Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Bài soạn D:chuyện tình của tử tù lê quang vịnh.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.76 KB, 53 trang )

Chuyện tình của tử tù Lê Quang Vịnh
Chuyện tình của tử tù Lê Quang Vịnh
Chuyện tình của tử tù Lê Quang Vịnh
Chuyện tình của tử tù Lê Quang Vịnh
Chuyện tình của tử tù Lê Quang Vịnh –
Sóng gió thời bình.
Nhiều người từng biết Lê Quang Vịnh (hiện là Trưởng ban Tôn giáo của
Chính Phủ) là học sinh xuất sắc, từng đỗ đầu kỳ thi chuyên lý toàn miền
Nam năm 1954, thủ khoa cử nhân Toán Đại học Sư phạm Sài Gòn năm
1960. Anh đã từ chối suất du học Mỹ của Quốc trưởng Bảo Đại. Nhưng
câu chuyện tình lãng mạn và đầy chất thơ của người chiến sĩ trung kiên
ấy thì ít người biết đến.
Anh hoạt động cách mạng rất sớm và bị địch bắt giam ở Côn Đảo. Phòng giam của anh
cạnh với phòng Trần Trọng Tân (nguyên Trưởng ban Tư tưởng văn hóa Trung ương).
Chứng kiến Vịnh dũng cảm phản đối chào cờ, hát quốc ca ngụy, anh Tân rất quý cậu thanh
niên này. Anh càng khâm phục hơn khi biết đó chính là người tử tù đã nói một câu nổi
tiếng khi Tòa án Quân sự đặc biệt Sài Gòn kết tội mình: "Chúng tôi rất tiếc là chưa trừng
trị được tên xâm lược Mỹ đầu sỏ ở Sài Gòn". Hai người đã trở thành bạn thân của nhau.
Một lần cao hứng, anh Tân bảo Vịnh: “Mày khá lắm, nếu còn sống được đến ngày giải
phóng có chịu làm em tao không? Tao có cô em gái xinh lắm”. Lúc ấy, ai cũng nghĩ đó chỉ
là chuyện đùa.
Tháng 9/1975, anh Vịnh đại diện cho đồng bào miền Nam ra thủ đô dự lễ Quốc khánh. Cái
lạnh miền Bắc làm bệnh hen bị nhiễm từ trong nhà tù của anh tái phát. Nằm điều trị ở bệnh
viện Hữu Nghị Việt Xô, anh được tiếp một cô gái lạ. Cô giới thiệu là em gái của Trần
Trọng Tân, nghe tin anh ở tù với anh trai ngoài Côn Đảo, muốn đến hỏi thăm tin tức. Đến
tối, cô đèo anh đi thăm Lăng Bác. Đêm hôm ấy, mặc dù bị bác sĩ phàn nàn về tội vi phạm
nội quy nhưng anh còn đủ cảm xúc làm bài thơ “Bên Lăng Bác”. Trong đó có đoạn: “Em
hát thì thầm trong đêm khuya vắng/ Anh cài một đóa hồng lên áo em tinh trắng/ Em ngả
đầu vào vai anh yên lặng...”.
Cô gái trong thơ ấy là vợ anh bây giờ, chị Trần Thị Kim Khánh. Họ đã có 2 con. Xúc
động trước khí phách hiên ngang bất khuất của Lê Quang Vịnh, một nữ họa sĩ Nga


đã vẽ bức tranh “Đồng chí Vịnh - Tử tù” in trang trọng trên tờ họa báo Liên Xô. Khi
kết hôn, chị Kim Khánh đã trao cho anh cuốn họa báo này. Thì ra, chị đã yêu anh từ
lâu lắm rồi.
……
Sóng gió thời bình
Phỏng vấn anh Lê Quang Vịnh, tác giả “chuyện người tử tù có một không hai”:
Tại sao có nhiều điều rất lý thú anh lại “cất giấu” khá kỹ, khá lâu? Lê Quang Vịnh: Tôi bị
địch bắt tù đến 3 lần, cộng chung lại là 16 năm, vào lứa tuổi thanh thiếu niên (14 – 39
tuổi).
Cho nên cuộc sống trong tù ghi đậm dấu ấn lên tâm trí, ý thức tôi. Sau này, tôi đã nhiều lần
nghiêm túc xem xét lại mình, tôi tự thấy vốn sống của mình trong đời thường bị nhiều hụt
hẫng.
Có nhiều việc đời tôi rất yếu kém so với lứa tuổi, mặc dù cũng có một số việc thì tôi lại sâu
sắc hơn các bạn đồng niên. Nhìn chung thì tôi dại khờ, ngây thơ, non nớt về nhiều lĩnh vực
trong đời.
Anh Lê Quang Vịnh (trái) và tác giả bài báo.
Tôi không có ý “cất giấu” những câu chuyện đời mình. Tuy nhiên, tôi rất sợ sơ hở, sợ đụng
chạm đến người khác, nhất là những người đã khuất, Nếu chỉ vì một câu nói nào đó của
mình mà gia đình người ta gặp phải khó khăn, thì đó là điều tôi vô cùng ân hận.
Trong những năm đầu giải phóng, cũng do trình độ của tôi lúc đó còn hạn chế nhiều, tôi đã
để cho người biên tập được toàn quyền sửa sang thay đổi những điều gọi là của mình viết
ra, khiến cho nhiều khi ý nghĩa của đoạn văn lại khác hẳn với ý định của tôi mà về sau thì
chính tôi mới là người chịu trách nhiệm...
Trong trường hợp nhà thơ Ngô Minh cũng như thế, tôi chỉ nói một vài ý rất chung chung,
còn cụ thể như thế nào là phải Ngô Minh tìm tòi, điều tra, nghiên cứu ở những người khác.
Tôi thấy anh Ngô Minh rất thông minh và có phương pháp làm việc tốt. Ngô Minh đã tìm
đến những người tương đối có hiểu biết về sự việc để lần ra sự thật. Về cơ bản, tôi thấy
không có gì phải phiền trách.
Tuy nhiên, nhân đây, tôi cũng xin cải chính về một số chi tiết mà tôi nghĩ là cần nói lại.
Một là, Như đã có lần theo tôi ra rừng để dự khóa huấn luyện cán bộ Đoàn kéo dài nhiều

ngày. Nói điều này ra, tôi muốn đề cập đến sự tin cậy, quí trọng của gia đình thầy Kỵ và
của riêng Như đối với tôi.
Nhưng đó là về chính trị, về đạo đức cách mạng, chứ còn về tình yêu thì tôi nghĩ thuộc về
một phạm trù hoàn toàn khác. Mặc dù tâm can nóng bỏng, nhưng tôi không dám tỏ tình,
một phần cũng vì tôi sợ bị từ chối. Bài thơ “Thư gởi người yêu” nên hiểu là “người tôi
yêu” mà thôi, nó không có nghĩa là “người yêu tôi”.
Hai là, chuyện chị Lý có tấm ảnh của tôi và đề trên tấm ảnh ấy câu “Chờ anh mãi mãi, âm
thầm chờ anh” thì mãi đến sau này khi tờ báo Giáo dục và Sáng tạo năm 2000 đăng lên
như một phụ bản bài phỏng vấn tôi của Vi Ân, tôi mới biết. Thật ra, tôi có gặp một cô Lý ở
Sài Gòn vào lúc nào thì bây giờ tôi không nhớ nổi, nhưng chắc chắn không thể quá năm
1958 được. Đến ngày giải phóng được ra Hà Nội, tôi có gặp lại chị Lý ấy và cả anh Tuấn
nữa (về sau là chồng của chị Lý).
Tôi cũng hiểu chút ít về những tình cảm đặc biệt mà chị Lý dành cho tôi, nhưng chuyện
tấm ảnh thì cả chị Lý và những người thân của tôi đã giấu kín không cho tôi biết. Tôi
không cầm được nước mắt khi viết những dòng này.
Trong thời bình, cuộc đời anh cũng không hề suôn sẻ. Có những khi nghiêm trọng đến mức
độ có người nói rằng” Lê Quang Vịnh bị án tử hình lần thứ 2!”. Anh có thể kể lại một vài
chuyện người thật việc thật với tinh thần “ôn cố tri tân”? LQV: Từ ngày miền Nam được
hoàn toàn giải phóng (1975) cho đến ngày tôi được nghỉ hưu theo chế độ (2003), cọng
chung lại là 28 năm công tác trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Tựu trung tôi đã
đảm nhiệm những chức vụ: Giám đốc Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh.
Bí thư Trung ương Đoàn TNCSHCM và Chủ tịch Hội LHTNVN.
Ủy viên Đoàn chủ tịch kiêm Phó Tổng Thư ký UB Trung ương MTTQVN.
Thường vụ Đặc khu ủy Vũng Tàu- Côn Đảo, Bí thư Huyện ủy Côn Đảo.
Phó Ban Dân vận Trung ương (Đảng) và Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ.
Nói chung là tôi làm công tác quản lý – lãnh đạo. Chức năng của công tác đó là “dùng
người, xét việc” và tất yếu sẽ có người thương, người ghét đối với tôi.
Tôi xin kể về quãng thời gian tôi làm Bí thư Huyện ủy Côn Đảo. Chuyện xảy ra đã lâu rồi,
đến nay tôi chỉ còn nhớ một số khung của sự việc mà thôi.
Đầu năm 1986, tôi nhận được quyết định của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tham gia

