1
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG BÁN LẺ
1.1. Tổng quan về tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị được
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật, từ người sở hữu sang người sử dụng
trong một khoảng thời gian nhất định và khi đến thời hạn của khoảng thời gian trên,
người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn. Phần
tăng thêm về giá trị được gọi là phần lời hay phần lợi tức. Đây chính là cái giá mà
người sử dụng phải trả cho người sở hữu để được quyền sử dụng một lượng tiền tệ
hay hiện vật nhất định.
Thuật ngữ “tín dụng” xuất phát từ gốc La tinh, có nghĩa là lòng tin, sự tín
nhiệm; tín dụng là một phạm trù kinh tế khách quan tồn tại qua nhiều hình thái kinh
tế xã hội khác nhau. Quan hệ tín dụng thời sơ khai chủ yếu bằng hiện vật và dưới
hình thức cho vay nặng lãi trên cơ sở của nền sản xuất hàng hóa nhỏ, kém phát triển
ở các thời kỳ Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến và phát triển mạnh mẽ vào thời kỳ đại
công nghiệp của phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Và quan hệ tín dụng
không chỉ bằng hiện vật mà còn phát triển bằng hiện kim, với các hình thức tín dụng
tiến bộ hơn: tín dụng ngân hàng, tín dụng chính phủ…
Tín dụng ngân hàng là quan hệ giữa các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng với các công ty, doanh nghiệp và cá nhân,… được thực hiện dưới hình thức
ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và cho vay (cấp tín dụng) đối với các đối
tượng nói trên.
Như vậy trong mối quan hệ trên, ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người
cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi hoặc phát hành các
chứng chỉ tiền gửi để tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội làm
nguồn vốn hoạt động của mình. Ngược lại, với tư cách là người cho vay, ngân hàng
2
cung cấp vốn tín dụng cho các thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau
như cho vay, chiết khấu chứng từ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính,… Thông qua
hoạt động này, ngân hàng có thể cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế đồng thời
tối đa hóa hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình.
1.1.2. Bản chất
Tín dụng là hình thức vận động của vốn cho vay, nó phản ánh mối quan hệ
kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lợi tức.
Quan hệ tín dụng ra đời bắt nguồn từ sự xuất hiện mối quan hệ cung cầu về
vốn giữa người đi vay và người cho vay. Quan hệ tín dụng tồn tại trong nhiều nền
kinh tế hàng hóa, nhưng do tính chất của các phương thức sản xuất xã hội khác
nhau nên tín dụng cũng mang những bản chất khác nhau, và chung quy lại tín dụng
mang các đặc điểm cơ bản sau:
Nền tảng của quan hệ tín dụng là sự tín nhiệm, tin tưởng lẫn nhau giữa người
đi vay và cho vay;
Tín dụng không làm thay đổi quyền sở hữu về vốn mà chỉ làm thay đổi
quyền sử dụng vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác;
Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và được hoàn trả;
Giá trị tín dụng không những được bảo toàn mà còn được nâng cao nhờ lợi
tức tín dụng.
Tóm lại: bản chất tín dụng được thể hiện là sự vận động của vốn tiền tệ trong
xã hội dưới nguyên tắc có hoàn trả góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh, tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống xã hội.
1.1.3. Vai trò
1.1.3.1. Tín dụng góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn
của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ – sản xuất –
lưu thông nên hiện tượng thừa vốn, thiếu vốn tạm thời luôn xảy ra tại các doanh
3
nghiệp. Từ đó, tín dụng đã góp phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho quá
trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.
Mặt khác, với mục tiêu mở rộng sản xuất đối với từng doanh nghiệp thì yêu
cầu về vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Bởi lẽ để đẩy
nhanh tiến độ phát triển sản xuất không chỉ chờ vốn tự có mà doanh nghiệp phải
biết tận dụng những dòng chảy khác của vốn xã hội. Từ đó, tín dụng với tư cách là
nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung
cho đầu tư phát triển. Qua đó cho thấy vốn tín dụng luôn chiếm vị trí đáng kể trong
kết cấu vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Nói cách khác, tín dụng
luôn luôn là người trợ thủ đắc lực cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, là người bạn
đường trong tiến trình phát triển kinh tế.
1.1.3.2. Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả
Trong khi thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại tiền tệ, tín dụng đã
góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt
trong tay các tầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần ổn định
tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất ngày càng
phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng được nhu
cầu ngày càng gia tăng của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần làm ổn định
thị trường giá cả trong nước.
1.1.3.3. Góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã
hội
Một mặt, do tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất
hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu đời sống của người
lao động. Mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai
thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao động,…, do
đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực lượng sản xuất
mới nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
4
Một xã hội phát triển lành mạnh, đời sống được ổn định, ai cũng có việc làm,
đó là tiền đề quan trọng để ổn định trật tự xã hội.
1.1.3.4. Tạo điều kiện để phát triển mối quan hệ kinh tế với nước ngoài
Tín dụng còn có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển của tín dụng không chỉ
ở trong phạm vi quốc gia trong nước mà còn mở rộng ra cả phạm vi quốc tế, nhờ đó
nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ
và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước,
làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng phát triển.
1.1.4. Phân loại
Tín dụng ngân hàng (gọi tắt là tín dụng) có thể phân chia ra nhiều loại khác
nhau tuỳ theo những tiêu thức phân loại khác nhau:
1.1.4.1. Căn cứ vào mục đích cấp tín dụng: Theo tiêu thức này tín dụng có thể
phân chia thành các loại sau:
Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp;
Cho vay tiêu dùng cá nhân;
Cho vay mua bất động sản;
Cho vay sản xuất nông nghiệp;
Cho vay kinh doanh xuất khẩu…
1.1.4.2. Căn cứ vào thời hạn cấp tín dụng: Theo tiêu thức này tín dụng có thể
phân chia thành các loại sau:
Tín dụng ngắn hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn tối đa là 12 tháng;
mục đích thông thường là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động;
Tín dụng trung hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng
đến 60 tháng; mục đích thông thường là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định;
Tín dụng dài hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn trên 60 tháng; mục
đích thông thường là nhằm tài trợ các dự án đầu tư.
1.1.4.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: Theo tiêu thức này tín
dụng có thể được phân thành các loại sau:
5
Cho vay không có tài sản bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng vay vốn để quyết định cho vay.
Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay
như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
1.1.4.4. Căn cứ vào phương thức cho vay: Theo tiêu thức này, tín dụng có thể
phân chia thành các loại sau:
Cho vay theo món vay;
Cho vay theo hạn mức tín dụng;
Cho vay theo hạn mức thấu chi.
