ninh và đồng nghiệp trong quá
trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này.
Tác giả
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHG Ban Hành giáo
CNH-HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
CNLĐ Công nhân lao động
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CSVN Cộng sản Việt Nam
GHPG Giáo hội Phật giáo
HĐND Hội đồng nhân dân
HTCT Hệ thống Chính trị
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
QLNN Quản lý nhà nước
TCN Trước Công nguyên
UBĐK Uỷ ban Đoàn kết
UBND Uỷ ban nhân dân
UBTV Uỷ ban Thường vụ
UBTVQH Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ
8
NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO
Ở TỈNH BẮC NINH
1.1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QLNN ĐỐI VỚI TÔN
GIÁO
8
1.1.1 Nhận thức chung về tôn giáo 8
1.1.2 Quản lý nhà nước đối với tôn giáo 15
1.2 TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
26
1.2.1 Một số đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh liên quan đến tôn giáo 26
1.2.2 Tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 28
Chương 2
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO
Ở BẮC NINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
39
2.1
SỰ CHỈ ĐẠO CỦA TỈNH UỶ, UBND TỈNH VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY
LÀM CÔNG TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
39
2.1.1 Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo công tác Tôn giáo 39
2.1.2 Tổ chức bộ máy làm công tác QLNN về tôn giáo ở Bắc Ninh 42
2.2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
47
2.2.1 Quản lý về hoạt động xây dựng, trùng tu, sửa chữa cơ sở thờ tự 47
2.2.2 Quản lý đối với việc phong chức, phong phẩm và hoạt động
thuyên chuyển của các chức sắc
50
2.2.3 Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng chức sắc 51
2.2.4 Công tác quản lý đối với các hoạt động từ thiện, nhân đạo 52
2.2.5 Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 54
2.2.6 Quản lý hoạt động truyền đạo trái pháp luật 55
2.2.7 Quản lý các hoạt động khác 57
2.2.8 Công tác phối hợp 58
2.3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC QLNN ĐỐI VỚI TÔN
GIÁO Ở BẮC NINH
63
2.3.1 Vấn đề đặt ra từ phương diện khách thể quản lý 63
2.3.2 Vấn đề đặt ra từ phương diện chủ thể quản lý 66
Chương 3
DỰ BÁO TÌNH HÌNH, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QLNN ĐỐI VỚI TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
70
3.1
DỰ BÁO TÌNH HÌNH TÔN GIÁO VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH THỜI GIAN TỚI
70
3.1.1 Dự báo tình hình các tôn giáo ở Bắc Ninh 70
3.1.2 Một số yêu cầu từ xu hướng tôn giáo ở Bắc Ninh đối với
QLNN về tôn giáo ở Bắc Ninh
73
3.2
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG
75
TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH
3.2.1 Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách
nhiệm của HTCT về công tác tôn giáo và QLNN đối với tôn
giáo
75
3.2.2 Công tác quản lý nhà nước cần tăng cương, tập trung hơn nữa
tới các hoạt động có tính trọng điểm, phức tạp của tôn giáo trên
địa bàn
77
3.2.3 Công tác QLNN cần quan tâm hơn đến công tác vận động quần
chúng, tín đồ, chức sắc các tôn giáo và xây dựng lực lượng
chính trị ở cơ sở
80
3.2.4 Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, công chức làm công tác
QLNN về tôn giáo
85
3.2.5 Xây dựng và hoàn thiện phương pháp công tác tôn giáo và
QLNN về tôn giáo
88
3.3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
89
3.3.1 Đối với Trung ương 89
3.3.2 Đối với tỉnh Bắc Ninh 92
KẾT LUẬN
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực
thể xã hội, ra đời và phát triển từ cả ngàn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã
trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn
tại xã hội, nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân
loại. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các
tộc người trong một quốc gia, theo cả các chiều: tích cực và tiêu cực. Những
năm gần đây, tôn giáo trên thế giới không chỉ phục hồi và phát triển, đáp ứng
nhu cầu tâm linh của con người, mà còn làm nảy sinh không ít cuộc xung đột
giữa các dân tộc trong một quốc gia, hay giữa các quốc gia với nhau.
Ở Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng,
tôn giáo đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay - năm 2011, Nhà nước ta
đã công nhận tư cách pháp nhân cho 13 tôn giáo, với 33 tổ chức Giáo hội.