Ban Thường vụ Đặc khu ủy Vũng Tàu - Côn Đảo, trực tiếp làm Bí thư Quận ủy Côn Đảo.
Đồng chí Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm UBKH Nhà nước có mời tôi dự một bữa cơm
thân mật trước khi ra CĐ, đã giao cho tôi nhiệm vụ xây dựng một thành phố trên biển (do
đó không gọi CĐ là huyện mà lại gọi là quận).
Ngay khi tôi vừa mới chân ướt chân ráo về tới CĐ thì trên CĐ rất nổi tiếng là xã hội chủ
nghĩa chân chính lại nổ ra một số tiêu cực thật bất ngờ trong khá nhiều lĩnh vực. Trong bộ
máy chính quyền có khá nhiều kẻ hành tung mờ ám.
Ngay trong tuần đầu tiên tôi nhận việc, đã có những người đứng ra tố cáo vụ tàu của ta vũ
trang đánh cá ngoài khơi xa. Khi được báo cáo cụ thể, tôi trình lên Đặc khu ủy (ĐKU) và
trong những đề xuất quan trọng có nhận định tối mật là đầu mối của các tiêu cực ấy...
Trong quá trình xét xử về sau, khi đầu mối tiêu cực đã bị bịt kín, tôi trở thành người bày
đặt ra các tiêu cực không có thật, gây mất đoàn kết nội bộ!
Có ý kiến trong ĐKU nên khai trừ tôi ra khỏi Đảng và cho vào nhà thương điên. Tôi quá
uất ức nên bịnh cũ tái phát. Trước khi nhập viện chữa bịnh, tôi gởi hết hồ sơ vụ án lên Ban
Bí Thư trung ương Đảng.
Tôi cũng còn phải kiểm điểm trước quận ủy nhiều lần nữa và cuối cùng là hội nghị ĐKU
với tuyệt đại đa số phiếu thuận chống lại một phiếu của tôi có kèm theo mấy phiếu trắng
nữa quyết định kỷ luật “cảnh cáo” đối với tôi. Về phần tôi, tôi chỉ nói được 2 tiếng “Bảo
lưu” mà thôi.
Tôi đã nằm bệnh viện 2 năm liền, sau đó Ban Tổ chức Trung ương rút tôi về làm chuyên
viên cao cấp ở MTTQVN. Từ đó, tôi không còn hay biết gì nữa về những việc đang xảy ra
ở Vũng Tàu - Côn Đảo.
Nói như thế cũng chưa đúng hẳn. Trong thời gian này, trên báo Tiền phong có mấy bài “Vì
Côn Đảo thiêng liêng, tôi tố cáo” và trên báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài
“Những người có vấn đề ở Côn Đảo”.
Cũng còn một số báo khác nữa, mà tôi không nhớ nổi, đăng những bài ủng hộ tôi (có lẽ là
do các bạn bè, thân thiết với tôi thấy tôi bị nạn, góp phần giúp đỡ).
Mãi cho đến năm 1993 (5 năm sau khi tôi đã rời khỏi Côn Đảo), trong một lần đồng chí
Tổng Bí thư và một số uỷ viên Bộ Chính trị, ủy viên BCH trung ương Đảng, gặp gỡ các
chiến sĩ tử tù, tôi được trực tiếp nghe đồng chí TBT nói về cuộc đấu tranh trong nội bộ

ĐKU Vũng Tàu - Côn Đảo rằng “Đồng chí Vịnh... là đúng”.
“Bây giờ thì Trung ương đã có đủ bằng chứng để kết luận…”. Tôi còn nhớ lúc đó tự nhiên
nước mắt tôi giàn giụa, tôi đã khóc... Sau đó ít lâu, tôi được bổ nhiệm là Phó Ban Tôn giáo
Chính phủ và năm 1997, tôi được cử làm Trưởng Ban.
Có khi nào sóng gió cuộc đời trong thời bình làm anh xót xa, ân hận và nản chí?
LQV: Tôi xuất thân là một chú bé học trò dốt nát, biếng lười, nhưng nhà tù đế quốc (hay
cũng là trường học cộng sản) đã rèn luyện tôi trở thành một con người có ích cho xã hội.
Bài học đầu đời của tôi là “đi trên đường cách mạng, con người sẽ được quần chúng nhân
dân nâng đỡ, đùm bọc, nỗi bất hạnh sẽ biến thành niềm hạnh phúc”.
Tôi cũng không biết là tốt hay xấu nữa, nhà tù đã tạo ra trong tôi tính chịu đựng (có người
gọi là nhẫn nhục). Tôi tự thấy trong bất cứ công cuộc gì, tôi cũng bắt đầu bằng sự non kém,
thiếu kinh nghiệm và thất bại, nhưng tôi không bỏ cuộc, tôi vẫn tiếp tục.
Càng về sau tôi càng được sự giúp đỡ, ủng hộ của những người tốt và cuối cùng là đi tới
thành công. Tôi tin tưởng rằng vấn đề chủ yếu là rút kinh nghiệm, tìm ra được nguyên
nhân và phương pháp khắc phục, thì nhất định thất bại sẽ là mẹ của thành công.
Nếu có những lúc tôi cảm thấy xót xa, ân hận, không phải vì đã chọn lầm đường (thì
đường cách mạng là chính nghĩa, có gì mà ân hận?), mà tôi chỉ ân hận là mình tài hèn, đức
mọn, việc cần phải làm mà không dám làm, hoặc không đủ tài trí để làm cho tốt, cho được
mỹ mãn…
Xin cảm ơn anh!
NGƯỜI TỬ TÙ CÓ MỘT KHÔNG HAI BẮT ĐẦU(TRÍCH TỪ: CÔN ĐẢO – BẢN TÌNH
CA ANH HÙNG)
Nhiều người trong số chúng ta từng nghe tên Lê Quang Vịnh, một người
Cộng sản trẻ, một thanh niên trí thức hoạt động trong phong trào học
sinh sinh viên Sài Gòn- Gia Định trước ngày miền Nam giải phóng.
Anh bị toà án ngụy quyền Sài Gòn kết án tử hình năm 1962, rồi đày ra Côn Đảo cầm cố
ròng rã suốt 14 năm liền. Tên anh là một trong những cái tên đã trở thành biểu tượng của
sự quật khởi, hiên ngang trước kẻ thù của tuổi trẻ Việt Nam bất khuất.
Lê Quang Vịnh và mẹ ở Côn Đảo (năm 1971).
Nhà thơ Ngô Minh đã tiếp xúc, lắng nghe ông Lê Quang Vịnh (nay đã nghỉ hưu, về ở Huế)

kể về cuộc đời của ông mấy ngày liền với bao nhiêu điều xúc động.
Lê Quang Vịnh có rất ít thời gian để yêu. Vì khi lớn lên anh chỉ lo học, vô tù, ra tù lại học
và hoạt động cách mạng. Có thời gian rỗi thì đi dạy thêm để kiếm tiền nuôi mình và nuôi
em, gánh đỡ nỗi vất vả cho mẹ và chị ở Huế. Rồi 8/1961 anh đã bị địch bắt, bị kết án tử
hình.
Như vậy anh mất đến 15 năm nằm trong nhà lao Chí Hoà và Chuồng Cọp, hầm đá Côn
Đảo. Đó là đoạn đời trẻ trung nhất, đoạn đời yêu đương mãnh liệt nhất của mỗi đời người.
Khi anh ra tù thì đã ”tứ tuần”. Dù thời gian ngặt nghèo như vậy, Lê Quang Vịnh cũng có
những mối tình nồng ấm nhưng đầy nước mắt.
Điều đặc biệt là người anh yêu (và yêu anh ?) trong những mối tình ấy tên tuổi đều gắn với
những sự kiện nổi tiếng, con người nổi tiếng. Đó là chị Quỳnh Như con của giáo sư Tôn
Thất Dương Kỵ, chị Trần Thị Lý , cô gái anh hùng trong thơ Tố Hữu “Em là ai cô gái hay
nàng tiên...” và chị Trần Thị Kim Khánh, em gái của anh Trần Trọng Tân, bạn tù Côn Đảo
cùng Vịnh.
Những mối tình đó đan dệt, kết nối, luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của Lê
Quang Vịnh cho tới tận hôm nay. Anh rất ngại kể chuyện về những mối tình cũ của mình
với tôi. Tôi nghĩ, có lẽ bởi có hiện diện hàng ngày bên anh người vợ thân yêu, luôn chung
thủy yêu thương anh, hiểu anh.
Nhưng thơ anh đã mách với tôi sự thật. Và chị Khánh, vợ anh, cũng không hề ngại nói với
tôi về những người yêu của chồng thời trẻ. Câu chuyện nên chồng nên vợ của anh Vịnh,
chị Khánh sẽ được kể ở đoạn sau. Còn phần này xin kể với bạn đọc ba mối tình mà Lê
Quang Vịnh gọi là “tình yêu đơn phương” của mình.
Anh Lê Quang Vịnh bước vào tuổi 20 là một chàng trai cao ráo, đẹp trai, học giỏi. Anh tốt
nghiệp thủ khoa khoa Toán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, lại là giáo sư trường Petrus
Ký, một trường hàng đầu ở miền Nam thời đó (trên cả trường Quốc học Huế bấy giờ ),
lương rất cao.
Đó là nghề nghiệp, danh tiếng, lương bổng. Quan trọng hơn đối với giới đẹp , Lê Quang
Vịnh là người hiểu biết rộng, lịch lãm, có nhiều biệt tài như viết văn, làm thơ, sáng tác ca
khúc, nên tất nhiên rất nhiều cô gái cùng trang lứa để ý, thầm yêu trộm nhớ.
Nhưng cuộc đời hoạt động cách mạng của anh đã không cho phép anh giao tiếp rộng rãi