1.1.4.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay: Theo tiêu thức này, tín dụng
có thể phân chia thành các loại sau:
Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi
đáo hạn;
Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp;
Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ vào khả
năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
1.2. Tín dụng bán lẻ
1.2.1. Khái niệm
Hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có khái niệm thống nhất về tín dụng bán lẻ.
Trong Luật các tổ chức tín dụng, các loại hình cấp tín dụng được quy định chung,
chưa có định nghĩa và giải thích rõ ràng. Tại khoản 2 Điều 50 Luật các tổ chức tín
dụng có ghi “Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn, trung dài hạn
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống” được bao
hàm cả hai nội dung: tín dụng bán buôn và tín dụng bán lẻ.
Xuất phát từ cách hiểu truyền thống trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, bán
buôn là hình thức mua bán hàng hoá thông qua các trung gian, đại lý, để bán với
khối lượng lớn; ngược lại, bán lẻ là hình thức bán hàng mà người bán trực tiếp bán
cho người mua là người sử dụng, tiêu dùng với khối lượng nhỏ, lẻ. Khi áp dụng
6
trong hoạt động tín dụng, hiện nay trên thế giới có hai cách hiểu khác nhau về bán
buôn, bán lẻ tín dụng.
Thứ nhất, tín dụng bán buôn được hiểu là tất cả các khoản cho vay thông qua
thị trường tài chính (thị trường tiền tệ liên ngân hàng) hoặc cho vay đối với các
trung gian tài chính khác (các ngân hàng thương mại, quỹ, các tổ chức làm đại lý ủy
thác), không tính đến quy mô giá trị khoản vay. Trong khi đó, tín dụng bán lẻ bao
gồm những khoản cho vay trực tiếp đến người vay cuối cùng với các khoản cho vay
có quy mô giá trị khác nhau. Người vay cuối cùng ở đây không phân biệt theo quy
mô lớn hay nhỏ, mà chủ yếu được xác định là người trực tiếp sử dụng vốn vay đưa
vào đầu tư, không thực hiện việc cho vay tiếp tới các đối tượng khác.
Thứ hai, tín dụng bán buôn được hiểu tương tự hình thức thứ nhất, cộng thêm
những khoản cho vay công ty và doanh nghiệp lớn khác có giá trị lớn hơn một quy
mô nào đó tùy theo quy định cụ thể của từng nước, ví dụ, ở nước Anh, những khoản
vay có giá trị từ 50.000 Bảng Anh trở lên được coi là khoản cho vay bán buôn. Tín
dụng bán lẻ bao gồm tất cả các khoản cho vay trực tiếp đến các người vay cuối cùng
là các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ và vừa, cộng thêm các khoản cho
vay đối với những công ty và doanh nghiệp lớn nhưng có quy mô nhỏ hơn một mức
giá trị nào đấy, ví dụ ở nước Anh là các khoản vay có giá trị dưới 50.000 Bảng Anh.
Trong thực tế, những tiêu chí phân định giữa bán buôn, bán lẻ nêu trên chỉ là
tương đối và không mang tính phổ biến đối với mọi quốc gia, và các ngân hàng,
thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào điều kiện thực tiễn cũng như mục đích quản
lý ở từng nơi.
Theo TS. Lê Khắc Trí, tín dụng bán lẻ là những hình thức cho vay trực tiếp
đến các người vay cuối cùng, chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Theo các chuyên gia kinh tế của Học viện Công nghệ Châu Á – AIT, dịch vụ
ngân hàng bán lẻ là cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân riêng
lẻ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua mạng lưới chi nhánh, khách hàng có thể
tiếp cận trực tiếp với sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thông qua các phương tiện
7
điện tử viễn thông và công nghệ thông tin. Theo định nghĩa trên, tín dụng bán lẻ
được hiểu là những hình thức cho vay, những khoản vay trực tiếp từng khách hàng
cá nhân riêng lẻ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua mạng lưới chi nhánh, được
công nghệ thông tin hỗ trợ triển khai các sản phẩm, giao dịch trực tuyến, lưu giữ và
xử lý cơ sở dữ liệu tập trung…
Theo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – BIDV, cấp tín dụng bán lẻ
là việc cấp tín dụng cho khách hàng bán lẻ bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
bảo lãnh và các nghiệp vụ khác. Trong đó, khách hàng bán lẻ là cá nhân (cá nhân
Việt Nam và cá nhân nước ngoài), hộ gia đình có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch
vụ của BIDV.
Tóm lại, kết hợp các quan điểm trên, và theo quan điểm học viên có thể rút ra
khái niệm về tín dụng bán lẻ như sau: tín dụng bán lẻ là hình thức cung cấp trực tiếp
các sản phẩm tín dụng, bảo lãnh có quy mô nhỏ cho các khách hàng là cá nhân, hộ
gia đình và các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là khái niệm được đa số các ngân
hàng thương mại cổ phần sử dụng hiện nay.
1.2.2. Đặc điểm
Đối tượng được cung cấp sản phẩm tín dụng bán lẻ rất rộng và số lượng
khách hàng vô cùng lớn, bao gồm các cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong nền kinh tế, nhưng giá trị của các khoản vay thông thường nhỏ.
Chất lượng các thông tin tài chính của các khách hàng vay thông thường
không cao, đối với các khách hàng cá nhân và hộ gia đình khó xác định, đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa các báo cáo tài chính thường không được kiểm toán.
Tỷ trọng cho vay trung dài hạn đối với tín dụng bán lẻ có xu hướng cao hơn
mức bình quân chung, do các nhu cầu vay trung dài hạn mua nhà ở, đất ở, mua sắm
tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn; bên cạnh đó, khách hàng vay thường không chủ
động kế hoạch hoá về dòng tiền, các nhu cầu vay tiêu dùng thông thường có thời
hạn trên 12 tháng.
Nhu cầu được cấp tín dụng bán lẻ của khách hàng chịu tác động mạnh và phụ
thuộc lớn vào chu kỳ kinh tế; tăng mạnh trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng tốt,
8
thu nhập cao, chi tiêu tăng, đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhỏ lẻ sinh lời
cao; ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp tăng, rất nhiều cá nhân, hộ gia
đình, hạn chế chi tiêu, vay mượn, tiêu dùng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhanh
chóng thu hẹp sản xuất.