Trong đó, các tôn giáo bản địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ
nước ngoài vào (ngoại sinh) đều được tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo
pháp luật. Tình hình đó như là sự phản ánh về quá trình đất nước đổi mới,
Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân được cải thiện
rõ rệt, vì thế tôn giáo càng được khẳng định rõ hơn, là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân.
Nhưng, bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành
mạnh, tuân thủ pháp luật, thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn,
2
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không
chỉ trên bình diện vĩ mô mà còn ở các khu vực, các địa phương trong cả nước.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan
trọng và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình
hình mới. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn
mạnh đến vai trò của công tác này và việc: “Tăng cường quản lý nhà nước về
tôn giáo” là một trong những giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo hiện
nay.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía Bắc của
Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh mặc dù có diện tích không lớn, nhưng dân số
lại đông và có vị trí địa lý chính trị quan trọng, nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm của đồng bằng Châu thổ Sông Hồng, có nguồn nhân lực dồi dào và là
tỉnh vốn có truyền thống ngàn năm văn hiến và cách mạng.
Số lượng và quy mô tôn giáo ở Bắc Ninh cũng không lớn, song lại là vị
trí “địa tôn giáo” rất quan trọng. Đó là, về đạo Công giáo, Bắc Ninh có Toà
Giám mục, là trung tâm, đầu não của Giáo phận Bắc Ninh, gồm 12 tỉnh khác
nhau. Còn Phật giáo, Bắc Ninh từng có trung tâm Luy Lâu mà gần hai nghìn
năm trước đã được xem là một trung tâm Phật giáo lớn, bằng hoặc hơn cả
trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành của Trung Quốc, còn đến nay,
tên chùa Dâu, Keo, Phật Tích vẫn nức tiếng toàn cõi Việt Nam. Hiện nay bên
cạnh 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo, trên địa bàn Bắc Ninh đã
xuất hiện cả đạo Tin Lành, một tôn giáo được xem là tôn giáo của thời CNH,
HĐH.
3
Trong những năm qua tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra
bình thường đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong tỉnh an tâm,
phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, về những thành tựu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tích cực tham gia phát triển kinh tế -
xã hội, các hoạt động từ thiện, nhân đạo, xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân
“sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng
nổi lên một số vấn đề có tính phức tạp. Đó là, hoạt động mê tín, dị đoan diễn
ra khá phổ biến; một số cơ sở thờ tự của tôn giáo chưa tuân thủ các quy định
của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Di sản và của các quy định của tỉnh.
Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ xin
phép; triển khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền.
Tình hình khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở cũ của giáo hội còn tiềm ẩn dấu
hiệu phức tạp; hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép và các đạo lạ trên địa
bàn tỉnh vẫn xảy ra.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh
những năm qua đã có nhiều tiến bộ, đạt được một số kết quả nhất định.
Nhưng bên cạnh đó, công tác này cũng còn một số hạn chế, như: Một bộ phận
cán bộ đảng viên nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đối với tôn giáo còn hời hợt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu
tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn
kéo dài, gây tâm trạng phản cảm cho quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo.
Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của chính quyền
nhiều lúc, nhiều nơi còn cứng nhắc.
4
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn để tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay”, để làm luận
văn thạc sỹ quản lý hành chính công.
2.Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời
gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu. Đó là: “Quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp
quyền Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển; "Một số vấn đề
cấp bách trong quản lý tôn giáo ở một số tỉnh phía Bắc" của GS.TS Đỗ Quang
Hưng; “Mác-Angghen về tôn giáo” của PGS. Nguyễn Đức Sự chủ biên); “
Một số vấn đề lý luận và thực trạng tôn giáo Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm
Vạn; Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu
quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, PGS, TS Ngô Hữu Thảo, chủ nhiệm (1998); Cuốn sách
“Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn" của GS.TS
Đỗ Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn
Thanh Xuân; “Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam” của TS.Nguyễn Đức Lữ; Đề tài
cấp Bộ “55 năm đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt
Nam (1945-2000)” của Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề tài cấp Bộ “Công tác an
ninh trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt nam” của Bộ
Công an...
Những công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận và thực
tiễn của vấn đề quản lý tôn giáo, song cụ thể ở địa bàn Bắc Ninh thì chưa có.