với phái đẹp. Anh chỉ quen biết những người con gái gắn bó với công việc của mình. Và số
phận tử tù của anh đã làm cho những mối tình đó thành những mối tình đớn đau, nước
mắt...
Khi nghe tin giáo sư Lê Quang Vịnh và đồng đội bị chính quyền Sài Gòn tuyên án tử hình,
nữ thi sĩ Anh Thơ đã đọc báo và “nhặt” được một chi tiết rất đắt giá đăng trên báo chí lúc
đó. Thế là bài thơ Dòng nước mắt ra đời.
Bài thơ viết về tâm trạng của một cô gái có mặt trong phiên toà ngụy quyền Sài Gòn xử án
Lê Quang Vịnh và “tiểu đội” của anh đêm 23/5/1962 . Cô gái đứng lẫn trong số người đến
dự phiên toà. Cô gái khóc và không lau, để mặc cho dòng nước mắt lăn hoài trên má :
Em không lau mặc cho dòng nước mắt
Chảy dài, chảy mãi, chảy triền miên
Nhìn anh đó, hiên ngang bất khuất
Trán rạng ngời, mắt chói niềm tin!
...
Anh của em ơi người anh thi sĩ
Những ý thơ nào ru thắm tình ta
Những ý thơ nào ước mơ hạnh phúc
Cho chúng mình, cho những đôi lứa vui ca...
Gần 50 chục năm nay, không ai biết người khóc vì Lê Quang Vinh đó là ai. Tôi hỏi anh
Vịnh nhiều lần. Cũng có thể là chính anh cũng không thể biết được. Nhưng cuối cùng anh
mới rụt rè tiết lộ :
- Đó là cô Tuyết Ngọc. Năm đó Ngọc là một sinh viên, ở trong phong trào đấu tranh, là
một “cơ sở” của mình. Khi phiên toà mở, Ngọc có đến dự, nhưng mình không nhìn thấy…
- Thế làm sao anh biết đó là chị Tuyết Ngọc ?
- Chính Ngọc kể cho tôi biết. Sau giải phóng, tôi ra tù về lại Sài Gòn, Ngọc có đến thăm và
cho tôi xem bài thơ mà em đã cắt trên báo và giữ từ 15 năm qua như một kỷ vật. Lúc gặp
lại tôi, Ngọc cũng khóc ròng. Có thời gian Tuyết Ngọc làm Giám đốc Nhà văn hóa thiếu
nhi thành phố Hồ Chi Minh . Bây giờ thì em đã về hưu rồi…
- Anh có thể coi đó là một kỷ niệm về tình yêu ?
- Mình với Tuyết Ngọc cùng hoạt động nội thành, nhiều lần cùng nhau đi những chặng

đường dài ra “cứ” họp. Ngọc lại rất xinh gái, nên tôi rất có cảm tình. Con trai chưa vợ, gần
gũi con gái đẹp, ai mà chẳng rung động, xốn xang. Có lẽ Ngọc cũng có tình cảm riêng tư
với tôi, mà bài thơ của nữ sĩ Anh Thơ là một minh chứng , hay đó chỉ là những giọt nước
mắt chảy vì tình đồng chí ?
Vâng, cũng có thể đó vừa là tình yêu, vừa là tình đồng chí. Điều đáng tiếc là thời gian hoạt
động nội thành đó, cấp trên quy định là không ai được “yêu đương lung tung”, vì sợ bị lộ
tung tích, ảnh hưởng đến phong trào cách mạng. Nên dù có tình cảm riêng cũng không ai
dám thổ lộ, bày tỏ. Vì thế mà chút tình cảm lứa đôi ý mãi mãi chôn chặt trong lòng mỗi
người!
Khi học ở Huế cũng như khi vào Sài Gòn học đại học, Lê Quang Vịnh hay lui tới nhà của
thầy Tôn Thất Dương Kỵ. Gia đình thầy Kỵ cũng coi Vịnh như người trong gia đình. Giáo
sư Tôn Thất Dương Kỵ và bà Huệ Phương có tám người con. Nam nữ gì cũng đều có chữ
lót là Quỳnh: Quỳnh Diên, Quỳnh Trân, Quỳnh Đệ (con trai), Quỳnh Như, Quỳnh Uyển,
Quỳnh Diên ( liệt sĩ) , Quỳnh Chi.
Tôn Nữ Quỳnh Diên đã vượt tuyến ra miền Bắc từ năm 1954. Vì là con một trí thức yêu
nước, có tư tưởng chống Mỹ quyết liệt, nên tất cả các con của thầy Kỵ đều tham gia phong
trào đấu tranh chống Mỹ của tuổi trẻ Sài Gòn, và đều là “cơ sở” của Lê Quang Vịnh. Tôn
Nữ Quỳnh Như, tên gọi ở nhà là Ngọc, là một tiểu thư con nhà danh giá, lại rất xinh đẹp,
đài các, biết ăn diện đúng mốt thời thượng.
Quỳnh Như ước ao sau này sẽ trở thành một kiến trúc sư, nên sau này chị đã vào học Đại
học Kiến trúc Sài Gòn. Mỗi lần đến nhà thầy Dương Kỵ, Vịnh đều tìm cách gần gũi, nói
chuyện với Quỳnh Như. Hai người rất tâm đầu ý hợp. Có lần vào dịp Tết, Lê Quang Vịnh
đã đưa Quỳnh Như ra căn cứ ở rừng Sở Ớt, Củ Chi để học tập chính sách của Mặt trận Dân
tộc giải phóng và để bồi dưỡng Quỳnh Như vào Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Tết đó hai người ở lại ăn Tết trong căn cứ. Dù khi họp phải bịt hết mặt, chỉ trừ hai con mắt
theo nguyên tắc giữ bí mật, nhưng tình cảm hai người đã nồng đượm lắm. Lê Quang Vịnh
bảo Quỳnh Như là cô gái mà anh đã yêu thương, nhớ nhung thắc thỏm. Ngày nào cũng
muốn gặp Quỳnh Như. Xa một ngày là nhớ. Qua ánh mắt, giọng nói, hơi thở, Vịnh biết
Quỳnh Như cũng đang rất yêu mến mình.
Nhưng anh cũng như Quỳnh Như chưa bao giờ thổ lộ, thề thốt với nhau điều gì. Nên sau