Chi phí cho tín dụng bán lẻ lớn hơn mức bình quân chung, do các khoản vay
nhỏ, lẻ, lượng khách hàng lớn nên chi phí quản lý, chi phí hoạt động lớn; do nhu
cầu sử dụng nguồn trung dài hạn cao nên chi phí vốn cao.
Tín dụng bán lẻ có khả năng phân tán rủi ro, do số lượng khách hàng lớn, các
khoản vay có giá trị nhỏ.
1.2.3. Vai trò
1.2.3.1. Đối với nền kinh tế
Hoạt động tín dụng nói chung có vai trò quan trọng trong quá trình thúc đẩy
kinh tế phát triển, bên cạnh đó hoạt động tín dụng bán lẻ có một số vai trò đặc thù
như sau:
Góp phần đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, sử dụng hiệu quả nguồn
vốn, để các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ gia đình mở rộng sản xuất hàng hóa, dịch
vụ, giải quyết khối lượng lớn công ăn việc làm, nâng cao vai trò của các thành phần
kinh tế này trong nền kinh tế, đóng góp ngày càng tăng trong GDP.
Góp phần kích cầu tiêu dùng: với các sản phẩm cho vay mua nhà ở, ôtô,
trang thiết bị phục vụ sinh hoạt gia đình …phù hợp với khả năng chi trả của khách
hàng, các sản phẩm tín dụng tiêu dùng thông qua các loại thẻ nội địa và quốc tế,
kích thích người dân tăng cường chi tiêu, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư
gia tăng năng lực sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
Góp phần đẩy lùi tệ nạn tín dụng đen, cho vay nặng lãi ở nhiều nơi: kênh tín
dụng bán lẻ được khai thông, giúp các khách hàng cá nhân, hộ gia đình, các doanh
nghiệp nhỏ,… dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng có lãi suất hợp lý sẽ hạn chế
nạn cho vay nặng lãi ở nhiều nơi.
9
1.2.3.2. Đối với ngân hàng
Đây là xu thế tất yếu, phù hợp với xu hướng chung của các ngân hàng trong
khu vực và trên thế giới, đảm bảo cho các ngân hàng đa dạng hoá kinh doanh, mở
rộng các phân khúc khách hàng tiềm năng, mở rộng thị trường, phân tán rủi ro, cung
ứng dịch vụ chất lượng cao cho khách hàng.
Trên giác độ tài chính, tín dụng bán lẻ đóng góp quan trọng vào việc tăng
trưởng tín dụng và đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho các ngân hàng. Tín dụng
bán lẻ là một trong hai bộ phận trong nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại
bên cạnh cho vay bán buôn, tốc độ cho vay bán lẻ tăng nhanh sẽ góp phần đẩy
nhanh dư nợ, đồng thời cho vay bán lẻ thường có lãi suất cao hơn, đồng nghĩa với
tăng nguồn thu nhập cho ngân hàng.
Phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ nói chung và tín dụng bán
lẻ nói riêng yêu cầu các ngân hàng đầu tư mạnh vào hạ tầng công nghệ thông tin,
cải tiến chất lượng sản phẩm, xây dựng mạng lưới kênh phân phối đa dạng, rộng
khắp làm nền tảng để phát triển sác sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ, phục vụ
một lượng khách hàng bán lẻ đông đảo.
1.2.3.3. Đối với khách hàng
Phát huy tối đa nội lực khách hàng cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ
và vừa, khai thác hết tiềm năng về lao động, đất đai, hàng hóa, máy móc, nhà
xưởng… một cách hợp lý và có hiệu quả nhất.
Góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo điều
kiện nâng cao dân trí, hình thành những thói quen sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân
hàng hiện đại, phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.4. Phân loại
Bên cạnh các hình thức phân loại chung, tín dụng bán lẻ có một số hình thức
phân loại đặc thù:
1.2.4.1. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
Tín dụng cho sản xuất, lưu thông hàng hóa;
Tín dụng tiêu dùng.
10
1.2.4.2. Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng
Cho vay cá nhân;
Cho vay hộ gia đình;
Cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.2.5. Các sản phẩm tín dụng bán lẻ chủ yếu hiện nay
Trên cơ sở các hình thức cấp tín dụng cơ bản, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, các ngân hàng thương mại hiện nay không ngừng nghiên cứu và đưa ra rất
nhiều sản phẩm mới, để có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng nâng cao của
khách hàng. Các sản phẩm được thiết kế trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu cầu khách
hàng, căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay, một số sản phẩm phổ biến hiện nay
gồm:
Cho vay vốn sản xuất kinh doanh: là sản phẩm tín dụng ngắn hạn nhằm đáp
ứng vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh trong nước mua vật tư, hàng hóa, chi phí
nhân công, nhiên liệu, nộp thuế,…; xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, hàng hoá,…;
thông thường thông qua hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng hoặc theo món.
Cho vay mua sắm đầu tư tài sản cố định: là sản phẩm tín dụng trung dài hạn
nhằm bổ sung vốn đầu tư mới hoặc sửa chữa, nâng cấp máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải, văn phòng làm việc, nhà xưởng,…
Cho vay kinh doanh chứng khoán: là sản phẩm cho nhà đầu tư vay bằng
đồng Việt Nam để kinh doanh chứng khoán và ứng trước tiền bán chứng khoán đã
được khớp lệnh công ty chứng khoán.
Cho vay tiêu dùng cá nhân: là sản phẩm nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng, đây là nguồn tài chính quan trọng để trang trải các nhu cầu
sinh hoạt gia đình, mua sắm đồ dùng, chi tiêu cho y tế, giáo dục, du lịch,…
Cho vay du học: là sản phẩm nhằm cung cấp tài chính để hỗ trợ các du học
sinh tham dự các khoá đại học, sau đại học của nước ngoài.
Cho vay học phí: thông thường là sản phẩm cho vay tín chấp dưới hình thức
trả định kỳ nhằm hỗ trợ người vay có đủ khả năng chi trả học phí khi bản thân
người vay hoặc thân nhân của người vay theo học các khóa học tại Việt Nam.
11
Cho vay mua nhà/đất để ở: là sản phẩm dành cho các khách hàng cá nhân
vay vốn để thực hiện việc xây, mua, sửa nhà, chuyển quyền thuê lại nhà của Nhà
nước, chuyển quyền sử dụng đất…
Cho vay mua ô tô: khách hàng vay vốn để có thể sở hữu và sử dụng một
chiếc ôtô mới, đẹp, hiện đại phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc kinh doanh.