Ở tỉnh Bắc Ninh, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng
cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hãy còn rất
5
ít đề tài đi sâu nghiên cứu, nếu có thì thời điểm nghiên cứu đã khá lâu, trước
khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, như luận văn cao cấp lý luận chính trị
của Nguyễn Quang Khải, năm 2004. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy
vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn từ việc khái quát những nhận thức chung về tôn giáo, về quản
lý nhà nước đối với tôn giáo và phân tích thực trạng công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian
qua, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở Bắc Ninh trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về tôn giáo ở Bắc Ninh trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là địa bàn tỉnh
6
Bắc Ninh; về thời gian là từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (năm
2004), đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực
tiễn công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đồng thời sử dụng các phương pháp của các khoa học cụ thể, như tổng hợp và
phân tích, khái quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, tôn
giáo học.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1.Về mặt lý luận:
Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà
nước đối với tôn giáo; khái quát mang tính lý luận từ thực tiễn công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh.
7
6.2.Về mặt thực tiễn:
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây đựng chủ
trương, biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Bắc Ninh và các tỉnh vùng đồng bằng miền Bắc có tình hình tôn giáo
tương tự với Bắc Ninh.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại
trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
TÔN GIÁO
1.1.1. Nhận thức chung về tôn giáo
Tôn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột
cùng, như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự phản ánh
mối quan hệ giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới
hữu hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục.
Theo quan điểm mác-xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã
hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
tôn giáo phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm,
niềm tin và hệ tư tưởng tôn giáo. Còn với tính cách là một thực thể, hay một
hiện tượng xã hội, tôn giáo thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, được quy định
bởi hạ tầng cơ sở xã hội. Cụ thể hơn, tôn giáo ra đời từ 3 nguồn gốc: Kinh tế -
xã hội, nhận thức và tâm lý. Là một hiện tượng xã hội, kết cấu của tôn giáo
bao gồm cả yếu tố vật chất và tinh thần, mà thông thường là các yếu tố: ý thức
(giáo lý), nghi lễ, luật lệ và tổ chức.
Cũng cần phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng và mê tín dị đoan. Tôn giáo
và tín ngưỡng có sự khác nhau, song có quan hệ chặt chẽ, mà ranh giới để
phân biệt chỉ là rất tương đối. Tín ngưỡng có các nghĩa rộng, hẹp khác nhau,
nghĩa rộng, đó là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện
tượng, một lực lượng, một điều gì đó, thông thường để chỉ một niềm tin tôn
giáo; nghĩa hẹp là các hình thức khác với tôn giáo, như người Việt Nam
9
thường gọi “tín ngưỡng dân gian”. Còn mê tín dị đoan, đó là tình trạng người
ta quá tin vào cái siêu nhiên, đến mất lý trí, mê muội, tốn tiền của và huỷ hoại
sức khoẻ, thậm chí cả sinh mạng, vậy nên “Hoạt động mê tín phải bị phê phán
và loại bỏ”. [13]
Quan điểm mác - xít về tôn giáo không dừng lại ở vấn đề bản chất,
nguồn gốc, chức năng và tính chất của nó, mà còn rất quan tâm đến việc chỉ
ra thái độ, nguyên tắc của người cộng sản khi tiếp cận, giải quyết những vấn
đề tôn giáo.
Về thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo, mặc dù cho rằng, thế
giới thống nhất ở tính vật chất, ngoài ra không có thế giới nào khác ngoài vật
chất đang tồn tại và đương nhiên không có thần thánh, ma quỷ nào tồn tại
ngoài những đam mê và dục vọng của chính con người, thế nhưng Chủ nghĩa
Mác - Lênin không bao giờ chủ trương tuyên chiến với tôn giáo, mà ngược lại
luôn tôn trọng niềm tin tôn giáo của nhân dân. C.Mác từng nói, kẻ nghịch đạo
không phải là kẻ phỉ báng thần thánh của quần chúng mà chỉ là người đồng
tình với quan điểm quần chúng, người sáng tạo ra thần thánh.
Có một số người cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin mâu thuẫn tuyệt đối
với đức tin tôn giáo, do đó không có thể dung hợp giữa chủ nghĩa xã hội và
tôn giáo và lập luận này là không đúng, vì đã chủ quan đẩy mâu thuẫn, từ mâu
thuẫn ở phương diện nhận thức - không đối kháng, trở thành mâu thuẫn đối
kháng.