này, để giữ niềm thương yêu kính trọng hương hồn người đã khuất, anh Vịnh vẫn thường
bảo với mọi người: ”Đó là mối tình đơn phương của mình”. Mối tình đơn phương ấy chỉ
còn lại là một vết sẹo hằn trong tim mỗi người.
Ngay sau khi bị tuyên án tử hình, ở trong ngục tử hình của nhà lao Chí Hoà, Lê Quang
Vịnh đã viết bài thơ “ Thư gửi người yêu” rồi tìm cách gửi ra cho Quỳnh Như. Bài thơ như
những lời trối trăng mãnh liệt gửi đến người thân yêu nhất trước pháp trường, bị hành hình
trên máy chém :
Em nhớ không ngày ấy còn trong năm sáu mốt
Còn bão tố đầy trời miền Nam đau xót
Trong một khu rừng hoa dại vàng tươi
Ta đón xuân giải phóng với bao người
Dù chẳng được nhìn nhau cho tận mặt
Dù chẳng dám hát ca vì còn kia lũ giặc...
...
Em nhớ không em vân vê tà áo mới nông dân
Màu quê hương cho em đẹp bội phần
Đêm giao thừa mình nghe thơ Tố Hữu
Nghe Bác Hồ chúc mừng xuân Tân Sửu...
...
Bên máy chém anh vẫn nhìn em bước
Cùng nhân dân đất nước hé môi cười.
Hình như gia đình ông bà Kỵ cũng biết mối tình của con gái mình với Lê Quang Vịnh, nên
bao giờ cũng có ý vun vào. Khi Lê Quang Vịnh đã nằm trong Chuồng cọp Côn Đảo, không
biết lấy được địa chỉ Vịnh ở đâu, mà bà Huệ Phương, mẹ Quỳnh Như đã viết cho Vịnh cái
thư gửi ra Côn Đảo.
Mở thư ra, Vịnh biết ngay là thư bà Kỵ vì bà ký tên thời con gái là Huệ Phương, bức thư
viết lóng để che mắt địch: “…đầu mùa hè năm ngoái, chi mai của con bị bứng đi trồng ở
lồng Thừa Phủ, đến mùa đông thì chi mai của con bị trẩy rụi rồi đem nhốt vô cũi Ba Lòng.
Giữa năm nay chi mai của con đã tháo cũi xổ lồng bay về rừng xanh núi biếc, phóng
khoáng thênh thang…”.

Lê Quang Vịnh đọc đi đọc lại bức thư mãi mới “dịch nghĩa” được là bà Kỵ báo tin chị Mai
bị bắt năm 1965, rồi bị đày ra Ba Lòng. Năm 1966 đã vượt ngục thành công ra vùng giải
phóng. Sau đó bà Huệ Phương còn viết cho Vịnh mấy lá thư nữa, đều gọi Vịnh là “con” rất
ấm áp, thân tình.
Năm năm sau, năm 1966, Trần Quang Long, một nhà thơ nổi tiếng của phong trào “xuống
đường” đấu tranh của sinh viên Huế, quê gốc Kinh Bắc, sinh ra ở Huế, đã có những câu
thơ bốc lửa: “Con sẽ vót nhọn chông thành thơ/ Xuyên vào tim lũ giặc…” xuất hiện. Lúc
đó Trần Quang Long đang dạy học ở Trường trung học Cường Để, Quy Nhơn.
Anh đã tổ chức cho cả ngàn sinh viên đi biểu tình và thành lập lực lượng “Bảo vệ Dân tộc
Bình định” do anh làm chủ tịch. Cuộc đấu tranh của tuổi trẻ Quy Nhơn bị địch đàn áp dã
man. Trần Quang Long bị đánh gãy chân và bắt. Gia đình phải lo lót để cho anh ra tù .
Ra tù Long đã chuyển vào Cần Thơ dạy học và trở thành Chủ tịch Hội Sinh viên sáng tác
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, rồi Ủy viên Mặt trận Liên minh Dân tộc Dân chủ Sài Gòn. Do
tiếp xúc với thầy Tôn Thất Dương Kỵ, nên Long cũng gặp và yêu Quỳnh Như. Quỳnh Như
lúc này đang là sinh viên Trường Kiến trúc Sài Gòn.
Vì 6 năm rồi, từ ngày Vịnh bị án tử hình, Quỳnh Như không biết được tin tức gì về Vịnh
cả. Ai cũng tin là Vịnh đã bị giặc thủ tiêu. Thế là, đầu năm 1967, Quỳnh Như và Trần
Quang Long làm lễ cưới. Sau Mậu Thân, địch phản công, Trần Quang Long thoát ra chiến
khu. Địch bắt Quỳnh Như vào tù vì tội hoạt động chống chính quyền trong dịp Tết Mậu
Thân. Ngày 11/10/1968, Trần Quang Long bị bom B52 hy sinh ở “R”, căn cứ của Trung
ương Cục miền Nam ở rừng Tây Ninh. Quỳnh Như sinh con trai ở trong tù. Một năm sau
ra tù, chị mới biết tin chồng hy sinh. Quỳnh Như ở vậy nuôi con cho đến ngày giải phóng
miền Nam 30/4/1975.
Lê Quang Vịnh kể rằng, năm 1971, ở trong Hầm Đá, anh bất ngờ nhận được một lá thư của
Quỳnh Như kèm theo bức hình và lá thư nhỏ có mấy dòng chữ mới tập viết của bé Son (tên
là Trần Xuân Thắng), con Quỳnh Như lúc này đã gần 4 tuổi. Vịnh bàng hoàng xúc động.
Quỳnh Như hỏi thăm tình hình sức khỏe anh Vịnh, khuyên anh cố gắng giữ gìn, rồi kể
cuộc sống của mẹ con ở Sài Gòn. Thư viết rằng, khi anh bị công an đưa về Sài Gòn sau Tết
Mậu Thân em vẫn biết, nhưng không vào thăm anh được… Lá thư vẫn được chị Khánh, vợ
anh Vịnh lưu giữ, chữ viết li ti gần bốn trang giấy, nhưng đến hôm nay, đã hơn 36 năm vẫn

đọc rất rõ. Chị Như hẹn trong thư rằng, lần này chỉ gửi ảnh bé Son, còn lần sau “em sẽ
chụp tấm ảnh màu gửi cho anh, để anh biết em bây giờ ra sao!”. Sau đó anh Vịnh còn nhận
được vài lá thư nữa của Quỳnh Như.
Tháng 5/1975, khi ra tù Côn Đảo, về lại Sài Gòn, Lê Quang Vịnh có tìm đến nhà thăm mẹ
con Quỳnh Như. Chị vẫn đẹp như xưa. Nhưng đã rắn rỏi hơn, đằm thắm hơn nhiều lắm.
Có lúc Quỳnh Như cố tình xin phép ra khỏi phòng để bé Son lại. Bé Son sà vào lòng anh
Vịnh, nũng nịu :” Bác Vịnh ơi, bác có thương Son, thương mẹ Như của Son không ?”.
Anh Vịnh cảm động, vuốt tóc bé Son, nói trong nước mắt :”Bác thương mẹ Như của Son
nhất. Khi bác xuống dưới đất rồi vẫn thương Son, thương mẹ Như của Son”.
Khi Vịnh đến thăm gia đình ông bà Tôn Thất Dương Kỵ, cả hai ông bà đều xúc động,
mững rỡ. Thầy Kỵ ôm chầm lấy đứa học trò cưng nhất của mình, tay thầy cứ sờ nắn bả vai,
lưng, như kiểm tra xem bọn giặc tra tấn có làm mất đi cái xương nào của cậu học trò giỏi
nhất của mình không. Bà Kỵ rơm rớm nước mắt, đứng ngây người nhìn người tử tù thân
thương của mình, như trong một giấc mơ. Mãi lâu bà mới nhớ ra, hối hả đi giục mọi người
chuẩn bị cơm nước…
Thầy Kỵ có lần nói với Vịnh: “Từ lâu vợ chồng thầy coi em thân thiết như người nhà. Bây
giờ em đã thoát khỏi ngục tù, vợ chồng thầy mong em sẽ trở thành người nhà vĩnh viễn của
gia đình thầy…”. Lê Quang Vịnh hiểu ý muốn bé Sao, hiểu ý của thầy Kỵ, anh suy nghĩ
trăn trở bao đêm. Bây giờ nếu anh đồng ý, thì có thể Quỳnh Như sẽ “đi bước nữa” , sẽ “trở
lại” với anh.
Nhưng còn hương hồn nhà thơ liệt sĩ Trần Quang Long thì sao ? Hơn nữa lúc đó anh đã
yêu chị Khánh...Sau đó Lê Quang Vịnh ra Hà Nội học trường Nguyễn Ái Quốc. Thời gian
đó Quỳnh Như có lần ra Hà Nội thăm anh và cũng đã biết anh Vịnh đã cưới vợ.
Ba năm sau, năm 1978, anh nghe tin chị Quỳnh Như mất vì bệnh xơ gan cổ trướng. Ôi,
hình như hai người chưa được ông Tơ bà Nguyệt xe duyên, nên duyên tình chưa thể bén.
Âu cũng là cái số “hồng nhan phận bạc” ở đời!
Trong thời gian hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên những năm 60, 61 của thế
kỷ trước. Lê Quang Vịnh còn “quen biết” một người con gái nữa , rất nổi tiếng. Đó là chị
Trần Thị Lý. Trần Thị Lý, người nữ chiến sĩ kiên cường trong bài thơ ”Người con gái Việt
Nam” của nhà thơ Tố Hữu:

Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây, hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm dông
Thịt da em hay là sắt là đồng?...
Nhà thơ Tố Hữu đã xúc động viết nên những câu thơ rất thật, rất thần: “Cho tôi hôn bàn
chân em lạnh ngắt/ Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt/ Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh…”
Chị Trần Thị Lý quê ở Gò Nổi, Kỳ Lam, bên dòng sông Thu Bồn, Quảng Nam. Hồi đó chị
hoạt động bí mật ở Sài Gòn, làm công tác giao liên của căn cứ Khu ủy Sài Gòn ở Củ Chi.
Lúc đó Lê Quang Vịnh đang hoạt động công khai ở Sài Gòn. Trong một chuyến anh Vịnh
ra bưng họp , chị Trần Thị Lý là người dẫn đường, hai người quen biết nhau. Trước khi
anh Vịnh bị kết án tử hình, chị Trần Thị Lý đã bị địch bắt . Địch dùng đủ cực hình tra tấn
vô cùng dã man đối với người con gái duyên dáng ấy “điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa
nung”.
Một thời gian không đủ chứng cớ để buộc tội, chúng phải thả tự do cho chị Lý. Chị được
tổ chức bí mật đưa sang Nông Pênh (Campuchia) rồi đi tàu bay ra Hà Nội chữa trị vết
thương do địch tra tấn. Chị Khánh, vợ anh Vịnh đã gặp chị Lý ở Hà Nội năm 1975, tức là
Trần Thị Lý 16 năm sau.
Chị Khánh kể: “Chị Trần Thị Lý là một phụ nữ rất đẹp. Tôi chưa thấy ai đẹp như thế, đúng
như nhà thơ Tố Hữu mô tả “Em là ai cô gái hay nàng tiên…” trong thơ. Vừa đẹp lại vừa
dịu dàng, nhân hậu”.
Tuổi tứ tuần mà còn đẹp vậy, chắc lúc trẻ chị Lý là một thiếu nữ xinh đẹp mê hồn. Lê
Quang Vịnh là một nhà thơ, máu thi sĩ làm sao mà không bị lay động trước một giai nhân
như thế? Từ đó, đã có một câu chuyện rất lãng mạn và rất thú vị về một bức ảnh của Lê
Quang Vịnh chụp thời trai trẻ.
Sau khi Lê Quang Vịnh và các đồng đội bị toà án ngụy quyền Sài Gòn tuyên án tử hình,
các báo ở Hà Nội tới tấp đăng bài phản đối bản án, tố cáo nguỵ quyền Sài Gòn đàn áp trí
thức, sinh viên học sinh. Nhưng các báo đều không có một tấm ảnh nào của giáo sư Lê
Quang Vịnh cả. May thay, Thủ tướng Phạm Văn Đồng mới nhớ ra là người nữ chiến sĩ
Trần Trị Lý đang chữa bệnh ở Hà Nội đã có lần khoe với mình tấm ảnh Lê Quang Vịnh.

Nhờ chị Lý giữ tấm ảnh, và nhờ trí nhớ tuyệt vời của Bác Đồng, các báo đến chỗ chị Lý
mượn ảnh. Nhờ đó, ảnh Lê Quang Vịnh mới được đăng lên báo, làm xúc động người đọc
cả miền Bắc. Anh Vịnh kể với phóng viên Vi Ân, báo Giáo dục và Sáng tạo của Sở Giáo
dục-Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh trong bài “Chuyện một nhà giáo tử tù” .
Vi Ân viết: “Bức ảnh ấy là ảnh anh Vịnh chụp cuối những năm 50 thế kỷ trước để làm thẻ
sinh viên. Một lần ra bưng họp, Lê Quang Vịnh có mang theo tập ảnh gia đình trong người,
trong đó có bức ảnh ấy. Anh Vịnh có đưa cho các bạn gái trong bưng xem. Tấm ảnh đó đã
bị (được?) một người “ém nhẹm” cho riêng mình mà anh không hay. Sau đó anh bị
bắt…”(số báo ra ngày 4/5/2000). Câu chuyện đó có vẻ rất khách quan và đơn phương lắm.
Nhưng điều quan trọng là chị Trần Thị Lý khi ra chữa bệnh ở Hà Nội đã giữ khư khư tấm
ảnh ấy như một báu bật của đời mình. Chị Lý đã có lần khoe với bác Phạm Văn Đồng và
cả bác Tôn Đức Thắng rằng, người trong tấm ảnh là “ giáo sư Lê Quang Vịnh, là người
yêu của cháu”. Trần Thị Lý đã đề vào sau bức ảnh kỷ niệm mối tình của mình câu: “Chờ
anh mãi mãi, âm thầm chờ anh - Đạo Tĩnh”.
Đạo Tĩnh là biệt hiệu của Trần Thị Lý khi hoạt động ở Củ Chi. Thời gian chị đề câu ấy vào
tấm ảnh là tháng 4/1961, lúc chưa bị địch bắt. Lúc đó anh Lê Quang Vịnh cũng chưa bị
bắt. Một người con gái, có thể yêu mê mệt một chàng trai nào đó, nhưng rõ ràng khi chưa
hò hẹn, thì có thể đề câu “chờ anh mãi mãi” được không ? Có lẽ đây là tình yêu của sự hò
hẹn. Và đó mới chính là vẻ đẹp của những tâm hồn trong sáng, cao thượng của những tấm
lòng cách mạng thủy chung. Đó là một “cú sốc tình cảm” lớn đối với Lê Quang Vịnh vì
anh không ngờ mình gặp lại “người đẹp quen biết cũ”, trong lúc đã có vợ sắp cưới là Trần
Thị Kim Khánh. Chị Kim Khánh còn kể cụ thể hơn rằng, trước đó chị Lý đã yêu một người
cháu của cụ Tôn Đức Thắng tên là Tuấn . Khi gặp lại tử tù Lê Quang Vịnh ở Hà Nội, thì
chị đã xin lỗi người yêu... !
Oái oăm là chị Lý lúc đó lại nằm Bệnh viện Việt Xô, ngay cạnh phòng mà anh Vịnh đang
điều trị. Ngày nào anh Tuấn cũng bới cơm cháo đến cho chị Lý, bên này, ngày nào chị
Khánh cũng mang cơm đến cho anh Vịnh. Thời gian này, tử tù Lê Quang Vịnh kiên gan
suốt 15 năm trong lao tù ngục tối của địch, đã phải hoang mang bối rối trước rắc rối tình
cảm. Anh đã có lần nói với chị Khánh rằng: “Thôi em đừng đến với anh nữa. Đàn bà rắc
rối quá !”.

Rồi anh lại viết cho Khánh một lá thư dài, thanh minh, năn nỉ. Chị Trần Thị Kim Khánh rất
yêu thương anh Vịnh, nên đã bảo với mọi người rằng: “Đối với anh Vịnh, tôi nguyện làm
một Thaia, vì tình yêu đối với người chiến sĩ kiên cường mà hàng ngày đẩy xe lăn chăm
sóc Paven Corsaghin bị liệt phải nằm một chỗ trong sách “Thép đã tôi thế đấy” của nhà
văn Nga Xô- Viết N. Ốxtơrốpxki sau những người yêu cũ của Paven như Tonhia, Rita “.
Mối tình nồng nàn Lê Quang Vịnh- Trần Thị Kim Khánh đã hóa giải được tất cả những rắc
rối do thời gian và lịch sử để lại của thời “hậu chiến” . Nghe những câu chuyện ấy, anh
Vịnh vẫn cười nói với tôi :” Đó chỉ là tình yêu đơn phương phía Lý”.
Chị Khánh còn kể, sau đám cưới Vịnh-Khánh, trước khi đi chữa bệnh ở Đức, chị Trần Thị
Lý còn mời chị Khánh đến nhà, nắm tay thân tình, rưng rưng nước mắt nói :”Thôi chị đi
đường chị, chị nhờ em chăm sóc anh Vịnh”.
Chị Lý sau đó vẫn lấy anh Tuấn cháu họ Bác Tôn. Khi Đà Nẵng thành lập trường đại học,
anh là giảng viên Đại học Bách khoa Đà Nẵng. Hai anh chị có một đứa con gái. Năm 1992,
chị mất vì bệnh tật ở thành phố Đà Nẵng.
Tình yêu là chuyện riêng của mỗi người, nhưng nó cũng là chuyện của đất nước một thời.
Những câu chuyện tình của Lê Quang Vịnh không còn là của riêng anh, mà là của một thế
hệ tuổi trẻ Việt Nam đã dấn thân vì Tổ quốc...
Sự tình còn nhiều hấp dẫn. Chị Trần Thị Kim Khánh kể tôi nghe câu chuyện xúc động.
Sau khi thoát khỏi Chuồng cọp Côn Đảo ngày 1/5/1975, Lê Quang Vịnh được bổ nhiệm
làm Phó giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1975, anh cùng với
đoàn 100 tù nhân Côn Đảo ra thăm miền Bắc. Anh được mời nói chuyện về đề tài “Côn
Đảo- hòn đảo địa ngục” tại cơ quan Ủy ban Trung ương Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam
.
Hội trường chật ních trên hai ngàn người nghe.
Trong số người đến dự nghe cuộc nói chuyện hôm đó có một người phụ nữ xinh đẹp. Đang
nửa chừng, khi người ta giới thiệu người nói chuyện hôm nay là “Giáo sư Lê Quang Vịnh,
tử tù Côn Đảo”, người con gái ấy bỗng nhiên tái xám mặt mày, rồi ngất xỉu. Cuộc nói
chuyện phải dừng lại.
Ngừơi ta xin lỗi diễn giả Lê Quang Vịnh, rồi bế người con gái ra phía sau hậu trường,
xoa dầu, bấm huyệt. Khi tỉnh lại, điều chị nói làm mọi người ngạc nhiên :” Tôi là