1.3. Một số kinh nghiệm về hoạt động tín dụng bán lẻ trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam
1.3.1. Một số kinh nghiệm về hoạt động tín dụng bán lẻ trên thế giới
Tín dụng bán lẻ là một sản phẩm nằm trong gói sản phẩm dịch vụ bán lẻ của
các ngân hàng, để phát triển tín dụng bán lẻ, cần phải có sự phát triển về tất cả các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Những nghiên cứu gần đây đã cho thấy rằng
các dịch vụ tài chính của 118 ngân hàng bán lẻ hàng đầu ở Mỹ, Châu Âu, Châu Á
rất lạc quan về triển vọng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ trên thế giới, dưới tác
động của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt ở các thị trường mới nổi, nơi có sự tăng
trưởng kinh tế cao và sự cải thiện không ngừng môi trường kinh tế vĩ mô. Việc mở
rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ bán lẻ nói chung phụ thuộc vào các yếu tố
chính là: thị trường, sản phẩm, các kênh phân phối, mức độ thoả mãn, tiện ích đối
với khách hàng. Bên cạnh đó, việc phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng có những rủi ro đặc thù, đặc biệt là trong tín dụng
bán lẻ. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu kinh nghiệm về hoạt động tín dụng bán lẻ ở
một số nước trên thế giới:
1.3.1.1. Citibank với kinh nghiệm hoạt động tại Australia
Citibank N.A. là công ty trực thuộc Citicorp được thành lập vào năm 1812 tại
United States, với 3.400 chi nhánh, có trụ sở trên 100 nước, và hơn 160.000 nhân
viên trên toàn thế giới. Năm 1977, Citibank bắt đầu hoạt động tại Australia, trở
thành một trong những ngân hàng quốc tế dẫn đầu tại Australia với hơn 10 tỉ tổng
sở hữu và 1.500 nhân viên. Citibank thành công do khả năng tận dụng mạng lưới
rộng khắp toàn cầu và những kinh nghiệm chuyên môn quốc tế.
12
Các sản phẩm được thiết kế trên nguyên tắc hướng đến khách hàng, sáng tạo,
và khác biệt so các sản phẩm cùng loại. Một ví dụ điển hình là Citibank’s Mortgage
Power, hình thức vay tín dụng tuần hoàn đầu tiên của Australia giúp cho khách
hàng có thể tăng lợi nhuận; hay Business Power cung cấp khả năng linh hoạt cho
phép kết nối tài chính cá nhân và tài chính kinh doanh cho những nhà quản lý kinh
doanh nhỏ và tư nhân. Citibank’s Global Consumer Bank cung cấp cho khách hàng
một hệ thống các dịch vụ ngân hàng cá nhân hoàn thiện, gồm có thế chấp tài chính
cá nhân và doanh nghiệp, khoản vay cá nhân, thẻ tín dụng, tài khoản gửi và đầu tư.
Hệ thống kênh phân phối đa dạng, rộng khắp, dễ tiếp cận với 7 chi nhánh, 4.700
điểm ATM và 2.700 điểm thanh toán bưu điện, dịch vụ ngân hàng qua telephone
được thực hiện 24/24h, 7 ngày một tuần, và phần lớn khách hàng của Citibank sử
dụng hình thức giao dịch từ xa.
Bên cạnh đó, nhân viên được tuyển dụng và đào tạo bài bản, am hiểu về sản
phẩm và kỹ năng bán hàng, đảm bảo rằng cung cấp cho khách hàng những dịch vụ
tốt nhất.
Ngoài ra, công tác quảng cáo và hậu mãi đặc biệt được quan tâm. Trang web
Citibank cung cấp tỉ giá chung, các thông tin sản phẩm, tin tức và thể thao. Các
khách hàng có thể thực hiện các cuộc giao dịch ngân hàng trực tuyến, là một trong
những trang web phong phú và thân thiện với người sử dụng. Các chương trình tiếp
thị trực tiếp với rất nhiều sản phẩm sáng tạo, cung cấp cho các khách hàng những
chuyến du lịch, trò giải trí đặc biệt, và hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ độc đáo
khác.
Nhìn chung, Citibank được biết tới với chất lượng phục vụ khách hàng cao,
những sản phẩm mới dựa trên sự hiểu biết và nắm bắt rõ nhu cầu của khách hàng,
mang giá trị tinh thần bên cạnh những giá trị về tài chính, tạo ra tính khác biệt của
sản phẩm, hệ thống kênh phân phối thuận lợi, đa dạng, ứng dụng công nghệ hiện đại
và áp dụng chọn lọc kinh nghiệm trên thế giới vào các thị trường nội địa.
13
1.3.1.2. Ngân hàng BNP Paribas với kinh nghiệm tái cơ cấu tổ chức
BNP Paribas là ngân hàng có hoạt động bán lẻ rộng lớn tại Pháp, với 6 triệu
khách hàng và giữ vị trí dẫn đầu trong những dịch vụ ngân hàng qua mạng internet.
Thông qua 2.200 chi nhánh bán lẻ khắp quốc gia, BNP Paribas duy trì mối quan hệ
của họ với các khách hàng cá nhân, với các tập đoàn chuyên nghiệp và độc lập.
Trong năm 2000, sự thắt chặt của việc kinh doanh ngân hàng dựa trên chi phí đã
không cản trở BNP Paribas đạt được một sự tăng trưởng doanh thu khoảng 5%, số
sản phẩm trung bình được bán/khách hàng tăng trưởng đi kèm với một sự gia tăng
số lượng các khách hàng, số lượng tài khoản của các cá nhân tại BNP Paribas lên
đến 73.000 tài khoản.
Bên cạnh đó, BNP Paribas là ngân hàng Pháp đầu tiên thực hiện một hệ thống
internet toàn quốc, tháng 12/2000, công ty nghiên cứu Forrester xếp hạng BNP
Paribas là ngân hàng trực tuyến tốt thứ tư ở Châu Âu.
Để có thể tối đa hóa hiệu quả dịch vụ ngân hàng bán lẻ và đáp ứng nhu cầu
khách hàng tốt hơn, PNB Paribas đã tái cơ cấu tổ chức gồm có ba nhóm cốt lõi.
Nhóm 1: Phân phối và phát triển sản phẩm (chú trọng liên kết giữa bán hàng
và tiếp thị). Nhóm này tập trung vào doanh số và chiến lược phát triển sản phẩm
trên cơ sở mối quan hệ khách hàng bao gồm nghiên cứu hành vi và mong đợi của
khách hàng, theo dõi thị trường cũng như đối thủ cạnh tranh và tạo ra sản phẩm
mới. Doanh số bán sẽ giúp nhóm xác định làm thế nào những sản phẩm và dịch vụ
được bán, từ đó nhóm có thể đề ra những mục tiêu và biện pháp thực hiện. Một
trong những ưu tiên hàng đầu của nhóm là thường xuyên điều chỉnh các loại sản
phẩm và dịch vụ cho nhiều kênh phân phối khác nhau của ngân hàng, mở rộng cung
cấp các dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Pháp và thúc đẩy cơ hội bán chéo sản phẩm
cho các tập đoàn và bộ phận đầu tư khác của ngân hàng.