Lý tưởng của những người cộng sản là xây dựng “Thiên đường” nơi
trần thế bằng bàn tay và khối óc của chính con người. Tuy vậy, người cộng
sản không hề có chủ trương phủ nhận tôn giáo mà thừa nhận nó như một nhu
cầu tất yếu của một bộ phận nhân dân trong tiến trình phát triển của lịch sử.
10
Hơn nữa, tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có điểm tương đồng là đều mong muốn
có một xã hội hạnh phúc, công bằng, bác ái, lấy điều thiện thắng điều ác.
“Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng
đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là
quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc
trên thiên đường” [80, tr.174 ]. Rồi nữa, “Trong cương lĩnh của chúng ta,
chúng ta không tuyên bố và chúng ta không nên tuyên bố chủ nghĩa vô thần
của chúng ta...Khắp nơi bọn tư sản phản động đã chú trọng... khêu lên những
sự thù hằn tôn giáo, để làm cho quần chúng chú ý về phía đó, khiến họ không
để ý đến những vấn đề chính trị và kinh tế thật sự quan trọng và chủ yếu,
những vấn đề mà giai cấp vô sản toàn nước Nga, thực tế đoàn kết lại với nhau
trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình, hiện đang giải quyết” [80, tr.174-
175 ].
C.Mác và Ph.Ăng ghen từng căn dặn người cộng sản: “Không thể đả
kích tôn giáo dưới hình thức thù địch cũng như dưới hình thức khinh bạc,
chung cũng như riêng. Nghĩa là, nói chung không được đả kích vào nó”. [20,
tr. 23]
Sau này, Lênin cũng viết: “Còn như tuyên chiến với tôn giáo, coi đó là
nhiệm vụ chính trị của đảng công nhân, thì đó chỉ là một luận điệu vô chính
phủ chủ nghĩa”. [81, tr.511.]
Vậy, theo chỉ dẫn của các nhà kinh điển mác - xít, Nhà nước của giai
cấp vô sản nên xem tôn giáo là việc tư nhân, nghĩa là không nên phê phán
những vấn đề thuộc thế giới bên kia. Chuyện có thiên đường địa ngục, thần
này thánh khác là vấn đề của thần học, của tôn giáo. Nhưng với tư cách là chủ
thể quản lý xã hội, trong đó có tôn giáo, thì Nhà nước có trách nhiệm và
quyền hạn trên 2 vấn đề liên quan đến tôn giáo, đó là Pháp luật và chính trị.
11
Theo chỉ dẫn đó, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhà nước ta
chưa bao giờ có chủ trương tiêu diệt tôn giáo, phủ nhận thượng đế của người
có đạo, mà luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, nghiêm cấm phân biệt sự
đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Vậy khi giải quyết vấn đề tôn giáo, chúng ta cần phải đứng vững trên
những nguyên tắc nào? Về điều này, theo quan điểm mác - xít, được khái quát
trên 4 nguyên tắc sau:
Một: Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn
liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử khi nhận thức
và tác động vào tôn giáo. Theo đó, trước hết phải “Xoá bỏ tình trạng nô lệ về
mặt kinh tế, nguồn gốc thật sự của sự mê hoặc nhân loại bằng tôn giáo” [80,
tr. 175]. Hay nói cách khác, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải
thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư
tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy; phải xác lập
được một xã hội hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học...
cùng các tệ nạn nảy sinh trong nó. Tất nhiên việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải khai thác và phát huy tiềm
năng của mọi cộng đồng xã hội, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Hai: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân.
Các nhà kinh điển Mác - xít quan tâm không chỉ tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, mà còn cả quyền tự do không tín ngưỡng. Tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng và không tín ngưỡng sẽ bảo đảm quan hệ tốt đẹp giữa những
12
người vô thần và hữu thần, giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác
nhau. Nội dung căn bản của quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là:
- Mọi công dân có quyền theo đạo, truyền đạo hoặc bỏ đạo; được hoàn
toàn tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không theo một tôn giáo nào.
- Tất cả mọi công dân có tín ngưỡng và không tín ngưỡng đều bình
đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi.
- Tất cả mọi tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân đều bình đẳng
như nhau. Nhà nước không coi tôn giáo nào là quốc đạo.
Tuy nhiên cần chú ý rằng: Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đồng thời
phải chống lại những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo, mặt khác,
không dung túng cho những kẻ hành nghề mê tín dị đoan.