Trần Thị Lý và người nói chuyện là Lê Quang Vịnh, người yêu của tôi ! Ôi, người yêu
tôi đã về!”. Rồi chị lại ngất xỉu, nước mắt giàn giụa.
Người tử tù có một không hai – P2
Lê Quang Vịnh và các anh/Tiểu đội anh hùng của tuổi xanh/Mười hai tên mạnh như
tên lửa/Chấp hết gươm treo, án tử hình/“Tiểu đội anh hùng của tuổi xanh”.
Anh Lê Quang Vịnh (phải) và nhà thơ Ngô Minh.
Đó là khổ thơ mở đầu bài thơ “Tiểu đội anh hùng” nhà thơ Tố Hữu viết sau khi nghe tin
bản tuyên án hà khắc của Tòa án quân sự đặc biệt của ngụy quyền Sài Gòn ngày 23/5/1962
đối với 12 thanh niên sinh viên học sinh yêu nước Sài Gòn- Gia Định.
Hồi đó, nhiều văn nghệ sĩ lớn ở miền Bắc như nữ thi sĩ Anh Thơ, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước,
nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ… đã có ngay những sáng tác rực lửa ca ngợi những người thanh
niên bất khuất, ca ngợi người trí thức hiên ngang Lê Quang Vịnh.
Hình ảnh giáo sư Lê Quang Vịnh hiên ngang trước tòa án binh Sài Gòn trở thành một biểu
tượng cho khí phách của tuổi trẻ miền Nam mà thanh niên miền Bắc thời đó ai cũng xúc
động, cũng nhớ nằm lòng.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1960. Sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam được thành lập, phong trào sinh viên trong các trường đại học Sài Gòn bị bể trong
năm 1959, nay đã được tổ chức lại. Đã hình thành được Ban cán sự Đảng và Khu đoàn ủy
Thanh niên Sài Gòn – Gia Định, cùng Ban vận động Thanh niên học sinh sinh viên (trong
đó có một chi bộ Đảng sinh viên) do các anh Trần Quang Cơ (Tám Lượng), Hồ Hảo Hớn
(Ba Lực), Lê Minh Châu, Lê Hồng Tư lãnh đạo.
Lê Quang Vịnh là Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành, Trưởng Ban cán sự sinh viên. Năm
1961, trên chủ trương đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh vũ trang để gây áp lực, hỗ trợ
phong trào đấu tranh chính trị.
Lực lượng vũ trang thanh niên, sinh viên đã tiến hành nhiều trận đánh như ném lựu đạn
MK2 vào xe tuần tiễu giết chết 8 tên lính dù ngụy; đốt cháy một kho xăng của quân đội
ngụy, ném thủ pháo vào xe chở Đại sứ Mỹ Nolting, giết hụt tên này; đánh vào cư xá Mỹ;
phục kích diệt tên đại tá cố vấn chỉ huy xây dựng phi trường Tân Sơn Nhất.v.v…
Phong trào đấu tranh vũ trang đã lôi cuốn cả những lính biệt động Sài Gòn như anh Huỳnh
Văn Chính, Nguyễn Văn Mẹo tham gia. Những trận đánh đó làm cho bọn an ninh quân đội

Sài Gòn điên đầu. Chúng thúc giục quân lính lùng sục truy tìm thủ phạm. Và chúng đã bắt
được hàng chục người, trong đó có thường vụ Khu đoàn Lê Hồng Tư, học sinh Lê Văn
Thành…
Anh Lê Quang Vịnh kể, tháng 8 năm 1961, anh vừa đi chấm thi ở Huế về thì có thư của
trên gọi ra căn cứ. Anh theo giao liên đến Khu đoàn ở Đức Hòa. Anh Tám Lượng cho biết,
ngày 22/8/1961, ở Hà Nội sẽ diễn ra Hội nghị sinh viên Quốc tế chống chiến tranh xâm
lược Việt Nam.
Anh Vịnh có nhiệm vụ phải thảo bức Thư của Hội liên hiệp sinh viên Giải phóng và Bản
báo cáo về phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh miền Nam Việt Nam gửi cho Hội
nghị.
Mười ngày ròng dùng cái chõng tre của anh Ba Lúa làm bàn viết, Lê Quang Vịnh đã hoàn
thành hai văn kiện ấy. Nhưng hai tài liệu ấy đã không gửi ra Hà Nội được, vì đang đêm căn
cứ của Khu Đoàn bị địch bất ngờ càn vào.
Bốn giờ sáng, Vịnh nhét vội hai văn kiện vào bòng (“bòng” là cái túi đeo của cán bộ, bộ
đội giải phóng miền Nam may bằng vải dù, thay ba lô) đeo vào lưng chạy ra rìa làng.
Ở Đức Hòa không có rừng như Củ Chi nên rất khó nấp. Thấy nguy hiểm, anh Hồ Hảo Hớn
lệnh cho mọi người cất giấu tài liệu. Vịnh giấu cái bòng của mình vào lùm dứa dại.
Pháo địch bắn cấp tập. Trực thăng “cá rô” chỉ điểm cho xe lội nước tràn tới. Rồi lính dù
ngụy tràn vào, tiếng tiểu liên AR15 bắn xối xả bốn bên. Tiếng người la hét. Ba đồng chí bị
bắt và bị bắn chết ngay, trong đó có anh Tám Lượng. Lê Quang Vịnh cũng bị bắt sau đó.
Một tên trung sĩ nói tiếng Huế hỏi anh
”Mày làm gì ở đây?”. Vịnh nói: Tôi là học trò trong Sài Gòn ra thăm vùng giải phóng”.
Nghe tiếng Huế, hình như anh ta động lòng trắc ẩn, muốn cứu “đồng hương”, nên khi thấy
tên trung uý rút súng định bắn, anh trung sỹ vội nói to ngay: - Để tên này lại để lãnh
thưởng chớ, thưa trung uý?
Vừa nói, anh ta vừa đẩy Lê Quang Vịnh về phía làng, giao cho toán lính canh giữ. Nếu
không có “người đồng hương Huế” ấy chắc Vịnh đã chết sáng hôm đó rồi. Bọn an ninh
quân đội ngụy tổ chức khai thác ngay.
Chúng lùng sục phát hiện ra bòng tài liệu của Vịnh giấu trong bụi dứa gai. Qua thẻ giáo sư,
chúng nhận ra anh là Lê Quang Vịnh, giáo sư trường Petrus Ký, và qua những tài liệu trong

bòng, chúng biết anh là một người lãnh đạo phong trào sinh viên học sinh Sài Gòn…
Những ngày đó, các báo xuất bản ở Sài Gòn liên tiếp đăng tin ảnh “Bắt được hàng chục tên
Việt Cộng ngay giữa Sài Gòn”, “Giáo sư Lê Quang Vịnh, một chỉ huy Việt Cộng đã bị
bắt”.v.v...
Suốt 9 tháng sau khi bị bắt, Lê Quang Vịnh bị chuyển qua nhiều trại giam. Bị tra tấn liên
tục. Mục đích của chúng là tìm ra toàn bộ tổ chức cách mạng trong sinh viên học sinh.
Nhưng chúng không tìm ra chứng cớ gì, cuối cùng chúng ghép anh vào vụ mưu sát đại sứ
Mỹ Noltinh cùng với anh Lê Hồng Tư và 10 thanh niên học sinh khác.
Đến ngày xử án, bọn công an ngụy giam tất cả 12 người vào chung một phòng, nên anh
Vịnh có điều kiện để biết rõ thêm tên tuổi và hoàn cảnh từng người. Các anh còn bàn nhau
khi ra tòa phải thể hiện thái độ như thế nào, xưng hô như thế nào để giữ thể diện, khí tiết là
người cách mạng.
Danh sách “tiểu đội” gồm: Lê Hồng Tư, 27 tuổi, sinh viên, Lê Quang Vịnh, 26 tuổi, giáo
sư; Lê Văn Thành, 20 tuổi, học sinh; Hạ Văn Hiền, 22 tuổi, học sinh; Đỗ Văn Sinh,20 tuổi,
học sinh; Hồ Văn Ngoan, 20 tuổi học sinh; Dương Văn Bình, 27 tuổi, thư ký hãng nước
ngọt; Huỳnh Văn Chính, 27 tuổi, lính biệt động quân ngụy Sài Gòn; Nguyễn Văn Mẹo, 23
tuổi, lính biệt động quân ngụy Sài Gòn; Trần Bạch Vân, 28 tuổi, nhiếp ảnh viên; Nguyễn
Văn Cho, 30 tuổi, tài xế; Nguyễn Tấn Phát, 18 tuổi, học sinh. Những người trẻ tuổi ấy đã
làm chấn động thế giới vì đã chủ động tấn công kẻ địch ngay trước vành móng ngựa…