Nhóm 2: Thực hiện nghiệp vụ và chăm sóc khách hàng (đặc biệt lưu ý dịch
vụ hậu mãi). Nhóm này có hai nhiệm vụ chính là tổ chức và thực hiện các công việc
hàng ngày. Mục tiêu của nhóm là xử lý các giao dịch một cách chuyên môn hóa để
14
đạt chất lượng tốt nhất. Nền tảng đặc biệt này được thiết kế cho từng sản phẩm
riêng biệt chứ không phụ thuôc vào vùng địa lý.
Nhóm 3: Phân tích và nghiên cứu chiến lược phát triển. BNP Paribas muốn
các khách hàng của họ tiếp cận ngân hàng không chỉ qua các chi nhánh mà còn với
các điểm giao dịch khác, cũng như việc cung cấp sản phẩm của họ không chỉ bó hẹp
trong phạm vi quốc gia. Công việc chính của nhóm 3 là đưa ra cách thức thực hiện
các dự án theo đúng chiến lược của ngân hàng. Trong quá trình thực hiện, nhóm có
hai cách: Trước mắt, họ sẽ cung cấp dịch vụ qua mạng lưới các chi nhánh, sau đó
họ mới thiết kế và triển khai hệ thống các kênh phân phối khác. Ngược lại, họ sẽ tái
cơ cấu toàn bộ các kênh phân phối sản phẩm.
Ngoài ra, BNP Paribas đã thực hiện một chương trình đầu tư rất quy mô để
hiện đại hóa mạng chi nhánh. Sự lớn mạnh của mạng lưới tiêu thụ phối hợp với
nhân viên trẻ hơn tạo ra thế mạnh cho họ.
Với cam kết đảm bảo chất lượng dịch vụ, thương hiệu PNB Paribas sẽ ngày
càng xứng đáng là “Ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Pháp”.
1.3.1.3. Khủng hoảng tín dụng bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ
Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu hiện nay được bắt nguồn từ cuộc
khủng hoảng tín dụng bất động sản dưới chuẩn của Mỹ.
Tín dụng bất động sản dưới chuẩn là hình thức tín dụng mà các công ty cho
vay thế chấp ở Mỹ đã cung ứng cho khách hàng mua nhà, với các điều kiện cho vay
được nới lỏng, như : không cần tiền đặt cọc theo hình thức cho vay truyền thống ;
cũng không đòi hỏi người đi vay phải chứng tỏ rõ ràng về khả năng trả nợ, hạ thấp
“điểm tín dụng”, chấp thuận cho vay các khách hàng cho vay dưới 620 điểm và sản
phẩm Option Adjustable Rate Mortgage (lãi suất thả nổi) được các công ty áp dụng
phổ biến nhất.
Với cách cho vay quá dễ dàng, vô số những khách hàng chưa hề có lý lịch vay
mượn, hoặc có lý lịch yếu vì đã từng chậm trả nợ, hoặc không đủ khả năng trả góp
hàng tháng cho đến những người đã bị phá sản... cũng trở thành chủ nhân những
ngôi nhà to lớn, khang trang vượt quá khả năng trả nợ của mình.
15
Trong vòng 10 năm qua, giá nhà ở Mỹ đã tăng liên tục khoảng 20% mỗi năm
và có nơi thì đã tăng gấp ba lần. Trong bối cảnh đó, hầu hết mọi người nhắm mắt đi
vay mua nhà mà không ngần ngại. Bên cạnh đó, các công ty địa ốc ra đời hàng loạt
và tham gia vào thị trường cho vay dưới chuẩn, việc có thêm nhiều nguồn tài trợ địa
ốc đã làm nhà cửa ở Mỹ gia tăng giá trong giai đoạn hơn mười năm qua.
Trước đây, nguồn vốn cho vay địa ốc hầu như đều do ngân hàng cung cấp, tuy
nhiên lượng tiền cho vay từ ngân hàng cũng có giới hạn. Những món nợ vay của
các ngân hàng được dùng làm thế chấp để phát hành những “Trái phiếu bất động
sản” bán cho các nhà đầu tư khác. Tương tự như vậy, các công ty tài trợ địa ốc cũng
bán các món nợ này cho các ngân hàng đầu tư để họ phát hành những trái phiếu bất
động sản và bán lại cho các nhà đầu tư khác.
Chính vì vậy khi thị trường cho vay thế chấp nhà ở của Mỹ gặp khủng hoảng
đã tạo ra hiệu ứng dây chuyền ảnh hưởng đến thị trường tài chính tiền tệ, thị trường
chứng khoán của Mỹ và lan rộng ra toàn cầu. Ban đầu, bong bóng bất động sản nổ
bục ra từ cuối năm 2006, đã dẫn đến một làn sóng mất khả năng chi trả và giải chấp
các tài sản thế chấp; đến lượt nó lại dẫn đến sự sụt giảm giá cả của các loại chứng
khoán có bất động sản; tổn thất tài chính này đã làm cho nhiều tổ chức tài chính lâm
vào tình trạng có quá ít tiền vốn; các tổ chức tài chính có quá ít vốn so với các nghĩa
vụ nợ của họ nên họ đã bán đi các tài sản có, làm cho giá cả của các loại tài sản này
giảm sút thêm và làm cho trạng thái tài chính của các tài chính xấu thêm và phá sản
hàng loạt.
1.3.1.4. Khủng hoảng thẻ tín dụng ở Mỹ
Hiện nay, 73% tổng sản phẩm quốc nội Mỹ là đến từ tiêu dùng người dân, chỉ
số tiết kiệm thực của họ đã xuống dưới mức 1%. Đây là hiện tượng chưa từng thấy
kể từ cuộc đại khủng hoảng những năm 1930.
Sau nhiều năm phát hành thẻ tín dụng với hạn mức tín dụng cao, điều kiện
thông thoáng tràn ngập thị trường Mỹ, nhiều tổ chức tín dụng đã cắt giảm mạnh
hoạt động này, trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp tăng cao, ngày
càng có nhiều người không trả được nợ, nợ xấu tăng cao, các ngân hàng phải đương
16
đầu với làn sóng thua lỗ sau thời kỳ hoàng kim hưởng lợi từ việc cấp tín dụng dễ
dàng.