Ba: Có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Nguyên tắc này có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nó đòi hỏi chủ thể
lãnh đạo, quản lý xã hội khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải phù hợp với
không gian, thời gian cụ thể, như Lênin đã nhắc nhở: “Người mác - xít phải
biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể” [ 81, tr. 518]
Bốn: Cần phân biệt hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và việc chính
trị lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.
Việc phân biệt vấn đề chính trị và tư tưởng trong các hoạt động tôn
giáo trên thực tế là vấn đề không đơn giản, nhưng lại đòi hỏi phải phân biệt
rõ, từ đó mới có giải pháp chính xác. Trong đó, mặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn
giáo phải được giải quyết bằng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo; còn mặt
chính trị lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo phải được giải quyết bằng giải pháp
chính trị. Việc áp dụng lẫn lộn các loại giải pháp, cũng như tuyệt đối hoá một
loại giải pháp nào đó đều là tai hại cho cả tôn giáo và cho chính trị cầm
quyền.
13
Kế thừa và vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng đặc sắc về vấn đề này.
Trước hết cần thấy, tư tưởng của Người về tín ngưỡng, tôn giáo là sự
vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử
cụ thể của Việt Nam. Với Người, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin” [46, tr.268]. Nhưng, xuất phát từ đặc điểm lịch sử, văn hoá của
dân tộc Á - Đông, Hồ Chí Minh cho rằng: “C.Mác đã xây dựng học thuyết
của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử
châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại... Xem xét lại
chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm (ban thuộc địa của
chúng tôi vừa nhận được thư mời chúng tôi tham gia công tác này)” [45,
tr.465] .
Cũng trên quan điểm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ
Chí Minh luôn nhấn mạnh đến việc phải xây dựng một xã hội tiến bộ thì mới
có thể giải quyết được vấn đề tôn giáo một cách tốt đẹp. Từ chỗ nhấn mạnh:
Tôn giáo không hề đối lập với CNXH, Người đã chăm lo chu đáo đến đồng
bào có tôn giáo theo tinh thần “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”.
Trong ứng xử với tín đồ, chức sắc tôn giáo, Người thể hiện nổi bật tư
tưởng hoà hợp, khoan dung, đó là sự cảm thông, chấp nhận và tôn trọng cái dị
biệt, miễn là không trái với lợi ích chung của dân tộc, từ đó mà đạt được mục
tiêu tương đồng. Chính vì thế, đồng bào Phật tử thấy Hồ Chí Minh như "Hiện
thân" của vị “Bồ tát Quán Thế Âm” vì "nhân duyên" dân tộc Việt Nam đau
thương "trầm luân" trong nỗi nhục mất nước ở cõi "Sha- bà" mà xuống cứu
14
khổ cứu nạn. Ngày nay, trong Phật giáo và trong xã hội Việt Nam, tên Hồ Chí
Minh được gán với quả vị Phật giáo, là Bồ tát Hồ Chí Minh. Còn đồng bào
đạo Công giáo và đạo Tin lành luôn khâm phục và cảm động về việc, Người
đã nguyện hy sinh cho Việt Nam độc lập, cho thế giới hoà bình, nên thấy
Người như bóng dáng của "Đức Chúa Ki-Tô” hy sinh thân mình để cứu chuộc
nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo với tính cách là những quan điểm,
nguyên tắc, tác giả khái quát như sau :
Thứ nhất, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc, tôn
giáo với cách mạng và tôn giáo với giai cấp, đó phải là nội dung cốt lõi trong
chủ trương, chính sách tôn giáo của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, luôn phải có tinh thần vận dụng, phát triển nguyên lý chủ
nghĩa Mác - Lênin và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác về vấn đề
tôn giáo, xem đó là cơ sở quyết định cho việc xây dựng đường lối, chủ
trương, chính sách tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, tôn trọng tự do tín ngưỡng phải đi đôi với đấu tranh chống mọi
âm mưu lợi dụng tôn giáo; phải khắc phục những mặc cảm tôn giáo, những
hành vi làm tổn thương đến tình cảm quần chúng tín đồ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo đã bổ sung cho Chủ nghĩa Mác -
Lênin và nó có sức sống từ thực tiễn của đất nước, dân tộc ta, để người cộng
sản Việt Nam có thái độ mềm mại hơn, khách quan hơn đối với tôn giáo.