Trên ghế công tố, Lê Văn Khoa, ủy viên Chính phủ ngụy quyền, công tố viên hỏi Lê Văn
Thành:
- Thôi, anh có nhận là đã ném bom vào xe của đại sứ Nolting không?
- Thôi không cần dài dòng. Chính ta đã ném trái thủ pháo đó.
- Tại sao anh lại muốn giết đại sứ Mỹ ?
- Bởi hắn là tên xâm lược. Tôi noi gương liệt sĩ Phạm Hồng Thái đã cài bom tại Sa Diện
năm xưa … Lê Văn Khoa lại khua môi múa mép với Lê Hồng Tư:
- Chà, anh Lê Hồng Tư, mới nhìn qua tôi cũng biết anh thông minh lắm...… Chắc anh đủ
can đảm để nói rõ sự thực về mấy người lính dù bị sát hại chứ?
- Tôi nói sự thật chớ nói dối thì ích gì đây? Nhưng sự thật là thế nào nhỉ?

- Anh xác nhận đã ra lệnh cho tên Thành liệng lựu đạn vào xe tuần tiễu của lính dù.
- Rất tiếc, tôi không thể xác nhận điều đó !
- Tại sao?
- Bởi vì tôi không hề làm điều đó.Tôi không bao giờ ra lệnh cho cơ sở đánh vào những
chiếc xe tuần tiễu bình thường. - Nếu thế thì tôi hỏi anh rằng anh có ra lệnh cho đánh vào
xe của đại sứ Hoa Kỳ không ?
- Câu chuyện này hơi dài dòng… Khi các cố vấn quân sự Mỹ kéo vào miền Nam Việt Nam
ngày càng nhiều, Ban lãnh đạo của chúng tôi quyết định tố cáo việc này trước công luận
quốc tế; đồng thời cảnh cáo Chính phủ Mỹ rằng nhân dân miền Nam Việt Nam buộc lòng
phải cầm vũ khí đứng lên.…
- Anh có biết là tại sao trái bom không nổ ?
- Anh Tám Lượng bắt buộc chúng tôi chỉ sử dụng trái bom (trái mìn tự tạo - NM) đó mà
thôi. Tôi nghĩ cấp trên của tôi đã có ý đồ rõ rệt!
- Ý đồ gì ?
- Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ muốn cảnh cáo chính phủ Mỹ. Giết chết đại sứ Nolting
không phải khó, nhưng chúng tôi chỉ muốn cảnh cáo chính phủ Mỹ, họ không dám công
khai ký vào văn bản hiệp định Geneve...
Trần Văn Thọ rung chuông ngắt lời anh Lê Hồng Tư :
- Đây không phải chỗ cho anh tuyên truyền cộng sản.
….
Đến phiên Lê Quang Vịnh:
“Bỗng có ai đó nâng cằm tôi lên:
- Tôi không ngờ lại gặp cậu trong hoàn cảnh thế này, cậu còn nhớ tôi không?
Tôi im lặng gật đầu. Ông ta là Hồ Uy, thầy dạy Anh văn của tôi hồi đệ tam, đệ nhị trường
Khải Định Huế, nay đã leo lên chức Phó chủ tịch Quốc hội của Ngô Đình Diệm. Ông ta tỏ
vẻ thương xót:
- Cậu có biết là cậu sẽ lên máy chém không?
- Thưa thầy biết chớ.
- Cậu có biết rằng tôi có thể cứu sống được cậu không?
- Thưa thầy biết chớ.

-Bây giờ cậu có ân hận gì không?
- Ân hận lắm !
- Ân hận thế nào?
Ông ta có vẻ tự đắc hí hửng...…
- Ân hận vì bị chết quá sớm, chưa thực hiện được chí nguyện đuổi Mỹ, lật Diệm !... Ông
Uy tái mặt trước câu trả lời của tôi.”

Đó là 3 đoạn trích trong hồi ức “Phiên tòa lịch sử” của Lê Quang Vịnh kể về việc đối đáp
hiên ngang giữa Lê Văn Thành, Lê Hồng Tư, Lê Quang Vịnh với bọn quan tòa ngụy quyền
Sài Gòn tại phiên tòa đặc biệt xét xử vụ án Hội Liên hiệp Sinh viên học sinh giải phóng
miền Nam do tòa án quân sự đặc biệt Sài Gòn xử ngày 23/5/1962.
Đoạn hồi ức in trong cuốn Từ trái tim người tù yêu nước của Lê Quang Vịnh, do Nhà xuất
bản Thuận Hóa ấn hành năm 2006. Đến phiên người nào bị thẩm vấn, người đó đều đối
đáp thông minh và khí phách làm cho kẻ xử án phải bối rối, run rợ. Những người thanh
niên Sài Gòn ấy đã biến vành móng ngựa tòa án binh địch thành nơi luận tội bọn xâm lược
và bọn tay sai bán nước.
Tại phiên tòa này, bố Lê Hồng Tư và mẹ Lê Quang Vịnh cũng được những người quen
ngầm báo, nên cũng có mặt. Không được gặp nhau, nhưng qua ánh mắt nhìn, người cha,
người mẹ ấy đã truyền được sự yêu thương nồng ấm, sự tin cậy đến những đứa con yêu
quý của mình. Họ đã khóc vì thương con, nhưng họ cũng đã chứng kiến khí phách hiên
ngang, bất khuất của con mình trước kẻ thù.
Đến 12 giờ khuya hôm ấy, phiên tòa mới kết thúc. Chúng tuyên án tử hình 4 người là Lê
Hồng Tư, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Thành và Huỳnh Văn Chính, 3 án chung thân và 5 án
“tù ở” (tức tù giam) từ 5 – 15 năm.
Những người tù bị còng thành từng cặp, tay người này còng với tay người khác. Bản án
vừa tuyên xong, anh Lê Hồng Tư giơ cao cánh tay phải không bị còng thét lên:” Đả đảo
luật phát xít 10/59 của ngụy quyền miền Nam!”. Cả “tiểu đội tù” đồng thanh hô theo: ”Đả
đảo! Đả đảo! Đả đảo!…”…
Khi đoàn tù bị hiến binh kéo ra xe, tiểu đội tù bỗng bùng lên tiếng hát hào hùng: ”Vùng lên
nhân dân miền Nam anh hùng. Vùng lên xông pha vượt qua bão bùng. Thề cứu lấy nước

nhà. Thề hy sinh đến cùng. Cầm gươm ôm súng xông tới…”. Cả “tiểu đội” hát say sưa,
sang sảng, mặc cho bọn hiến binh xông vào đấm đá túi bụi. Tiếng hát như nâng bổng họ
lên cao tận trời sao Sài Gòn đêm hè thăm thẳm…
Bọn hiến binh dồn các anh lên xe tù, đóng sầm cửa lại. Tiếng hát vẫn vang lên hùng
hồn:Vận nước đã đến rồi. Bình minh chiếu khắp nơi. Tiếng hát Giải phóng miền Nam
chúng ta cùng quyết tiến bước… vọng vang qua các phố trong đêm Sài Gòn làm cho nhiều
người thức giấc, nhiều ô cửa sổ đã bật mở… Tiếng hát Giải phóng miền Nam… như là
một ngọn gió mát lan truyền…
Những cái Tết của tử tù
Vì gần Tết Đinh Hợi, tôi hỏi chuyện anh Lê Quang Vịnh về những cái Tết trong Chuồng
Cọp mà anh từng trải qua. Anh Vịnh kể, đã là tử tù, tức tù chính trị bị còng chân ở Chuồng
Cọp, Hầm Đá thì tuyệt đối không có Tết đúng nghĩa của nó. Chỉ có một thay đổi nhỏ,
nhưng rất quan trọng đối với người tù là đêm Giao thừa địch cho mở còng, sáng ra chúng
lại khoá còng lại.
Có cái Tết, khi được tháo còng, tử tù Ba Thưa (nguyên Tỉnh ủy viên Tây Ninh) đã nhặt đâu
đó được cái móc quần (móc sắt thay cho khuy cài cạp quần tây). Anh liền mài vào tường
cho sắc. Sau đó anh vỗ tay gọi bọn lính cai ngục kéo đến phía trên.
Anh hô khẩu hiệu đả đảo Mỹ ngụy, chửi bới chế độ tù hà khắc. Rồi anh phanh bụng lấy cái
móc quần đó rạch bụng mình, lấy ngón tay chọc máu mình viết lên tường câu: ”Quyết tử
(Cho Tổ Quốc quyết sinh - anh Vịnh đoán thế) để thể hiện khí tiết. Nhưng mới viết xong
chữ “Quyết tử” thì anh gục ngã.