Đầu năm 2008, tổng số nợ trên thẻ tín dụng ở Mỹ đã lên đến 875 tỉ USD. Các
khoản nợ xấu của thẻ tín dụng đã lên tới 21 tỷ USD trong nửa đầu năm 2008.
Nguyên nhân do ngày càng nhiều người mất khả năng trả nợ, các công ty đang sa
thải hàng chục nghìn công nhân. Dự báo, thua lỗ liên quan đến thẻ tín dụng sẽ tăng
thêm khoảng 55 tỷ USD trong 1 năm rưỡi tới. Hiện nay, tổng thua lỗ đứng ở mức
5,5% tổng số nợ chưa trả của thẻ tín dụng, và số thua lỗ này có thể lên tới 7,9%,
mức đỉnh cao sau cuộc khủng hoảng dotcom những năm 2000.
Những tổ chức cho vay lớn như American Express, Bank of America,
Citigroup đã thắt chặt tiêu chuẩn làm thẻ và đưa ra hạn chế đối với đối tượng khách
hàng có độ rủi ro cao. Capital One, một tổ chức phát hành thẻ tín dụng khác, đã
đóng cửa tất cả các tài khoản không hoạt động và giảm hạn mức tín dụng thêm
4,5% trong quý 2. American Express cho biết sẽ chuẩn bị tăng lãi suất lên thêm 2%
đến 3% đối với một số đối tượng khách hàng, phạt các khách hàng không giữ được
đúng cam kết trả nợ: bằng những mức phạt nặng, như tăng lãi suất, từ 9% đến 24%,
có khi lên đến 39%.
Các biện pháp trên được đưa ra nhằm đảm bảo cho tổ chức cho vay tiền nhưng
lại gây khó khăn cho khách hàng. Kết quả tất yếu sẽ là người tiêu dùng phải trả lãi
suất cao hơn và gặp ngày một nhiều khó khăn hơn trong việc vay tiền. Hạn mức tín
dụng sụt giảm có thể khiến người tiêu dùng gặp khó trong việc quản lý chi tiêu.
Khủng hoảng tài chính với mức độ sâu rộng như hiện nay khiến người dân
những nước phụ thuộc vào thẻ tín dụng phải nghĩ lại về thói quen của họ. Nhiều gia
đình quen với việc tiêu trước trả sau đã bắt đầu giảm sự phụ thuộc vào thẻ tín dụng.
Các tổ chức phát hành thẻ tín dụng trên thế giới cần thiết xem xét lại tiêu chuẩn làm
thẻ, chọn lọc khách hàng, xem xét lại kế hoạch mở rộng thị trường.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm
Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ nói chung, tín dụng bán lẻ nói riêng được
xem là một xu hướng tất yếu khi mà nó đóng vai trò ngày càng quan trọng trong
17
hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, trước tình hình hội nhập kinh tế
tài chính thế giới. Trong lộ trình hội nhập của ngành tài chính ngân hàng, các ngân
hàng nước ngoài có lợi thế về kinh nghiệm, vốn và công nghệ thuận lợi trong việc
chiếm lĩnh thị phần tài chính ngân hàng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các ngân hàng
thương mại Việt Nam với lợi thế về mạng lưới, am hiểu thị trường địa phương cần
thiết tiếp cận và tham khảo các bài học kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài
nhằm nâng cao nội lực và khả năng cạnh tranh trong một sân chơi bình đẳng.
Đúc kết từ thực tế hoạt động của các tổ chức tài chính tại một số nước trên thế
giới từ thành công đến thất bại, rút ra những bài học kinh nghiệm về kinh doanh
dịch vụ ngân hàng bán lẻ nói chung và tín dụng bán lẻ nói riêng cho các ngân hàng
thương mại Việt Nam, đó là:
1.3.2.1. Bài học về phát triển ngân hàng bán lẻ
Để phát triển mạnh các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ nói chung và tín
dụng bán lẻ nói riêng, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần xác định chiến lược
và lộ trình cụ thể cho ngân hàng mình, trong đó cần lưu ý một số mặt cụ thể như
sau:
Mở rộng và đa dạng hoá kênh phân phối nhằm tăng tiện ích, tăng khả năng
tiếp cận khách hàng và ngược lại, bao gồm mở rộng mạng lưới các chi nhánh, và
đặc biệt là các kênh phân phối điện tử, công nghệ cao, qua internet, qua điện thoại,
hệ thống các máy ATM, điểm chấp nhận thẻ rộng khắp. Mở rộng mạng lưới cần
thiết dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, khả năng tiếp cận công nghệ thông tin
của khách hàng; đi đôi với chiến lược phát triển khách hàng, phân khúc khách hàng
tiềm năng, khả năng khai thác hiệu quả thị trường. Việc phát triển mạng lưới cũng
song song với quá trình rà soát mạng lưới, rà soát và đóng cửa những điểm giao
dịch hoạt động không hiệu quả để bố trí lại.
Đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ: Đa dạng hoá sản phẩm là điểm mạnh và
mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân. Hình thành bộ phận nghiên cứu
chuyên trách phát triển sản phẩm. Trong đó tập trung vào những sản phẩm có hàm
lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội, tiện ích khác biệt so các sản phẩm trên
18
thị trường nhằm tăng tính cạnh tranh. Đặc biệt thiết kế sản phẩm phải dựa trên quan
điểm hướng đến khách hàng, dựa trên các yêu cầu khách hàng và thị trường, các
quy trình thủ tục đơn giản, tiện ích, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận.
Tăng cường công tác quảng bá thương hiệu, tăng cường hoạt động tiếp thị,
chăm sóc khách hàng và hậu mãi nhằm tăng cường chuyển tải thông tin tới công
chúng nhằm giúp khách hàng có thông tin cập nhật về năng lực và uy tín của ngân
hàng, hiểu biết cơ bản về sản phẩm dịch vụ, nắm được cách thức sử dụng và lợi ích
của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, tạo mối gắn kết đa chiều giữa ngân hàng và
khách hàng.
Thực hiện chuyên môn hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng bán lẻ, cả về trình độ nghiệp vụ, tác phong giao
dịch và nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Sắp xếp lại mô
hình tổ chức phù hợp với mô hình ngân hàng bán lẻ.