15
1.1.2. Quản lý nhà nước đối với tôn giáo
1.1.2.1. Khái niệm "Quản lý nhà nước" và “Quản lý nhà nước đối với
tôn giáo”
Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà
nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành
pháp, Tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã
hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền
lực Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp).
Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc
gia đã nêu: QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước;
là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền
lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con
người [38].
Vậy, chủ thể QLNN là các cá nhân hay tổ chức mang quyền lực Nhà
nước tác động tới đối tượng quản lý. Còn đối tượng QLNN là toàn bộ công
dân Việt Nam và những người không phải là công dân Việt Nam đang sống,
làm việc trên lãnh thổ Việt Nam cùng toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
16
Từ các khái niệm quản lý nhà nước như trên, khái niệm quản lý nhà
nước đối với tôn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.
Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để
tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn
giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được
mục tiêu cụ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Đó là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND
các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn
giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật.
Theo đó, QLNN đối với tôn giáo ở cả 2 nghĩa rộng, hẹp, đều tập trung,
trước hết và chủ yếu là quản lý các “hoạt động tôn giáo”. Cụ thể hơn, đó là
các hoạt động tôn giáo liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Hoạt động đó là gì ? Về việc này, tại khoản 5, điều 3 Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo đã nêu: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành
giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo”[77, tr.2].
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền
những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo,
niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ của tôn giáo được các tín đồ
thực hiện. Còn người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu,
tin và theo tôn giáo. Vậy, hoạt động truyền đạo chính là để củng cố và phát
triển tín đồ. Tất nhiên, việc truyền đạo phải tuân thủ các quy định của pháp
luật và nội dung, phương pháp truyền đạo phải đúng với giáo lý của tôn giáo
đó.
17
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín
đồ, chức sắc, nhà tu hành tôn giáo thể hiện sự tuân thủ nghiêm ngặt những
quy định, phép tắc, thoả mãn đức tin tôn giáo của cá nhân hay cộng đồng tín
đồ.
Hoạt động quản lý tôn giáo là các tổ chức, giáo hội tôn giáo thực hiện
các quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn
giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động đó, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền
đạo với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp
trong hoạt động hành đạo có hoạt động truyền đạo.
Từ đó chúng ta thấy, chủ thể QLNN về tôn giáo nếu theo nghĩa rộng
của khái niệm, thì đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp, hành
pháp và tư pháp; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ gồm các cơ quan nhà nước thuộc
hệ thống hành pháp các cấp.
Còn khách thể QLNN đối với tôn giáo, đó là hoạt động tôn giáo của các
tổ chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Là công dân Việt Nam, tín
đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của
người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của
người có đạo.
Chúng tôi, trong luận văn này thường dùng khái niệm “QLNN đối với
tôn giáo”, hoặc “QLNN về tôn giáo”, khi đó được hiểu là “QLNN đối với các
hoạt động tôn giáo”.
Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, tín đồ, đó là những người tin theo
một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Chức sắc tôn giáo là tín đồ
18
có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo. Còn nhà tu hành, đó là tín đồ tự nguyện
thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà
mình tin theo. [77, tr.2]. Người làm công tác QLNN đối với tôn giáo, với họ,
có một đòi hỏi bắt buộc là phải nắm vững về đặc điểm của tín đồ, chức sắc
các tôn giáo, với tư cách là khách thể QLNN.
Ở nước ta, tín đồ tôn giáo có đặc điểm là: Đa số họ là nông dân, vốn có
bản chất cần cù lao động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù kẻ xâm lược và
tầng lớp bóc lột. Song bên cạnh đó, do cả vô thức và ý thức, một số tín đồ
hoạt động tôn giáo chưa tuân thủ pháp luật, tai hại hơn, bị các thế lực thù địch
lợi dụng, nghe theo kẻ xấu tham gia vào các vụ việc phức tạp, điểm nóng tôn
giáo. Một đặc điểm khác là, trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng
không đồng nhất) giữa mặt công dân và mặt tín đồ. Là công dân, họ có mọi
quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước như mọi công dân khác. Là người có tín
ngưỡng tôn giáo, họ có niềm tin ở Chúa, Phật..., có quyền lợi và trách nhiệm
đối với giáo hội. Đây chính là đặc điểm quan trọng cần phải nắm vững.