Tái hiện hình ảnh người tử tù Côn Đảo.
Người tù nằm một mình trong bốn bức tường đá lạnh, chỉ biết Tết qua âm thanh, mùi vị
bên ngoài vọng vào: Tiệc đâu gió chướng thơm mùi thịt/ Vuốt bụng cồn cào muốn ngủ
quên (LQV- Noel Hầm Cọp).
Khi giao thừa đến, nghe tiếng pháo bên ngoài vọng vào, người tử tù mặc vào chiếc áo lành
nhất của mình, tức là áo rách, quần tưa đã được vá lại từ trước, đứng dậy nghiêm trang,
tưởng tượng mình đang chào cờ Tổ quốc. Không biết đâu là đông tây nam bắc, vẫn như
đang hướng về đất liền, nơi cố hương, hướng về miền Bắc, thầm hát Quốc ca.

Cũng có Giao thừa, bốc quá, hát to: Nước mắt rưng rưng tràn má hóp/ Quốc ca ta hát vọng
ra ngoài (thơ LQV). Thế là bọn lính canh Chuồng lấy sào thọc tới tấp từ trên song sắt
xuống. Nếu còn hát tiếp, nó rắc vôi bột xuống trắng cả tóc tai. Thế mà anh em tù Chuồng
Cọp, Hầm Đá cứ Tết đến, hay ngày Quốc khánh 2/9 là đứng nghiêm trang “chào cờ tưởng
tượng”, rồi hát Quốc ca, Lãnh tụ ca.
Có lần anh em tù Hầm Đá tổ chức ăn Tết ầm ĩ quá, bọn địch dùng chày vồ mở cửa chuồng
đánh tới tấp, vẫn không chịu im, chúng dùng thủ pháo chứa hơi ngạt ném vào chuồng, làm
mọi người ngất xỉu. Có đêm Giao thừa tại Chuồng Cọp Trại 7, sư Hành Tuệ, một nhà sư
đấu tranh cho hoà bình thống nhất đất nước, bị đày ra Côn Đảo, bị giam ở cạnh chuồng anh
Vịnh.
Không biết nhà sư hỏi ai mà biết người bên kia bức tường là “giáo sư Lê Quang Vịnh”.
Đang đêm nhà sư lấy ghét bẩn trên thân thể mình vê thành hòn đất bằng lóng tay, ném sang
chuồng của anh Vịnh, rồi hô to: ”Năm mới, chào giáo sư”. Anh Vịnh hỏi người đưa cơm,
biết chuồng bên kia là sư Hành Tuệ, nên hôm sau cũng đáp lại “Chúc Tết Sư thầy”. Bọn
lính canh rầm rập chạy tới thì tất cả đã im ắng. Đó là những lời chúc năm mới hiếm hoi
trong Chuồng Cọp Côn Đảo. Năm 1972, sư Hành Tuệ do không chịu hô khẩu hiệu “Đả đảo
cộng sản Hồ Chí Minh”, đã bị bọn cai tù đánh chết trong Chuồng Cọp Mỹ.
“Chúa Đảo” quy định tiêu chuẩn cho tử tù ăn 3 tháng được 100 gam thịt, một ngày 450
gam cơm (hai dĩa). Nhưng ngày Tết chúng cho thêm trên đĩa cơm mang vào Chuồng một
hai miếng thịt. Có thể gọi đó là “Khẩu phần Tết”.
Anh em tù đi lao động khổ sai thì Tết nhất có khá hơn. Khi đi làm ở các “Sở” (tổ chức lao
động khổ sai theo nghề, như sở vôi, sở đá…) họ kiếm được con cá dưới ruộng, bông hoa
rừng, làm cho cái Tết cũng tươi hơn chút ít.
Anh Lê Quang Vịnh cho rằng, trong 8 năm biệt giam trong Chuồng Cọp, Hầm Đá và 4
năm chung thân khổ sai, có hai cái Tết ấn tượng nhất đối với anh. Đó là Tết Mậu Thân
1968 và Tết năm 1971.
Ngày mùng 2 Tết Mậu Thân, anh Vịnh đang ở Chuồng Cọp II, bỗng nhiên địch mở cửa,
tháo còng, lôi ra khỏi chuồng. Sau đó chúng đưa anh cùng các tử tù Lê Hồng Tư, Lê Minh
Châu, Trương Thanh Danh lên tàu thủy Mỹ chở về Sài Gòn. Tuy vẫn bị còng chân, nhưng
4 người tù được hít thở khí Xuân đất trời. Khi tàu vô tới Tân Cảng Sài Gòn, các anh thấy

Tân cảng bị cháy đen, nhiều chỗ còn đang bốc khói.
Trên đường về Tổng Nha cảnh sát ngụy, nhiều khu quân sự của địch bị phá nát. Khu căn
cứ Hàng Xanh gần như sụp đổ hoàn toàn. Dinh Độc Lập cũng bị nhiều vết tích của một
cuộc tấn công. Đường phố Sài Gòn mọc lên nhiều công sự bằng bao cát.v.v...
Như vậy các anh đã được chứng kiến tận mắt một trận đánh rất lớn của quân ta vào đầu
não Sài Gòn. Nghe nói chúng đưa các anh về để trao trả đổi 3 tên Mỹ bị bắt trong Mậu
Thân, nhưng 3 tên Mỹ đó đã được Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam trao cho Hội
Hồng Thập tự quốc tế để trả cho phía Mỹ.
Chúng đánh đập 9 tháng trời, bắt chào cờ ba que, hô khẩu hiệu đả đảo cộng sản…, các anh
không chịu, rồi chúng chở ra lại Côn Đảo. Tuy thân thể bị đau đớn, nhưng vô tình chúng
đã cho các anh “ăn” một cái Tết tinh thần no nê, là chứng kiến cuộc Tổng tiến công Mậu
Thân của quân và dân ta.
Đó là một liều thuốc “thập toàn đại bổ” giúp người tù có thêm sức mạnh và ý chí để vượt
qua sự đánh đập giam cầm của địch trong Chuồng Cọp những ngày sau đó. Tết đó, anh đã
làm bài thơ “Trở lại Sài Gòn”:
Trở lại Sài Gòn thấy xác xơ
Dân thưa lính chật chợ đông hờ
Thép gai bao cát giăng trùng trập
Dinh tướng lầu quan đổ ngẩn ngơ
Bừa bãi phái bom cày nát phố
Nơi nơi cách mạng phất cao cờ
Đô thành cháy nám, người sao nhỉ?
Kìa mấy cô me Mỹ vẩn vơ(!).
Lê Quang Vịnh được ăn một cái Tết rất xúc động ở trong Hầm Đá. Đó cũng là Tết Hợi,
hình như Tân Hợi, 1971. Năm 1970, toàn bộ tù Côn Đảo “đồng khởi”. Hàng ngàn tù nhân
bãi công, tuyệt thực chống đánh đập, chống bắt chào cờ. Hàng chục người tự rạch bụng
chết trước mặt kẻ địch như anh Ba Thưa để tỏ rõ khí tiết.
Nhà báo Mỹ Don Luce đã tìm cách lén ra Côn Đảo, đóng vai cố vấn Mỹ đã đột nhập vào
Chuồng Cọp, Hầm Đá chụp ảnh, sau đó viết bài đăng trên báo Mỹ, làm cho dư luận quốc
tế lên án gay gắt chế độ nhà tù Mỹ ở Côn Đảo. Bọn địch bèn chia riêng tù chính trị (đa

phần là cộng sản) và tù thường phạm (có nhiều kẻ xấu). Nhờ đó anh em dễ bề hoạt động
hơn.
Có trại anh em cấm cố tổ chức “Đài phát thanh Giải phóng”. Bụm tay làm loa, cuộn tấm
nệm nằm làm loa chĩa lên trời hô lớn: ”Mỹ thua Mỹ về Mỹ. Quân đội thua quân đội về đâu
? Xin các ông nghĩ lại!”. Họ “phát thanh” liên tục, đêm nói, ngày nói, nói tháng này qua
tháng khác, làm cho bọn nguỵ quân cai tù cũng nao núng, chùn tay đàn áp...
Tết đó, Lê Quang Vịnh ở hầm số 14 trong Hầm Đá trại 3 gồm một dãy 14 hầm. Các hầm từ

×