1.3.2.2. Bài học về rủi ro tín dụng bán lẻ
Kinh doanh bán lẻ với đối tượng khách hàng đa dạng, số lượng lớn, buộc các
ngân hàng phải tuân theo những quy định hoạt động chặt chẽ và tỉ lệ an toàn trong
điều kiện bị ràng buộc bởi những hạn chế về nguồn lực. Các ngân hàng phải có định
hướng rõ ràng về hoạt động kinh doanh ngân hàng bán lẻ, có đầy đủ nguồn lực cần
thiết để phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Từ bài học khủng hoảng thẻ tín dụng và khủng hoảng cho vay dưới chuẩn ở
Mỹ rút ra bài học về rủi ro cho hoạt động tín dụng bán lẻ nói chung, tín dụng tiêu
dùng và mua nhà ở nói riêng, đây là hai phân khúc lớn trong tín dụng bán lẻ, đó là:
không hạ thấp các điều kiện cấp tín dụng cho khách hàng; khi cấp tín dụng cần đánh
giá khách hàng toàn diện, không chỉ xem xét đến khả năng trả nợ hiện tại và cần
thiết xem xét đến khả năng trả nợ trong tương lai khi có những biến động về lãi
suất, giá cả tài sản, nguồn thu nhập, đồng thời quan tâm đến lịch sử quan hệ tín
dụng yếu, hệ số nợ trên thu nhập, điểm xếp hạng tín dụng khách hàng…; đa số các
ngân hàng thương mại Việt Nam chưa xây dựng được hệ thống chấm điểm khách
hàng cá nhân để đánh giá uy tín tín dụng khách hàng trước khi cấp tín dụng; cần
19
thiết có cơ chế giám sát và hệ thống thông tin kiểm soát một khách hàng vay, sử
dụng thẻ nhiều ngân hàng.
Kết luận chương 1
Trong chương 1 tác giả trình bày những lý luận chung nhất về tín dụng và tín
dụng bán lẻ. Hiện nay, nước ta chưa có khái niệm tín dụng bán lẻ thống nhất, do đó
tác giả đưa ra một số khái niệm đang được thực tế chấp nhận, đồng thời tác giả cũng
trình bày khái niệm tín dụng dụng bán lẻ theo quan điểm BIDV, từ đó rút ra khái
niệm tín dụng bán lẻ phổ biến hiện nay, được đa số các ngân hàng thương mại Việt
Nam đang sử dụng, và quan điểm này được phân tích xuyên suốt nội dung của luận
văn.
Sau khi đưa ra được khái niệm tín dụng bán lẻ phổ biến, tác giả đồng thời trình
bày đặc điểm, vai trò của tín dụng bán lẻ theo logic chung và từ quan sát thực tiễn,
đồng thời trình bày một số sản phẩm tín dụng bán lẻ phổ biến trong thực tế hiện
nay.
Trong chương 1, ngoài việc trình bày những lý luận chung về tín dụng và tín
dụng bán lẻ, tác giả còn tìm hiểu thực tế hoạt động ngân hàng bán lẻ nói chung và
tín dụng bán lẻ nói riêng của một số ngân hàng của một số nước trên thế giới,
nghiên cứu cuộc khủng hoảng tín dụng bất động sản và thẻ tín dụng ở Mỹ nhằm rút
ra các bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ và một
số bài học về rủi ro nhìn trên giác độ tín dụng bán lẻ áp dụng cho thực tế hoạt động
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Chương 1 của luận văn có thể xem là một
tiền đề quan trọng để có thể đi sâu phân tích thực trạng tín dụng bán lẻ và đưa ra
một số giải pháp phát triển tín dụng bán lẻ tại BIDV.
20
Chương 2:
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG BÁN LẺ TẠI BIDV
2.1. Giới thiệu chung về sự hình thành và phát triển của BIDV
2.1.1. Giới thiệu chung
BIDV thành lập ngày 26/04/1957 theo Quyết định 177/TTg của Thủ tướng
Chính phủ; là một trong những Ngân hàng Thương mại Nhà nước lớn và lâu đời
nhất Việt Nam, là Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, tổ chức và hoạt động theo
mô hình Tổng công ty Nhà nước.
BIDV kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực về tài chính, tiền tệ, tín dụng, dịch vụ
ngân hàng và phi ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật, không ngừng nâng
cao lợi nhuận của ngân hàng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phục
vụ phát triển kinh tế đất nước.
BIDV là một trong những ngân hàng có mạng lưới phân phối lớn nhất trong hệ
thống các ngân hàng tại Việt Nam với trên 12.000 cán bộ nhân viên, chia thành hai
khối:
Khối kinh doanh bao gồm: Hệ thống ngân hàng thương mại trên 108 chi
nhánh cấp I, trú đóng khắp các tỉnh thành trong cả nước, trong đó bao gồm: Chi
nhánh chỉ định thanh toán phục vụ thị trường chứng khoán và chi nhánh bán buôn
phục vụ làm đại lý ủy thác giải ngân nguồn vốn ODA; Công ty chứng khoán BIDV;
Công ty bảo hiểm BIDV, Công ty cho thuê tài chính I, II; Công ty đầu tư tài
chính,…, các công ty liên doanh: Công ty quản lý đầu tư BVIM, Ngân hàng liên
doanh VID Public, Ngân hàng liên doanh Lào Việt; Ngân hàng liên doanh Việt
Nga, Công ty liên doanh Tháp BIDV…
Khối sự nghiệp: Trung tâm đào tạo, Trung tâm công nghệ thông tin.
Hiện nay, BIDV có quan hệ hợp tác kinh doanh với hơn 800 ngân hàng trên
thế giới; là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Châu Á, Hiệp hội ngân hàng
ASEAN, Hiệp hội các định chế tài chính phát triển Châu Á – Thái Bình Dương,
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.
21
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của BIDV: trải qua các giai đoạn:
Thời kỳ từ 1957 1980:
Ngày 26/04/1957, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (trực thuộc Bộ Tài chính),
tiền thân của BIDV, được thành lập theo quyết định 177/TTg ngày 26/04/1957 của
Thủ tướng Chính phủ, quy mô ban đầu gồm 8 chi nhánh, 200 cán bộ.
Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Kiến thiết là thực hiện cấp phát, quản lý
vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn vốn ngân sách cho tất các các lĩnh vực kinh tế, xã
hội.
Thời kỳ 1981 1989:
Ngày 24/6/1981, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được đổi tên thành Ngân
hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo
Quyết định số 259CP của Hội đồng Chính phủ.
Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng là cấp phát, cho vay và
quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thuộc kế
hoạch Nhà nước.