Còn chức sắc, nhà tu hành tôn giáo cũng có những đặc điểm chung của
một tín đồ, song họ còn có các đặc điểm riêng. Đó là: Họ là những người
được tổ chức tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, nên có năng lực quản đạo và
trình độ thần học cao; được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm. Họ đại
diện ở những mức độ khác nhau cho các tổ chức tôn giáo. Họ vừa chăn dắt tín
đồ, vừa quản lý nền hành chính đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín
đồ, họ là những người rất gần gũi, nắm bắt kịp thời tâm tự, nguyện vọng của
tín đồ. Như thế, họ có vị trí, vai trò và ảnh hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong tín
đồ, được tín đồ yêu quí, trân trọng và bảo vệ.
19
Tiếp nữa, người làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng phải
nắm vững đặc điểm của tổ chức tôn giáo. Đó là: Tổ chức tôn giáo điều hành
các hoạt động tôn giáo; đại diện cho tín đồ trong quan hệ với Nhà nước và với
các tổ chức khác có liên quan. Mỗi tôn giáo có bộ máy tổ chức riêng, hoạt
động theo hiến chương, điều lệ của mình. Các tôn giáo có tư cách pháp nhân
đều thể hiện đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đa số
các tổ chức tôn giáo có liên hệ đồng đạo với tổ chức tôn giáo nước ngoài.
Ngoài ra, khách thể QLNN về tôn giáo còn có cả cơ sở vật chất phục vụ
các sinh hoạt tôn giáo. Trong đó, cơ sở thờ tự không đơn giản chỉ là một thực
thể vật chất, mà còn bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, hội họp, văn hóa... Còn đồ
dùng việc đạo như kinh sách, tượng thờ, tranh ảnh, hoành phi, câu đối, lư
hương, chuông mõ, nhạc cụ,…mỗi thứ có chức năng, công dụng riêng trong
sinh hoạt tôn giáo, nhưng đều có đặc điểm là có giá trị vật chất và có ý nghĩa
biểu đạt. Ngoài ra, phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo cộng đồng còn có vườn
hoa, trường học, nhà dòng, cơ sở từ thiện, nhà trẻ, bệnh xá,… Nó là tài sản
của giáo hội và là nơi diễn ra các hoạt động tôn giáo, được Nhà nước cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho tổ chức tôn giáo quản lý.
Như vậy, việc nắm chắc những đặc điểm của khách thể quản lý là một
yêu cầu tiên quyết đối với chủ thể quản lý, giúp cho công tác QLNN về tôn
giáo có hiệu lực mạnh và hiệu quả cao.
Một vấn đề khác cũng cần nhận thức rõ, đó là vấn đề pháp nhân và thể
nhân tôn giáo. Pháp nhân tôn giáo, đó là bộ máy tổ chức tôn giáo đã được
Nhà nước công nhận. Còn thể nhân tôn giáo, đó là cá nhân tôn giáo (tín đồ) được
tổ chức tôn giáo công nhận.
20
1.1.2.2. Tính tất yếu tăng cường QLNN đối với tôn giáo
Vì sao phải tăng cường công tác QLNN đối với tôn giáo, việc này được
xuất phát từ các lý do khách quan và cơ bản.
Thứ nhất, hoạt động tôn giáo có liên quan đến tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo
cho xã hội ổn định, phát triển bình thường, tất yếu Nhà nước phải tăng cường
quản lý các hoạt động tôn giáo.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đời sống tôn giáo, vậy để đường lối,
chính sách, pháp luật được hiện thực hoá, để đồng bào có và không có tôn
giáo đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực cho sự thành
công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước phải tăng cường
quản lý các hoạt động tôn giáo.
Thứ ba, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo hống
phá cách mạng, vậy để đập tan âm mưu đó và để đồng bào lương - giáo tích
cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất yếu Nhà nước phải tăng cường
quản lý các hoạt động tôn giáo.
Thứ tư, Việt Nam mở cửa, hội nhập để phát triển, theo đó, các thế lực thù
địch cũng thông qua con đường hợp tác, liên doanh, du lịch... thâm nhập vào
những vùng nhạy cảm về tôn giáo, mua chuộc một số chức sắc, tín đồ tôn giáo,
vậy để hội nhập quốc tế có nhiều thành công, Nhà nước phải tăng cường quản
lý các hoạt động tôn giáo.