Thời kỳ 1990 đến nay:
Ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên
thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo Quyết định số 401CT của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Đây là thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, chuyển đổi
từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do
vậy, nhiệm vụ của BIDV được thay đổi cơ bản: tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho
vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước; huy động các nguồn vốn trung dài
hạn để cho vay đầu tư phát triển; kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng
chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Từ 1/1/1995, đây là mốc đánh dấu sự chuyển đổi cơ bản, BIDV được phép
kinh doanh đa năng tổng hợp với chức năng đầy đủ của một ngân hàng thương mại,
phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển của đất nước.
22
Ghi nhận những đóng góp của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam qua
các thời kỳ, Đảng và Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã tặng
BIDV nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng Nhất,
hạng Ba; Huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba; Danh hiệu Anh
hùng Lao động thời kỳ đổi mới, Huân chương Hồ Chí Minh,…
Các chỉ tiêu tài chính của BIDV giai đoạn 5 năm gần đây, cho thấy hoạt động
của BIDV hiệu quả, an toàn, bền vững, tăng trưởng đều trên các mặt hoạt động:
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu tài chính của BIDV giai đoạn 2004 – 6/2009
ĐVT: tỷ đồng.
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 6/2009
Tổng tài sản 99.660 117.976 158.165 201.382 242.316 263.976
Vốn chủ sở hữu 3.062 3.150 4.428 8.405 9.969
Cho vay và ứng trước
khách hàng (ròng)
67.244 79.383 93.453 126.616 154.176 186.347
Tiền gửi và các
khoản phải trả
67.262 85.747 106.496 138.233 166.291 215.631
Lợi nhuận trước thuế 222 296 650 2.103 2.142 2.225
Nguồn: các báo cáo thường niên của BIDV, số liệu 6/2009 dự ước.
2.2. Tổng quan hoạt động tín dụng BIDV giai đoạn 5 năm 2004 – 2008
2.2.1. Tổng quan hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam giai đoạn 5 năm 2004 – 2008
Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn này đã có sự phát triển vượt bậc
về số lượng, quy mô và trình độ công nghệ, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế và là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả.
Trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa thực sự phát triển ổn định và
phát huy vai trò, kênh vốn tín dụng ngân hàng vẫn là kênh vốn chủ đạo của nền
kinh tế. Cùng với sự phát triển vượt bậc về mặt kinh tế giai đoạn 2004 – 2008, với
tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội – GDP bình quân gần 8%/năm, tốc độ
tăng trưởng tín dụng bình quân của toàn ngành ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn
23
2004 2008 duy trì ở tốc độ cao, đạt 28,7%/năm, trong đó có hai năm 2004 và 2007,
tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng cao đột biến, tương ứng là 41,5% và 54,2%.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngành Ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2004 – 6/2009.
ĐVT: tỷ đồng.
Năm Dư nợ Tốc độ tăng trưởng
2004 436.957 41,5%
2005 520.853 19,2%
2006 632.315 21,4%
2007 975.262 54,2%
2008 1.158.287 21%
6/2009 1.355.312 17,01%
Nguồn: các báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số liệu
6/2009 dự ước
Biểu đồ 2.1. Tăng trưởng dư nợ của ngành Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2004
đến 6/2009
0
200,000
400,000
600,000
800,000
1,000,000
1,200,000
1,400,000
2004 2005 2006 2007 2008 T6/2009
Dư nợ
24
2.2.2. Hoạt động tín dụng BIDV giai đoạn 5 năm 2004 – 2008
2.2.2.1. Đánh giá chung
Với mục tiêu phát triển an toàn chất lượng hiệu quả bền vững, hướng dần
theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, hoạt động tín dụng của BIDV giai đoạn 5 năm
2004 2008 tập trung vào việc tái cơ cấu và kiểm soát chất lượng tín dụng.
Về khách hàng, tập trung mở rộng quan hệ toàn diện với các tập đoàn, tổng
công ty lớn là các khách hàng truyền thống có tiềm lực tài chính thực sự mạnh, hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế đóng vai trò mũi nhọn, có hiệu quả như: năng
lượng, sản xuất vật liệu, công nghiệp tàu thuỷ,… Bên cạnh đó, trong giai đoạn này
BIDV ưu tiên phát triển cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản, gỗ, các
mặt hàng xuất khẩu khác,…
Các cơ cấu chuyển dịch theo hướng giảm dần dư nợ cho vay trung dài hạn,
tăng tỷ trọng cho vay có tài sản đảm bảo và tăng tỷ trọng cho vay khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh.
BIDV luôn kiểm soát chặt chẽ và tuân thủ các giới hạn an toàn trong hoạt
động tín dụng theo quy định của Luật các Tổ chức Tín dụng, quyết định
457/2005/QĐNHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, kiểm soát tốt tỷ lệ cho
vay đầu tư chứng khoán theo quyết định 03/2007/QĐNHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.
Hoạt động quản trị ngân hàng dần hướng theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Với 13 năm liên tiếp kiểm toán theo thông lệ quốc tế, 4 năm liên tiếp định hạng
doanh nghiệp bởi tổ chức định hạng quốc tế Moody’s và là ngân hàng thương mại
đầu tiên thực hiện phân loại nợ theo điều 7 quyết định 493/2005/QĐNHNN của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
25
2.2.2.2. Quy mô, thị phần và tốc độ tăng trưởng
Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng tín dụng và thị phần tín dụng của BIDV giai đoạn
2004 – 6/2009
ĐVT: tỷ đồng.
Ngành ngân hàng BIDV
Năm
Dư nợ T.trưởng Dư nợ T.trưởng
Thị phần
BIDV
2004 436.957 41,5% 67.831 14,1% 15,5%
2005 520.853 19,2% 82.013 20,9% 15,8%
2006 632.315 21,4% 93.908 14,5% 14,9%
2007 975.262 54,2% 118.058 25,7% 12,1%
2008 1.158.287 21% 149.418 26,5% 12,9%
6/2009 1.355.312 17,01% 186.347 24,7% 13,8%
Nguồn: các báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và BIDV,
số liệu tháng 6/2009 dự ước.
Biểu đồ 2.2. Tăng trưởng dư nợ của BIDV giai đoạn 2004 đến 6/2009
0
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
140,000
160,000
180,000
200,000
2004 2005 2006 2007 2008 T6/2009
Dư nợ BIDV
2
Trong giai đoạn 5 năm 2004 – 2008, quy mô cấp tín dụng của BIDV cho nền
kinh tế không ngừng gia tăng từ 67.831 tỷ đồng năm 2004 lên đến 149.418 tỷ đồng
vào năm 2008 và 186.347 tỷ đồng vào tháng 6/2009, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng