Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

sieu tam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 89 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2></div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>---Diễm Xưa</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>---Mưa Hồng</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>---Nắng Thuỷ Tinh</b>

- <i>Trịnh</i>
<i>Công Sơn </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6></div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7></div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>-Tình Khúc</b>



<i>- Trịnh Cơng Sơn </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tưởng niệm



<b>Ngôn ngữ Trịnh</b>


<i> Trịnh Chu </i>


---Trịnh Công Sơn tự đắp cho mình một “nấm mồ”, để rồi ngồi trên đó mà trầm tư khơng dứt về
thân phận kiếp người, cho dù thể phách và tinh anh chưa một lần vỗ cánh bay đi. Thi thoảng
trong đời thấp thống những bóng giai nhân - như nàng Kiều ngày xuân đi tảo mộ - <i>“buồn </i>
<i>chân ghé chơi”</i> “ngôi mộ” bằng thơ và bằng nhạc do chính bàn tay người nhạc sĩ tài ba có
cái “gien” lau sậy ấy xây nên. Tuy “hồn ma” Trịnh Công Sơn đã thoát thai và đang thênh
thang trong cõi riêng của mình, nhưng xem chừng Trịnh Cơng Sơn cịn nặng nợ với trần
gian này lắm! Và sau những lần tao ngộ ấy, những giai điệu diễm lệ ra đời, góp phần đưa
chàng trai họ Trịnh đi vào tình sử. Đó là hệ quả của cuộc hơn phối giữa “cõi mộng” và “trần
gian”. Từ đó ơng khốc vào chữ “buồn” hai hình hài: “đẫm lệ” và “diễm lệ”!


Trên chặng đường phát triển ngôn ngữ tiếng Việt, Trịnh Công Sơn như một nhà phù thủy
của ngơn từ, ơng khốc vào ngôn ngữ mẹ đẻ một quầng ảo vọng, chắp cánh cho tưởng
tượng và đã biến thành hạc vàng bay vút trên bầu trời thơ siêu thực đang dậy thì lứa ơ mai
nhị độ ở thế kỷ XX mà theo tơi có lẽ ngàn năm sau cũng khó có người Việt nào đạt đến trình
độ điêu luyện ấy. Ông như một vị tướng tài ba, điều động đội quân ngôn ngữ một cách diệu


xảo. Những sự vật tầm thường nhưng khi được “chiếc đũa thần” của Trịnh gõ vào thì lập tức
biến thành lạ thường. “Nắng” thì ai chả thấy, nhưng chỉ có Trịnh Cơng Sơn mới thấy <i>“Nắng </i>
<i>Thuỷ Tinh”</i>. “Mưa” đương nhiên ai chả biết nhưng <i>“Mưa Hồng”</i> thì chỉ chàng trai họ Trịnh mới
hay! Hạ là hè. Mùa hạ tức mùa hè. Điều đó có gì lạ! Lạ chăng là bởi sau chữ Hạ, Trịnh Công
Sơn thêm chữ Trắng đầy diễm tuyệt trong ca khúc <i>“Hạ Trắng”. “Mắt xanh xao”</i> có lẽ đối với
các nhà bệnh lý học thì đấy là triệu chứng của một bệnh nào đấy, nhưng đối với Trịnh thì
“mắt xanh xao” lại là điểm nhấn cho một hình ảnh liêu trai, đài các: <i>“Dài tay em mấy thuở </i>
<i>mắt xanh xao”</i> (Diễm Xưa).


Do yêu cầu của bài viết tôi đã làm cái việc “động trời” là đụng đến Nguyễn Du - một bậc thầy
về ngôn ngữ. Tơi khơng có ý so sánh, chỉ cúi xin cụ tha thứ nếu như kẻ hậu sinh này có
phần thất lễ với cụ. Tôi chỉ muốn bàn về nghệ thuật sử dụng ngôn từ giữa hai con người tài
danh này mà thôi. Dẫu sao cụ cũng đã trở thành người cha già của thi ca và tư tưởng Việt
Nam, cũng thênh thang nơi đỉnh Hồng Lĩnh tiêu dao đồng lộng với gió quê nhà và là một
trong năm nhà thơ vĩ đại nhất Đơng Phương. Thì tơi tin rằng nếu mình có bất kính với cụ một
chút chắc cụ cũng không chấp cái kẻ hậu sinh xảo ngôn này, nên tôi mạnh dạn viết ra chủ ý
của mình vậy. Tuy nhiên cái hay, cái đẹp thì mn hình vạn trạng, lại thêm “gu” thưởng lãm
nghệ thuật của mỗi người mỗi khác. Vì cái đẹp là vô cùng, e không chiều được tất thảy mọi
người, tơi đành chiều theo sở thích riêng của mình!


Ở Nguyễn Du, tiếng Việt chỉ đẹp bởi sự chính xác, mang tính triết lý cao, và xem ra cái “mỹ”
ở đây chỉ là cái “mỹ” của hiện thực. Còn cái “đẹp” của Trịnh Công Sơn lại là cái “đẹp” bảng
lãng, sương khói của siêu thực, ấn tượng, bởi vì ơng có khả năng tạo nên độ bóng của ngôn
từ. Sự vật nào được Trịnh Công Sơn đụng đến cũng bớt thật đi, và được khoác lên một thứ
ánh sáng mới, đủ sức bước ra sân khấu của ngôn từ với vẻ mặt trang trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Buồn, Rồi Như Đá Ngây Ngơ... thì phải chờ đến con người tài danh Trịnh Công Sơn mới đủ
khả năng để gọi tên sự vật một cách diệu ảo.


Khác với Nguyễn Du tạo nên nàng Kiều - một giai nhân tồn bích - nhưng cái đẹp tồn bích


khơng làm Trịnh Cơng Sơn rung động, giữa cái tồn bích ơng chấm một nét hỏng và chính
nét hỏng đó làm say lịng người:


<i>“Gió sẽ mừng vì tóc em bay</i>
<i>Cho mây hờn ngủ quên trên vai</i>
<i>Vai em gầy guộc nhỏ</i>


<i>Như cánh vạc về chốn xa xôi”</i>


(Như Cánh Vạc Bay).


Cụ Nguyễn Tiên Điền có lúc phải thốt lên một câu: “u nhau lại hóa bằng mười phụ nhau”.
Trịnh Cơng Sơn thì sao? Chẳng sao cả! Ơng bình thản trước mọi tráo trở của cuộc đời. Ơng
lớn tiếng cơng bố: <i>“Yêu em yêu thêm tình phụ / Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”</i>. Đây là lời
chú mở lối Thiên Thai, là tình yêu cứu rỗi, chung cùng, vượt qua ranh giới thiện ác, vị kỷ của
con người.


Cái đẹp và cái buồn của Trịnh Công Sơn, có cái gì đó khác người. Như một nhà hiền triết
Phương Đông, ông nhận ra cái tất yếu của cô đơn, cái hào hoa của thất bại, cái quyến rũ
của triền dốc, cái ma lực của chén đắng. Đời dành cho ông lên đến đỉnh buồn và xuống tới
vực thẳm một cái “Tâm Linh Thị” nhìn ra mọi lẽ đời, do đó bóng dáng cổ tích khơng hề xuất
hiện trong các ca khúc của Trịnh, tình yêu cũng siêu hình, nỗi đau cũng siêu hình, tức là ít
nhiều nhuốm màu sắc ý chí của kẻ chủ trương đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình.
Tình yêu trở thành ý niệm. Vì vậy dù thật buồn, bao giờ cũng có một câu hé nắng. Đó là cái
diệu tài của Trịnh.


Hình như máu lửa quê hương và sự ám ảnh về cái chết đã làm cuộc hôn phối cho một thế
giới vừa hư vừa thực trong các ca khúc của Trịnh Cơng Sơn. Ơng nhìn thấy cái “tan” ngay
khi cái “hợp” đang thành tựu, cái biến dịch ngay trong cái khởi nguyên. <i>“Ngày nào vừa đến </i>
<i>đã xa muôn trùng”</i> (Rồi Như Đá Ngây Ngô), <i>“Từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng”</i> (Như


Cánh Vạc Bay) hay <i>“Có chút lệ nhồ trong phút hơn nhau”</i> (Bay Đi Lặng Thầm), <i>“Trong xn</i>
<i>thì thấy bóng trăm năm”</i> (Gần Như Niềm Tuyện vọng), <i>“Đã có nghìn trùng trên mơi người </i>
<i>tình/ Đã dấu nụ tàn bên trọng nụ hồng/ Có chớm lạnh lùng trên mơi nồng nàn/ Có thống </i>
<i>gập ghềnh trên con đường mịn”</i> (Như Một Vết Thương)... Dưới con mắt ơng thần chết
không đáng sợ như ta tưởng mà thần chết cũng có cái gì đó rất dun(!). Ơng tâm sự: <i>“Cuối </i>
<i>cùng khơng có gì khác hơn là sống và chết. Sống làm thế nào cho tràn đầy sự có mặt và </i>
<i>chết cho tràn ngập cõi hư khơng. Phải đi đến tận cùng của hai cõi sống chết để làm tan biến </i>
<i>những giấc mộng đời không thực”</i>. Bởi mọi sự vật đều thường biến, biến thiên theo những
chu kỳ nhất định, khơng có cái gì trường cửu, kể cả tình u. Vì vậy nghe ơng chúng ta
thường bắt gặp một cái nhìn đầy ưu tư về thân phận.


Có lẽ Trịnh Cơng Sơn là “ma” trong chốn riêng của mình, ơng làm mưa làm gió, ơng thoắt ẩn
thoắt hiện, ông dịch chuyển vũ trụ, ông phân chia con người. Chưa bao giờ ngôn ngữ mẹ đẻ
lại có một bộ mặt liêu trai, lạ lẫm đến như vậy: <i>“Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa”</i> (Diễm
Xưa), <i>“Vòng tay quen hơi băng giá” </i>(Nghe Những Tàn Phai), <i>“Tay rong rêu muộn màng”</i> (Ru
Ta Ngậm Ngùi), <i>“Ngủ đi em tay xanh ngà ngọc”</i> (Em Hãy Ngủ Đi), <i>“Bàn tay xanh xao đón ưu </i>
<i>phiền”</i> (Nắng Thủy Tinh) ...


Hãy trở lại với cụ Nguyễn Du, và xem cụ Nguyễn tả cảnh. Tơi xin trích ra đây hai câu thơ
trong Kiều: “Cỏ non xanh rợn chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” – một vẽ đẹp
tồn bích của hội họa tả thực. Trịnh Cơng Sơn: <i>“Ơi áo xưa lồng lồng đã xơ dạt trời chiều”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nhóm tâm trạng của Nguyễn Du: “Từ nay góc bể chân trời/ Nắng mưa thui thủi quê người
một thân”. Trọng âm nằm ở chữ “một” âm trắc, chữ “thân” âm bằng theo sau tạo thành âm
hưởng buồn như một kết tốt đen của sự cô quạnh. Câu thơ đạt đến sự chuẩn mực của nền
văn học cổ điển.


Cũng là một thân, cũng là sự cô đơn vô tận của kiếp người trong cõi trần ai nhưng Trịnh
Công Sơn lại dùng chữ “với” cực hay. “Đời như vơ tận/ Một mình tơi về/ Một mình tơi về, với
tơi” (Lặng Lẽ Nơi Này). Nói về sự trống lạnh cơ đơn mà ơng dùng liên từ “với” làm tôi lạnh


người.


Dưới đôi cánh thi ca thiên tài của mình, Trịnh Cơng Sơn một lần nữa đưa ngôn ngữ mẹ đẻ
vỗ cánh bay lên. Ơng khái qt hố sự vật thành biểu tượng, khi chúng ta nghĩ ngợi đến
cùng đích cộng với sự thăng hoa tình cảm thì lại gặp ơng. Ngơn ngữ của ơng có sức len lỏi
vào những tế bào người nghe và làm cho các tế bào bừng tỉnh, cộng hưởng, run rẩy không
thôi. Và ở một góc độ nào đó, Trịnh Cơng Sơn khơng chỉ dừng lại ở nhà phù thủy của ngơn
từ mà cịn là nhà sáng tạo ngơn ngữ.


Trên đây là tồn bộ cảm nhận của tôi về cách sử dụng ngôn ngữ của hai con người tài danh:
Nguyễn Du - Trịnh Công Sơn. Là hai vĩ nhân của ngôn từ: một người là đỉnh cao của hội họa
tả thực, một người thuộc trường phái ấn tượng, siêu thực. Tơi khơng có ý so sánh, chỉ muốn
khẳng định một điều: Nguyễn Du là tuyệt đỉnh nhưng khơng có nghĩa cái đẹp đến đấy thì
chấm dứt. Vả lại đây là hai kênh khác nhau: hiện thực và siêu thực… ·


<b>Thân phận Con người và Tình u trong ca từ Trịnh Cơng Sơn</b>


<i> Nguyễn Thị Thanh Thúy </i>


---Thân phận Con người và Tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn
Nguyễn Thị Thanh Thúy, Luận văn Thạc sĩ, 2006


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN


NGUYỄN THỊ THANH THÚY


THÂN PHẬN CON NGƯỜI VÀ TÌNH U
TRONG CA TỪ TRỊNH CƠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN



Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60.22.34


Người hướng dẫn khoa học : GS. Nguyễn Đình Chú


QUY NHƠN, NĂM 2006.
MỤC LỤC


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề


3. Đối tượng, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
4. Phương pháp nghiên cứu


5. Cấu trúc luận văn
B. NỘI DUNG


CHƯƠNG I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP TRỊNH CÔNG SƠN
1. Cuộc đời và sự nghiệp


2. Tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn


CHƯƠNG II. THÂN PHẬN CON NGƯỜI VÀ TÌNH U TRONG CA TỪ TRINH CƠNG SƠN
1. Thân phận con người trong ca từ Trịnh Công Sơn


1.1 Con người bản thể trước sự sống và cái chết, ám ảnh về nỗi tàn phai
1.2 Thân phận con người trong nỗi buồn và cô đơn


1.3 Thân phận con người trong chiến tranh
2. Tình yêu trong ca từ Trịnh Cơng Sơn



2.1 Quan niệm tình u và những biểu hiện tình u trong ca từ Trịnh Cơng Sơn
2.2 Người nữ và những khúc ru trong ca từ Trịnh Công Sơn


2.3 Tình người trong ca từ Trịnh Cơng Sơn


CHƯƠNG III. NGHỆ THUẬT NGƠN TỪ VỀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI VÀ TÌNH YÊU
TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN


1. Một số vấn đề về lý thuyết ca từ
1.1 Ca từ là gì?


1.2 Mối quan hệ giữa ca từ với thơ ca và âm nhạc


1.2.1 Mối quan hệ giữa quy luật âm nhạc và quy luật ngôn ngữ trong lời ca
1.2.2 Mối quan hệ giữa quy luật âm nhạc và quy luật thơ ca trong lời ca


2. Nghệ thuật ngôn từ về thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn
2.1 Ngôn ngữ ca từ là ngôn ngữ thơ của nhạc


2.2 Ngôn ngữ ca từ chịu sự chi phối của âm nhạc: thường sử dụng phương pháp điệp từ
(láy) điệp ngữ, điệp câu, điệp vần...


2.3 Ngôn ngữ được “lạ hóa”, kết hợp một cách độc đáo, mới lạ, mang nhiều ý nghĩa ẩn dụ
2.4 Ngôn ngữ thường mang tính nhị nguyên, tính triết học


C. KẾT LUẬN


THƯ MỤC THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC



---


<b>Mơ hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn</b>


<i> Nguyễn Thị Thanh Huyền </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ẨN DỤ TRI NHẬN


MƠ HÌNH ẨN DỤ CẤU TRÚC


TRÊN CỨ LIỆU CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN


Chuyên ngành : NGÔN NGỮ HỌC
Mã số : 602201


Người hướng dẫn khoa học : PGS.TSKH. TRẦN VĂN CƠ


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2009


----

<b> Trịnh Cơng Sơn, Khánh Ly và những khúc tình ca một thời</b>


<i> Văn Ngọc </i>


---Hơn 35 năm đã trôi qua, giờ đây nghe lại một số bài tình ca phản chiến của Trịnh Công Sơn,
qua giọng hát Khánh Ly, tôi vẫn cảm thấy bồi hồi, xúc động.



Những bài hát đưa tôi trở về một thời quá khứ chưa xa lắm, về giữa lịng đơ thị miền Nam
những năm 60-70, với tiếng đại bác đêm đêm vọng về, với những hoang mang, tuyệt vọng,
những khát khao, hy vọng, của cả một thế hệ trẻ.


Giờ đây, nghe lại những bài hát thời Quán Văn, Sài Gòn (1966-67), thời Trịnh Công Sơn mới
27-28 tuổi, và Khánh Ly mới 21-22, thời mà cả người hát lẫn người nghe cùng hãy còn trẻ,
tơi chợt cảm nhận được cái giá trị đích thực của chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Tôi cũng chợt hiểu rằng, một bài hát chỉ có thể làm cho người nghe, cũng như người hát,
say mê, xúc động thực sự ở vào cái thời điểm lịch sử, khi nó chuyên chở một nguyện vọng,
một niềm tin, hoặc một thông điệp nào đó. Cái thời của một bài hát cũng là cái thời điểm
thăng hoa của nó, khi nó được đơng đảo quần chúng đương thời u thích và hát lên với tất
cả niềm say sưa, tin tưởng. Đó gần như là một quy luật trong nghệ thuật, và cũng là cái số
phận chung của những bài hát, trong bất cứ nền văn hoá nào, dù cho đó là những bài hát
nổi tiếng nhất một thời.


Tuy nhiên, khi vai trò lịch sử của chúng đã chấm dứt, có những bài hát vẫn cịn được người
ta u thích trong một thời gian dài, vì nhiều lý do khác nhau : hoặc vì về hình thức, chúng
vẫn cịn giá trị nghệ thuật, hoặc vì về nội dung, chúng chưa bị lỗi thời, hoặc vì chúng gợi
nhắc đến một cái khơng khí nào đó, một thời kỳ nào đó, mà người ta chưa muốn quên đi.
Đó là trường hợp của một số bài hát của Trịnh Công Sơn.


Hơn 35 năm sau, nếu những người trẻ tuổi thời đó bây giờ vẫn cịn có thể nghe lại, hát lại,
và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của một số bài hát trữ tình, lãng mạn, của Trịnh Công
Sơn, như : Ướt Mi, Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn, hay Nhìn Những Mùa Thu Đi, v.v., thì đối với
nhiều bài ca phản chiến trong Ca Khúc Da Vàng, họ thấy như đã có cả một khoảng cách.
Tuy nhiên, có những bài ca phản chiến đã thốt được ra khỏi thơng lệ này, như bài Tình Ca
Của Người Mất Trí, hay bài Xin Cho Tơi, và ở một mức độ khác, Ca Dao Mẹ, Đại Bác Ru
đêm, v.v.



Bài Tình Ca Của Người Mất Trí là một trong những bài tình ca phản chiến của Trịnh Công
Sơn mà tôi cho là hay nhất, cả về cảm hứng, bố cục, giai điệu, lời ca và đặc biệt là nó có một
khí thế, một sức truyền cảm ghê gớm, qua tiếng hát Khánh Ly. Cả bài hát tồn là những lời
của một người “ mất trí ”, có người yêu chết trận ở khắp mọi chiến trường, trên khắp mọi
miền đất nước Việt Nam. Những hình ảnh chết chóc rùng rợn, khủng khiếp, được gợi lên
một cách lạnh lùng, câu chữ được tiết kiệm đến mức tối đa. Hình ảnh “ người yêu chết trận ”
nói lên ba ý chính trong dịng nhạc phản chiến của tác giả, là : lên án chiến tranh, khơi dậy
lòng nhân đạo, ca ngợi và bảo vệ tình u. Tình u chính là một vế quan trọng trong dịng
nhạc phản chiến của Trịnh Cơng Sơn, vì đối tượng của nó chủ yếu là giới trẻ, và giới trẻ thời
ấy, hay một thời nào khác, ở nơi ấy, hay một nơi nào khác, dù trong tình huống nào, cũng
vẫn nhạy cảm với chuyện yêu đương, vì chuyện yêu đương mới thật sự là chuyện của họ.
Những ý tưởng về quê hương, về chiến tranh, về thân phận con người, về tình u, đơi khi
được thể hiện tách riêng nhau trong từng bài hát, có những bài chỉ thuần tuý là những bản
tình ca lãng mạn (Ướt Mi, Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn, Tình Xa, Nhìn Những Mùa Thu Đi,
v.v.) ; có những bài lại chỉ nặng về ý tưởng đấu tranh (phần lớn các bài trong tập Ca Khúc
Da Vàng). Đôi khi, hiếm hoi hơn, nhiều ý tưởng hoà quyện với nhau trong cùng một bài hát,
như trong các bài Tình Ca Của Người Mất Trí, Xin Cho Tơi, v.v.


Về mặt kỹ thuật, bài Tình Ca Của Người Mất Trí cũng là bài hát khó hát nhất mà Khánh Ly
đã hát rất đạt ở nhiều thời điểm, nhưng có lẽ lần hát ở Quán Văn năm 1967 là lần đạt nhất,
mặc dầu thời đó điều kiện kỹ thuật truyền thanh và thu thanh cịn rất thơ sơ. Bài hát này,
cũng như bài Xin Cho Tôi, phải nghe Khánh Ly hát ở đó, vào cái thời điểm đó, mới thấy thật
là thấm thía :


<i>Tơi có người u / chết trận Plei-me</i>
<i>Tơi có người u / ở chiến khu Đ</i>


<i>Chết trận Đồng Xoài / chết ngoài Hà Nội</i>
<i>Chết vội vàng / dọc theo biên giới</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Chết ngoài ruộng đồng / chết rừng mịt mùng</i>
<i>Chết lạnh lùng / mình cháy như than (...)</i>
<i>(Trịnh Cơng Sơn, Tình Ca Của Người Mất Trí) </i>


Một số bài tình ca hay nhất của Trịnh Cơng Sơn đã được Khánh Ly trình diễn ở buổi ca nhạc
này : Diễm Xưa, Mưa Hồng, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Nhìn Những
Mùa Thu Đi, Cịn Tuổi Nào Cho Em, Tuổi Đá Buồn, v.v. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất vẫn là
hai bài tình ca phản chiến : Tình Ca Của Người Mất Trí và Xin Cho Tơi, qua đó Khánh Ly
bộc lộ rõ khả năng giọng hát của mình, một giọng hát có thể xuống rất thấp, rất trầm, mà
cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng
hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy, đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác - càng về
sau càng già giặn thêm - một giọng hát, ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi
mát, hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau ; một giọng hát
vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn
nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến :


<i>(...) Xin cho tôi / đến tận nụ cười</i>
<i>Cho tôi quên / một nấm mồ tươi</i>
<i>(...) Xin cho đêm / khơng có đạn bay</i>
<i>(...) Xin cho tơi / ra khỏi cuộc đời </i>


Bài Nhìn Những Mùa Thu Đi do Khánh Ly và Trịnh Công Sơn cùng hát, cũng là một sáng tạo
tuyệt vời khác ! ít khi nào tơi được nghe một bài hát hai giọng, một nam một nữ, hay như
thế :


<i>Nhìn những mùa thu đi / Em nghe sầu lên trong nắng</i>
<i>Và lá rụng ngoài song / Nghe tên mình vào quên lãng</i>
<i>Nghe tháng ngày chết trong thu vàng (...)</i>



<i>(Trịnh Cơng Sơn, Nhìn những mùa thu đi) </i>


Qua bài hát đôi này, người ta càng thấy rõ hơn vai trò quan trọng của tiếng hát Khánh Ly
trong sự diễn đạt những bản tình ca của Trịnh Cơng Sơn. Khơng phải tình cờ mà Trịnh Cơng
Sơn thường hay để Khánh Ly hát những bài hát trữ tình này. Tiếng hát, giọng hát và cách
hát của Khánh Ly hồn tồn ăn khớp với những bài tình ca đó : vừa đủ gợi cảm, vừa đủ
buồn, mà vẫn không sướt mướt. Khi hát đôi, nhạc sĩ cũng thường để Khánh Ly hát giọng
chính và hát gần vào micro, giọng nam chỉ là giọng phụ, lui hẳn về phía sau. Đặc biệt trong
bài Nhìn Những Mùa Thu Đi, người ta có thể ghi nhận được cái tài luyến láy rất tự nhiên, đôi
khi rất “ điệu ”, nhưng bao giờ cũng rất kín đáo của Khánh Ly. Một vài nét điểm xuyết nhẹ
nhàng, đây đó, đủ đem lại cho bài hát cái chất lãng mạn, thậm chí lẳng lơ cần thiết.


Nhiều người nghĩ rằng, vào thời kỳ ấy, Trịnh Công Sơn đã chỉ sáng tác chủ yếu để cho
Khánh Ly hát (chính nhạc sĩ cũng đã công nhận điều này, trong một cuộc phỏng vấn). Có thể
nói rằng, Khánh Ly đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp sáng tạo của Trịnh
Công Sơn. Nhiều tác phẩm của nhạc sĩ đã nhờ tiếng hát Khánh Ly mà chinh phục được
quần chúng. Bài ướt Mi (1959), tác phẩm đầu tay (hay đầu tiên) nổi tiếng của Trịnh Công
Sơn, do Khánh Ly hát và thu băng lần đầu tiên năm 1964, là một thí dụ. Vào thời đó, nhắc
đến ướt Mi, là người ta chỉ nghĩ đến tiếng hát Khánh Ly, và ngược lại. Điều đó thường vẫn
xảy ra trong lãnh vực ca nhạc. Trong truyền thống ca nhạc Âu Mỹ, chẳng hạn, khi người ta
nhắc đến một bài hát nổi tiếng nào, là người ta thường chỉ nghĩ đến tên người ca sĩ đã làm
cho nó nổi tiếng mà thơi, cịn tác giả bài hát có khi không được biết đến !


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

đã được giải nhì trong một cuộc thi tuyển lựa “ Thiếu nhi tài sắc ” do Đài phát thanh Sài Gòn
tổ chức. Năm 17 tuổi Khánh Ly bắt đầu đi hát ở các phòng trà. Đến năm 19 tuổi (1964), cơ
được Trịnh Cơng Sơn mời về Sài Gịn trình diễn và thu băng cho các hãng đĩa (bài ướt Mi
và băng nhạc Sơn Ca). Năm 22 tuổi (1967), Khánh Ly hát ở Qn Văn. Trước đó, cơ cũng
đã từng đi hát với Trịnh Công Sơn ở các trường đại học. Trước khi gặp Trịnh Công Sơn
chắc hẳn Khánh Ly đã có một cá tính khá nổi trội rồi. Đương nhiên, với Trịnh Công Sơn, với
cái vốn hát đã có sẵn, Khánh Ly đã học hỏi được rất nhiều điều mới mẻ. Cái chất giọng đặc


biệt của cô ca sĩ hồi hai mươi tuổi ngày càng già giặn thêm, và Khánh Ly ngày càng hát hay
hơn, nhất là vào những năm 70. Cả cái phong cách hát rất đặc biệt của Khánh Ly, càng về
sau càng được khẳng định rõ ràng hơn. Chỉ cần so sánh bài Tuổi Đá Buồn trong băng nhạc
thu ở Quán Văn năm 1967 và các băng thu vào những năm 70 là đủ thấy một sự đổi khác
rất lớn. Phong cách hát của Khánh Ly đã dần dần trùng hợp hoàn toàn với cái quan niệm mà
Trịnh Cơng Sơn chủ trương trong nhạc của mình : đó là sự liên tục trong tiếng hát. Các câu
chữ cuốn theo nhau, không ngừng nghỉ, cuồn cuộn như một dòng chảy (Từ ướt Mi, Tuổi Đá
Buồn, cho đến Tình Xa, v.v.).


Chính điểm này là một trong những điểm khác biệt quan trọng giữa nhạc Trịnh Công Sơn và
nhạc của các bậc đàn anh thế hệ trước, như Văn Cao, Phạm Duy, v.v. Tôi chỉ xin nêu lên ở
đây một vài thí dụ. Khi hát những bài như : Buồn Tàn Thu của Văn Cao (1940), hay Chinh
Phụ Ca (1945) của Phạm Duy, người ta không thể không ngâm nga, nhâm nhi, từng câu,
từng chữ một, như hát ca trù. Văng vẳng bên tai, tưởng như cịn nghe thấy cả tiếng đàn kìm,
đàn đáy, hay tiếng trống, tiếng phách nữa ! Trong những bước đầu tìm tịi của nền tân nhạc,
dựa vào các điệu ca nhạc dân gian, tơi cho rằng đó là một điểm son rất đáng trân trọng. Sau
này, trong các tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như : Thiên Thai (1941), Trương Chi (1941),
Suối Mơ (194..?), mặc dầu giai điệu và lời ca rất phong phú, song cách ngắt câu hát, cách
ngừng nghỉ, vẫn như gợi nhắc đến một truyền thống ngâm vịnh nào đó :


<i>Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng</i>


<i>Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên (...)</i>
<i>(Văn Cao, Thiên Thai, 1941) </i>


<i>Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ </i>
<i>Trầm trầm không gian mới rung thành tơ (...)</i>
<i>(Văn Cao, Trương Chi, 1941) </i>


Trong những bài tình ca của Phạm Duy, người ta cũng nhận xét thấy những đặc điểm này :


Khối tình Trương Chi (1945), Quê Nghèo (1948), Tình Ca (1953), v.v. Mãi về sau, Phạm Duy
mới thay đổi phong cách trong một vài tác phẩm đơn lẻ : Nha Trang Ngày Về (1969), Trả Lại
Em Yêu (1971). Nhìn chung, những ca khúc trữ tình của Văn Cao, và Phạm Duy, vào thời kỳ
những năm 40, nói lên một tâm trạng buồn và lãng mạn, đó cũng là cái tâm trạng chung của
thanh niên thành thị vào những thập niên ấy ; mặt khác, chúng cũng nói lên một sự hạn chế
nào đó trong việc tìm hiểu và khai thác vốn dân ca, đưa dân ca vào tân nhạc. Tuy nhiên, sau
này có nhiều thử nghiệm khác, đã đem lại những kết quả ngày càng rõ nét hơn : Đêm Tàn
Bến Ngự của Dương Thiệu Tước, Cơ Lái Đị của Nguyễn Đình Phúc (thơ Nguyễn Bính),
Những Cơ Gái Quan Họ, của Phó Đức Phương, v.v.


Nhưng ta hãy trở lại với những ca khúc của Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn mới là người
đã đem đến một sự đổi mới thực sự cho nhạc tình ca vào những năm 60. Ngay từ tác phẩm
đầu tiên ướt Mi (1959), một hơi nhạc, một lời ca, một phong cách trữ tình (lyrisme) hồn tồn
mới mẻ đã ra đời. Sự mới mẻ này không nằm ở trong giai điệu. Nó cũng khơng nằm ở trong
nhịp điệu. Giai điệu trong các bài hát của Trịnh Công Sơn thường khá đơn giản và phần lớn
là theo cung thứ (mode mineur), buồn như cái tâm trạng và những lời ca của nhạc sĩ, và tự
nó chỉ có một giá trị thẩm mỹ nhất định. Chức năng chính của nó là chun chở lời ca, làm
tăng thêm nhạc tính của những lời thơ vốn đã giàu chất nhạc rồi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

về chức năng và vai trị của lời ca. Lời ca khơng cịn dùng để kể một câu chuyện có đầu có
cuối nữa, câu chữ khơng cịn bị gị bó trong chức năng này nữa. Chúng có một đời sống
hồn tồn độc lập, tự do. Chúng có thể gợi lên những hình ảnh đẹp, những ấn tượng đẹp,
những ý ngắn, đôi khi đạt tới mức siêu thực, và giữa chúng đôi khi khơng có một mối quan
hệ lơ gích nào cả.


Thứ hai, là cái hơi nhạc. Nhạc Trịnh Công Sơn tuy khơng có những nét đặc thù của nhạc
dân gian hay nhạc truyền thống Việt Nam, nhưng cái hơi nhạc buồn mênh mang, khi phiêu
diêu như mây khói, khi cuồn cuộn như nước nguồn ấy, dường như đâu đó vẫn thích hợp với
tâm hồn người Việt, vốn vẫn quen với những điệu ru, điệu hò, và một số bài ca tiền chiến.
Nó ăn khớp với một tâm trạng buồn và lãng mạn, và lơi cuốn được những thính giả vốn đã


có sẵn cái điệu tâm hồn đó ở trong người :


<i>Trời còn làm mưa mưa rơi mênh mang từng ngón tay buồn em mang em mang đi về giáo </i>
<i>đường ngày Chủ nhật buồn còn ai còn ai đố hoa hồng cài lên tóc mây ơi đường phố dài lời </i>
<i>du miệt mài ngàn năm ngàn năm ru em nồng nàn ru em nồng nàn (...) (Trịnh Công Sơn, Tuổi</i>
<i>Đá Buồn)</i>


Cả hai yếu tố nêu trên : lời ca và hơi nhạc, với những đặc điểm của chúng, tạo nên một
phong cách trữ tình phù hợp với cái tâm thức và cái khiếu thẩm mỹ của giới trẻ thời ấy.
Phong cách này có cái cơ cấu (mécanisme) của nó. Đó chính là cái cấu trúc của bài hát, cho
phép lập lại các câu nhạc, các đoạn nhạc (couplets), với cùng một giai điệu, nhưng với lời
khác, trước khi chuyển sang điệp khúc, rồi lại quay trở lại giai điệu lúc ban đầu. Điều này
thực ra khơng có gì mới lạ, người ta vẫn thường gặp cấu trúc này trong nền tân nhạc Âu Mỹ.
Tuy nhiên, Trịnh Cơng Sơn đã sử dụng nó một cách phổ biến : từ Diễm Xưa, đến Em Còn
Nhớ Hay Em Đã Quên. Chính cái sự lặp lại, tưởng như đơn điệu ấy, lại làm tăng thêm cái
chất trữ tình, lãng mạn, của ca khúc.


Khơng phải tình cờ mà Trịnh Công Sơn đã chọn giọng hát và phong cách hát của Khánh Ly
để diễn đạt những ý tưởng này của mình !


Một câu hỏi vẫn thường được nêu lên là, do đâu mà Trịnh Công Sơn đã tìm ra được cái hơi
nhạc đó, cái phong cách trữ tình đó ? Người ta cịn nhớ rằng, vào những năm 50, nhiều trào
lưu ca nhạc trên thế giới đã như, khơng hẹn mà gặp, cùng có một cảm hứng, một phản ứng
chống lại những lời hát, điệu hát, cách hát cũ : Georges Brassens, Jacques Brel, v.v. (Pháp),
Bob Dylan, Joan Baez, v.v. (Mỹ), và họ đã có những ý tưởng trùng hợp với nhau, mặc dầu
mỗi ca sĩ, mỗi trào lưu, đều xuất phát từ những truyền thống ca nhạc khác nhau và từ những
bối cảnh xã hội khác nhau. Trịnh Công Sơn chắc hẳn cũng đã có một phản ứng tương tự, và
chắc hẳn cũng đã từng nghe Brassens, Brel, Bob Dylan, Joan Baez, v.v. Cứ cho rằng đó là
một sự tình cờ của lịch sử. Cũng như, một sự tình cờ khác, là vào những năm 60, tiếng hát
Khánh Ly, qua những bài tình ca phản chiến của Trịnh Cơng Sơn, đã cất lên cùng một lúc


với tiếng ca phản chiến của Joan Baez ở một chân trời khác !


Trong tồn bộ sáng tác của Trịnh Cơng Sơn, mảng tình ca chiếm một khối lượng và một
cương vị quan trọng. Điều này cũng có nhiều lý do. Trước hết, như đã trình bày ở trên, đề tài
về thân phận con người, và về tình u khơng thể nào thiếu được trong dịng nhạc phản
chiến của Trịnh Cơng Sơn thời ấy, mà đối tượng chủ yếu là giới trẻ đang thiếu niềm tin và
khao khát yêu đương. Ta hãy nghe Trịnh Cơng Sơn nói rõ thêm về điểm này : <i>“ Sống giữa </i>
<i>đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình u thì vơ cùng. Chúng ta</i>
<i>làm cách nào ni dưỡng tình u để tình u có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá </i>
<i>Đời.” (Trịnh Công Sơn, Những Bài Ca Không Năm Tháng, NXB Âm Nhạc, 1998).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

tâm linh, chính là cái mơi trường tự nhiên của những tâm hồn nhạy cảm. Những ca khúc nói
lên thân phận con người, nói lên tình u, đối với anh, là một nguồn cảm hứng vô tận về mặt
nghệ thuật. Nó cho phép anh đi sâu vào những ngõ ngách thầm kín nhất của tâm hồn. Có lẽ
không lãnh vực nào đã cho phép anh diễn đạt một cách thoải mái, tự do, như lãnh vực này.
Những cảm xúc mong manh, mơ hồ, tế nhị nhất, trong cái thế giới kỳ ảo của tình yêu, của
tâm hồn, tưởng như khó có thể nói lên được bằng lời nói, đã được diễn đạt bằng những hình
ảnh, những câu chữ riêng, mà Trịnh Cơng Sơn đã không ngần ngại vượt qua những khái
niệm thông thường, vượt qua hiện thực, để sáng tạo ra :


<i>Màu nắng hay là màu mắt em (...)</i>
<i>Chiều đã đi vào vườn mắt em (...)</i>
<i>(Trịnh Công Sơn, Nắng Thuỷ Tinh) </i>
<i>Trời ươm nắng cho mây hồng</i>
<i>Mây qua mau em nghiêng sầu (...)</i>
<i>(Trịnh Công Sơn, Mưa Hồng) </i>
<i>(...) Cho mây hờn ngủ quên trên vai</i>


<i>Vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi (...)</i>
<i>(Trịnh Công Sơn, Như Cánh Vạc Bay) </i>



<i>Ru mãi ngàn năm từng ngón xuân nồng (...)</i>
<i>Mùa xanh lá vội ru em miệt mài (...)</i>


<i>(Trịnh Công Sơn, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng) </i>
<i>Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao (...)</i>


<i>Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa (...)</i>
<i>(Trịnh Công Sơn, Diễm Xưa) </i>


<i>Trời xanh trong mắt em sâu</i>


<i>Mây xuống vây quanh giọt sầu (...)</i>


<i>(Trịnh Công Sơn, Cịn Tuổi Nào Cho Em) </i>


Đơi khi, câu chữ của Trịnh Cơng Sơn lại thật là bình thường, giản dị :


<i>(...)Chiều nay cịn mưa sao em khơng lại ? </i>
<i>Nhớ mãi trong cơn đau vùi </i>


<i>Làm sao có nhau ? Hằn lên nỗi đau </i>
<i>Bước chân em xin về mau (...)</i>
<i>(Trịnh Cơng Sơn, Diễm Xưa) </i>


Những hình ảnh, câu chữ của đời thường, thoắt ẩn thoắt hiện trong cùng một bài hát, luôn
luôn đưa người ta, từ một trạng thái mộng du, thốt tục nào đó, trở về với cái thực tại gần
gũi nhất, thân quen nhất.


Bàn về những ca khúc của Trịnh Công Sơn, Bửu ý, một nhà văn, bạn của nhạc sĩ, đã phải


nhìn nhận : “ đề tài tát không cạn ”. Mà quả thế, chỉ bàn riêng về ca khúc thôi, cũng phải bàn
từ nội dung đến hình thức, từ lời ca, đến giai điệu, từ nhạc đến thơ, rồi lại còn phải so sánh
với các xu hướng khác trong nền tân nhạc Việt Nam, nói chung. Đấy là chưa kể, gắn liền với
những ca khúc ấy, còn một tiếng hát, một giọng hát, mà ít ai qn được, và khơng thể nào
khơng nói đến, khi đánh giá nhạc Trịnh Cơng Sơn. Đó là tiếng hát Khánh Ly.


Nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường khi nói về những tình khúc của Trịnh Cơng Sơn đã có một
câu nhận xét rất đẹp, mà người ta có thể hiểu là một lời khen đối với cả Trịnh Công Sơn và
Khánh Ly : “ <i>Qua tiếng hát Khánh Ly sương khói trần gian cứ bay đi, và một chút thiên thu </i>
<i>còn mãi...”</i> (Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lời bạt Những Bài Ca Không Năm Tháng, sđd).


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<b>Canada Du Ký (6)</b>


<i> Trịnh Cơng Sơn </i>


<b>---6- LÀM VIỆC KHƠNG NGỪNG VÀ SỐNG THANH THẢN ...</b>


Tôi gặp Đặng Thái Sơn sau lúc Sơn trình diễn ở Brasil về. Sơn ở một mình. Mẹ Sơn cũng ở
một căn nhà khác. Đời sống nhìn chung có vẻ lặng lẽ và khơng có gì vui lắm. Qua một người
bạn của Sơn tôi được biết Sơn sống gần như cơ lập mình với thế giới bên ngồi. Tơi hỏi
Sơn có định về lại Việt Nam không . Sơn chỉ cười cười.


Đời sống của người Việt Nam ở Canada nói chung là ổn định nhưng dưới con mắt nhìn của
tơi thì nguồn vui sống của họ hồn tồn xa lạ với bản thân tơi. Thành phần giàu có nhất có lẽ
thuộc về giới bác sĩ. Có một điều hơi khác giữa bác sĩ ở Canada và Mỹ là bác sĩ ở Mỹ thì tha
hồ kiếm tiền cịn ở Canada thì bị nhà nước qui định đến một giới hạn nào đó thì khơng có
quyền được hưởng thêm. Họ gọi là plafonner.


Tôi thực sự ngạc nhiên và thất vọng khi biết có một số đông người Việt sau mười mấy năm
vẫn không chịu đi làm và vẫn cứ tiếp tục thản nhiên lãnh tiền trợ cấp xã hội ! Những người
này cũng có nhà có xe hơi như tất cả mọi người nhưng đời sống đối với xã hội nói chung là


thấp. Họ đâm ra lười biếng vì những vấn đề quan trọng nhất trong đời sống như ăn uống,
đau ốm thì đã có nhà nước lo cả rồi. Chế độ ni sữa cho trẻ con thì được cấp dưỡng cho
đến mười tám tuổi mới ngừng. Tơi có gia đình người em có ba con dưới mười bốn tuổi. Hai
vợ chồng xin đi học thêm Pháp văn. Học không tốn tiền mà nhà nước phải phụ cấp thêm mỗi
tuần hai trăm bảy mươi lăm đô la để thuê người giữ nhà và trẻ con.


Người bạn thân nhất của tôi ở đường Grosvenor, biên giới giữa Montréal và Wesmount, khu
vực của người Anh. Căn nhà có hai chủ. Phía dưới là người bạn giáo sư thực thụ ở đại học
Montréal, bạn thân của giáo sư Đặng Đình Áng ở Việt Nam ta ; từng trên là một người
Canadien làm nghề đào huyệt. Khu nhà này khá đắt tiền. Daniel, tên của người đào huyệt,
đang trong thời kỳ thất nghiệp vì đình cơng địi nâng lương.


Trẻ con ở xứ sở này được giáo dục cái đức tính khơng bao giờ ỷ lại . Mùa hè đến, dù ở
trong gia đình sung túc, con cái ở tuổi mười sáu trở lên đều đi xin việc làm để lấy tiền đi du
lịch hoặc để sử dụng trong những nhu cầu riêng. Đa số sinh viên, học sinh nữ đều có đi làm
thêm trong những quán hàng đủ loại. Phụ nữ trẻ, già đều làm đủ thứ việc trong đời. Nhìn
những cơ sinh viên vừa cạo những lớp sơn cũ trên những cánh cửa ở đường phố vừa sơn
quét mới lại mà thấy quá sức thương và kính trọng nữa... Ai cũng làm việc và làm việc cật
lực không hề ngừng nghỉ.


Những người bếp và bồi người Việt trong những quán hàng ăn uống Việt Nam cũng có một
đời sống tương đối tốt. Hết giờ, khách ra về hết, họ cũng lên những chiếc xe hơi bóng lống
về nhà hoặc đến những tiệm ăn quen thuộc. Ở đây khơng có vấn đề chủ và bồi bếp. Họ
sống nhờ vả lẫn nhau để cùng tồn tại. Không ai có quyền nặng lời với ai. Cảm giác như
khơng có một thứ ranh giới nào giữa người với người. Khơng có bất cứ một thứ uy quyền
hão huyền nào buộc con người phải phụ thuộc hoặc sợ hãi. Mỗi người cứ làm trịn bổn phận
của mình trong cuộc sống và yên tâm ăn ngon ngủ kỹ.


Đời sống ở đây theo tôi tốt lành hơn ở Pháp và Mỹ(*). Khơng ai tự thấy mình quan trọng hơn
người khác. Tôi quen khá nhiều những văn nghệ sĩ Québécois. Họ khiêm nhường và quá


hồn nhiên. Tôi cố gắng học ở họ cái tính khiêm nhường gần gũi với thiền đó. Chính cuộc
sống tử tế và chân thật đó đã giúp tơi có thêm nguồn cảm hứng để vẽ nhiều tranh, nhiều
chân dung và làm nhiều bài thơ ca tụng cuộc sống và con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Có nỗi hồn nhiên giữa mặt người


Đi qua một thành phố mà mọi người khơng biết gây gỗ, nóng giận với nhau nhiều khi cũng
muốn làm người đàng hoàng, tử tế hơn. Có lẽ chẳng nên quên điều đơn giản vô cùng của
cuộc sống là chúng ta được sinh ra trong cuộc đời này là để yêu thương nhau chứ không
phải để thù ghét nhau.


Sống và cứ mãi mãi có một tấm lịng nhân hậu sẵn sàng biết tha thứ và độ lượng thì cuộc
đời không thể nào không đẹp hơn lên được.


---


<b>Canada Du Ký (5)</b>


<i> Trịnh Công Sơn </i>


---5. NGHĨ VỀ HIỆN TẠI VÀ QUÁ KHỨ ...


Người Việt Nam ở Montréal sống trong ba loại cộng đồng khác nhau. Cộng đồng của người
Việt yêu nước. Những hội đoàn chống cộng. Và cộng đồng của những người Việt không phe
phái. Đa số những người Việt Nam trong cộng đồng sau cùng này là những người du học từ
lâu trước 75. Họ đã hịa nhập vào xã hội đó và sống như người bản xứ. Tất cả đều có cơng
ăn việc làm ở mức từ trung bình trở lên. Khối chống cộng là khối bê bối nhất. Lấy nghề
chống xã hội Việt Nam của chúng ta làm lẽ sống. Càng chống đất nước càng trở thành anh
hùng ( !?) Và nói chung, dù chỉ mới từ bỏ đất nước đi sau 75, khơng một ai trong cộng đồng
đó hiểu Việt Nam là gì trong q khứ, trong hiện tại...



Tơi thường giao du với nhóm khơng phe phái. Họ và con cái họ là những con người đáng
yêu. Họ yêu thương đất nước một cách rất đặc biệt. Có lẽ vì thương nhớ quê nhà mà hầu
như mọi người đều dành cho tơi một tình cảm chứa chan ít thấy. Con cái họ nói lẫn lộn tiếng
Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh nhưng luôn luôn với một tấm lòng rất chân thật. Đứa nào cũng
muốn về thăm quê hương. Tuổi trẻ Việt Nam ở Canada thành công trên nhiều lĩnh vực. Về
nghệ thuật cũng như về học hành. Tuổi trẻ ở đây có ý thức tự lập từ rất sớm. Từ mười sáu
tuổi trở đi là bắt đầu nghĩ đến một việc làm phụ bên cạnh những giờ giấc đi học khá căng
thẳng.


Mùa hè đến, sinh viên và học sinh lớp cuối trung học bắt đầu đi xin việc làm. Từ sơn cửa
sơn nhà, làm bồi bàn, đến tất cả mọi thứ việc trong văn phòng, trong tất cả mọi nơi chốn
bn bán, mọi dịch vụ, đều có mặt các cơ gái trẻ trung xinh đẹp. Họ làm việc để lấy tiền đi du
lịch. Cả những cơ gái con nhà có tiền bạc cũng tự lo cho mình khoản tiền riêng để tự túc
những chuyến viễn du tìm hiểu học hỏi. Đây cũng là một bài học lớn cho những xứ sở còn
chậm tiến, nghèo nàn mà hay tự ái vặt. Nghèo mà hay tự ái hình như là cái « bệnh » chung
của những đất nước chậm phát triển. Ở nơi đây người ta dành nhiều thời giờ của hiện tại để
nói về những dự kiến đầy ắp cho tương lại. Nói như thế khơng phải là q khứ khơng cịn vị
trí gì trong hiện tại. Chỉ có điều, quá khứ cần được nhắc nhở như thế nào...


Ở Montréal, nhà nước buộc mọi người phải nhớ đến lịch sử. Nhưng nhớ đến một cách thơ
mộng. Nhớ lịch sử mà không hề hủy hoại hiện tại và tương lai. Ở bảng số của mỗi chiếc xe
hơi đều có ghi hàng chữ « Je me souviens » (Tơi nhớ lại). Tơi nhớ lại cái gì đây ? Tơi nhớ lại
tơi là người Canada và chính chúng tôi đã làm nên tất cả vẻ đẹp của đất nước này. Hình
như đây là những chữ đầu trong câu thơ của Verlaine hay ai đó : « Je me souviens des jours
anciens et je pleure » (Tôi nhớ lại những ngày xưa và tơi khóc). Dù thế nào thì một bảng số
xe như vậy cũng mang trong nó một tính cách văn hóa đáng u.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

cho đến ông già. Vấn đề đặt ra cho tất cả mọi công dân là anh đã và sẽ đóng góp được gì
cho xã hội. Người đóng góp nhiều thì hưởng nhiều, ít thì hưởng ít. Khơng hề có sự chèn ép
vơ pháp luật.



Nhắc lại những điều tốt đẹp ở đất nước người ta với tôi là một cách để nghiền ngẫm lại xứ
sở mình và bản thân mình. Tơi thực lịng chẳng thấy con người ở xứ sở này hơn gì con
người xứ mình cả. Con người Việt Nam chúng ta đã làm được khơng ít điều lớn lao đẹp đẽ
trong quá khứ và hiện tại cũng đã góp mặt, so vai một cách đáng tự hào với thế giới ở lĩnh
vực này, khía cạnh khác. Chỉ có điều, tốc độ của sự chuyển biến chung về kinh tế - xã hội có
lẽ chưa làm cho nhiều người chúng ta hài lịng. Nhưng, tơi lại nghĩ : muốn cho xã hội chuyển
biến nhanh hơn, tốt hơn được hay khơng cịn tuỳ thuộc vào nổ lực của mỗi người Việt yêu
nước và có trách nhiệm trên xứ sở mình.


Giàu có hay khơng là do mình. Đẹp đẽ hay khơng cũng tự mình. Vấn đề là mỗi người chúng
ta ý thức đầy đủ về bổn phận phải làm gì và làm như thế nào để đất nước thân yêu của
chúng ta phải đẹp phải huy hoàng như mọi miền xứ sở nơi này nơi kia trên mặt đất này...
u đất nước khơng chỉ là một lời nói sng, cũng khơng là một tiếng nói lên gân bậy bạ.
Thử bắt đầu bằng một động tác rất nhỏ như đi trồng một cây hoa đẹp trên đường phố chẳng
hạn. Hãy yêu thương quê hương như yêu tình nhân của mình vậy.


---


<b>Thư viết từ Montreal khơng gửi</b>


<i> Trịnh Cơng Sơn </i>


---Mỗi ngày ở Montreal của mình là một ngày phố xá. Sáng thức dậy muộn vì đêm nào cũng bè
bạn anh em ngồi đến ba bốn giờ sáng. Thức dậy chưa kịp tắm rửa đã nghe phone reo.
Không phải phone của cô nào cả mà của người bạn giáo sư dạy toán ở Đại học Montreal.
Từ ngày mình qua anh Q. gần như bỏ lớp, vả lại cũng sắp hè. Cái cung cách thầy trò ở bên
này cũng hay hay. Có quán cà phê Campus ở gần đại học, ở đó gần như là quán ăn uống
của sinh viên. Bọn mình hay ngồi ở quán này để sinh viên cần thắc mắc gì về cái thèse sắp
ra trường thì sang hỏi anh ấy : Thầy trò mày tau chi tớ với nhau như bạn về cái thèse
doctorat. Anh Q là directeur de thèse. Họ chơi với nhau thân tình và mình nhìn thấy trong


mối giao lưu giữa người với người có rất rõ ràng cái khía cạnh của lịng nhân ái.


Có một lần, một người bạn khác cũng là giáo sư toán kinh tế ở Đại học Laval Québec về
Montreal thăm. Mấy anh em ngồi lại với nhau ở quán Faubourg đường St Denis. Nhìn ngắm
dân québécois đi lại trên phố mặt mày ai cũng hồn nhiên như trẻ thơ. Mình hỏi người bạn :
ơng ở đây đã mấy chục năm, ơng có thấy dân ở đây hồn nhiên vô tư lự và dễ thương


không ? Anh bạn dạy học, đồng thời cũng là người làm thơ, cười cười : Cái thành phố khơng
có anh hùng nó sản sinh ra loại người như vậy đó toa ạ ! Thế là tất cả chúng mình luận
quanh cái đề tài ấy. Đi trong một thành phố như Montréal rõ ràng là mình cảm thấy nó khơng
nợ nần gì với quá khứ. Mình sang đây gặp đúng mùa kỷ niệm Montreal được 350 tuổi. Họ
còn trẻ quá nên họ sung sướng là phải. Thời gian này Canada, cũng như mọi nơi, đang rơi
vào thời kỳ kinh tế suy thối. Mọi người dân lại phải đóng thêm hai thứ thuế trên mỗi món
hàng mua sắm. Nặng nề là thế mà mặt ai cũng phơi phới hân hoan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

khôn. Tuổi trẻ đi cho biết không nói gì mà ngay cả người già cũng đi. Một hơm ở Vieux
Montreal mình cùng người bạn đang đi lang thang ngắm trời ngắm cảnh gặp hai cô bé Nhật.
Họ đưa máy ảnh nhờ chụp giùm hai người đứng trước một nhà thờ cổ. Sau khi chụp hình
xong mình hỏi : Xin phép đi du lịch có khó khơng ? Cả hai ngơ ngẩn khơng hiểu : khó là gì ?
Cắt nghĩa mãi họ mới hiểu ra : “Ai muốn đi thì cứ đi bất cứ lúc nào”. À, thế là mình chợt nhớ
lại một điều rất cũ kỹ là con người có đơi chân thì cứ lúc nào muốn đi thì đi. Mạnh khỏe thì đi
xa. Ốm yếu thì đi gần. Đi là cái quyền tối thiểu của mỗi con người tự do. Ở Montreal, nhà
nước được sắm ra là để cho phép chứ khơng phải để cấm.


Có nhiều đêm trời mưa, xe chạy qua nhiều khu phố trông giống như một vài nơi ở Sài Gòn.
Thấy nhớ kỳ lạ. Thường những lúc ấy trong đầu lại nảy sinh những phác họa tương lai lộng
lẫy cho thành phố mình. Khơng hiểu sao dạo này mình hay lẩm cẩm như thế. Đi qua


Amsterdam, Singapore, dù không muốn, cái đầu vẫn cứ gán ghép một Sài Gịn vào những
hình ảnh đẹp đẽ nhất của những xứ sở đó. Giá như Sài Gịn có thêm cái này, có thêm cái


kia v.v… Nếu mọi người có ý thức, xem thành phố mình ở như căn nhà riêng của mình thì có
lẽ thành phố sẽ đẹp lên một cách dễ dàng. Có người bạn là một nhà khoa học nghiên cứu về
bụi, làm việc ở Pyrénées, đã có lần than thở : Chưa có thành phố nào trên thế giới này mà
lại khơng thấy chim như ở Sài Gịn. Nghe đau khổ thật. Mình nghĩ rằng khơng phải chỉ vì ơ
nhiễm mà vì mấy thằng vơ ý thức cứ ngày ngày mang súng Tiệp đi bắn chim trong thành
phố. Những thứ tự do vơ lại như thế thì khơng ai ngăn cấm cả. Làm một điều tốt thì phải xin
phép nhưng làm điều bậy thì tha hồ. Đi xe đạp nghênh ngang lấn đường sá cũng là một thứ
tự do đương nhiên. Cái gì rồi cũng thành thói quen cả. Chúng mình thật bất hạnh là đã
nhiễm dần những thói quen xấu mà khơng cịn phản ứng nữa.


Ở đây người đi xe đạp cũng khá nhiều. Vào mùa xuân là thành phố bắt đầu chặn riêng
những lối đi cho xe đạp. Họ đi như một mơn thể thao. Có những chiếc xe lên đến trên hai
nghìn đơla. Xe hơi thì hằng hà sa số.


Mình gặp tuyết rồi. Thích lắm. Mặc lạnh cóng, mình cứ ngang tàng đi trong bão tuyết. Hơm
ấy có cả Đinh Cường (họa sĩ) từ Washington D.C. sang. Những lọn tuyết tròn lớn hơn nắm
tay chỉ vài phút sau là đã phủ trắng xóa cả cây cối, xe cộ, và đường phố. Tối hơm ấy mình về
vẽ ngay một bức tranh Thiếu nữ tuyết. Lần đầu tiên cầm trong tay một nắm tuyết trắng tinh
như vậy mình mới hiểu thế nào là màu trắng. Không vẽ ra được cái màu trắng ấy. Không
hiểu một tâm hồn trong trắng thì cái trắng ấy như thế nào. Lúc mình cầm nắm tuyết vào qn
cà phê ở góc phố thì cơ bạn Anna cười bảo : Các anh lãng mạn q. Mình hơi ngượng
nhưng cũng nói lại : Khơng có sự lãng mạn có lẽ chúng tơi khơng tồn tại nổi đến hơm nay
đâu.


Có q nhiều điều để nói về thành phố này. Một thành phố dễ ở và dễ thương. Những con
người hiếu khách và độ lượng. Khơng ai nổi giận với ai. Chỉ có nụ cười và một cách sống dễ
dàng ngoạn mục hơi thống vẻ bohémien.


Một điều rất hay là khi hịa nhập với cuộc sống nơi này rồi thì mọi nỗi buồn tan biến. Sự tử tế
giữa con người với con người làm mình tin rằng điều tốt là một cái gì có thể thực hiện được


giữa cuộc đời này. Khơng có gì quan trọng cả và vì thế cũng khơng có gì đáng phải nản
lịng.


Thành phố đang chuẩn bị cho Festival de Jazz vào mùa hè. Đã có những tiếng kèn saxo
vang lên từ những hè phố. Đời sống sao mà vui vậy. Chỉ có lễ lạc và những trái tim khơng
bóng tối.


---


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i> Lê Minh Quốc </i>


---Không chỉ là người đã để lại trần gian này thơng điệp “Q hương, Tình u và Thân phận”
bằng âm nhạc, Trịnh Cơng Sơn cịn vẽ và làm thơ.


Thơ Trịnh Công Sơn không nhiều. Mỗi bài thơ anh thường chỉ có đơi câu. Tản mát đâu đó.
Anh viết:


<i>“Nỗi đau ngày ấy là em ạ</i>
<i>Là chút hao mịn của bể dâu</i>
<i>Bể dâu sơng bãi con thuyền bé</i>


<i>Trong cõi vô thường nhẹ cánh chao”. </i>


Trong cõi vơ thường ấy, có lần anh sực nhớ:


<i>“Năm xưa phố lục mây hồng</i>


<i>Giờ đây Bùi Giáng phiêu bồng nơi đâu?”.</i> Một câu hỏi vừa thân tình cũng vừa da diết q
đỗi.



Có lúc Trịnh Cơng Sơn cũng đã nhìn thấy một hình ảnh lạ:


<i>“Hơm nay làng xóm vơ thường</i>


<i>Có người đang đứng bên đường ngủ qn”. </i>


Có lúc anh tự nhủ:


<i>“Đường xa mỏng mộng vô thường</i>
<i>Trái tim chợt tỉnh tôi nhường nhịn tôi”. </i>


Ở tuổi “ngũ thập”, anh viết:


<i>“Năm năm mươi tuổi tôi ngồi</i>
<i>Thiên thu hãy giúp tôi bồi đắp tôi”. </i>


Nếu nhạc Trịnh viết nhiều về phố thì trong thơ anh cũng hiện hữu:


<i>“Ở đây phố xá hiền như cỏ</i>
<i>Có nỗi hồn nhiên giữa mặt người</i>
<i>Ở đây cỏ sẽ hiền hơn phố</i>


<i>Bởi dưới chân em có mặt trời”. </i>


Trong bài thơ Chỗ ngồi Trịnh Công Sơn đã tạo nên một nỗi bâng khuâng lạ lùng:


<i>“Chỗ em ngồi ngày xưa còn ấm lắm</i>
<i>Anh gối lên và ngủ một giấc dài</i>
<i>Em có hiểu đời cho em là mộng</i>
<i>Để anh về cứ tưởng một là hai”. </i>



Trong bài thơ Chiều, kết thúc là câu hỏi:


<i>“Em ơi nắng bỏ đường dài</i>


<i>Chiều hôm hiu quạnh ta ngồi với ta</i>
<i>Dịng sơng suối hở mặn mà</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Dù khơng phải là một tín đồ suốt đời nghiên cứu kinh Phật, nhưng Trịnh Công Sơn lại rất am
tường triết lý của đạo Phật. Anh viết:


<i>“Trăm năm cứ gõ vô cùng tận</i>
<i>Lặng lẽ nơi đây một tiếng cười”. </i>


Như trong đạo Phật gọi là “duyên”, Trịnh Công Sơn lại gặp nhan sắc xa xăm từ hoa niên tươi
trẻ, anh viết về duyên hội ngộ này dưới một mùa tuyết trắng:


<i>“Bỗng nhiên gặp lại nơi này</i>


<i>Những khuôn mặt cũ một thời có nhau</i>
<i>Ngày xưa phố cổ ngọt ngào</i>


<i>Ngày nay xứ lạ điệu chào ngẫu nhiên”. </i>


Xứ lạ ấy anh có “tiết lộ” trong bài thơ Nhìn phố Phái ở Montréal:


<i>“Gió mùa đơng bay vào cửa nhỏ</i>


<i>Phố em buồn ngọn cỏ cũng buồn theo”. </i>



Còn “phố cổ” nào vậy? Là Huế chăng? Huế của những mùa “nắng thủy tinh”, của những
mùa “mưa vẫn mưa bay”. Để rồi có lúc ngẫu nhiên, anh viết:


“<i>Quế Hương là quế hương nào</i>
<i>Trời hiu hiu gió ta vào mùa đơng</i>
<i>Ta xưa ở Huế</i>


<i>Có dịng sơng</i>


<i>Hơm nay ở Huế người khơng có người</i>
<i>Bạn bè mỗi đứa một nơi</i>


<i>Bóng ta phố cũ sóng đơi một mình”. </i>


Bóng dáng mùa xn cũng đi vào thơ Trịnh Công Sơn. Ta hãy đọc Xuân đành:


<i>“Em ơi nắng bỏ trời khơng tiện</i>
<i>Vì thế xn đành khép nép lên”. </i>


Tuyệt quá đi chứ? Và đây:


<i>“Em ơi tuyết đổ</i>
<i>Bàng hoàng tuyết rơi</i>
<i>Mùa xuân tuyệt khổ</i>
<i>Lá cỏ ngậm ngùi</i>
<i>Em đi nho nhỏ</i>
<i>Giữa mùa tuyết bay</i>
<i>Ta đi vô độ</i>


<i>Giữa mùa tuyết say</i>


<i>Tim ta vò võ</i>


<i>Tuyết trở mặt rồi</i>
<i>Mùa xuân năm ấy</i>
<i>Mùa xuân năm này</i>
<i>Hồn ta bỏ ngỏ</i>
<i>Ai nào ai hay?”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

---


<b>Một ca khúc quen mà lạ</b>


<i> Đồn Vị Thượng </i>


---Những năm 1970 - 1975, tơi cùng bạn bè có nhiều dịp hát nhạc Trịnh Cơng Sơn, trong
đó có một ca khúc mà nay khơng mấy người nhớ hoặc biết đến. Tôi ngờ rằng, bài hát
đó ơng viết cho những dịp sinh hoạt tập thể. Xin nói ln, đó là bài Bằng lịng với
những lời ca dễ thương: <i>"Chân có bằng lịng cho chân theo với. Tóc có bằng lịng xe </i>
<i>một sợi thơi. Mắt có bằng lịng trơng nghiêng chờ đợi.Tim có bằng lịng giữ hộ tình tơi. </i>
<i>Là la la la la là là. Tay có bằng lịng cho tay nắm với. Vai có bằng lịng cho qng nhẹ </i>
<i>ngang. Tim có bằng lịng cho tim gần lại. Mơi có bằng lịng cho một nụ hơn...". </i>


Bài hát có hai đoạn, xen giữa là những “hư từ” là la la... như một cách giúp nhóm người
dễ hịa nhập với nhau, cùng vỗ tay khi hát. Những câu nhịp bốn dễ hát Chân có bằng
lịng/cho chân theo với... đã mau chóng lôi cuốn chúng tôi trong sinh hoạt và cả cái
khoảnh khắc... “tỏ tình” với ai đó.


Trịnh Cơng Sơn (bìa trái) đang hát với các SV trong phong trào
HS - SV trước 1975


Những năm đó, tơi cịn là cậu bé 12 tuổi, sinh hoạt trong gia đình Phật tử, rồi trong


Hướng đạo ở Quảng Ngãi, được một anh huynh trưởng bày cho hát. Tơi đã thuộc lịng
nó thật dễ dàng. Cứ nghĩ đó là một dạng bài hát tập thể, bài hát cộng đồng nên ít quan
tâm đến tác giả. Nhưng rồi vài năm sau, trước thời điểm 30/4/1975, lúc bắt đầu biết...
yêu thì mới “phục” ca từ bài hát, vì nó hệt như một bài thơ tình học trị, đáng lưu giữ
trong ký ức của mình. Và qua tìm hiểu, tơi mới biết, đó là bài hát do nhạc sĩ Trịnh Cơng
Sơn sáng tác và được lan truyền rộng rãi trong các trường đại học ở Huế lúc bấy giờ.
Thế nhưng, từ sau 1975, và cho đến gần đây, tôi hầu như không được nghe cũng như
không thấy ai nhắc đến bài hát này. Gặp một số bạn bè thân thiết của cố nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn, và cả “tìm đến” Diễn đàn văn hóa Trịnh Cơng Sơn (Pháp) do tiến sĩ Phạm
Văn Đỉnh phụ trách - nơi tự hào có bộ sưu tập đầy đủ nhất gia tài ca khúc của họ Trịnh,
cũng không thấy ai nhắc nhớ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

học Văn khoa Huế, trước hàng nghìn bạn bè cùng trường và từ các trường khác đến,
mình đã hát bài hát này với lời giới thiệu rõ ràng, Bằng lịng của Trịnh Cơng Sơn, mà có
ai phản đối đâu”.


Tiếp đó, anh cho biết thêm, thuở ấy (những năm 1970), ở Đại học Văn khoa Huế, sinh
viên được học nhiệm ý một số môn (tự chọn) ngồi các mơn chính phải học. Anh chọn
học thêm môn Thẩm mỹ âm nhạc và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người (được nhà
trường thỉnh giảng) đến lớp anh dạy mơn này, trong đó, ơng có lần phổ biến cho sinh
viên bài hát nói trên.


Với tơi ngày ấy, và với tơi bây giờ, Bằng lịng vẫn là một bài hát hay.


---


<b>Sự loạn sắc của họa sĩ Trịnh Cung</b>


<i> Đoàn Vị Thượng </i>


---Đọc xong bài viết “Trịnh Cơng Sơn và tham vọng chính trị" cơng bố trên trang web hải ngoại,


tôi chợt nhớ ngay đến một “bài nói” khác của họa sĩ Trịnh Cung (TC), được ghi âm lại, và
post lên một trang web nọ. Bài nói đó diễn ra vào ngày 4/4/2001, tại Phòng Sinh hoạt Việt
Nam ở Little Saigon, California, lúc TC qua Mỹ chữa bệnh và nghe tin nhạc sĩ TCS từ trần.
Nay, hầu hết nội dung bài viết trên của TC chính là “triển khai” thêm những lời nói lại ít nhiều
bốc đồng ngày đó. Ai đã đọc qua, sẽ khơng thấy có gì mới lạ hơn. Ấy vậy, ơng đã có những
lời mở đầu bài này rất “to tát” như sau: “Tơi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có
nên viết nó ra, giải thốt cho nó khỏi ngục tù trong tơi suốt hơn 30 năm qua?” đã khiến nhiều
người quan tâm xốn xang và tị mị đọc ngay.


Bài nói kia được đặt tựa là Bi kịch TCS thì nay là TCS & tham vọng chính trị! Nhưng suốt
tồn bài viết, ông không nêu ra được cái gọi là những “tham vọng chính trị” ở người nhạc sĩ
tài hoa, thánh thiện, từng là bạn thân của ông. Tất cả chỉ là “nghe hơi nồi chỏ”, vài chuyện
không đâu mà thường người ta nói trong lúc “trà dư tửu hậu”. Chẳng hạn, chuyện Nguyễn
Hữu Đống - một cái tên mà chính trường bấy giờ khơng ai nhắc đến, để rồi “nâng” lên thành
“sự kiện” lớn, có tầm vóc chính trị! Ơng trích dẫn một đoạn trong bài viết Có nghe ra điều gì
của TCS: “Chưa bao giờ tơi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một tình nguyện quá lớn, nhưng
khi đã lỡ nhận chịu những tình cảm nồng hậu từ đám đơng thì những anh em kia phải được
đền bồi”, để rồi phán: "Chúng ta sẽ dễ nhận thấy ý thức làm chính trị chống đối chế độ Sài
Gòn của TCS".


Thực ra, ai là người trong cuộc cũng biết, đó là lúc TCS kể về những lần ông cùng Khánh Ly
hát nhạc phản chiến tại Quán Văn - ĐH Văn Khoa Sài Gịn, và “những tình cảm nồng hậu từ
đám đơng” khơng ai khác, chính là những khán giả SV-HS khiến ơng muốn tiếp tục sáng tác
dịng nhạc đó để “đền bồi”. Chính điều này cũng trả lời ln cho TC rõ: không phải Nguyễn
Hữu Đống là người “lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam” như TC đã khẳng định.


Việc TCS hát ở Đài Phát thanh Sài Gịn bài Nối vịng tay lớn ngày 30.4.1975 khơng có sự
hiện diện của nhạc sĩ Tôn Thất Lập, nên anh khơng thể nói với TCS: “Mày có tư cách gì mà
hát ở đây”! Mượn sự kiện khơng có thật kia, họa sĩ TC mới có cớ để bịa tiếp: “Chỉ vài ngày
sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế... Hy vọng chắc


được yên thân”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Cũng trong thư này, TCS chủ động thông báo với Bửu Ý rằng ông sẽ về Huế - chứ khơng có
gì “lén lút” cả: “Mình cũng đang định về Huế sinh hoạt cùng anh em. Đợi ít lâu nữa xem, nếu
hồn tồn khơng có gì để sinh hoạt tại Saigon thì mình sẽ dứt khốt về Huế”. Ta thấy, tâm
trạng TCS lúc đó thoải mái, ơng cịn nói câu “nếu Saigon khơng có gì để sinh hoạt”, qua đó,
cũng phản ánh ít nhiều thời điểm đó, có thể cịn những “bất cập” giữa ơng (mà khơng chỉ
mình ơng) với bộ máy làm việc mới, như chưa thuận lợi, chưa có cơng việc cụ thể chẳng
hạn. Với câu nói đó, ơng đủ sức “bịt miệng” những ai có ý đồ suy diễn là ơng “lén lút” về
Huế, huống chi là TC, gần 34 năm sau còn thêm thắt, đặt điều!


Phần cuối bài viết, sau khi quy chụp, suy diễn, TC tỏ ra ngậm ngùi “thơng thái” trong triết lý:
“Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái
chết là một kết thúc hồn hảo... Nó đã giải cứu và trả lại vinh quang thiên tài cho anh, vinh
quang dành cho gia sản ca khúc TCS”. Ta thấy có sự mâu thuẫn rõ rệt ngay trong nhận xét
này. Thực ra, với TCS, vinh quang đã đến sớm, ngay từ khi ông còn trẻ và kéo dài cho đến
lúc mất, là do ông đã cật lực với sáng tạo nghệ thuật để tạo ra “vinh quang gia sản ca khúc
TCS”, chứ không phải đợi đến ngày ông chết và cái chết “đã giải cứu và trả lại vinh quang”
như TC suy diễn.


Tơi thực tình khơng hiểu tại sao TC lại có những lời “cuối cùng cho một tình u” như thế?
Ơng khơng sợ rằng nhân nào quả ấy, chính những gì ơng viết kém thành thật đó, cũng sẽ
khiến những người yêu nhạc, yêu TCS và cũng như u ơng, sẽ nói lời “cuối cùng cho một
tình u” dành cho chính ơng hay sao? Hay đây là sự “loạn sắc” của một họa sĩ?



<b>---Trịnh Công Sơn - Viên Đá Bị Bỏ Quên Của Bà Nữ Oa</b>


<i> Chu Sơn </i>


---Khi xưa, lúc trời đất mới hình thành nhưng chưa kín hẳn – cịn lủng lỗ chỗ nơi này chốn nọ. Ở đỉnh Vô Kê − núi


Đại Hoang, tương truyền có bà Nữ Oa luyện ba vạn sáu ngàn năm trăm lẻ một viên đá ngũ sắc để vá trời. Bà
chỉ dùng có ba vạn sáu


ngàn năm trăm viên. Còn lại một viên bà bỏ quên ở chân núi Thanh Ngạnh. Viên đá này từ khi được luyện đã
có nhân tính, ngày đêm buồn tủi khóc than thân phận mình…


(theo huyền thoại Trung Hoa.)


Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa. Nơi này phải chăng là núi Thanh Ngạnh, là đỉnh Vô Kê
của núi Đại Hoang trong huyền thoại Trung Hoa, hay là Huế, là Bn Mê Thuột, là Sài Gịn,
là Hà Nội… của nước non nhà?


Thế cịn mưa xa?


Khơng ít người láu táu − như kẻ viết bài này − vội vàng khẳng định: ấy là “Huế của ta,” “Huế
của ta.”


Thế là, hẳn nhiên thêm một lần, Trịnh Công Sơn với mắt cười thật buồn, cố giấu đi một ánh
mỉa mai, giễu cợt.


*


Dường như chỉ có một lần Trịnh Cơng Sơn đã khóc thật sự vì tình u. Mối tình trai gái đầu
đời tan vỡ. Anh chỉ khóc đến độ Ướt Mi. Bởi tình u lúc này, nơi Trịnh Công Sơn chỉ là yêu
thầm. Và khi người con gái cụ thể của cuộc tình ra đi, khơng nhất thiết có sự chọn lựa, trắc
trở hay bội bạc gì nơi cơ và cũng có thể nàng ra đi tình cờ, tự nhiên như bất cứ một cuộc
chuyển cư nào.


Thế là Trịnh Công Sơn đơn độc nhìn về một hướng. Anh đã khóc thầm. Nước mắt làm ướt
mi anh. Cả mẹ, cả các em, cả bạn bè thân thiết chẳng ai hay biết gì nếu sau đó khơng thấy


anh ơm ghì cây đàn ghita rung lên từng tiếng nấc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

chẳng có sơng nào giống biển nào. Hơn trăm năm trước một thi sĩ, đồng thời là một hồng
đế đã hố điên, hố dại khi chơn cất một Bằng Phi: Đập cổ kính ra tìm lấy bóng. Xếp tàn y lại
để dành hơi. Biến cố ấy nơi Tự Đức là một ngoại chấn. Cơn ngoại chấn chỉ gây cho người
chứng một cảm nhận bỏng rát, run rẩy, bàng hồng. Cịn Ướt Mi của Trịnh Công Sơn là một
cơn nội chấn. Nước mắt của kẻ tình si trăm năm sau lại chảy vào bên trong. Các nhân
chứng cứ ngỡ tình đã qua đi, có ngờ đâu cứ theo thời gian nó thấm, nó ngấm, nó làm tê, làm
điếng, làm buốt, làm nhức từng đường máu ống xương, từng làn da thớ thịt, làm nẫu từng
khúc ruột, từng xó óc buồng tim đâu chỉ có một mình anh và đâu chỉ có một thời trẻ dại.
Nỗi đau chiếm lấy Trịnh Cơng Sơn?


Chưa đúng hẳn.


Chính Trịnh Cơng Sơn đã vồ chiếm lấy nỗi đau làm báu vật, đồng thời làm vũ khí của riêng
mình. Lập tức Trịnh Cơng Sơn hố thân làm nỗi đau. Nỗi đau chính là bản thể của anh.
Nước mắt đã chuyển hoá thành năng lượng, thành sức mạnh khiến người nghệ sĩ nhập thế
một cách bi thiết và mỹ lệ trong thế giới bát nháo ta bà này. Mỗi người trong chúng ta, bởi
kinh nghiệm đau thương riêng tư của mình, mỗi khi tiếp cận với thế giới âm nhạc Trịnh Công
Sơn, đã khám phá, phát hiện và trong chừng mực nào đó đã làm phong phú thêm những
lóng lánh sắc màu. Thế là Trịnh Công Sơn đã trở thành người bạn đường của hết thảy
chúng sinh giữa trùng khơi nước mắt*.


Sau Ướt Mi, Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhiều, rất nhiều tình khúc. Tình khúc Trịnh Cơng
Sơn là tên một tập hợp sáng tác thơ ca của anh. Anh đã dành trọn cả đời mình để ca hát về
tình u. Chưa đủ, Trịnh Cơng Sơn cịn nói về tình u bất cứ nơi nào, lúc nào có dịp. Thậm
chí anh cịn muốn xây thêm một vườn tình chung quanh ngơi mộ của Mẹ. Từ sau cái lần ướt
mi đó, khí hậu siêu thực từng bước thấm đẫm, đầy ắp trong nhạc tình Trịnh Cơng Sơn. Mới
gặp một đôi lần mà Diễm (đã) xưa. Mới chỉ đối mặt mà đã thành trăm năm. Mới cú choáng
váng mà đã thấy em trong tiền kiếp và cuối cùng Em cũng là Tơi và Tơi cũng là Em.



*


Có lúc nào đó, Trịnh Cơng Sơn sau những ngày dài tự kiềm chế, đã buộc phải giải bày về
cái mà anh gọi là “cái ta đáng ghét.” Ai đó? Có thể rất nhiều, đã ngộ nhận anh thế này thế
nọ, đã níu anh về phía bên này, đã đẩy anh về phía bên kia, đã chồng hoa hay chụp mũ
cho anh. Trong một tình thế mà sau này anh bảo là khắc nghiệt, cũng có thể lâm thời là
những mời gọi dịu dàng, những đẩy đưa bóng gió đã làm cho con tim mây nước của anh
xao xuyến hoặc đã khiến cho cái trí lau sậy của anh chập chờn nghiêng ngả. Nối Vòng Tay
Lớn, Cho Một Người Nằm Xuống, Huế − Sàigòn − Hà Nội… đã được ra đời trong những bối
cảnh như thế. Những bối cảnh mà đến một thời điểm thuận tiện, anh lại mỉa mai gọi là
“những ngày hét la to đầy nộ khí.” Tất nhiên, anh ln tìm cách đẩy những âm vang nghịch
chọi ấy, những đóa hoa vơ thường ấy đi vào lãng qn. Nhưng cái trớ trêu, cái bất hạnh, cái
nghiệp chướng của tài năng là bất cứ một hành vi lớn nhỏ nào, có chủ hướng hay khơng, y
cũng khơng thể chối từ các hệ quả của nó. Khi tình thế khắc nghiệt qua đi, khi giới tuyến lửa
đạn chìm khuất, khi triệu triệu vết thương chiến tranh khép lại, khi cảm quan nghệ thuật
được cởi trói, khi giá trị nghệ thuật được thử thách, sàng lọc, sáng tạo nghệ thuật được thừa
nhận, rồi cuối cùng với năm tháng vang vọng, bay xa hay tiếp tục Vết Lăn Trầm. Anh Trịnh
Công Sơn này, dù biển xanh hay nương dâu có thay nhau lấn chiếm, dù anh có nghĩ suy,
thời biện thế nào thì Nối Vịng Tay Lớn đối với chúng tơi (khơng nhất thiết phải là tồn thể),
những người cùng với anh cộng nghiệp, cũng là một bài ca tồn bích. Và, Cho Một Người
Nằm Xuống cũng là một nốt đẹp được viết thêm vào bản trường ca chiêu hồn vô tận của một
đất nước mà chiến tranh là nghiệp chướng ngàn đời. Té ra cái khát vọng tuyệt đối trong khá
nhiều trường hợp lại được thai nghén, nuôi dưỡng từ một hiện hữu nhỏ nhắn, một động thái
xơ lệch, một tình cảm biền biệt phân thân. Tài năng cộng với những cảm xúc chân thật đã
giải cứu người nghệ sĩ thoát khỏi những giới hạn thiểu não của cá nhân, nối kết anh trở về
hát chung với cộng đồng bài ca chén đắng.


*



</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

hơn Promété hay Jean Vanjean. Và cũng như thế với Tất Đạt Đa, Kiều, Chí Phèo hay Trịnh
Công Sơn.


Khi tiếp cận với số phận Trịnh Công Sơn qua tiếng hát Khánh Ly, chúng ta bỗng thương cho
người rồi lạnh lùng riêng, để rồi bị cuốn hút vào thế giới âm nhạc của anh bởi tính cách tân
kỳ, độc đáo của ngơn ngữ (ca từ), bởi vóc dáng tiều tuỵ, đơn độc, lạc lõng, tuyệt vọng của
chúng sinh giữa bát quái trận đồ chiến tranh, tội ác, bạo ngược, dối gian, bởi khát vọng hồ
bình nóng bỏng và ngọn lửa u thương tưởng như hắt hiu mà không bao giờ tắt, giữa cái
cõi đời mà đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng.


*


Trịnh Công Sơn đã lượm nhặt ngôn ngữ gần như là tình cờ trên những nẻo đường anh qua.
Tưởng như không chọn lọc, không gia công, không đẽo gọt, khơng điểm tơ, đơi khi có thêm
bớt, thiếu thừa là bởi đãng trí hoặc bởi xúc cảm sáng tạo hơn là chủ hướng ý thức hay ký ức
học thuật nào. Do vậy nếu không nghe hoặc không hát, chỉ đọc Trịnh Công Sơn qua các bản
in, chúng ta sẽ bị ngỡ ngàng, bối rối bởi chúng dường như tối nghĩa và đơi khi chẳng có chút
gì là thân quen giữa các câu, các từ với nhau. Thế mà những ca từ tưởng chừng như nghịch
dị ấy, những cỏ héo, cành trơ, lá úa, những cát bụi mệt nhồi ngu ngơ ấy, những đá cuội lăn
lóc ưu phiền ấy, những tà dương mộ địa ấy, những quán không, phố hoang, vai gầy ấy…,
sau khi được người nghệ sĩ phả vào chúng những hơi thở thoi thóp theo từng bước rã rời,
xiêu vẹo, qua những nẻo trần ai, đã biến thành những âm binh huyền ảo cuốn hút, mê hoặc
chúng ta. Phút chốc chúng ta bàng hoàng, run rẩy, ớn lạnh, để rồi cùng với Trịnh Công Sơn
cảm nhận đến tận cùng thân phận bi thương của kiếp người qua từng nhịp đổ của Một Cõi
Đi Về.


*


Nhiều người trong chúng ta, kể cả người viết bài này, đôi lúc cũng muốn tranh luận với Trịnh
Công Sơn điều này việc nọ. Nhưng đến lúc suy đi nghĩ lại thì thấy rằng đi thách đấu với một


người không màng đến võ công như Trịnh Công Sơn thì rõ ràng mình cũng chỉ là kẻ vũ phu.
Trịnh Công Sơn không sinh ra để làm người tình của cụ bà logic rạch rịi, khó tính, cũng
khơng sinh ra để chỉ biết ỉ ơi ai ốn. Trước sau như một anh cũng chỉ là chị em sinh đơi của
cơ nàng đa tình đa cảm có tên gọi là cảm nhận sâu lắng hay trực giác thiên phú. May mắn
cho anh và cũng may mắn cho những ai mê thích nhạc Trịnh là trực quan sáng tạo nghệ
thuật nơi anh, người nghệ sĩ có đơi mắt nhìn sâu vào nội tâm con người một cách nhạy bén
và dồi dào đến thế. Có thể nói trong vịng 40 năm cuối thế kỷ 20 tại miền Nam chưa có một
nhạc sĩ nào gẩy đúng sợi tơ lịng mong manh mẫn cảm của đơng đảo tâm hồn thanh niên đô
thị như Trịnh Công Sơn. Trong cái bối cảnh lịch sử khắc nghiệt của cuộc chiến tranh mà
trắng đen, thiện ác, địch ta lại cộng cư trong một khung cửa hẹp của một ngôi nhà hình ống
sâu hút, cũ kỹ, dột nát, nền móng long lở bởi thiên tai dịch hoạ triền miên như thế, một căn
phố khơng có sân trước, khơng có ngã sau, thì sự lựa chọn dứt khốt bên này phía nọ quả
thật chẳng đơn giản. Trong cái xó xỉnh tối tăm, ngột ngạt khó thở, khó nhận ra như thế, suốt
cả thời trai trẻ của mình, con người phiêu lãng Trịnh Cơng Sơn, vì thiếu một ngõ sau để
chiều chiều ngó về quê mẹ, nên con mắt còn lại của một thần kinh bén nhạy, dễ rung động
như anh đã buộc phải hướng về nội tâm để mà bản lai diện mục. Thế là, qua lăng kính của
Trịnh Cơng Sơn, dưới (mỗi) vịng nơi mọc từng mộ địa và tin buồn từ ngày mẹ cho mang
nặng kiếp người.


*


Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng! Nhiều lần Trịnh Công Sơn kêu gọi chúng ta như
thế. Thực ra đây là những lời tự bạch, tự trấn an chẳng có lấy một chút cơ may giải cứu nào.
Nỗi khổ và bóng tối cứ đeo đẳng, phủ chụp lấy anh. Cuối cùng chính anh đã khẳng định: “Tơi
đã mỏi dần với lịng tin. Chỉ cịn lại niềm tin cuối cùng vào tuyệt vọng. Có nghĩa là tin vào
chính mình. Tin vào cuộc đời vẫn không thể khác.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

được nhiều bạn bè đồng thanh tương khí như anh! Bao lâu nhân loại cịn đóng thêm những
kệ hàng cịn tuyển dụng thêm nhiều tên mãi biện miệng mồm trơn láng ngày đêm lẻm bẻm
rao bán đủ thứ mặt hàng: đói kém, chết chóc, thù hận, nơ lệ, vong thân, bao lâu chiến tranh


khổ nhục còn đeo bám lấy thân phận Việt Nam, bao lâu khát vọng hồ bình và ngọn lửa yêu
thương còn rực cháy nơi mỗi buồng tim khối óc chúng ta thì Trịnh Cơng Sơn vẫn cịn đó, cho
dù cát bụi rã rời có bay đi.


*


Tuyệt vọng và yêu thương ít khi cùng ở chung nơi một con người. Nhưng ở Trịnh Cơng Sơn
nó tuy hai mà một. Trịnh Cơng Sơn đã dành trọn đời mình để mơ tả, khóc ca về nỗi đau, về
tình cảnh vô vọng của kiếp người và đồng thời kêu gọi chính mình, kêu gọi những ai đồng
hội đồng thuyền hãy giữ gìn ngọn lửa yêu thương và thực hiện tình yêu để giảm nhẹ hoặc
cứu chuộc một phần khổ nạn làm người. Anh nói: “ Sống giữa đời chỉ có thân phận và tình
u. Thân phận thì hạn hữu, tình u thì vơ cùng. Chúng ta làm cách nào để ni dưỡng tình
u, để tình u có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời.” Điều Trịnh Cơng Sơn nói
đúng sai thế nào chúng ta luôn tự nhủ rằng không nên và không thể tranh luận cùng anh.
Tuy nhiên chẳng có ai mà khơng thừa nhận rằng anh đã chân thật, chân thật tự đáy lịng khi
nói mấy lời này. Cứ để cho Lý Bạch tìm trăng đáy nước, cứ để cho chú Cuội đi tìm tiên trên
trời[NVS1] , và cứ để Trịnh Cơng Sơn mơ đem tình u xóa hận thù. Trăng đáy nước, tiên
trên trời − nghệ thuật − trong rất nhiều trường hợp còn hiện thực, đẹp đẽ và cần thiết cho sự
thăng hoa tâm hồn nhân loại hơn bất cứ một thiên đường bánh vẽ nào, hơn bất cứ một sứ
mệnh khai hoá bịp bợm nào, hơn bất cứ một xác khô học thuyết nào.


Càng tiếp cận với Trịnh Công Sơn, chúng ta càng khám phá ở anh nhiều điều lạ. Ê chề,
khốn quẫn, và vô vọng giữa hiện thực tàn nhẫn của nhân gian nhưng Trịnh Công Sơn chỉ
khắc khoải, tra vấn, nhớ tiếc về cội nguồn, về tiền kiếp, về một quê hương xưa cũ đã mất,
chứ chưa hề một lần anh mơ về kiếp sau, một bồng lai tiên cảnh hay một thiên đường nào
ngoài cõi trần ai. Đã đến đây như một khách trọ, một kẻ lưu đày, thì thơi cũng đành ở lại bởi
cuộc đời khơng thể khác. Chỉ cịn một lựa chọn, một cách thế duy nhất để làm người là yêu
thương. Tình yêu là phương thuốc hồi sinh duy nhất cho mỗi con người và cho cả nhân loại.
Đây là niềm tin bất diệt của Trịnh Cơng Sơn.



*


Mấy dịng ngu ngơ có thể tạm kết. Khốn nỗi là ở lời mũ, lời mở đã nhắc đến chuyện Nữ Oa
đội đá vá trời và chuyện Trịnh Công Sơn nhớ mưa xa nên xin được làm phiền bạn đọc một
vài phút nữa bằng mấy mẫu đối thoại thiếu trước hụt sau tình cờ nghe lóm được:


−“… ?”


− “Trịnh Cơng Sơn xa lạ với tình tự q hương kiểu con đị, bến nước, cây đa, đình làng, tre
xanh, khế ngọt … Thế Huế đối với Trịnh Cơng Sơn là gì?”


−“Cũng như Bn Mê Thuột, Sàigịn, Hà Nội hay bất cứ nơi nào anh đi qua, Huế đối với
Trịnh Công Sơn cũng chỉ là quán trọ, là chỗ ăn nhờ ở đậu, là một chặng của cõi đi về.”
−“ Nơi nào là mưa xa?”


−“ Đâu phải chỉ có Huế mới mưa nhiều. Trong Trăm Năm Cơ Đơn của Marquez mưa cịn
nhiều hơn Huế gấp bội. Marquez mô tả một trận mưa kéo dài mấy năm liền. Mưa xa của
Trịnh Công Sơn là kiếp trước, là ý niệm.”


−“ Nhưng mưa trong nhạc Trịnh Cơng Sơn đích thị là mưa Huế.”


−“ Vấn đề là ở chỗ đó. Dấu vết Huế trong nhạc Trịnh Cơng Sơn đâu phải chỉ có mưa, nhất là
hồn tồn khơng phải mưa đơn thuần là một hiện tượng thời tiết: mưa to, mưa vừa, mưa
nhỏ, có mưa, không mưa. Người nghe nhạc Trịnh Công Sơn chẳng khó khăn gì bắt gặp Huế
khi anh mơ tả một ngày mưa ở Sàigòn. Giai điệu mở đầu trong Mưa Mùa Hạ:


Mưa… mưa… mưa… Sàigịn… mưa…


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

− “Có thể nói thêm đơi điều về đặc chất Huế trong âm nhạc Trịnh Công Sơn?”



− “Ngoại trừ một vài biệt lệ, hầu hết các ca khúc Trịnh Công Sơn đều ít nhiều âm hưởng
Huế:


Thứ nhất đó là những giai điệu mượt mà, tha thướt, tinh tế, sang trọng đặc biệt buồn rầu, tê
tái, ngày càng ngả về hướng ảo não lâm ly. Đây là những hoá thân của nỗi buồn Nam ai,
Nam bằng, Tứ đại cảnh, Chầu văn, văn tế, kinh cầu, lời ru, giọng hò Mái nhì Mái đẩy. Những
làn điệu âm nhạc, những thể loại văn chương một thời thịnh hành ở Huế.


Thứ hai là nội dung những ca từ là những tự truyện bằng thơ của một kẻ hát rong kể lể, than
khóc về tất cả những nỗi niềm đớn đau, tuyệt vọng, những trầm tư ray rứt, những hoài niệm
nhớ nhung về một tiền kiếp và phô bày một hiện sinh bi đát, bế tắc, tối tăm, đày đoạ ở cuối
đường nhưng le lói đâu đó là tình u là hy vọng.. Bối cảnh ở những tự truyện Trịnh Công
Sơn là những đền miếu tàn phế hoang liêu, những tha ma mộ địa, những phố xưa, đường
vắng, quán không, những hầm hố bom đạn, những đói nghèo thù hận và nhất là những cuộc
tình tan vỡ. Thế giới Huế qui nhập, tích tụ, ám ảnh, kích thích tâm trí anh, khêu gợi óc tưởng
tượng và thơi thúc nhu cầu sáng tạo của anh. Kết quả là nhiều tác phẩm Trịnh Công Sơn –
Huế đã được thai nghén và ra đời.


Thứ ba là nhân vật chính của những tự truyện này thường có hai: Một là “Tơi,” Trịnh Cơng
Sơn, chủ thể của mọi mối tương liên, mệt mỏi rã rời, bất an. Hai là “Em,” người con gái mình
hạc xương mai, vai gầy, tay dài, gót nhỏ, bước nhẹ, mắt buồn xanh mướt. Em bước ra từ
một khung cửa hẹp dưới khóm tường vi trong khu vườn xưa mộng mị (như trong truyện liêu
trai). Em đi một mình dưới mưa bụi, trăng mờ hay trong nắng vàng, chiều tím, hân hoan hay
thấp thỏm, ngẩn ngơ hay xót xa, ái ngại. Cịn Tơi (lúc thì) tìm thấy em theo từng gót xa, (lúc
thì) xin làm đá cuội lăn theo dấu hài. Tôi và em, những tình nhân một thời Huế đẹp, Huế thơ,
Huế xanh xao mộng mị, Huế mong manh liễu yếu đào tơ.


− “ Ngồi đặc chất Huế, trong nhạc Trịnh Cơng Sơn, yếu tố lịch sử có vai trị gì?”


−“Trong nhạc Tịnh Cơng Sơn khơng phải chỉ có chừng ấy đặc chất Huế. Tất cả các đặc chất


Huế cũng không dồn cho mỗi một Trịnh Cơng Sơn. Huế đâu chỉ có cái đẹp của u hoài, mong
manh, hư ảo? Nếu Huế chỉ có thế thì Huế đã khơng cịn là Huế. Con người cho dù là ai, y
cũng chỉ được sinh ra từ một góc nào đó, vào một thời điểm nào đó trong ngút ngàn lịch sử.
Cái tất yếu đã làm khó cho một Trịnh Cơng Sơn muốn vượt qua giới hạn của bản thân, muốn
thốt khỏi những trói buộc phi lý, vô vị, tầm thường của nhân gian. Tha nhân là địa ngục của
chính mình. Khái niệm xa lạ này có thể đúng khi “mình” tự thấy cũng là “tha nhân” của bất kỳ
ai. Bởi mình với ta tuy hai mà một. Những thông tin triết học qua sách vở, báo chí, trường
học đã thâm nhập vào tâm trí của một số bộ phận khơng nhỏ thanh niên đô thị miền Nam
sau 1954, đã cản ngăn họ dấn thân vào chiến hào mà ý thức hệ đã buộc những đứa con dân
tộc phải chọn lựa. Một chút hiện sinh, một chút hư vô đã nhiễm nhập vào một phần của đô
thị miền Nam, đặc biệt là Huế, mảnh đất màu mỡ của u hoài, mong manh, hư ảo, đồng thời
là một tiền đồn về mặt văn hoá trong cái bối cảnh của cuộc chiến tranh giải phóng mà Trịnh
Cơng Sơn và khơng ít người của thế hệ anh và cả thế hệ kế tiếp, đã chỉ nhìn thấy những hệ
quả khốc hại của nó, thay vì nhận biết được mục tiêu tối hậu và ý đồ chiến lược của mỗi bên
(Dân Tộc và Ngoại Xâm, Tự Do và Cộng Sản.)


− “Còn một tiếng nói khác của Huế, một sức mạnh khác của Huế, một bản lãnh khác của
Huế, một sắc thái khác của Huế mà tự thân mỗi người trong chúng ta vì cơ dun này nọ
hoặc khơng biết, hoặc chưa biết, hoặc quên đi ít nhiều, hoặc mơ hồ về bản trường ca bi
tráng vang vọng từ những anh linh Tày Việt − Mường Mán – Ô Rí – Hố Châu − Thuận
Quảng – Phú Xn − Huế trên những chặng đường gian khổ của cuộc trường chinh mở cõi,
giữ nước, khẳng định bản lĩnh, xác lập bản sắc, thăng hoa phẩm giá làm người…”


− “Nghĩ như thế nào về những ca khúc kêu gọi hồ bình của Trịnh Cơng Sơn khi cả nước
đánh giặc từng ngày?”


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

đưa vọng buồn. Ngàn đời sau trong tâm hồn dân tộc, cậu là Thánh Gióng. Bởi cậu đã cỡi
ngựa bay về trời khi yên giặc. Nói như ngơn ngữ ngày nay là cậu đã tự về hưu ở tuổi lên bốn
bởi cậu đã dồn hết tinh lực cho cuộc chiến tranh vệ quốc. Cậu khơng muốn ở lại để chia
chác phẩm hàm, cị kè danh lợi. Cậu khơng muốn mình trở thành cái cớ để Trịnh Công Sơn


hát mãi bài ca Biết Đâu Nguồn Cội hoặc gia tài của mẹ một lũ lai căng, gia tài của mẹ một lũ
bội tình…”


Câu chuyện tơi nghe lóm chưa hẳn đã chấm dứt, bởi cả hai, người thì cịn nhiều khúc mắc,
kẻ thì chưa nói hết những điều muốn nói! Dù tơi rất muốn nghe thêm nhưng đành tạm gác.
Có biết bao nhiêu điều tơi chưa biết về đất nước mình, về dân tộc mình, về Huế của những
cực đoan, về tâm hồn, về âm nhạc củaTrịnh Công Sơn. Thế mà đành phải tạm gác, bởi tôi
không thể nào quên, cho dù Nữ Oa đã chẳng còn nhớ về một viên đá lạc lồi – Trịnh Cơng
Sơn. Viên đá đã được luyện nên để thực hiện một ý đố ngông cuồng đội đá vá trời.


Tâm hồn nhân loại sẽ nghèo khó, teo tóp đi rất nhiều nếu khơng có những hoài bão, những
khát vọng kiểu Nữ Oa ấy. Những mảng trời lủng của Nữ Oa, chắc chắn đối với tôi, chưa
khủng khiếp bằng sự đổ vỡ, rách nát tang thương, tăm tối nơi tâm hồn nhân loại ngày nay.
Vá trời, kêu gọi yêu thương, quên đi những tị hiềm, có chút gì đó đồng điệu giữa người phụ
nữ trong huyền thoại và chàng du ca lảo đảo bên những thành quách điêu tàn.


Cái ác đang ngụy trang, rình rập, tấn cơng chúng ta từ mọi phía. Chính nó − Cái Ác − đã
phong thánh*** cho người nghệ sĩ có trái tim nhân hậu, kẻ đi mãi giữa cõi người với một
hành trang duy nhất là cây đàn và tiếng hát yêu thương.


Ghi chú: những chữ in đậm là tên nhạc phẩm, ca từ, lời văn của Trịnh Công Sơn đặc biệt từ tuyển tập: Những
Bài Ca Không Năm Tháng, Nxb. Âm Nhạc, 1998.


* Lấy ý từ tun ngơn của Phật Thích Ca: Nước mắt chúng sinh đổ đầy bốn biển.
** Trích thơ Ơn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (Cung Oán Ngâm Khúc)


*** Lấy ý từ định nghĩa của Marx về tôn giáo: “…là lương tâm của một thế giới khơng có lương tâm, là tiếng kêu
đau thương, phẫn uất trong một xã hội đầy rẫy cả bất công và áp bức…”


---


<b>Nét bút âm thanh và cát bụi...</b>



<i> Trần Trung Sáng </i>


---Bây giờ tơi khơng thể hình dung được khúc hát đầu tiên của Trịnh Cơng Sơn đã đến với
mình như thế nào(!) Nhưng điều chắc chắn, khi tôi bước vào những năm đầu bậc trung học
của Trường Trần Quý Cáp (Hội An) thì âm nhạc ấy, lời ca ấy dường như đã chất chứa đầy
tim.


Đó là giọng hát của một người đàn ơng có nhiều hơi rung trên nền ghi ta rời rạc, nghe sao
đơn côi mà mê hoặc đến lạ lùng! “Đàn bò vào thành phố, khơng cịn ai hỏi thăm. Đàn bị về
dịng sơng, dịng sơng đã cạn khơ...” Đó là giọng hát của một nguời phụ nữ có mái tóc dài
ngang lưng, như vọng về tự một đêm tối liêu trai! “Bàn tay đưa anh đến quê hương vàng
son, vào thời lãng qn, tóc em trơi dài, ru mãi ru thêm ngàn năm...” Cứ như thế, qua suốt
bao đêm dài chiến tranh, chúng tôi nghe, chúng tôi hát... Những khúc hát xa xôi mà vô cùng
gần gũi. Lạ lẫm mà rất thân quen. Và khơng ai có thể phủ nhận: hiện tượng Trịnh Công Sơn
một thời bắt đầu như thế!


Thế nhưng, Trịnh Công Sơn không chỉ đơn thuần là một hiện tượng âm nhạc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Nét chữ thủ bút của Trịnh Công Sơn phổ biến từ các tuyển tập ca khúc càng trở nên ma mị,
lôi cuốn không cưỡng được. Đàn, hát và viết chữ theo kiểu Trịnh Công Sơn là một hiện
tượng chung, khơng tách rời nhau. Có lần thầy Tống Khuyến (dạy Pháp Văn) cố vấn lớp học
chúng tôi bấy giờ phải tổ chức kiểm tra bảng tên, hễ phát hiện ra bảng tên nào thêu bằng
kiểu chữ fantaisie của Trịnh Công Sơn là lập tức cho mauvaise note (điểm xấu) và tháo gỡ
thay lại bảng tên mới. Vậy mà nét chữ ấy vẫn không ngừng tràn ngập nơi nơi. Nó sống trong
những cuốn sổ lưu bút học trị, trong những tập thơ nhạc chép tay, trong những lá thư tình...
Đến tận ngày nay, mỗi lần nhìn lại thủ bút của Trịnh Cơng Sơn rơi rớt đó đây trong chồng
sách cũ, tôi vẫn không hết cái cảm giác xôn xao của một thời tuổi trẻ.



Nét bút ấy, không chỉ là nhạc, ca từ mà còn là những tản văn rất ngắn và đầy chất thơ của
họ Trịnh. Một trong những lời tự sự mà tơi thích nhất đó là bài viết nói về sự ra đời của ca
khúc Cát Bụi.


Vào một buổi chiều “ngày tháng khơng cịn nhớ,” sau khi xem phim Hiệp sĩ mù nghe gió
kiếm Tập 6, Trịnh Cơng Sơn kể lại, ông tản bộ lang thang trên phố và không hiểu vì sao cảm
thấy buồn buồn. Chiều tối về nhà, đọc lại cuốn Zorba le Grec, đến đoạn Zorba than thở:
“Chim đa đa ơi thơi đừng hót nữa. Tiếng hót mày làm tan nát tim ta,” ông gấp sách lại khơng
đọc nữa, ra đường tìm một góc qn quen thuộc ngồi. Trên đường về nhà, trong đầu bỗng
vang lên tiếng hát... Với ông, mỗi bài hát gần như bắt đầu từ một duyên cớ nào đó. Có khi từ
một câu chuyện không đâu. Và ca khúc “Cát bụi” đã ra đời như vậy.


Đoạn văn trên Trịnh Công Sơn viết vào mùa xuân 1998 có phần cuối như sau: “Bây giờ thì
người hiệp sĩ mù kia đã chết rồi. Khoảng hai năm nay. Người viết Zorba đã qua đời, dĩ nhiên
con chim đa đa kia cũng đã chết. Và nếu Zorba là một con người có thật được Nikos


Kazantzakis tiểu thuyết hóa thì nay ơng ta cũng đã mất rồi. ‘Tiếng động nào gõ nhịp không
nguôi...’ Thời gian đã nghiền nát tất cả thành cát bụi hết rồi.”


Vâng, thời gian đã nghiền nát tất cả. Chỉ còn lại nét bút, âm thanh và cát bụi (...)


---

<b>Đi vào thế giới ca từ Trịnh Công Sơn - Phần 2</b>


<i> Trần Hữu Thục </i>


<b>---Nhân sinh ca – mấy hình tượng chính</b>


Như đã trình bày ở phần trên, tơi gọi chung những bài tình ca và thân phận ca Trịnh Cơng
Sơn là nhân sinh ca. Ta có thể tổng qt hóa các hình tượng chính trong nhân sinh ca của
Trịnh Cơng Sơn như sau:



<b>EM</b>


<b>CÕI THẾ TƠI</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

người, bên cạnh cái Em, bên cạnh cái Tôi, trong cái Em, trong cái Tôi hoặc tạo thành cái
Em, cái Tơi: giịng sơng, ánh nắng, con trăng, bơng hoa, con đường, góc phố với những liên
hệ xa gần với Em, với Tôi, với người đời và đời người. Cõi thế, như thế, là nơi chứa chấp
Em và Tôi và người đời như những thân phận. Thành thử, ta khơng ngạc nhiên khi thì Trịnh
Cơng Sơn ru Tôi, rồi ru Ta, rồi ru đời, rồi ru người.


Tương quan giữa Em và Tôi tạo thành cái được gọi là tình yêu, nỗi nhớ, sự tiếc nuối, nỗi
buồn, sự mất mát, lòng mong ước và là nguồn cảm hứng bất tuyệt cho những bản tình ca
Trịnh Công Sơn.


Tương quan giữa Tôi và Cõi thế tạo nên cái mà Trịnh Công Sơn gọi là “một cõi đi về”, là
nguồn gốc của mọi bi kịch, của thân phận, là nỗi tuyệt vọng không cùng, đeo đẳng gần suốt
sự nghiệp và cuộc đời của ơng. Có những giai đoạn, tương quan đó trở nên “bất bình
thường”, Trịnh Công Sơn bị “vong thân”, nghĩa là bị ném ra khỏi cái Tôi cố hữu. Tôi biến
thành cái Ta, thành cái Chúng Ta. Đó là cái Tơi trong một số bài của “Ca Khúc Da Vàng”,
của hai tập “Kinh Việt Nam” và “Ta Phải Thấy Mặt Trời”, tóm lại là cái Tơi đặc biệt trong
những bài ca nói về chiến tranh, về cuộc tranh đấu cho hịa bình, về mơ ước xây dựng lại
đất nước, vân vân. Đó cũng là cái Tơi của giai đoạn sau này khi sống dưới chế độ Cộng
Sản. Giai đoạn trước, những lời tâm sự biến thành những lời than van, gào thét, lên án và
những mơ ước rực rỡ nhưng viễn vơng. Giai đoạn sau thì cái Tôi trở thành cái Ta hoặc biến
mất trong cái Ta chỉ để... “sống còn”.


Để sống còn, Trịnh Công Sơn phải làm nhạc tuyên truyền, một loại nhạc phi-Trịnh Cơng
Sơn. Cái trước nghe cịn có chút gì là của Trịnh Cơng Sơn, cái sau hồn tồn vong thân,
biến tính. Để hiểu cái tính cách “sống cịn” này của Trịnh Cơng Sơn, có lẽ khơng có gì cụ thể


thể hơn là đọc trích đoạn sau đây của Nguyễn Duy, một nhà thơ trong nước, khen Trịnh
Công Sơn vào năm 1987: <i>“Một số ca khúc mới của Trịnh Công Sơn, sáng tác từ cảm hứng </i>
<i>trước hiện thực mới, đã được công chúng lan truyền rộng rãi, trong đó, bài “Em Ở nơng </i>
<i>trường, em ra biên giới”(1978) được đáng kể là cái mốc đánh dấu chặng đường mới của </i>
<i>anh. Anh đã thật sự “bắt” vào mạch đời sống hiện thực mà vẫn giữ được cái giọng riêng, cái </i>
<i>bản sắc tươi sáng. Một vài năm trước 1975, anh hơi sa đà vào mạch thiền, bắt đầu có dấu </i>
<i>hiệu lẩn quẩn (...). Chính hiện thực đời sống đã giúp anh “trẻ lại”, anh đi nhiều, sáng tác và </i>
<i>hát, ở nhà trường, công trường, nông trường, ở các tụ điểm sinh hoạt xã hội của thanh niên, </i>
<i>sinh viên và trí thức thành phố, lên biên giới, ra biển khơi, vào tận bưng biền Đồng Tháp </i>
<i>Mười. (...). Với anh, có thể kể ra hàng loạt những bài hát được nhiều người ưa thích “Em cịn</i>
<i>nhớ hay em đã qn”, “Chiều trên q hương tơi”, “Huyền thoại mẹ”, các bài hát trong phim </i>
<i>“Pho tượng”, phim “Y võ dưỡng sinh”v.v...đều là những bài nhạc và lời tương sinh như xác </i>
<i>với hồn, những chi tiết hiện thực đời sống được nâng lên trong xu hướng vươn tới cái đẹp </i>
<i>lâu bền”</i>[17].


Giọng điệu Nguyễn Duy nghe ra đậm mùi nghị quyết, khen một kẻ tân tịng, chắc cũng giúp
được Trịnh Cơng Sơn trong giai đoạn xoay sở để “sống còn” này. Bao nhiêu nhân tài miền
Bắc đã bị vùi dập vì phải sống bằng nghị quyết, bây giờ lại đến Trịnh Công Sơn, than ơi!
Mà thơi, nói lắm thêm rầu!


Dẫu sao, sau này, có lẽ chính vì nhận ra cái tính chất giai đoạn, tính chất “bất bình thường”
của chúng mà trong tuyển tập “Những Bài Ca Không Năm Tháng” của ông không có những
bài ca tuyệt hay về chiến tranh và mơ ước về hịa bình, lại càng khơng có một số bài ca
được sáng tác với mục đích “sống cịn” này. Có lẽ chỉ trừ bài “Em Ra Đi Nơi Này Vẫn Thế”,
tuy phảng phất hơi hướm tuyên truyền, nhưng vẫn là một bài đầy chất tâm sự. Phải chăng
Trịnh Công Sơn đã xem chúng như là những bài ca “có năm tháng”, khơng thể hiện đúng ý
hướng của ông là “Mỗi bài hát của tơi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm
kín về những nỗi niềm tuyệt vọng và cũng là một nỗi lịng tiếc nuối khơn ngi đối với buổi
chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi
người”[18]. Cũng khơng có cả “Nối Vòng Tay Lớn”, bài hát đã để lại một kỷ niệm cay đắng


cho những người yêu mến ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<i>dài một nửa thế kỷ sáng tác, từ những năm 1950 đến cuối thập niên 90, Trịnh Công Sơn viết</i>
<i>nhiều nhất vẫn là nhạc tình”</i>[19].


Nhạc tình. Có thể là như thế. Nhưng tôi không cho rằng ám ảnh lớn nhất đối với TCS là tình
yêu, mà là thân phận con người, là cuộc hiện sinh. Dấu vết của ám ảnh đó hầu như xuyên
suốt trong gần như tất cả nhạc phẩm của ơng. Vâng, ơng nói rất nhiều về tình yêu, nhắc nhở
rất nhiều vềụ Em, về một (những) người nữ nào đó đi qua trong đời, về hẹn hò, về chia xa,
nhưng lúc nào cũng bàng bạc trong đó những khắc khoải khơng ngi về phận người. Tình
yêu là mặt khác của bi kịch thân phận. Ta thấy rất rõ, qua tình ca Trịnh Công Sơn, sự tuyệt
vọng và mất mát không chỉ nằm trong chia lìa, ngăn cách hay bội phản, mà nằm ngay trong
bản chất của tình yêu.


Sự thất bại trong tình u khơng phải tại Em (em bỏ đi, em chết, em phụ bạc, em vơ tình...)
mà trong nhiều trường hợp là tại Tôi. Nỗi bi đát không cùng của Cõi thế cũng xuất phát từ
Tôi. Mà nói cho cùng cũng chẳng phải tại Tơi. Trong Trịnh Cơng Sơn, ta thấy cái chia lìa nằm
ngay trong gặp gỡ, cái đớn đau nằm ngay trong hạnh phúc, cái khởi đầu nằm ngay lúc
chung cuộc. Nghĩa là nằm trong tính “nhị nguyên” của sự vật, trong tương quan Tơi – Em –
Cõi thế. Trong những tình khúc nổi tiếng nhất của ơng, tính bi kịch đó xuất hiện khi tỏ khi
mờ. Những hình ảnh như ngàn năm, ngàn năm ru em muộn phiền, tình như núi rừng cúi
đầu, tiếng buồn rơi đều hay khái niệm đỉnh cao/vực sâu hay hình tượng những đóa mong
manh đưa ta vượt khỏi biên giới của thứ tình yêu thuần túy thông thường, đến bến bờ của
những suy gẫm nhân sinh, những khắc khoải nhân thế. Các bài tình ca và thân phận ca
nghe ra đều là nhân sinh ca.


<b>Em:</b>


Cái Em xuất hiện khá nhiều trong ca từ, có lẽ tương đương, hoặc khơng thua mấy cái Tơi,
của Sơn. Em dường như khơng có nhân dáng cụ thể gì đặc biệt. Qua một vài ca khúc, thì


Em có vẻ gầy (vai em gầy guộc nhỏ, trên vai gầy), bàn tay Em thì có năm ngón (đương
nhiên), xanh xao (bàn tay xanh xao đón ưu phiền) và ngón tay Em cũng gầy (ngón tay em
gầy nên mãi...) và cánh tay thì dài bất thường (dài tay em mấy...), tóc Em cũng dài bất
thường (tóc em trơi dài trơi mãi...), đơi mắt thì buồn (nắng có buồn bằng đơi mắt em). Em
đẹp (mi cong cỏ mượt, tay xanh ngà ngọc). Tóm lại, Em nhỏ nhoi, mỏng mảnh, tiểu thư.
Thực ra, Em chỉ là một hình ảnh, và trong rất nhiều trường hợp, chỉ là một ý niệm mà Trịnh
Công Sơn vay mượn để nói lên cảm thức về Cõi thế và làm nổi bật cái Tôi.


Trước hết, Em là người mà một ngày tình cờ biết em, là ngày lạ lùng nhất trần gian. Em là
hoa lá giữa thiên nhiên hiền hịa. Em là người mà Tơi muốn u em thật thà. Tơi xin năm
ngón tay em thiên thần và Ru em ngồi yên nhé để Tôi tìm cuộc tình cho. Chính vì thế mà Tơi
đã yêu em bao ngày nắng bao ngày mưa. Nhưng bất hạnh thay, trong tình u đã có nghìn
trùng trên mơi người tình, đã dấu nụ tàn bên trong nụ hồn, có chớm lạnh lùng trên mơi nồng
nàn. Vì sao? Vì Em là người ln ln xa cách:


<i>- Em đi biền biệt muôn trùng quá </i>
<i>- Em đi bỏ lại dặm trường </i>


<i>Em lúc nào cũng vội vàng:</i>


<i>Em đi qua chốn này ối a sao em đành vội </i>


<i>Em chỉ là chiếc bóng chập chờn, thấp thống, mong manh:</i>
<i>Một lần thấy bóng em qua nơi này một lần với bóng tơi</i>
<i>Một ngày đã có em xa nơi này một ngày với vắng tôi </i>
<i>Em gây ra nỗi nhớ:</i>


<i>- Từng nỗi nhớ, trùng trùng nỗi nhớ </i>


<i>- Mong em qua bao nhiêu chiều, vòng tay đã xanh xao nhiều </i>


<i>Em làm cho cuộc tình bay đi, tan vỡ:</i>


<i>- Rồi tình cũng xa khơi, phiến sầu là tháng ngày </i>
<i>- Cuối đời cịn gì nữa đâu, đã tàn mộng mị khát khao</i>


<i>Đơi khi con tim hị hẹn ngậm ngùi vì một ngày mưa bắt đầu </i>
<i>Thế là:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<i>có cịn ai mang hoa tươi về yêu dấu ngồi </i>
<i>Em đã vĩnh viễn ra đi, em:</i>


<i>Bỏ trăm năm sau ngàn năm trước/Bỏ mặc tôi là tôi là ai</i>
<i>Bỏ xa xôi yêu và gần gũi/Bỏ mặc tôi buồn giữa cuộc vui </i>
<i>Vậy thì:</i>


<i>Em là ai ? em là ai? Tơi tìm hạt bụi bay trong cuộc đời </i>
<i>Có lúc, TCS tự trả lời:</i>


<i>Em là tôi và tôi cũng là em </i>
<b>Tôi:</b>


Tôi là gì? Tơi là ai? Đó là ám ảnh lớn nhất và sâu thẳm nhất của Trịnh Công Sơn. Hầu như
suốt đời, ơng chỉ loay hoay đi tìm bản lai diện mục của cái Tôi đơn giản mà huyền hoặc đó.
Tơi của Trịnh Cơng Sơn chẳng phải chỉ là cái chủ thể yêu đương, ngay cả trong những bản
tình ca có vẻ “tình ca” nhất. Cái Tơi đó rất lạ lùng: chưa vui đã thấy buồn, chưa gần đã thấy
xa, chưa đi đã thấy về, chưa sống đã thấy chết, chưa yêu đã thấy mất. Tôi loanh quanh, thắc
thỏm, nghi hoặc. Tôi nhạy cảm với mọi vật, mọi sự: một chút gió, một chút nắng, một chiếc lá
rơi, một cái nhìn. Cái Tơi lo lắng chuyện một ngày cho đến chuyện trăm năm, ngàn năm. Cái
Tôi đó cịn có một sở thích khá lạ lùng: Ru. Ru tình, ru đời, ru Ta, ru người, ru thế giới và
ru...Em. Cái Tôi than thở, la hét, kêu gào, hân hoan, xao xuyến. Lại có lúc cái Tơi im lặng,


thu vào bên trong, biến mình nhỏ lại và tan giữa thinh không hoặc tan trong cội nguồn. Cái
Tơi đó có lúc thật cuồng ngạo: Ta phải thấy mặt trời (ghê chưa!). Cũng có lúc chỉ biết van
xin: Xin mặt trời ngủ yên! (tội chưa!)


Vậy thì, Tôi không chỉ là một cá thể, lại càng không phải chỉ là cái Tôi-suy-tư. Tôi rõ ràng là
một thân phận, một số kiếp, một dấu hỏi bất tận, một tìm kiếm khơng ngi. “Hình dạng” cái
Tơi như thế nào? Trước hết đó là một hạt bụi hóa kiếp thân tôi để sau cùng tôi về làm cát
bụi. Từ hạt bụi này đến hạt bụi kia, Tôi là thực thể mỏi ngóng tin vui trong một tình hình hết
sức tạm bợ:


<i>Tơi nay ở trọ trần gian</i>


<i>Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời </i>
<i>Chỗ trọ, buồn thay, cũng là chốn lưu đày:</i>
<i>Còn bao lâu cho thân thơi lưu đày chốn đây</i>
<i>...Cịn bao lâu tơi xa anh xa em xa tơi </i>
<i>Giữa chốn đó:</i>


<i>Tơi như là người lạc trong đô thị một hôm đi về biển khơi</i>
<i>Tơi như là người một hơm quay lại vì sao vẫn cứ lạc lồi </i>


<i>Tơi sống giữa cuộc đời, giữa mọi người nhưng tuyệt đối cô đơn:</i>
<i>- Trời cao đất rộng một mình tơi đi, một mình tơi đi</i>


<i>Trời cao đất rộng, một mình tơi về, một mình tơi về, với tơi </i>
<i>- Khơng cịn ai, khơng cịn ai, </i>


<i>Ta trơi trong cuộc đời, khơng chờ khơng chờ ai... </i>


Chính từ cảm thức cơ đơn ghê gớm đó mà Tơi khi thì như chim xa lạ, đứng nhìn những ngày


qua khi thì là chút vết mực nhịe, khi thì như đá nặng nề và nhiều lúc mơ hồ tưởng mình là
cơn gió. Bởi thế mà Tơi ln ln bất an:


<i>Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ</i>
<i>Tơi nghĩ quanh đây hồ như </i>


<i>Mọi ước mơ hồn tồn vơ vọng:</i>
<i>Tơi như mọi người mong ngày sẽ tới</i>
<i>Nhưng khi về lại thu mình góc tối</i>
<i>Trong tơi rụng đầy bao nhiêu nụ cười</i>
<i>Có nói được gì những tiếng bi ai </i>
<i>Để rồi:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Tơi là một hiện hữu hồn tồn bế tắc. Bởi thế mà Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu
loanh quanh cho đời mỏi mệt, trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt dọi xuống trăm năm một
cõi đi về. Rốt cuộc, Tôi là một nghịch lý:


<i>Cịn hai con mắt khóc người một con</i>
<i>Cịn hai con mắt một con khóc người</i>
<i>Con mắt cịn lại nhìn một thành hai</i>
<i>Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ </i>


Đấy! Lỗi tại cái Tôi mọi đàng. Em yêu thương cũng là từ Tôi. Mà Em thú dữ cũng là từ Tơi!
Cịn ai vào đó, hỡi ơi! Nhưng vĩnh viễn, Tôi vẫn là một dấu hỏi đầy nghiệt ngã:


<i>Tơi là ai mà cịn khi dấu lệ</i>
<i>Tơi là ai mà cịn trần gian thế</i>


<i>Tơi là ai, là ai, là ai...mà u q đời này. </i>



Tơi là ai? Vâng, đó là một câu hỏi mà cho đến tận cuối đời, Trịnh Cơng Sơn vẫn khơng thể
tìm ra giải đáp.


<b>Cõi thế: </b>


Cõi thế trong nhạc Trịnh Công Sơn được diễn tả ở nhiều cấp độ, nhiều hình tượng và nhiều
ý niệm khác nhau.


Trước hết, đó là những vật và sự vật gần gũi liên hệ trong đời sống hàng ngày, từ đồi núi
nghiêng nghiêng đợi chờ cho đến biển nhớ tên em gọi về; từ nắng thủy tinh cho đến nắng
khuya; từ mặt trời vẫn ngủ yên cho đến mưa dưới chân ngà và một loài hoa chợt tím; từ con
trăng là tên lãng du cho đến mặt đất ưu tư bỗng nở nụ cười; từ những đường phố mệt nhoài,
hắt hiu cho đến đường phố đầy tiếng chim; từ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng về Huế đường
phượng bay mù không lối vào cho đến Hà Nội xôn xao con đường, xôn xao lá; từ những
hàng cây xanh đón em áo lộng cho đến những mặt đường nằm câm; từ ngọn gió hoang vu
thổi suốt xn thì cho đến có nắng vàng nghèo trên lối đi xa. Cái thế giới gần gũi ấy phần
đơng đều có dáng dấp phố như Bửu Ý nhận xét:<i> “Hình ảnh phố phơ mình phân rải trong ca </i>
<i>khúc anh: phố xưa, phố hẹn, phố xôn xao, phố rộng, phố thênh thang, phố cao nguyên, phố </i>
<i>nọ, phố xa lạ... Phố như là nơi triển lãm của sự sống, một đại hội đời, một nơi tập cư đủ mẫu </i>
<i>người, một bãi thí nghiệm bao thế thái nhân tình làm thỏa lịng con người nào muốn sưu tập </i>
<i>con người”</i>[20]


Đó là một cõi thế cụ thể. Cõi thế của Trịnh Cơng Sơn cịn mở rộng ra trong không gian và
thời gian, một cõi thế trừu tượng, siêu thực và rộng, dài đến vơ cùng. Đó là cõi thế của nhật
nguyệt trên cao, ta ngồi dưới thấp, của một ngàn năm trước mây qua mây qua...một ngàn
năm nữa mây qua mây qua. Đó là cõi của bốn mùa thay lá, rồi mùa xuân không về mùa thu
cũng ra đi, cõi của đêm ngày u tịch, của trong xn thì đã thấy bóng trăm năm. Một cõi thế
ln ln bất ổn, có đó mất đó vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ, của ngày nào vừa đến đã
xa mn trùng. Đó là cõi trời cao đất rộng, một mình tơi đi...Đời từ vơ tận một mình tơi về. Đó
cũng là cõi của một người về đỉnh cao một người về vực sâu, con diều rơi cho vực thẳm


buồn theo. Đó là cõi của đá lăn, vết lăn trầm, của một vườn địa đàng mù tăm mất dấu, một
“paradise perdue” qua khoang trời vắng chân mây địa đàng hay đêm hồng địa đàng còn in
dấu chân bước quen, chỉ cịn bài ca dao trên cồn đá...


Tóm lại, dưới con mắt Trịnh Công Sơn, cõi đời là một cõi bao la ta về ngậm ngùi, trong đó:


<i>Trăm năm vơ biên chưa từng hội ngộ</i>
<i>Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà </i>


buồn bã hiu hắt:


<i>Có những bạn bè xanh như người bệnh</i>
<i>Có tiếng cười và tiếng khóc mênh mơng </i>
<i>Có những mặt người giữa phố hoang mang</i>


vô vọng:


<i>Dưới ngọn đèn một bóng chim qua</i>
<i>Giữa đường đi một người đứng gọi</i>
<i>Có biết gì về ngày chưa tới </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<i>Chúa đã bỏ lồi người, Phật đã bỏ lồi người</i>


Ba hình tượng Em, Tôi và Cõi thế trong ca từ Trịnh Cơng Sơn đều là hư huyễn vì bản chất
của chúng là nghịch lý. Tính cách nghịch lý này được Trịnh Công Sơn diễn tả hầu như xuyên
suốt sự nghiệp sáng tác của ơng. Cao Huy Thuần đã phân tích rất chi ly và đặc sắc tính cách
này trong ca từ (mà ông gọi là nét nhạc):


<i>“Đối nghịch là nét nhạc riêng của Trịnh Cơng Sơn. Anh nói một điều rồi anh nói điều trái lại. </i>
<i>Như nét hỏng nằm giữa tồn bích. Bài hát này của anh đối nghịch với bài hát kia, lời một đối </i>


<i>nghịch với lời hai, câu sau nghịch với câu trước, thậm chí hai hình ảnh nghịch nhau trong </i>
<i>cùng một câu, trong vịng đơi ba chữ” </i>


<i>“Có một chút của cái này và một chút của cái kia. Có một chút của cái này trong một chút </i>
<i>của cái kia. Có một chút xi trong ngược. Trăm năm trong xn thì. Chân như trong hạt </i>
<i>lệ”... “Trong nhớ đã có quên, trong quên vẫn cứ nhớ, tưởng vơi mà đầy, trong con nước rút </i>
<i>có hồng thủy dâng lên”</i>[21]


Theo tơi, đó là nét nhất qn trong cái nhìn của Trịnh Cơng Sơn về cuộc tồn sinh. Chính bản
thân ơng đã diễn tả cái nhìn “nghịch lý” đó như sau:


<i>“Tơi đã mỏi dần với lòng tin. Chỉ còn lại niềm tin sau cùng. Tin vào niềm tuyệt vọng...Và như </i>
<i>thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng”</i>[22]


Ở một bài khác, Trịnh Cơng Sơn cho biết:


<i>“Tơi vốn thích triết học và vì thế tơi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ</i>
<i>triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru con của </i>
<i>mẹ”</i>[23]


Vậy thì đã rõ, Trịnh Công Sơn, trước sau vẫn là một người “duy lý”. Ơng nói về tuyệt vọng,
về hư vô, về sự cô đơn, về Em, về Tôi, về Cõi thế trong tâm thức một người tỉnh táo, chứ
không phải trong tâm thức của một người điên mê tuyệt vọng như cô gái điên thời chiến
tranh. Hơn thế nữa, đơi khi như một người ngồi cuộc, ơng tỉnh táo ngắm nhìn và lý giải. Ở
điểm này, tôi (tác giả bài viết này, không phái cái Tôi của Trịnh Công Sơn) đồng ý với Võ
Phiến khi ông cho rằng Trịnh Công Sơn mới lớn lên đã thốt lời siêu thốt như một đạo sĩ đầu
râu tóc bạc chống gậy trúc dưới một chân núi nào. Một tác giả khác, Huỳnh Hữu Uỷ, nhận
xét Trịnh Công Sơn đã từng <i>“lý giải tài tình những u uất của kiếp người, nỗi hoang vu và </i>
<i>mộng ảo nhân sinh trước thực tại mênh mông, cùng lúc đặt con người đối đầu cả trước vận </i>
<i>mệnh của lịch sử, anh cư ngụ trong cuộc đời không phải chỉ như một thi sĩ ca hát cái đẹp mà</i>


<i>còn là một nhà hành giả sống cái ẩn dật bên trong”</i>[24]


Nghệ thuật cũng là một cách lý giải đời sống. Thay vì dùng một chuỗi luận lý để tìm cách
chứng minh, thuyết phục, ở đây, Trịnh Công Sơn dùng từ ngữ và hình ảnh, biểu tượng
để ...hát. Ơng lập đi lập lại mãi cùng một số ý. Một thứ triết học nhẹ nhàng như ca dao hay
lời ru con, như anh phát biểu. Rõ ràng là tư tưởng Phật giáo và Lão giáo, cả dưới dạng bình
dân lẫn bác học, có một dấu ấn sâu đậm và tự nhiên trong tâm thức ông. Mặt khác, cũng
phải ghi nhận ảnh hưởng của những trào lưu triết học thời thượng khá phổ biến hồi đó ở
miền Nam - đặc biệt là hiện sinh - lên ca từ của Trịnh Công Sơn. Các khái niệm về phi lý, hư
vô, mỏi mệt...được ông đưa vào ca từ một cách thoải mái.


Ngồi ra, ơng khai thác lối hợp âm, hợp vận đa dạng cọng với âm thanh phổ thông phụ họa
để đưa vào quần chúng. Ông sáng tạo nhiều ý tưởng và hình ảnh khá ngộ nghĩnh, đơi khi vô
nghĩa, nhưng lại tiềm ẩn nhiều ý nghĩa: tôi thu bóng tơi, tơi thu tơi nhỏ lại. Nhiều khi tơi có
cảm giác như TCS đùa cợt với chữ nghĩa, vì ơng biết rõ bản chất giới hạn của chúng. Ông
mặc tình thao túng, vọc giỡn chúng. Khi thì ông khai thác những hình ảnh đầy chất thơ, khi
thì rặt cả chữ nghĩa bề bộn, làm dáng (hư vơ, ưu phiền...) khi thì nặng nề âm khí, khi thì nhẹ
nhàng siêu thốt, khi thì tinh nghịch, thơ ngây, đơi khi có vẻ như ơng muốn trêu chọc, đánh
lừa cảm quan của chúng ta: Đừng tuyệt vọng tơi ơi đừng tuyệt vọng.... Gì vậy? Thực ra, ơng
muốn đẩy nỗi tuyệt vọng đến tận cùng của nó. “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, bài ca trông
như rất lạc quan, nhưng để ý mà xem, chúng chỉ là một niềm vui “phải đạo”, vui cho có.
Niềm vui làm sao mà ta có thể chọn mỗi ngày, y như ta chọn áo chọn quần được.
Thử đọc (và nghe) một vài bản nhạc ưa thích


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<i>1. Em đi qua chuyến đò thấy con trăng đang nằm ngủ </i>
<i>Con sông là quán trọ và trăng tên lãng du</i>


<i>Em đi qua chuyến đò ối a con trăng còn trẻ</i>
<i>Con sơng đâu có ngờ ngày kia trăng sẽ già</i>
<i>2. Em đi qua chuyến đò ối a trăng nay đã già</i>


<i>Trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra</i>
<i>Em đi qua chuyến đị, lắng nghe con sơng nằm kể</i>
<i>Trăng ơi trăng rất tệ, mày đi nhớ chóng về</i>


<i>3. Em đi qua chuyến đị ối a vui như ngày hội</i>
<i>Tơi xin làm quán đợi buồn chân em ghé chơi</i>
<i>Em đi qua chốn này ối a sao em đành vội</i>
<i>Tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót hài</i>


<i>4. Tơi vui chơi giữa đời ối a biết đâu nguồn cội</i>
<i>Cây trưa thu bóng dài và tơi thu bóng tối</i>
<i>Tơi vui chơi giữa đời ối a biết đầu nguồn cội</i>
<i>Tôi thu tôi bé lại, làm mưa tan giữa trời</i>


Em Trăng
Chuyến đị
Tơi Sơng


Bản nhạc vui tươi nhí nhảnh nghe như một bản đồng dao. Hát tập thể, có thể vừa hát vừa vỗ
tay. Bài ca có bốn phiên khúc, hai phiên khúc đầu đề cập đến Trăng và Sông. Hai phiên khúc
sau đề cập đến Tơi và Em. Ba thực thể chính vẫn là Tôi – Em - Cõi thế. Bài hát nêu lên hình
tượng đối nghịch giữa Tơi/Em, chủ thể/đối tượng, động/tĩnh, biến dịch/bất biến.


Nguyệt Ca (nhịp 2/4, âm giai Mi trưởng, nhẹ nhàng, trữ tình)


<i>1. Từ khi trăng là nguyệt đèn thắp sáng trong tôi </i>
<i>Từ khi trăng là nguyệt em mang tim bối rối</i>


<i>Từ khi trăng là nguyệt tôi như từng cánh diều vui </i>
<i>Từ khi em là nguyệt trong tơi có những mặt trời</i>



<i>Từ đêm khuya khi nắng sớm hay trong những cơn mưa</i>
<i>từ bao la em đã đến xua tan những nghi ngờ</i>


<i>Từ trăng xưa là nguyệt lịng tơi có đơi khi </i>


<i>tựa bơng hoa vừa mọc hân hoan giây xuống thế</i>
<i>Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe đời gõ nhịp ca </i>
<i>Từ khi em là nguyệt cho tơi bóng mát thật là.</i>
<i>2. Từ khi trăng là nguyệt, vườn xưa lá xanh tươi </i>
<i>Đàn chim non lần hạt cho câu kinh bước tới</i>
<i>Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe đời vỗ về tôi </i>
<i>Từ khi em là nguyệt câu kinh đã bước vào đời</i>
<i>Từ bao la em đã đến hay em sẽ ra đi</i>


<i>Vườn năm xưa cịn tiếng nói tơi nghe những đêm về</i>
<i>Từ trăng thơi là nguyệt một hôm bỗng nghe ra </i>
<i>Buồn vui kia là một như quên trong nỗi nhớ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i>Vườn năm xưa em đã đến nay trăng quá vô vi </i>
<i>Giọt sương khuya rụng xuống lá như chân ai lần về</i>
<i>Từ trăng thôi là nguyệt mỏi mê đá thôi lăn </i>


<i>Vườn năm xưa vừa mệt cây đam mê hết nhánh</i>
<i>Từ trăng thôi là nguyệt tôi như đường phố nhiều tên</i>
<i>Từ em thơi là nguyệt tơi xin đứng đó một mình.</i>


Em


Tơi Cõi thế


Nguyệt Trăng


Bản nhạc trữ tình, khơng nhí nhảnh như bản trên. Hát một mình. Vỗ tay theo khơng hay
nhưng thích thì vỗ tay... cũng được. Bài ca có ba đoạn, chứa hai ý chính: Khi trăng là nguyệt
(hay em là nguyệt), nghĩa là Em và Tôi gặp nhau, u nhau thì...thế và khi trăng khơng cịn
là nguyệt (hay em khơng cịn là nguyệt), nghĩa là Em và Tơi xa nhau, thì ...thế. Bài ca nêu
lên cái ý: cõi thế biến dịch theo tương quan giữa Em và Tôi và tâm thức vui buồn của Tôi. Từ
Tôi mà ra Cõi thế. Tướng tự tâm sinh.


Ta để ý, trong một số bản nhạc, TCS hay đề cập đến trăng, đến mặt trời. Nhật-nguyệt được
xem như biểu tượng của vũ trụ, cõi thế:


- Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
- Nhật nguyệt trên cao ta ngồi dưới thấp


Đâu cũng là trăng. Nhưng trăng trong “Biết Đâu Nguồn Cội” (BĐNC) có tính khách quan. Nó
nằm ngồi Tơi. Nó chỉ là một “tên lãng du”. Nhưng trăng trong “Nguyệt Ca” (NC) gắn liền với
Tơi. Nó tạo thành Cõi thế của Tơi. Nó tạo thành Tơi. Trong BĐNC, trăng chỉ là một đối sánh
với Em. Trong NC, trăng là nguyệt, là em, và qua đó, trăng dính liền với Tơi, là điều kiện tồn
tại của hiện sinh Tôi, trở thành bản thân Tôi. Sự chuyển biến trăng - nguyệt - em thay đổi
thân thế và cảm quan của Tôi. Bởi thế mà trong BĐNC, Tơi rong chơi giữa đời. Cịn trong
NC, từ chỗ nghe đời vỗ về tôi đến chỗ Tôi không trí nhớ để cuối cùng trở thành đứa bé dại
khờ. Trong BĐNC, Tơi sẵn sàng lăn theo gót hài để rồi làm mưa tan giữa trời. Cịn trong NC,
Tơi lại bị phân thân trở thành đường phố nhiều tên để rốt cuộc đứng đó một mình.


Thú vị là ở chỗ, trong BĐNC, cái Tơi trơng có vẻ siêu thốt, đầy cảm thức đạo sĩ, trong lúc ở
NC, cái Tơi có vẻ phiền trược, dính líu, vướng víu với đời. NC là một thế giới đầy cảm tính,
trong đó, Tơi và Em cọ xát nhau. Đó là thế giới của là và thôi là, hiện hữu và phi hiện hữu.
Tơi khối lối sử dụng chữ nghĩa ở đây: trăng – nguyệt – em. Một đánh tráo giữa danh và
thực, giữa cái biểu tượng và cái cụ thể. Trăng là nguyệt hay trăng là em? Em là nguyệt hay


em là trăng? Nguyệt là em hay nguyệt là trăng? Cái nào thiệt cái nào không thiệt? ...Thực ra
thì, ta cảm ngay trăng – nguyệt – em tuy ba mà là một. Ngôn, mà phá ngôn. Lời, mà phá lời.
Cả hai bài tuy khác nhau, nhưng hát lên, ta cảm nhận ngay chất “thiền ca” trong khí hậu của
bài hát. Nó nằm giữa những giịng chữ, ý nghĩa, hình ảnh và âm thanh. Và đồng thời, nó
nằm ngay ngồi chúng. Nhiều ý và hình ảnh xuất hiện thật bất ngờ, bất ngờ đến nỗi, dù nghe
đi nghe lại nhiều lần, chúng vẫn có vẻ như vừa mới bật ra đâu đây, chừng một “sát na”
trước. Và điều lạ hơn nữa, nó có vẻ như “bật” từ trong ta mà ra, chứ không phải là từ TCS.
Và thêm một bài nữa


Định chấm dứt bài viết ở phần trên, nhưng chợt vừa nghe thêm một bản nhạc trong một
cuốn băng do chính giọng TCS: bài “Ra Đồng Giữa Ngọ”. Bài hát này cũng nhịp 2/4, giịng
nhạc vui tươi, nhí nhảnh, âm giai Fa trưởng. Bài này cũng có tính cách đồng dao, đặc biệt
khơng có Tơi mà cũng chẳng có Em. Chỉ có ba hình tượng: thằng bé, con diều giấy và yêu
tinh. Bài hát giản dị, lập đi lập lại một câu chuyện vui. Giữa trưa đứng bóng, một thằng nhỏ
(là Tôi, là anh, là em, là con người) mang diều ra thả giữa đồng. Trong khi bay cao, con diều
bỗng gặp một khuôn mặt yêu tinh. Thay vì tranh chấp đấu đá, chúng cùng bay lên bay cao
giữa thinh không với nhau. Câu chuyện kết thúc đơn giản, rất đơn giản:


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<i>...Tan trong cội nguồn.</i>


Vâng, tan giữa hư không. Cả thằng bé. Cả con diều. Cả khuôn mặt yêu tinh. Cả Em. Cả Tôi.
Cả Cõi thế. Tất nhiên, tất cả: tan trong cội nguồn.


________________________________________


[1] Văn Cao, Lời Bạt, Tuyển tập những bài ca không năm tháng, tái bản lần 4, Nhà Xuất Bản Âm Nhạc Việt
Nam 1998, tr. 278


[2] Nguyễn Xuân Hoàng, “Sổ tay”, Văn (Cali) 53 &54, số đặc biệt về Trịnh Công Sơn, 5 & 6/2001, tr. 7
[3] Vũ Thư Hiên, “Thương nhớ Trịnh Công Sơn”, Thế Kỷ 21 (Cali) số 145, 6/2001, tr. 62



[4] Bùi Bảo Trúc, “Về Trịnh Công Sơn”, Văn, sđd, tr. 44
[5] Phạm Duy, “Hồi ký Phạm Duy III”, dẫn theo Văn, sđd, tr. 35
[6] Văn Cao, Tuyển tập... đã dẫn, tr. 278


[7] Phạm Văn Tuấn, “Vĩnh biệt thi sĩ du ca Trịnh Công Sơn”, Văn, sđd, tr. 26


[8] Trịnh Công Sơn, “Ca khúc mang đến sự cảm thông giữa mọi người”, Văn, sđd, tr. 150
[9] Tô Thùy Yên, “Mỗi ca khúc như một lời trăn trối”, Văn , sđd, tr. 37


[10] Đặng Tiến, “TCS, đời và nhạc”, Văn, sđd, tr. 15


[11] Bửu Ý, “Thay lời tựa”, Tuyển tập những bài ca không năm tháng, tr. 9
[12] Trịnh Công Sơn, “Diễm của những ngày xưa”,Văn, sđd, tr. 140


[13] Xem “Một bài thơ hay của TCS”, Hồng Ngọc Hiến, dẫn theo Tạp chí Thơ (Cali) số mùa Xuân 2001, tr.
19-21


[14] Trịnh Cung, “Bi kịch Trịnh Công Sơn”, Văn, sđd, tr. 79


[15] Tô Thuỳ Yên, “Mỗi ca khúc như một lời trăn trối”, Văn, sđd, tr. 38
[16] Sương Biên Thùy, “Thảm kịch của một thiên tài”, bài gửi riêng


[17] Nguyễn Duy, “Tơi thích làm vua” (1987), dẫn theo Hợp Lưu 59, tháng 6 & 7/2001, tr. 63-64


Để hiểu cái tinh thần “sống còn” này, xin trích một vài đoạn trong hai bài hát tiêu biểu thời kỳ này là “Huyền
Thoại Mẹ” và “Em Ở Nông Trường, Em Ra Biên Giới” (Cả hai bài đều khơng có mặt trong Tuyển tập ”Những
Bài Ca Không Năm Tháng”).


- “Huyền Thoại Mẹ”: Mẹ lội qua con suối/Dưới mưa bom không ngại/Mẹ nhẹ nhàng đưa lối/Tiễn con qua núi


đồi...Mẹ về đứng dưới mưa/Che từng căn hầm nhỏ/Xoá sạch vết con về/Mẹ ngồi với cơn mưa... “Huyền Thoại
Mẹ” này viết theo kiểu văn công tuyên truyền, thiếu hẳn cái tha thiết và cảm xúc chân thật của “Hát Cho Một
Người Nằm Xuống”: Vùng trời nào đó anh đã bay qua/Chỉ cịn lại đây những sáng bao la/người tình rồi quên ,
bạn bè rồi xa/Ôi tháng năm, những dấu chân là vết bụi mờ...


- “Em Ở Nông Trường, Em Ra Biên Giới”: ...Xa nông trường ra biên giới, có đơi khi đi khơng trở lại/ Nhưng
trong lịng nghe tiếng nói, những gian nan sẽ đo lòng người/ Từ biên giới xa, chốn em sương mù, rừng sâu tìm
những lối mịn qua/Từng khi nắng mưa, lẫn đêm nằm nhớ màu đất trời quen quá chốn quê nhà/Khi qua rừng,
khi qua suối, thấy vui theo bước chân đồng đội/Trong những ngày gian nguy ấy biết bao nhiêu những câu
chuyện đời. Cũng như trên, bài hát thuộc loại văn cơng tun truyền có mục đích cổ động phong trào, đại loại
như “Tiếng Chày Trên Sóc Bom Bo” hay “Bài Ca Năm Tấn”


[18] Trịnh Công Sơn, Lời mở, Tuyển tập những bài ca không năm tháng, tr. 4
[19] Bùi Bảo Trúc, “Về Trịnh Công Sơn”, Văn, sđd, tr. 46


[20] Bửu Ý, “Thay lời tựa”, Tuyển tập đd, tr. 6


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

[23] Trịnh Công Sơn, “Để bắt đầu một hồi ức”, Văn, sđd, tr. 139


[24] Huỳnh Hữu Ủy, trong Brochure triễn lãm tranh Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Trịnh Công Sơn năm 1990 ở Sài
Gòn, dẫn theo Hợp Lưu, sđd, tr. 71.


---


<b>Một phác họa về Trịnh Công Sơn trong giới trẻ hiện nay</b>


<i> Trọng Phúc </i>


---Những ngày qua, dư luận xôn xao về bài viết của Họa sĩ Trịnh Cung: “Trịnh Công Sơn &
tham vọng chính trị”. Đa số những người yêu nhạc Trịnh cũng như bạn bè thân hữu đều tỏ
thái độ bất bình và phản đối họa sĩ Trịnh Cung, cho rằng ông “ngậm máu phun người”, bôi


nhọ thanh danh và xuyên tạc xuyên tạc nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Nhiều phương tiện truyền
thông đồng loạt đăng bài lên tiếng bênh vực Trịnh Công Sơn, chê bai họa sĩ Trịnh Cung về
tư cách và đạo đức… Có thể những điều mà Trịnh Cung viết trong bài báo là dối trá và
xuyên tạc thật, nhưng xét ở một khía cạnh nào đó bài viết của Trịnh Cung có một tác động
tích cực đến hình ảnh của người nhạc sĩ đang bị giới trẻ lãng quên.


Trong giai đoạn phong trào sinh viên học sinh sôi nổi nhất vào thập niên 60-70, hình ảnh
người nhạc sĩ gầy với cặp mắt kính trịng lớn trở nên thần tượng của giới trẻ, và nhạc của
ông cùng với giọng hát Khánh Ly là thứ thức ăn tinh thần không thể thiếu đối với họ. Từ
những bài ca phản chiến như Hát trên những xác người, Ngày dài trên quê hương hay
Người nô lệ da vàng… cho đến những bản tình ca u uẩn, đậm tính triết lý về đời sống và tình
yêu theo quan niệm nhân sinh của riêng ông. Thuở ấy, giới trẻ yêu nhạc Trịnh, ủng hộ nhạc
Trịnh và hát nhạc Trịnh vì các lẽ: Trong hồn cảnh chiến tranh, tâm trạng của họ trở nên
chán nản, chỉ thích tìm niềm vui qua cà phê, khói thuốc và một loại âm nhạc mang thứ triết lý
khó hiểu nhưng để lại nhiều cảm xúc khiến họ quên đi những ngày dài buồn bã (xin lưu ý là
trong khoảng thời gian này Trịnh Cơng Sơn chưa có nhiều ca khúc mang sắc thái vui tươi và
lạc quan). Thứ hai, tập Ca Khúc Da Vàng cùng các tác phẩm phản chiến nói lên đúng thực
trạng bi đát của đất nước và sự vô nghĩa của chiến tranh nên được những người trong
phong trào phản chiến (mà đa số là học sinh, sinh viên) nhiệt liệt ủng hộ. Và thứ ba nó hợp
với những người trốn lính. Có người trốn lính vì phản đối chiến tranh nhưng đa phần là sợ
chết vì từ sau năm 1968, chiến tranh trở nên ác liệt và thương vong rất nhiều. Nhạc Trịnh khi
ấy được xem là lời biện hộ cho chính ơng cũng như những người trốn quân dịch.


Vào những năm đầu giải phóng, nhạc tình của Trịnh Cơng Sơn bị xếp vào hàng lãng mạn ủy
mị. Riêng tập Ca khúc da vàng bị cấm lưu hành cho tới nay. (Theo nhà thơ Đỗ Trung Quân,
mỗi lần tổ chức chương trình văn nghệ vào ngày giỗ nhạc sĩ thì những ca khúc da vàng
được đưa “chui” vào chương trình, có khi trót lọt và có những lúc ban tổ chức bị mời lên “làm
việc”). Trịnh Công Sơn đã cố gắng sáng tác cho hợp thời để rồi ra đời những ca khúc mau
chóng rơi vào lãng quên như Gánh rau ra chợ và Máy kéo nông trường. Tuy vậy, lượng
thính giả trung thành và yêu mến nhạc Trịnh vẫn cịn nhiều nhưng khơng bằng giai đoạn


trước giải phóng nữa, chủ yếu là do sự hạn chế lưu hành nhạc ông của nhà nước.


Từ sau những năm đổi mới, đặc biệt là hai thập niên gần đây phong trào hát nhạc Trịnh và
nghe nhạc Trịnh bắt đầu phát triển trở lại. Những nhà sản xuất hay đồng nghiệp của nhạc sĩ
cố gắng xây dựng lại hình ảnh một Trịnh Cơng Sơn thần tượng trong lịng khán giả trẻ
nhưng có vẻ khơng mấy thành cơng. Riêng Trịnh Cơng Sơn cũng có nhiều sáng tác mới như
Ở trọ, Sóng về đâu… nhưng loạt ca khúc này khơng để lại ấn tượng sâu sắc cho người nghe
bằng những sáng tác trước năm 1975 của ông. Trịnh Công Sơn cũng tìm được nữ ca sĩ mà
ơng cho là có chất giọng phù hợp với sáng tác mới của mình là ca sĩ Hồng Nhung, nhưng
giọng ca Hồng Nhung khơng thể thay thế được Khánh Ly. Có thể chia thành ba nhóm những
người yêu nhạc Trịnh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

• Nhóm hai: những bạn trẻ thực sự u mến nhạc Trịnh vì cảm được những ca từ mượt mà
trau truốt hay những mối tình đẹp trong bài ca của ơng.


• Nhóm ba: Những người nghe theo trào lưu, chóng mê chóng chán.


Hiện nay nhóm 1 và nhóm 2 đang vơi dần và nhóm 3 thì tăng lên. Một điều rõ ràng là các
bạn trẻ ngày nay khơng cịn hâm mộ nhạc Trịnh nhiều như trước nữa. Các trào lưu nhạc trẻ
mang nặng ảnh hưởng của âm nhạc và điện ảnh Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản… ngày
càng cuốn hút giới trẻ nhiều hơn. Những Show diễn của các ca sĩ thuộc dòng nhạc này đầy
ắp các khán giả tuổi “teen” và thị trường băng đĩa luôn tạo những cơn sốt ảo khiến các bạn
trẻ ln ln tìm kiếm và thay đổi một thần tượng âm nhạc cho riêng mình để hợp mốt và
hợp phong cách. Những nhạc sĩ trẻ không ngừng “sáng tạo” để sàn xuất ra những ca khúc
thật “hot” lôi cuốn các bạn trẻ. Ngày xưa khi các phương tiện truyền thông chưa nhiều cũng
như thời trang chưa nở rộ thì nghe nhạc chỉ đơn thuần là nghe và cảm nhận, còn ngày nay
nghe nhạc còn kèm với cả xem nhạc nữa. Khán giả đến sân khấu hay bật băng đĩa ngoài
việc nghe hát cịn xem ca sĩ thần tượng của mình nhảy nhót và vận những bộ phục trang
không đụng hàng, thế nên những ca khúc chỉ đơn thuần để nghe và thưởng thức như nhạc
Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Ngô Thụy Miên… khơng đủ để chiều lịng những khán giả trẻ.


Có một số ca sĩ nhạc trẻ như Đàm Vĩnh Hưng, Phương Thanh, Hồng Ngọc… thử nghiệm
hát nhạc Trịnh nhưng thực sự thì những ca khúc đó chẳng lôi kéo khán giả được bằng nhạc
của các nhạc sĩ trẻ.


Kể từ ngày mất của Trịnh Cơng Sơn, có vẻ như mỗi năm các chương trình về nhạc ơng ngày
càng vơi đi. Nhạc Trịnh thực sự không phải là một kho vàng vơ tận, và nó chỉ phù hợp vào
một thời điểm nhất định, đối với một lượng người nghe nhất định. Các nhà sản xuất cũng đã
nghiệm ra điều đó nên nhạc ơng trong những show của họ thưa dần. Chương trình ca nhạc
tưởng niệm ơng hàng năm do nhóm nghệ sĩ gia đình thân hữu tổ chức ở quán Hội Ngộ -
Bình Quới cũng có vẻ trầm lắng hơn. Cái tên Trịnh Cơng Sơn ngày càng ít xuất hiện trên mơi
miệng những bạn trẻ cũng như trên bìa đĩa của họ, cịn các phịng trà “chun trị” nhạc Trịnh
chỉ lơi cuốn được những khán giả trung niên và thiểu số sinh viên trẻ mà thôi. Những năm
gần đây vào ngày giỗ của Trịnh Công Sơn, báo đài và phương tiện truyền thông thưa hẳn
những tin bài viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của ông. Thế nên vào dịp giỗ năm nay,
bài viết của họa sĩ Trịnh Cung đã khuấy lên dư luận khiến người ta chú ý nhiều hơn, nhớ
đến nhiều hơn và nhắc đến nhiều hơn người nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh.


Thực tế đã chứng minh âm nhạc không phải là vĩnh cửu. Những loại nhạc từng một thời mê
đắm lòng người như Ả Đào, Quan Họ ngày nay gần như đi vào quên lãng. Bản thân âm
nhạc cũng mang sứ mệnh lịch sử của nó, nó phù hợp với thời gian, khơng gian, hồn cảnh,
con người. Âm nhạc chính là bức tranh xã hội sinh động và chân thực nhất được lãng mạn
hóa bằng âm điệu. Khi xã hội đổi thay, các chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hóa, trí tuệ
con người đổi thay thì thứ âm nhạc cũ sẽ được thay thế bằng một thể loại âm nhạc khác phù
hợp hơn. Nói như thế khơng phải để phủ định nền âm nhạc trữ tình lãng mạn của Trịnh
Công Sơn và các nhạc sỹ thế hệ trước mà để mở ra hướng suy nghĩ cho mỗi chúng ta rằng,
khi thứ nhạc thị trường lai căng hiện nay đang chiếm lĩnh thị hiếu giới trẻ thì ta có thể đánh
giá được trình độ và đạo đức xã hội ngày nay xuống cấp và tha hóa đến mức độ nào rồi.
Nếu chưa thể tìm được thứ âm nhạc nào tốt hơn, hay hơn và trí tuệ hơn để thay thế thứ âm
nhạc ấy thì những dịng nhạc như nhạc Trịnh Cơng Sơn xin hãy cố gắng bảo tồn.



---

<b>Tranh cãi quanh bài viết về Trịnh Công Sơn</b>


<i> BBC </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Là người bạn thân, cùng thời với một trong những nhạc sĩ được u thích nhất tại Việt Nam,
Trịnh Cung có bài thơ được Trịnh Công Sơn chuyển thành ca khúc nổi tiếng, "Cuối cùng cho
một tình yêu".


Nhưng trong bài mang tựa "Trịnh Cơng Sơn và tham vọng chính trị" ở trang mạng Damau,
ông Trịnh Cung cáo buộc "rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn
chìm Trịnh Cơng Sơn" thời kỳ sau 1975.


Phần lớn bạn bè và nhà phân tích cho rằng Trịnh Cơng Sơn là con người phi chính trị,
nhưng Trịnh Cung lại viết nhạc sĩ đã từng có lúc nghĩ đến việc xin vào Đảng Cộng sản.
Ông Trịnh Cung nói ơng đã khun can, nhưng "khơng phải nhờ sự phân tích ấy mà Trịnh
Cơng Sơn khơng trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hồng
Hiệp, người giữ vai trị chính trị của Hội Âm Nhạc TP. HCM".


Chân dung một Trịnh Công Sơn hiện ra trong bài viết là một người cũng có tham vọng làm
quan cả trong thời Việt Nam Cộng Hịa và sau 1975, khơng được tin dùng để rồi dẫn đến sự
chán chường và buông xuôi.


Trả lời đài BBC sau khi đọc bài viết, em gái ông Trịnh Cơng Sơn, bà Trịnh Vĩnh Trinh, nói
"cuộc sống và tác phẩm âm nhạc của anh Sơn đã nói lên tất cả".


Viết bài về một người bạn đã qua đời, gia đình nghĩ nên để quý khán giả tự phán đốn.


<b>Trịnh Vĩnh Trinh</b>


"Gia đình có buồn, là vì trước đây anh Trịnh Cung thường xuyên đến nhà, quý mến gia đình


đến độ anh đã xin mẹ Trinh cho đổi sang họ Trịnh vì tên thật của anh là Nguyễn Văn Liễu.
Bây giờ lại viết bài về một người bạn đã qua đời, gia đình nghĩ nên để q khán giả tự phán
đốn."


Bà Trinh nói ngắn gọn: "Qua bài này, ơng Trịnh Cung đã nói lên ơng là ai."


Trong khi đó, phát biểu với BBC, ơng Trịnh Cung giải thích vì sao bây giờ ơng mới cơng bố
bài viết.


"Tơi muốn chờ sự lắng xuống về tình cảm của mọi người đối với cái chết của Trịnh Cơng
Sơn. Thời điểm hơm nay đã đủ dài. Ngồi ra, gần đây một số bạn bè của tôi sa sút sức
khỏe, làm tơi ngại chờ ít lâu nữa, mình cũng có thể khơng cịn đủ sức viết."


"Khơng phải mọi nhân vật liên quan đều đã chết, ví dụ ông Đinh Cường còn sống ở Mỹ. Một
số nhân vật vây quanh ơng Trịnh Cơng Sơn đều cịn tồn tại, họ sẽ phản hồi. Những gì tơi sai,
họ cứ trưng bằng cớ để chúng ta vẽ lại một chân dung trung thực hơn."


<b>'Tài năng và cũng bình thường'</b>


Ơng Trịnh Cung nói cần tách biệt hai khía cạnh của Trịnh Cơng Sơn.
Ơng Trịnh Cung nói Trịnh Cơng Sơn sau 1975 là 'người yếu đuối'


"Một là tài năng, có thể gọi là thiên tài âm nhạc, nhưng còn một con người mà ta vẽ vời là
thiền sư, trong sáng thì ở đây, tôi muốn mô tả một thời kỳ xuống dốc của người bạn ấy."
Theo ông Trịnh Cung, giai đoạn trước và sau 1975 chứng kiến hai con người khác nhau của
nhạc sĩ.


"Không phải do anh muốn, mà do thời cuộc đã đẩy anh vào một cuộc sống không đẹp như
trước 75. Dù là trước 75, anh đấu tranh cho ai, tơi vẫn thấy đó là thời gian sống rất đẹp, khác
hoàn toàn giai đoạn sau này."



"Cuộc sống của anh sau 75 là của một người yếu đuối, chấp nhận để được vui. Sau khi
được ông Võ Văn Kiệt nâng đỡ, đưa anh quay lại Sài Gòn, từ đó anh xem mình có chỗ dựa.
Mà ngay cả trước 75, có những người bạn ở phía đối nghịch cộng sản nhưng quý tài của
anh, đã giúp anh nhiều."


Ơng Trịnh Cung nói "như vậy, Sơn dễ bị những người có quyền lực, giàu có chinh phục
anh."


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<b>Chính trị hay khơng chính trị?</b>


Một trí thức cùng thời với Trịnh Công Sơn, hiện sống ở Pháp muốn giấu tên, nói với BBC
rằng theo ơng, Trịnh Cơng Sơn là người "khơng chính trị. Ơng có thể có những nhận biết sai
lầm về chính trị, nhưng ơng khơng làm chính trị."


Đó là nghệ sĩ trong sáng, khơng bao giờ nghĩ đến chính trị.


<b>Hồng Lại Giang nói về Trịnh Cơng Sơn</b>


Trong khi đó, nhà văn Hồng Lại Giang, từ Sài Gịn, cũng từng có thời gian quen biết với
Trịnh Cơng Sơn sau 1975, nói: "Đó là nghệ sĩ trong sáng, khơng bao giờ nghĩ đến chính trị."
Ông Giang cho rằng cố nhạc sĩ là người "ngây thơ, nên phải đi giữa hai làn đạn".


Nhắc lại những năm đầu sau 1975, khi Trịnh Công Sơn, giống như nhiều người dính líu
miền Nam, gặp khó khăn trong đời sống, ơng Hồng Lại Giang nhớ lại:


"Lúc đó, người ta mang quan điểm Trịnh Cơng Sơn có tội. Thời ấy, Sơn rất khổ. Nhưng dần
dần nhạc phẩm của anh đã thu hút các nhà cách mạng, kể cả ông Võ Văn Kiệt."


"Có lần bức xúc, anh Sơn đến giãi bày với ơng Kiệt, thì ơng ấy bảo: 'Tơi đây còn bị người ta


theo dõi, anh bị theo dõi là chuyện bình thường. Mình cứ làm việc của mình.'"


Ơng Giang kết luận: "Trịnh Cơng Sơn là con người của nghệ thuật. Bây giờ tơi cịn mê Trịnh
Cơng Sơn là vì thế."


---


<b>Trịnh Cơng Sơn - Anh đã đến trần gian để làm gì?</b>


<i> Đào Hiếu </i>


---Trịnh Cung là một họa sĩ nhưng anh viết văn thật hay, thật chuyên nghiệp. Bài viết đã cung
cấp những tư liệu sinh động, ấn tượng mà có thể trước đây nhiều người chưa biết đến.
Tuy nhiên tơi hồn tồn không ngạc nhiên sau khi đọc xong bài viết ấy. Bởi vì những kiểu
văn nghệ sĩ như Trịnh Cơng Sơn ở Việt Nam thiếu gì.


Những nghệ sĩ giàu tình cảm, chống chiến tranh, có cảm tình với MTGPMN, đơi khi cũng
muốn làm một chàng hiệp sĩ… Nhưng chiến tranh không phải vậy. Chiền tranh là hy sinh, đổ
máu, là ngục tù. Chiến tranh còn là thủ đoạn, thanh toán nhau, phủ nhận nhau, loại trừ
nhau… Trịnh Cung kể rằng ngày 30.4.75 có một ơng nhạc sĩ đã “đuổi” Trịnh Cơng Sơn ra
khỏi phịng thu Đài phát thanh Sài gịn là một ví dụ nhỏ nhưng khá điển hình.


Qua bài viết của Trịnh Cung tơi thấy khơng có gì quan trọng, khơng có gì để trách cứ, lên án
Trịnh Công Sơn, trái lại càng thương anh. Cũng như bao nhiêu người giàu tình cảm khác, rất
nhẹ dạ, cả tin, cộng với một chút háo danh, một chút “cơ hội”…gộp lại thành một cái bi kịch
nho nhỏ.


Trịnh Cơng Sơn khơng có lỗi gì cả. Anh chỉ có một tấm lịng. Và anh tưởng bở. Tưởng rằng
mình có tài, mình nổi tiếng thì sẽ được trọng dụng, có biết đâu rằng chế độ mới khơng cần
“tài”, khơng cần “nổi tiếng” họ chỉ cần anh có phải đảng viên hay không. Nếu anh đã là đảng
viên rồi, lại cịn phải xét xem anh có ăn cánh khơng thì mới được tin dùng.



Đừng nói Trịnh Cơng Sơn chỉ là “quần chúng” cảm tình khơi khơi… ngay cả cộng sản thứ
thiệt như Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Hộ, Hùynh Tấn Mẫm… cũng vẫn “tưởng bở” như thường.
Và sự “tưởng bở” ấy đã dẫn họ đến những kết cục rất bẽ bàng.


Bi kịch của Trịnh Công Sơn là bi kịch tưởng bở. Tội cho anh, thương cho anh. Anh chẳng
bao giờ là cộng sản. Anh không có trong tổ chức của Đảng, của Đồn hay của cái quái gì cả.
Anh chỉ là một nhạc sĩ tài năng và rất mong manh. Gán cho anh bốn chữ “tham vọng chính
trị” tơi thấy vừa buồn cười vừa “ép người q đáng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

cũng khơng hề có dịng nào nói đến chuyện Trịnh Cơng Sơn có ý định tham gia chính phủ
Dương Văn Minh.


Sau ngày 30.4.75 rõ ràng là có một cái “mốt việt cộng nằm vùng”: nữ nghệ sĩ Kim Cương
cũng đại tá việt cộng, Thanh Nga cũng vi-xi, trung tướng Nguyễn Hữu Có cũng tình báo
cộng sản, rồi bây giờ đến lượt Trịnh Cơng Sơn. Bài viết của Trịnh Cung đã góp phần tạo ra
một ảo tưởng “nhà nhà làm tình báo, người người làm tình báo.” Thực ra khơng phải như
vậy. Thực ra cộng sản thì ít mà ham vui thì nhiều. Chàng nhạc sĩ họ Trịnh của chúng ta cũng
thuộc “típ” ham vui đó.


Cịn việc sau này (trong “thập niên 90”) Trịnh Công Sơn hỏi ý kiến Trịnh Cung xem có nên
vào Đảng hay khơng cũng chỉ là chuyện trẻ con. Chắc chắn có vài người trong Hội Nhạc sĩ
đã gạ anh, dụ anh vào Đảng để Đảng được dựa hơi danh tiếng anh, và để Đảng khoe với dư
luận thế giới rằng “chúng tôi rất thống, biết tơn trọng nhân tài”. Thế thơi, nào phải Trịnh
Công Sơn muốn vào Đảng.


Chúng ta đừng làm cho sự việc trở nên nặng nề, vì thực chất trường hợp Trịnh Công Sơn
rất dễ hiểu, rất nhẹ nhàng. Cịn việc Trịnh Cơng Sơn sáng tác bài “Cho một người nằm
xuống” cho Lưu Kim Cương chẳng qua là vì ơng ta đã tạo điều kiện cho Sơn khỏi phải tham
dự vào một cuộc chiến tương tàn nhảm nhí.



Đừng nghĩ rằng Trịnh Cơng Sơn là một con người chính trị, hãy hiểu rằng Thượng đế đã
mời Trịnh Công Sơn xuống trần gian để làm nhạc sĩ. Vì thế khơng việc gì anh phải “khí tiết
cách mạng”, phải kiên định lập trường vì một phe phái nào. Anh chỉ cần yêu người, yêu đời,
thậm chí anh chỉ cần “mê gái” và sáng tác cho chúng ta những ca khúc về những tình yêu ấy
cũng đã là điều vĩ đại rồi.


Hiểu Trịnh Công Sơn như thế thì ta sẽ đón nhận bài viết của Trịnh Cung một cách nhẹ
nhàng.


Một nhạc sĩ có thể viết được một câu tuyệt vời như: “Hôm nay ta say ơm đời ngủ muộn” thì
chuyện vào Đảng, chuyện chính trị chính em cũng chỉ là miếng giẻ rách mà người nhạc sĩ tài
hoa tình cờ gặp phải trên đường “tìm lại bên sơng những dấu hài.”


---

<b>Về con người chính trị của Trịnh Cơng Sơn</b>


<i> Bùi Văn Phú </i>


---Trịnh Công Sơn gây nhiều tranh cãi là do ở những ca khúc ông viết về chiến tranh, thân
phận và con người Việt Nam trong một giai đoạn cực kì tang thương của đất nước. Ơng
đứng về phía nào của cuộc chiến thì chẳng bao giờ ơng nói rõ, vì thế người đời phải dùng lời
ca, hay ghi nhận những sự kiện liên quan đến Trịnh Công Sơn rồi suy đoán.


Bài viết mới của Trịnh Cung là những ghi chép đáng được đón nhận, phân tích và phản biện.
Chỉ rất tiếc là trong hồn cảnh hiện tại, có những điều mà một số người trong cuộc chưa thể
nói ra, hay nói thật.


Trong bài viết Trịnh Cung có nhắc đến một sự kiện quan trọng xảy ra tại đài phát thanh Sài
Gịn ngày 30.4.1975 khi Tơn Thất Lập có lời hằn học với Trịnh Cơng Sơn. Trong bài Trịnh
Cung cũng nhắc đến Nguyễn Hữu Thái mà tôi có dịp đọc một số tài liệu của ơng Thái viết về


ngày 30.4 tại Dinh Độc Lập và đài phát thanh Sài Gòn. Trong một tài liệu phổ biến năm 2005
qua mạng BBCVietnamese ở hải ngoại và năm vừa qua trên tạp chí Xưa & Nay trong nước,
số tháng 4.2008, Nguyễn Hữu Thái khơng nhắc gì đến việc Trịnh Cơng Sơn lên đài hát “Nối
vịng tay lớn”. Bỏ qua sự kiện này của một người từng là nhân chứng cho thấy có gì đó cịn
chưa rõ hay khơng hợp với quan điểm của chính quyền hiện tại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

hay tướng Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh và lập chính quyền mới và một người tơi biết có thể sẽ
nắm chức bộ trưởng trong nội các mới. Trong giai đoạn khủng hoảng chính trị lúc đó ở miền
Nam, cùng lúc người Mỹ muốn rút toàn bộ và không muốn bị người Việt coi là phản bội để
rồi có hành vi chống lại người Mỹ trong những giờ phút chót thì việc tung tin ủng hộ hay
khơng ủng hộ một nội các nào đó chỉ là loại thông tin trấn an, đem hi vọng ảo để người Mỹ
thực hiện kế hoạch của họ.


Về con người chính trị của Trịnh Cơng Sơn tơi đã có bài viết trên talawas.org ngày 1.4.2008,
xin trích lại một đoạn sau đây để độc giả có thêm tài liệu:




<i>Trong hồi kí nhan đề N.D.B. [1], ơng Nguyễn Mâu, cựu đại tá cảnh sát, là cấp chỉ huy tình </i>
<i>báo Việt Nam Cộng hồ từ 1968 đến 1972, có đưa ra những sự việc nhưng không dẫn đến </i>
<i>kết luận vững vàng cho thấy Trịnh Cơng Sơn có hay khơng hoạt động cho cộng sản.</i>


<i>Ông Mâu kể chuyện vào năm 1969 Trịnh Công Sơn bị một đơn vị cảnh sát bắt giao cho </i>
<i>Ngành Đặc biệt và chính ơng đã nói chuyện với Trịnh Cơng Sơn. Qua buổi nói chuyện đầu </i>
<i>tiên, ơng Mâu có cảm tưởng Sơn khơng phải là người cộng sản. Khi hỏi thẳng Sơn có hoạt </i>
<i>động trí vận, có viết nhạc theo chỉ thị, có hoạt động cho hội văn nghệ sĩ yêu nước, thì câu trả</i>
<i>lời của Sơn là khơng.</i>


<i>Ơng kể cho Sơn nghe về những tài liệu ơng có được cho thấy chính Bộ Chính trị miền Bắc </i>
<i>mới lo sợ bộ đội cộng sản nghe nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn và chính phía chính </i>


<i>quyền miền Nam đã cho phát thanh những bài nhạc này, với tiếng hát Khánh Ly, từ máy bay</i>
<i>xuống dọc đường mịn Hồ Chí Minh để cho bộ đội nghe, cụ thể là bài “Gia tài của Mẹ”. Kể </i>
<i>xong ông Mâu hỏi Sơn nghĩ sao về chuyện này? Người nhạc sĩ không trả lời, nhưng trên nét </i>
<i>mặt “sáng rỡ, niềm vui không giấu giếm, mắt long lanh hàm chứa sự thích thú và hài lịng </i>
<i>đến cùng độ. Chúng tơi khơng nghĩ rằng anh vui mừng vì có tinh thần chống cộng cao độ. </i>
<i>Chúng tôi cũng không nghĩ anh giả vờ vui để tỏ ý chống cộng trước một viên chức thuộc </i>
<i>ngành cơng an. Anh đã vui vì tâm tư và ý tưởng đối với quê hương tang tóc, về một cuộc </i>
<i>chiến tương tàn cần phải chấm dứt đã được gửi gắm đi xa, qua làn sóng điện đến với những </i>
<i>người có trách nhiệm”. (N.D.B. tr. 222)</i>


<i>Tác giả Nguyễn Mâu ghi lại lời Trịnh Cơng Sơn nói với ơng:</i>


<i>“Tơi khơng kêu gọi họ buông súng hay mang súng trở về như Bộ Chiêu hồi, nhưng tôi đã làm</i>
<i>việc ấy một cách tế nhị và rất thâm trầm như bài ‘Lại gần với nhau’ với lời nhạc ‘… đừng bỏ </i>
<i>tôi… đừng bỏ tơi… đi hai mươi năm qua… cịn gì cho anh… cịn gì cho tơi… khơng cịn gì… </i>
<i>khơng cịn gì… cịn lại chiến tranh… hai mươi năm chinh chiến mẹ ngủ khơng n…’ Và cịn</i>
<i>nhiều nữa, tơi đã nói thẳng với họ hãy vượt mọi trấn áp, từ bỏ rừng núi… mà trở về cùng với </i>
<i>dân tộc đang chịu quá nhiều đoạ đầy thống khổ như bài ‘Nối vòng tay lớn’ với câu kết luận </i>
<i>‘Vượt thác cheo leo… hay ta vượt đèo… từ quê nghèo lên phố lớn… nắm tay nối liền biển </i>
<i>xanh sông gấm… nối vịng tay lớn…’ Tơi đã nói chuyện với họ như bằng hữu, như anh em </i>
<i>chứ không phải như ông Bộ trưởng Chiêu hồi. Phương cách của tôi theo tơi nghĩ có thể thích</i>
<i>hợp và được họ vui vẻ chấp nhận và lĩnh hội hơn. Tôi thương yêu và kính trọng họ thật, với </i>
<i>tình người thật, với tinh thần ruột thịt thật và muốn trải với họ chút tâm sự thật. Tơi có thể bị </i>
<i>cơng an, bị chính ơng kết tội nhưng đó là sự thật tơi khơng giấu giếm. Cũng bằng cách này, </i>
<i>tơi đã gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho những giới chức chỉ đạo chiến tranh của bên này</i>
<i>và cả bên kia”. (sđd, tr. 223)</i>


<i>Tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với Trịnh Công Sơn, tác giả Nguyễn Mâu có nhận xét: “Anh Sơn </i>
<i>rất vơ tư trong chính trị, với lập trường khơng thiên vị, không theo những người quốc gia triệt </i>
<i>để mà cũng chẳng theo cộng sản. Qua những lời tâm sự, có thể anh đã phải tránh qua, né </i>


<i>lại, lúc chường, lúc trốn, dù là bạn nhưng vẫn phải đối phó với Hồng Phủ Ngọc Tường và </i>
<i>vài người khác vốn là cơ sở trí vận cộng sản”. (sđd, tr. 224)</i>


<i>Theo tác giả, người nhạc sĩ này “là một nghệ sĩ có tâm hồn đang đau nhức với cái đau nhức </i>
<i>của dân tộc và sáng tác vì cái đau nhức ấy”. (sđd, tr. 215)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<i>Việt Nam Cộng hồ mà ơng Nguyễn Mâu có một phần trách nhiệm.</i>


<i>Tác giả Nguyễn Mâu đã tỏ ra ngạc nhiên khi nghe bài ca “Nối vòng tay lớn” đã được những </i>
<i>“bọn chạy hiệu Ba mươi tháng Tư” diễn giải theo một nghĩa khác, không như ý của Trịnh </i>
<i>Công Sơn trước đó ít năm.</i>


[1] Nguyễn Mâu, N.D.B. Ngành đặc biệt (Special Branch) Tập I, tác giả tự xuất bản, San Jose 2007
---


<b>Về con người chính trị của Trịnh Cơng Sơn</b>


<i> Bùi Văn Phú </i>


---Trịnh Công Sơn gây nhiều tranh cãi là do ở những ca khúc ông viết về chiến tranh, thân
phận và con người Việt Nam trong một giai đoạn cực kì tang thương của đất nước. Ơng
đứng về phía nào của cuộc chiến thì chẳng bao giờ ơng nói rõ, vì thế người đời phải dùng lời
ca, hay ghi nhận những sự kiện liên quan đến Trịnh Cơng Sơn rồi suy đốn.


Bài viết mới của Trịnh Cung là những ghi chép đáng được đón nhận, phân tích và phản biện.
Chỉ rất tiếc là trong hồn cảnh hiện tại, có những điều mà một số người trong cuộc chưa thể
nói ra, hay nói thật.


Trong bài viết Trịnh Cung có nhắc đến một sự kiện quan trọng xảy ra tại đài phát thanh Sài
Gòn ngày 30.4.1975 khi Tơn Thất Lập có lời hằn học với Trịnh Công Sơn. Trong bài Trịnh
Cung cũng nhắc đến Nguyễn Hữu Thái mà tơi có dịp đọc một số tài liệu của ông Thái viết về


ngày 30.4 tại Dinh Độc Lập và đài phát thanh Sài Gòn. Trong một tài liệu phổ biến năm 2005
qua mạng BBCVietnamese ở hải ngoại và năm vừa qua trên tạp chí Xưa & Nay trong nước,
số tháng 4.2008, Nguyễn Hữu Thái khơng nhắc gì đến việc Trịnh Cơng Sơn lên đài hát “Nối
vòng tay lớn”. Bỏ qua sự kiện này của một người từng là nhân chứng cho thấy có gì đó cịn
chưa rõ hay khơng hợp với quan điểm của chính quyền hiện tại.


Về việc Trịnh Cơng Sơn có thể được chọn làm Quốc vụ khanh đặc trách Văn hố, tơi tin
thơng tin kiểu như thế có thực trong những ngày khi mà quốc hội Việt Nam Cộng hồ bàn
thảo việc chuyển giao quyền hành. Khơng phải chỉ có Trịnh Cơng Sơn mà một số người
thuộc những nhóm chính trị khác nhau cũng đã được bắn tiếng cho nắm những chức vụ
trong chính quyền mới. Lúc đó tơi có nghe đến việc ơng Trần Minh Tiết có thể làm thủ tướng
hay tướng Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh và lập chính quyền mới và một người tơi biết có thể sẽ
nắm chức bộ trưởng trong nội các mới. Trong giai đoạn khủng hoảng chính trị lúc đó ở miền
Nam, cùng lúc người Mỹ muốn rút tồn bộ và khơng muốn bị người Việt coi là phản bội để
rồi có hành vi chống lại người Mỹ trong những giờ phút chót thì việc tung tin ủng hộ hay
không ủng hộ một nội các nào đó chỉ là loại thơng tin trấn an, đem hi vọng ảo để người Mỹ
thực hiện kế hoạch của họ.


Về con người chính trị của Trịnh Cơng Sơn tơi đã có bài viết trên talawas.org ngày 1.4.2008,
xin trích lại một đoạn sau đây để độc giả có thêm tài liệu:




<i>Trong hồi kí nhan đề N.D.B. [1], ông Nguyễn Mâu, cựu đại tá cảnh sát, là cấp chỉ huy tình </i>
<i>báo Việt Nam Cộng hồ từ 1968 đến 1972, có đưa ra những sự việc nhưng khơng dẫn đến </i>
<i>kết luận vững vàng cho thấy Trịnh Công Sơn có hay khơng hoạt động cho cộng sản.</i>


<i>Ơng Mâu kể chuyện vào năm 1969 Trịnh Công Sơn bị một đơn vị cảnh sát bắt giao cho </i>
<i>Ngành Đặc biệt và chính ơng đã nói chuyện với Trịnh Cơng Sơn. Qua buổi nói chuyện đầu </i>
<i>tiên, ơng Mâu có cảm tưởng Sơn không phải là người cộng sản. Khi hỏi thẳng Sơn có hoạt </i>


<i>động trí vận, có viết nhạc theo chỉ thị, có hoạt động cho hội văn nghệ sĩ u nước, thì câu trả</i>
<i>lời của Sơn là khơng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<i>xuống dọc đường mịn Hồ Chí Minh để cho bộ đội nghe, cụ thể là bài “Gia tài của Mẹ”. Kể </i>
<i>xong ông Mâu hỏi Sơn nghĩ sao về chuyện này? Người nhạc sĩ không trả lời, nhưng trên nét </i>
<i>mặt “sáng rỡ, niềm vui không giấu giếm, mắt long lanh hàm chứa sự thích thú và hài lịng </i>
<i>đến cùng độ. Chúng tơi khơng nghĩ rằng anh vui mừng vì có tinh thần chống cộng cao độ. </i>
<i>Chúng tôi cũng không nghĩ anh giả vờ vui để tỏ ý chống cộng trước một viên chức thuộc </i>
<i>ngành cơng an. Anh đã vui vì tâm tư và ý tưởng đối với quê hương tang tóc, về một cuộc </i>
<i>chiến tương tàn cần phải chấm dứt đã được gửi gắm đi xa, qua làn sóng điện đến với những </i>
<i>người có trách nhiệm”. (N.D.B. tr. 222)</i>


<i>Tác giả Nguyễn Mâu ghi lại lời Trịnh Cơng Sơn nói với ơng:</i>


<i>“Tơi khơng kêu gọi họ buông súng hay mang súng trở về như Bộ Chiêu hồi, nhưng tôi đã làm</i>
<i>việc ấy một cách tế nhị và rất thâm trầm như bài ‘Lại gần với nhau’ với lời nhạc ‘… đừng bỏ </i>
<i>tôi… đừng bỏ tơi… đi hai mươi năm qua… cịn gì cho anh… cịn gì cho tơi… khơng cịn gì… </i>
<i>khơng cịn gì… cịn lại chiến tranh… hai mươi năm chinh chiến mẹ ngủ khơng n…’ Và cịn</i>
<i>nhiều nữa, tơi đã nói thẳng với họ hãy vượt mọi trấn áp, từ bỏ rừng núi… mà trở về cùng với </i>
<i>dân tộc đang chịu quá nhiều đoạ đầy thống khổ như bài ‘Nối vòng tay lớn’ với câu kết luận </i>
<i>‘Vượt thác cheo leo… hay ta vượt đèo… từ quê nghèo lên phố lớn… nắm tay nối liền biển </i>
<i>xanh sông gấm… nối vịng tay lớn…’ Tơi đã nói chuyện với họ như bằng hữu, như anh em </i>
<i>chứ không phải như ông Bộ trưởng Chiêu hồi. Phương cách của tôi theo tơi nghĩ có thể thích</i>
<i>hợp và được họ vui vẻ chấp nhận và lĩnh hội hơn. Tôi thương yêu và kính trọng họ thật, với </i>
<i>tình người thật, với tinh thần ruột thịt thật và muốn trải với họ chút tâm sự thật. Tơi có thể bị </i>
<i>cơng an, bị chính ơng kết tội nhưng đó là sự thật tơi khơng giấu giếm. Cũng bằng cách này, </i>
<i>tơi đã gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho những giới chức chỉ đạo chiến tranh của bên này</i>
<i>và cả bên kia”. (sđd, tr. 223)</i>


<i>Tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với Trịnh Công Sơn, tác giả Nguyễn Mâu có nhận xét: “Anh Sơn </i>


<i>rất vơ tư trong chính trị, với lập trường khơng thiên vị, không theo những người quốc gia triệt </i>
<i>để mà cũng chẳng theo cộng sản. Qua những lời tâm sự, có thể anh đã phải tránh qua, né </i>
<i>lại, lúc chường, lúc trốn, dù là bạn nhưng vẫn phải đối phó với Hồng Phủ Ngọc Tường và </i>
<i>vài người khác vốn là cơ sở trí vận cộng sản”. (sđd, tr. 224)</i>


<i>Theo tác giả, người nhạc sĩ này “là một nghệ sĩ có tâm hồn đang đau nhức với cái đau nhức </i>
<i>của dân tộc và sáng tác vì cái đau nhức ấy”. (sđd, tr. 215)</i>


<i>Rồi ông Mâu nhắc đến Nguyễn Thanh Ty là tác giả của tập sách Về một quãng đời của Trịnh</i>
<i>Công Sơn là một người gần gũi với Sơn ở trường sư phạm Qui Nhơn. Ông Ty nhận xét trong</i>
<i>những năm chung sống với nhau không có dấu chỉ nào cho thấy Trịnh Cơng Sơn là Việt </i>
<i>cộng. Nhưng những liên lạc, gặp gỡ giữa Trịnh Cơng Sơn với Hồng Phủ Ngọc Tường trong </i>
<i>giai đoạn này, 1965-1969, cịn là một dấu hỏi lớn và có thể đó là những thất bại của tình báo</i>
<i>Việt Nam Cộng hồ mà ơng Nguyễn Mâu có một phần trách nhiệm.</i>


<i>Tác giả Nguyễn Mâu đã tỏ ra ngạc nhiên khi nghe bài ca “Nối vòng tay lớn” đã được những </i>
<i>“bọn chạy hiệu Ba mươi tháng Tư” diễn giải theo một nghĩa khác, không như ý của Trịnh </i>
<i>Công Sơn trước đó ít năm.</i>


[1] Nguyễn Mâu, N.D.B. Ngành đặc biệt (Special Branch) Tập I, tác giả tự xuất bản, San Jose 2007
---


<b>Nhạc sĩ Hoàng Thi Thao lên tiếng - Phần 2</b>


<i> Phỏng vấn của Etcetera </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

VW: Tại sao anh Hồng Thi Thao có ý bênh vực Trịnh Cơng Sơn?


Hồng Thi Thao (HTT): Tơi khơng có ý bình luận về Trịnh Cơng Sơn , hay bênh vực ông có
phải là cộng sản hay không. Nhưng sau 35 năm, khơng có ai nhận Trịnh Cơng Sơn thuộc tổ
chức của họ. Nên có thể nói, khơng có chứng cớ buộc tội Trịnh Công Sơn là cộng sản. Trịnh


Cơng Sơn cũng chẳng nhận cơng tác gì. Đừng nghĩ viết nhạc phản đối chiến tranh là cộng
sản. Theo tôi, phản đối chiến tranh là người yêu tự do, là người miền Nam đấy. Phản đối
chiến tranh là đi ngược lại chủ trương của người cộng sản Bắc Việt. Vì vậy, tơi nghe nói là ở
trong rừng, người cộng sản đã họp và đòi chặt đầu Trịnh Cơng Sơn.


VW: Theo anh, phía gia đình Trịnh Cơng Sơn đã lên tiếng đầy đủ chưa?
HTT: Họ không lên tiếng vì thiếu phương tiện. Khơng ai hỏi họ hết.


VW: Xin anh cho biết cụ thể hơn sự liên hệ giữa anh và gia đình Trịnh Cơng Sơn?


HTT: Năm 1952, cụ thân sinh của Trịnh Công Sơn là một thương gia ở Saigon. Có nhờ hai
ơng chú của tơi là nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và dược sĩ Cao Văn Nghi tới nhà dạy học cho các
con của gia đình. Ơng Nghi giỏi tiếng Pháp, tới nhà dạy Trịnh Cơng Sơn về tiếng Pháp, tốn.
Ơng Hồng Thi Thơ dạy cho anh Hà, em Trịnh Công Sơn, và tôi quen với gia đình Trịnh
Cơng Sơn từ đó. Một người em ruột của Trịnh Công Sơn là anh Trịnh Xn Tịnh là bạn chí
thân của tơi. Chúng tơi sống, liên hệ với nhau tới mãi cái tết năm 2000, trước khi Trịnh Cơng
Sơn mất, tơi cịn ngồi với anh. Chúng tôi sống với nhau trong một căn nhà, và gia đình Trịnh
Cơng Sơn xem tơi như một thành viên.


VW: Nếu đã thân thiết như vậy, có thể vì tình thân mà lời phát biểu, bênh vực gia đình Trịnh
Cơng Sơn của anh sẽ mất đi sự khách quan khi đánh giá về con người, sự kiện lịch sử liên
quan tới Trịnh Cơng Sơn?


HTT: Có thể nói là tơi có cảm tình đặc biệt với Trịnh Cơng Sơn và gia đình của anh. Nhưng
khi tơi nói với đám đơng, tơi khơng nói láo được. Tơi phải nói thật những gì tơi biết. Thú thật,
khi gần gũi với Trịnh Cơng Sơn , tơi ít thấy những điều xấu. Con người ai cũng có tốt, có
xấu, “nhân vơ thập tồn”, nhưng cái xấu ở Trịnh Công Sơn rất hiếm. Xấu của Trịnh Công
Sơn là mê ăn ngon mặc đẹp, mê phụ nữ đẹp. Tơi nghĩ đó là chuyện bình thường.


VW: Tình bạn giữa Trịnh Cung và Trịnh Cơng Sơn trước khi có bài viết này, theo nhận định


của anh thế nào?


HTT: Họ biết nhau khoảng năm 1959, khi Trịnh Cung từ Nha Trang ra Huế học mỹ thuật. Họ
gặp nhau thường xuyên cho tới năm 1961 thì xa nhau. Vì Trịnh Cung vào Saigon, Trịnh
Công Sơn ra Quy Nhơn. Sau năm 1968 mới gặp lại nhau. Trong suốt thời gian chơi với
nhau, theo tôi nhớ, không dưới 5, 7 lần họ giận nhau. Giận vì khác quan điểm, rất nhiều lần.
Lần cuối, họ giận nhau đến độ không giao du với nhau nữa, đó là năm 1998, sau đó dù có
gặp lại nhưng khơng thân thiết nữa.


VW: Anh nghĩ họ giận nhau, có thể vì ganh tị tài năng, tình cảm cá nhân hay vấn đề tài
chánh hay không?


HTT: (nghĩ) Tôi thấy họ qúi trọng nhau về nghệ thuật. Nhưng trong đời sống, có khi Trịnh
Cung muốn theo kiểu này, Trịnh Công Sơn lại muốn ngã kia. Họ khác nhau về chính kiến
nhiều hơn và về nghề nghiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Công Sơn nhưng sống ở hải ngoại, anh có thấy sự bênh hay chống có giữ được tinh thần
tơn trọng sự thật hay khách quan đủ để nói một cách đúng mực về Trịnh Cơng Sơn hay
khơng?


HTT: Người ở hải ngoại có lý do để thù ghét Trịnh Cơng Sơn vì ngay ngày 30 tháng 4, 1975
Trịnh Công Sơn đã lên đài phát thanh hát bài “Nối Vòng Tay Lớn”. Đối với nhiều người ở hải
ngoại, ngày đó là ngày đau đớn của họ, nên Trịnh Công Sơn đã làm họ đau lịng. Cịn ở
trong nước, nhiều người nhìn tấm lịng Trịnh Cơng Sơn đối với dân tộc nên khi bài viết của
Trịnh Cung nói về Trịnh Cơng Sơn như vậy, họ phản đối là chuyện hiểu được.


VW: Một chi tiết trong bài của Trịnh Cung phủ nhận Trịnh Cơng Sơn có mặt trong đài phát
thanh ngày 30 tháng 4, 1975, dựa vào đâu mà anh khẳng định là Trịnh Cơng Sơn có mặt?
HTT: Trịnh Cung nêu ra tên của nhạc sĩ Tôn Thất Lập là người đuổi Trịnh Công Sơn ra khỏi
đài phát thanh là sai. Vì lúc đó, Tơn Thất Lập khơng có mặt ở Việt Nam. Lúc đó, Tơn Thất


Lập đi Pháp để vận động cho hồ bình, và dự trù đi Canada tiếp mãi đến tháng 8, 1975, Tôn
Thất Lập mới trở về Việt Nam.


VW: Những thông tin này nhờ đâu anh biết?
HTT: Tơi có quen với Tơn Thất Lập.


VW: Nhạc sĩ Tôn Thất Lập kể với anh?


HTT: Đúng. Cùng với một số đông các bạn bè khác.


VW: Chi tiết nào anh thấy không đúng trong bài viết của ông Đặng Văn Âu?


HTT: Tơi xin kể một ví dụ: Nhà Trịnh Công Sơn là nơi bạn bè tới chơi rất đơng. Nhà có tới 2,
3 người làm, bạn bè có khi ở lại nhà ln. Giáo sư Bửu Ý đến chơi, bị mất một số tiền ở
trong nhà, và ông Đặng Văn Âu đã viết chi tiết này ra, có ý gán ghép Trịnh Cơng Sơn phải
chịu trách nhiệm và gần như là nhúng tay vào chuyện mất tiền này. Anh Bửu Ý vừa email
cho tôi, hỏi là tại sao có người dám viết và có ý nói như vậy. Đối với Bửu Ý, khi Trịnh Cơng
Sơn mất ngày 1 tháng 4, 2001, gia đình Trịnh Công Sơn đã lập tức mời Bửu Ý trong vai trò
chủ tế, đọc điếu văn thay cho gia đình. Tình cảm của Bửu Ý và gia đình Trịnh Công Sơn rất
nồng thắm. Không lẽ ông Âu là chủ chuyến bay, không lẽ một trong 80 hành khách mất ví,
ơng Âu là thủ phạm hay sao?


VW: Lý do chính của Trịnh Cung viết xấu về bạn mình, ngồi đối tượng chính là Trịnh Cơng
Sơn , cịn đối với gia đình của ơng ta thì sao?


HTT: Có lẽ hiện nay, gia đình Trịnh Cơng Sơn đã khá giả, mấy người em của Trịnh Cơng
Sơn giàu có, nhưhg lại không gần gũi với Trịnh Cung như thời trước, kể cả có thái độ
“chảnh” với Trịnh Cung.


VW: Đối với nền kinh tế thị trường, thừa hưởng gia tài nghệ thuật của người thân của mình


khi họ khơng cịn như Elvis Presley, như Michael Jackson là chuyện bình thường. Anh nghĩ
sao về việc dư luận bàn tán về vấn đề sử dụng gia tài này của gia đình Trịnh Cơng Sơn đối
với quần chúng hiện nay?


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

VW: Theo anh, sự quá đáng thế nào?


HTT: Chính tơi có lên tiếng với gia đình, nói với họ là nếu đặt vấn đề thì phải cho chính đáng.
Ví dụ nếu các trung tâm băng nhạc sản xuất, khai thác thương mại, thì tính tiền. Cịn ca sĩ
khi trình diễn, khi hát ở các phịng trà, vũ trường, tụ điểm, đại nhạc hội, không nên thu tiền
họ.


VW: Họa sĩ Trịnh Cung đâu có cạnh tranh gì với gia đình Trịnh Cơng Sơn , đúng khơng?
HTT: Đúng. Khơng cạnh tranh gì, nhưng thấy mấy người em Trịnh Công Sơn hơi “chảnh”, ta
đây, quên quá khứ quá sớm, quá vội. Quên thuở hàn vi khi anh em bù khú với nhau. Thêm
nữa, nhiều người thần tượng Trịnh Cơng Sơn q, nên Trịnh Cung có thái độ như vậy. Tôi
đọc nhiều bài ca ngợi Trịnh Cơng Sơn , tơi cũng phì cười. Nhưng tơi thấy người ta ca ngợi
bạn mình, thì kệ họ, có gì đâu. Nên lấy đó làm vui, tại sao phải viết như vậy.


VW: Anh có thân với ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh?
HTT: Có thể nói là thân.


VW: Phản ứng của ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh về loạt bài viết liên quan đến chị ấy, về Trịnh Công
Sơn và gia đình thế nào?


HTT: Trịnh Vĩnh Trinh buồn, giận, uất ức. Cơ ấy có phát biểu trên BBC, một vài tờ báo.
Nhưng cũng có người khun là khơng nên nói nhiều, hãy để người khác nói.


VW: Theo anh, tìm hiểu, đánh giá, khai thác đề tài về một nhân vật công chúng như Trịnh
Công Sơn là nên hay không?



HTT: Theo tơi là nên. Nhưng phải nói cho đúng. Dựa trên sự hiểu biết và sự thật. Đừng
cường điệu, làm vui lịng người đọc. Nên nói thật.


VW: Bài viết của Trịnh Cung, theo anh có bao nhiêu phần trăm sự thật?


HTT: (suy nghĩ) chỉ có khoảng từ 5%-10% mà thơi. Phần tham vọng chính trị sai hồn tồn.
Trịnh Cung là người có tham vọng chính trị. Khoảng năm 72-73, tơi cịn nhớ khi biệt phái từ
qn đội về Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Trịnh Cung rất le lói trong bộ Kaki màu vàng bốn túi, đeo
kính đen, xách cặp táp rất xum xoe, hào hứng trong bộ đồ mới của mình. Cịn Trịnh Cơng
Sơn chỉ là một nhạc sĩ bình thường.


VW: Một cách khách quan, cần cho ông Trịnh Cung một điểm son, là mặc dù ở trong nước
nhiều người thần tượng Trịnh Công Sơn như anh đã công nhận, nhưng Trịnh Cung đã can
đảm nói ra sự thật về Trịnh Cơng Sơn theo cách nhìn của ơng ta, anh nghĩ sao?


HTT: Tơi cho sự can đảm đặt sai chỗ. Trịnh Cung tự lập ra võ đài, lên đó đấu một mình rồi tự
nhận mình là chiến thắng. Sao gọi là can đảm? Đánh ai phải có đối thủ chứ. Trịnh Cung quá
thân với Trịnh Công Sơn , tại sao lúc ông ấy cịn sống, Trịnh Cung khơng viết ra? Lúc đó,
Trịnh Cơng Sơn có cơ hội trả lời. Tại sao chờ Trịnh Công Sơn chết, các người em Trịnh
Công Sơn khơng có khả năng lý luận, viết lách để trả lời. Trịnh Cơng Sơn đã chết, khơng nói
được, các người em của Trịnh Cơng Sơn rất đau khổ vì bị nghe những lời dựng đứng lên về
Trịnh Công Sơn và gia đình họ.


VW: Gia đình Trịnh Cơng Sơn có trực tiếp hay gián tiếp nhờ anh lên tiếng giúp họ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

nhưng trong thái độ nói chuyện với tôi, trên dưới 10 cú điện thoại, tôi biết họ muốn tơi lên
tiếng. Nhưng tơi đã nói, khơng phải tơi lên tiếng vì họ, mà vì tơi muốn sự thật trả về cho sự
thật.


VW: Về bài viết của ơng Liên Thành, anh Hồng Thi Thao muốn phản biện thêm chi tiết gì?


HTT: Có một chi tiết ơng Liên Thành viết, nói rằng đã cấp giấy “Mật báo viên” cho Trịnh
Công Sơn. Tôi muốn làm rõ chi tiết này. Điều đó thế này. Vì ơng Liên Thành là trưởng ty
cảnh sát, nên bị “méo mó nghề nghiệp”, nhìn ai cũng thấy là mật vụ. Tơi có biết một người,
có thể nói là bạn thân của tơi tên là Nhuận. Ơng Nhuận trực tiếp nói với tôi, ông là người chi
tiền cho ông Liên Thành cấp giấy “Mật báo viên” của chiến dịch Phượng Hoàng.


VW: Ơng Nhuận có vai trị, vị trí và thẩm quyền gì để chi tiền cho ơng Liên Thành?


HTT: Ơng Nhuận là người có tiền, là bạn thân với gia đình Trịnh Cơng Sơn. Ngồi chuyện
cấp giấy “Mật báo viên” cho Trịnh Cơng Sơn ra, cịn có thêm hai người khác cũng được cấp
giấy này, vẫn còn sống là giáo sư Bửu Ý ở Huế, và em Trịnh Công Sơn là Trịnh Xn Tịnh.
Giấy này chỉ có tính cách để đi đường, trong thành phố Huế mà thôi. Ra khỏi Huế, vẫn bị bắt
như thường.


VW: Ông Nhuận hiện nay ở đâu?
HTT: Còn sống, hiện đang ở Maryland.


VW: Theo anh, khi cần, ơng Nhuận có thể đối chất sự thật khơng?


HTT: Sự việc này, chính ơng Nhuận kể cho tơi nghe. Cịn việc ơng có đối chất hay khơng, tôi
không biết.


VW: Số tiền để mua tờ giấy “Mật vụ viên” là bao nhiêu?


HTT: Khơng nói rõ. Nhưng có người cấp dưới ơng Liên Thành một tí, ví dụ như phó trưởng
ty hay phịng đặc biệt nào đó, cũng biết chuyện này. Ông Liên Thành giao du rất gần với ơng
Nhuận, có khi cịn cho ơng Nhuận mượn xe cảnh sát để lái trong thành phố Huế. Ông Liên
Thành chỉ nhận tiền, cấp một cái giấy vô thưởng vô phạt gọi là “Mật báo viên” của chiến dịch
Phượng Hồng để giúp cho Trịnh Cơng Sơn trốn lính mà thơi. Ơng Liên Thành là tổng thư ký
của chiến dịch này nên có thẩm quyền cấp cho ai thì cấp.



VW: Khi cấp giấy, ơng Liên Thành có thơng qua ơng chủ tịch chiến dịch hay không?


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

ông là Trung tâm trưởng của PĐUTUTB. Dưới ơng Bình là ơng Lê Minh Quang, chánh sự
vụ, cịn có thiếu tá Tâm, chồng của ca sĩ Phương Hồng Hạnh, người của PĐUTUTB, không
ai nhận ông Đỗ Ngọc Yến là người của mình. Ơng Liên Thành nói hoang tưởng. Từ những
chuyện viết sai về Trịnh Công Sơn , về gia đình Trịnh Cơng Sơn , tiếp theo, ơng Liên Thành
nói sai về những người khác.


VW: Khi đặt vấn đề xác ông giáo sư Ngô Kha hiện chôn ở đâu với ông Liên Thành, anh
muốn qui trách nhiệm cho ông ta, tại sao lại như vậy?


HTT: Vì ông Liên Thành là trưởng ty cảnh sát. Chính ơng Liên Thành ra lệnh bắt ông Ngô
Kha. Việc ông Ngô Kha là người cộng sản hay quốc gia hay dân tộc thế nào, tơi khơng bình
luận. Tơi chỉ đặt vấn đề khi Ngô Kha bị bắt vào ty cảnh sát mà ơng Liên Thành chịu trách
nhiệm, sau đó mất tích ln. Có nguồn tin nói rằng, phía ty cảnh sát lỡ tay đánh chết ơng
Ngơ Kha, sau đó vùi vào trong một thùng dầu nào đó, rồi chơn ở đâu đó. Khơng biết thực hư
ra sao. Chỉ biết vậy thôi. Chuyện ông Liên Thành là người chịu trách nhiệm về Ngô Kha đã
rõ, ai cũng biết.


VW: Gia đình ơng Ngơ Kha sau khi biết ơng bị bắt và mất tích, khơng phản ứng gì sao?
HTT: Họ khơng biết đâu vào đâu cả. Vì Ngơ Kha chỉ có một bà mẹ già, thân phụ Ngơ Kha
mất sớm. Nghe nói có kêu ca, nhưng khơng có tác động nào.


VW: Khi bị bắt, giáo sư Ngô Kha đã lấy cô Trịnh Vĩnh Thúy, em gái Trịnh Công Sơn chưa?
HTT: Đã lấy rồi. Hai người làm đám cưới khá lâu, trước đó.


VW: Phía cơ Trịnh Vĩnh Thúy, vợ của Ngơ Kha, hay gia đình Trịnh Cơng Sơn có khiếu nại gì
hay khơng?



HTT: Hình như có hỏi han, nhưng khơng khiếu nại gì hết. Tơi khơng rõ chi tiết lắm. Nhưng
sau đó, ơng Liên Thành bị cách chức năm 1974.


VW: Ông Liên Thành liệt kê những chi tiết về Trịnh Công Sơn , cho rằng nhạc sĩ bị bệnh liệt
dương kể từ sau năm 1974, trong khi anh lại cho rằng Trịnh Công Sơn là người không có
bệnh gì hết, bình thường khỏe mạnh như mọi người đàn ông khác. Xin anh cho biết thêm
chứng cứ nếu có thể?


HTT: Vấn đề này cũng khá tế nhị. Nhưng anh hỏi, tơi xin nói ln. Sau này, khoảng những
năm 1989, khi tôi về Việt Nam chơi, tôi và Trịnh Công Sơn vẫn thường rủ rê nhau đi đến
những chỗ gọi lịch sự là “lầu xanh” để kiếm gái. Chuyện này anh em chúng tôi đi với nhau
thường xun. Nói như vậy, nhưng tơi biết Trịnh Công Sơn không bao giờ nài ép bạn gái
hay bất kỳ người phụ nữ nào trong vấn đề tình dục. Vì vậy, bất cứ người phụ nữ nào đã biết
Trịnh Công Sơn , đều tỏ ra thương mến, kính trọng Trịnh Cơng Sơn. Khơng có bất cứ người
phụ nữ nào bị Trịnh Cơng Sơn địi hỏi “chuyện đó” khi họ khơng muốn.


VW: Làm sao anh dám chắc chắn 100% rằng Trịnh Công Sơn không bao giờ sàm sỡ với
phụ nữ. Có thể những mảng tối trong Trịnh Công Sơn ông ta dấu đi, hay làm chuyện đó mà
anh khơng biết?


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

---

<b>Bùi Giáng, Ngô Văn Tao</b>



<i> Trịnh Công Sơn </i>


---Làm thơ chỉ là chuyện bình thường giữa một triều đại mà mọi quần thần ai cũng co 1thể làm
thi sĩ. Có người thi sĩ xa những lạch sông khe suối quê nhà lâu năm trở về và thảng thốt viết
vội những bài thơ trên những tờ giấy trắng mỏng manh của cái nóng miền nhiệt đới. Có
người thi sĩ điên thơ, tự mình phong tước quyền uy bệ hạ hồng đế, cầm cây trượng hư vơ
ngồ vắt vẻo trên cài ngai vàng bằng khói phù du mệnh bạc và hát:



<i>“Kể từ dâu biển thênh thênh</i>
<i>Bất ngờ tao ngộ cịn nên nói gì...”</i>


Họ đã từng gặp nhau ở một bờ cõi mộng mị hoang phế nào xa xôi và từ đó lại tiếp tục dắt
dìu nhau tìm về quê quán bày biện lại một tiệc đời đìu hiu lau lách. Họ mở ra một đầu trường
vô nhiễm và múa lên những đường kiếm hư không để đánh cuộc với thịnh suy của chữ
nghĩa, của lời lời tiếng tiếng.


Trên dặm đường hun hút của thi ca, họ mang cái đoạn trường riêng chung để mở ra một
khúc ln vũ sóng đơi có khi náo nhiệt có khi ngậm ngùi.


Mười chín bài thơ Pháp _ Việt chỉ là một trò chơi nhỏ của mưa nắng, của hội ngộ chia lìa,
của đêm đã qua, của mai sắp tới. Nhưng giữa bầu trời tháng Ba này, có những con mưa
nhỏ chuyển mùa đã làm cho người điên thơ tỉnh giấc trong thơ và người thức tỉnh lại chìm
đắm trong cơn mộng mị hoang đường.


Đánh cuộc với chính mình là đánh cuộc với hữu hạn. Hữu hạn của những cuộc bể dâu đã đi
qua đời mình. Thi ca nằm trong một cuộc thách đố khác. Cái thách đố của bài thơ thứ hai
mươi đang chờ đợi những điều khơng bao giờ có thể nói hết. Đó cũng chính là cái sinh
mệnh vơ hạn vơ cùng của thơ.


<i>Saigon 26.3.94</i>


<i>(lời ngỏ cho tập thơ “Vào Chung Cục Thơ” của Bùi Giáng, Ngô Văn Tao)</i>
---


<b>Bài hát đầu tiên bài hát cuối cùng</b>


<i> Trịnh Công Sơn </i>



---Ngạn ngữ Pháp có nói rằng bất cứ cái gì bắt đầu tốt thì sẽ kết thúc tốt. Tơi khơng hiểu trong
những địa hạt như kinh tế, xã hội, khoa học như thế nào nhưng trên lĩnh vực văn nghệ đơi
khi hoặc nhiều khi nó khơng hồn tồn như thế… Có khơng ít những trường hợp người nghệ
sĩ đã khởi đầu rất hay và kết thúc rất tệ.


Tôi bước chân vào đất đai của nghệ thuật tương đối sớm. Từ tuổi mười ba mười bốn tôi đã
làm những lưỡi sóng liếm láp mạn thuyền văn nghệ. Trong huyết quản tơi có thể thời ấy đã
ln lưu những lượng máu bất bình thường.


Sau một vài biến cố lớn của gia đình, tơi bắt đầu một cuộc sống riêng tư khơng phẳng lặng.
Và từ đó tơi rơi vào một cơn mộng mị triền miên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

điểm ấy, thì vơ tình tơi lạc mình về một quá khứ khác xa xăm hơn nữa. Và rồi tự hỏi: Cái đầu
tiên ở nơi nào mà có và điều gì đã sinh ra cái đầu tiên kia?


Bài hát “Ướt mi” được nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sài Gòn năm 1959, Thanh Thúy hát
quanh những phịng trà và nổi tiếng. Thời ấy hình như Nguyễn Ánh 9 đã có lúc đệm đàn
piano cho Thanh Thúy hát. Thanh Thúy trở thành giọng hát liêu trai. Anh Nguyễn Văn Trung,
giáo sư triết thời ấy ở Văn khoa cũng đã từng có bài viết về một tiếng hát liêu trai Thanh
Thúy.


Thế thì, cố nhớ lại và tơi đã nhớ một lần nào đó, trong phịng trà, năm 1958, tơi thấy Thanh
Thúy hát “Giọt mưa thu” và khóc. Bà mẹ Thanh Thúy dạo ấy lao phổi hằng đêm nằm hát
“Giọt mưa thu” chờ Thúy về. Những giọt nước mắt ấy như một cơn mưa nhỏ trên tâm hồn
mỏng mảnh của tôi đã khiến tôi phải lùi xa hơn nữa về một cõi đời nào cịn xa xơi hơn đã
từng làm tơi nhỏ lệ…


Phải có một nỗi tuyệt vọng nào đó khởi đầu để tơi khơng ngừng dan díu với những giọt nước
mắt của đời làm của cải riêng tư. Eva ăn trái cấm và sự sống thành hình. Tơi e cũng đã từng
nuốt những giọt nước mắt để biết tận tình nói về những giọt nước mắt kia.



Rất nhiều bài hát đã được viết trước bài “Ướt mi” nhưng riêng bài “Ướt mi” thì tồn tại như số
phận của nó và của tơi. Hình như người Nhật rất thích nó vì dàn nhạc giao hưởng Nhật đã
thu bài hát này. Riêng tơi khơng thích lắm.


Dù sao thì trong những năm 59-60 trong thành phố này nhiều người đã thích và hát.


Người ta có nhiều lý do để thích một bài hát đầu tiên của một tác gỉa để rồi khơng qn thắc
mắc: Thế thì bài hát cuối cùng của anh là bài gì? Sẽ như thế nào? v.v…


Sự kết thúc của mọi câu chuyện đời đều không giống nhau. Tôi vẫn thường muốn trầm mình
trong cái lẽ vơ thủy vơ chung nhưng người đời cứ thích níu kéo tơi về trong cái lề thói hữu
hạn.


Trên đường băng chạy có cái đích để mình đến. Trong nghệ thuật thì khác. Cái cuối cùng có
thể là cái vơ hạn và biết đâu, nó đã từng có trước thời hạn mà mình khơng ngờ.


Sự bất tử khơng có trước có sau mà thường nó nằm ở điểm mà mọi cơ duyên cùng hội tụ.
Tơi khơng hề có ý định viết bài hát cuối cùng bởi vì tơi nghĩ rằng thời điểm cuối cùng là điều
mà mình khơng thể nào bắt gặp được. Nếu vì một lý do nào đó tơi buộc mình phải lên đường
để viết những ý nghĩ cuối cùng của mình trong một ca khúc thì tơi tin rằng vào lúc đó tơi sẽ
cố gắng cởi trói mình thoát khỏi mọi hệ lụy của đời để sống chứ khơng cần phải nói them
một điều gì nữa.


Bài hát cuối cùng có lẽ sẽ chỉ mãi mãi là một giấc mơ. Một giấc mơ buồn thảm mà chúng ta
cần phải quên đi để mọi thứ biên giới trong cuộc đời trở thành vơ nghĩa và nó sẽ khơng cịn
tồn tại như một lời thách thức kiêu hãnh nữa.


Bài hát đầu tiên và bài hát cuối cùng, ngẫm ra cũng chỉ là những bọt bèo vô hình vơ tướng.
Chúng ta vui chơi với nó và chúng ta quên đi. Có kẻ gieo cầu cho người nhặt được. Kẻ nhặt


được không chắc là vui mãi. Kẻ khơng được cũng chẳng nên lấy nó làm điều.


Hơn ba mươi năm trước có một bài hát đầu tiên, như một trái cầu gieo, có chắc gì hạnh
phúc? Khơng chắc gì hạnh phúc thì sao lại cần phải có bài hát cuối cùng?


Xuân Tân Mùi 1991


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<b>Bản Tình Ca ở Lại Với Ai?</b>


<i> Trịnh Công Sơn </i>


---Buổi sáng ở hội Âm nhạc. Tôi đến hội như mọi ngày, ngồi ở tồ soạn báo Sóng Nhạc, người
bạn tơi nói: Trưa nay anh về nhà đi. Tơi hỏi: vì sao ơng nói vậy. Có hơm nào mà tơi khơng về
đâu. Có khi về sớm có khi trễ. Trễ vì những ly bia chưa cạn. Nhưng bao giờ cũng có về. Vả


lại, có ai mà cứ đi mãi khơng về đâu. Có đi tất phải có về. Chắc chắn rồi sẽ có một lần về
vĩnh viễn để mãi mãi khơng bao giờ cịn ra đi nữa. Sống gửi thác về mà.


Vui thay, một tác phẩm nghệ thuật, trong đó có âm nhạc, khi đã thực sự có mặt ở đời và đời
nhận, là ra đi mãi mãi.


Có một người đàn bà, qua nhiều lá thư, có nhã ý tặng tôi trái tim. Hãy cứ cho đi và đừng địi
hỏi gì cả. Tơi đã nghĩ như thế.


Một tác phẩm âm nhạc đã dâng tặng đời cũng khơng địi hỏi phải trả lại một điều gì cả.
Có những bản tình ca một thời tơi đã viết cho một người. Người ấy sẽ đi hết đời mình và


biến mất. Tơi cũng sẽ biến mất.
Bản tình ca kia ở lại với ai?


Nhiều lá thư gửi về tồ soạn báo Sóng Nhạc nói rằng: Chúng tơi khơng quan niệm nổi rằng


đời sống mà có thể thiếu âm nhạc.


Âm nhạc cũng vậy, âm nhạc khơng thể tồn tại nếu vắng bóng con người.


Có một lá thư thiếu nữ trẻ trung viết cho tôi: Mỗi ngày nếu chịu khó nhìn lại phía sau trên
đường đi đến hội Âm nhạc tôi sẽ thấy một chiếc xe PC khác chạy theo. Thiếu nữ chỉ tiếc
rằng cuộc vui đùa trẻ trung ấy không kéo dài được lâu nữa vì đã lớn rồi và phải lo toan nhiều


chuyện khác?


Một bản tình ca nhiều khi đi theo suốt đường đời một con người cho đến tàn cơn mộng mị.
Tiếc lắm thay!


Có một bạn đọc Sóng Nhạc hỏi tơi: Lịng tốt có làm thay đổi cuộc đời được khơng? Tơi nghĩ
là có.


Âm nhạc cũng vậy. Nghe một bản nhạc hay, những lời ca đẹp, có thể tâm hồn con người sẽ
thánh thiện hơn. Âm nhạc thánh thiện sẽ không bao giờ khơi dậy lịng độc ác.


Có những trái tim chỉ biết ni dưỡng lịng thù hận của qủy dữ. Những trái tim gây hấn chỉ
muốn bày ra những bữa tiệc đời bằng gai và đá nhọn. Những bữa ăn như thế đã làm khô


héo dần thực phẩm trần gian.


May thay một bản tình ca chỉ có khả năng mang đến một nỗi thương nhớ
khôn nguôi đối với Đời, Người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<b>HOAØNG THI THƠ</b>


Sinh ngày 01 tháng 7 năm 1929 tại Bích Kh, Quảng Trị. Ơng bắt đầu hoạt động văn học nghệ


thuật từ năm 45, tại Huế rồi Hà Tĩnh. Lập gia đình vào tháng 9 năm 57 với nữ ca nhạc sĩ Thúy
Nga và có được 4 người con mà người con trưởng là nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng Hồng Thi
Thi. Ngồi ra ơng còn nhận người cháu ruột là nhạc sĩ vĩ cầm Hồng thi Thao làm nghĩa tử, ln
theo sát ơng trong suốt thời gian hoạt động văn nghệ. Ngoài lãnh vực sáng tác âm nhạc, Hồng
Thi Thơ cịn là một nhà tổ chức tài ba, từng nhiều lần hướng dẫn Ðồn Văn Nghệ Việt Nam đi
trình diễn tại một số quốc gia Á Châu cũng như là giám đốc tổ chức những chương trình Hồng
Thi Thơ tại vũ trường Maxim's từ năm 1967. Thêm vào đó, ơng còn là một đạo diễn kịch nghệ
từng làm say mê khán giả với những vở nhạc kịch như Cô Gái Ðiên, Ả Ðào Say, vv... Ông cũng
là một nhà nghiên cứu và sáng tạo bộ môn vũ dân tộc như muá trống, múa nón, múa xoè, múa
Koho, vv...cùng với các vũ sư Trịnh Toàn và Lưu Hồng. Từng lưu diễn tại nhiều thành phố trên
thế giới như Vạn Tượng, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris,
London...và nhiều nơi ở Hoa Kỳ.


Ông là tác giả trên 500 ca khúc thời trang như Ai Buồn Hơn Ai, Trăng Rụng Xuống Cầu, Tà Áo
Cưới, Hỏi Người Cịn Nhớ Đến Ta?


<b>PHẠM DUY</b>


Phạm Duy sinh tại Hà Nội năm 1921, theo học các Trường Trung Học Thăng Long, Cao Ðẳng Mỹ
Thuật, Kỹ Nghệ Thực Hành, tự học nhạc và đi huấn nghệ tại Pháp trong hai năm 1954-1955, học trị
của Robert Lopez và bàng thính viên tại Institut de Musicologie, Paris.


Khởi sự đời nhạc là một ca sĩ trong gánh hát Ðức Huy, đi hát lưu động trong những năm 1943-1945.
Rồi trở thành cán bộ văn nghệ trong cuộc Kháng Chiến chống Pháp. Vào sinh sống tại miền Nam một
vài năm trước khi đất nước bị phân chia, trong suốt hơn 20 năm, Phạm Duy là người phản ảnh đầy
đủ mọi khía cạnh đời sống tình cảm của người dân trong nước.


<b>TRẦN THIỆN THANH</b> Trần Thiện Thanh là một nhạc sĩ nổi tiếng trước năm 1975 với các
nhạc phẩm: Mùa đông của anh, Chiếc áo bà ba, Hoa Biển, Bảy ngày đợi mong, Chuyện hẹn hị,
Chuyện tình người đan áo, Đám cưới đầu xuân, Hoa trinh nữ, Hàn Mặc Tử ... Gia tài sáng tác và


tư tưởng chính trị của ơng cịn nổi tiếng hơn với những bài hát ca ngợi đời lính cộng hồ như:
Anh khơng chết đâu anh, Người u của lính, Tình thư của lính, Tuyết trắng, Chiều trên phá Tam
Giang, Tưởng người chết đi... Ngoài ra, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh còn được biết đến với vai trò
ca sĩ Nhật Trường. Đầu thập niên 60, ca sĩ Nhật Trường lập ban Tứ Ca Nhật Trường với 3 nữ ca
sĩ khác. Sau khi thống nhất đất nước, ơng ít xuất hiện và khoảng đầu thập niên 90 đã xuất cảnh
đi Mỹ.


Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh cịn có những bút danh khác như Anh Chương, Anh Thy và... Trần
Thiện Thanh Tồn.


<b>TRỊNH CÔNG SƠN Người làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, </b>
sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, mất vào 12:45 trưa ngày 1 tháng 4 năm 2001, tại Saigon.
Ông học trường tiểu học Nam Giao (nay là Trường An), vào trường Pellerin, theo học trường
Thiên Hựu (Providence). Ông tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup Laubat, Sài Gòn. Học
trường Sư Phạm Quy Nhơn khố I (1962-1964). Sau khi tốt nghiệp ơng lên dạy học và làm Hiệu
trưởng một trường Tiểu học ở Bảo Lộc (Lâm Đồng). Sau 1965, ông bỏ hẳn nghề dạy học, về
sống và sáng tác tại Saigon.


Ông tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ướt Mi (Nhà Xuất Bản An
Phú in năm 1959). Cho đến nay nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 tác phẩm,


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

cũng đã tập tành sáng tác từ rất sớm nhưng không mấy thành công. Mồ côi cha, nhà nghèo, mấy
mẹ con dắt díu nhau nương náu trong một túp lều xiêu vẹo ở ngõ chợ Khâm Thiên. Chính vì thế,
Trần Tấn Hậu rất thương mẹ và các em.


Chàng nhạc sĩ nghèo phải đi dạy đàn để ni gia đình. Có một người bạn thân giới thiệu anh đến
dạy đàn cho một tiểu thư khuê các - nàng tên là Tường Vân. Rồi giữa họ hé nở một mối tình đằm
thắm. Nhưng... tình đầu tan vỡ cũng là lẽ thường, huống chi chàng chỉ là anh "Trương Chi" si tình
khốn khổ, còn nàng lại là một "Mỵ Nương" danh gia vọng tộc. Không thành duyên nhưng... thành
danh, một loạt các ca khúc của tác giả Y Vân (có nghĩa là Yêu Vân) ra đời như: Đò nghèo, Ảo


ảnh, Nhạt nắng... với phong cách tha thiết, trữ tình rất được cơng chúng u thích. Khơng chỉ có
vậy, sáng tác của Y Vân cịn rất đa dạng: vui tươi, sơi động với Sài Gòn đẹp lắm, lung linh, sang
trọng với Tiếng trống cao nguyên, Những bước chân âm thầm (thơ Kim Tuấn) và nhất là ca khúc
Lòng mẹ êm ái đầy xúc cảm...---


<b> Sương Trắng Miền Quê Ngoại</b>
<b> Ca sĩ:</b> Quang Lê


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm
Sương trắng rơi vai tôi buốt lạnh mềm
Chim muôn buồn rủ nhau bay về đâu
Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau


Nào những khi ôm thép súng tê tay
Đắm mắt theo bao hư ảo thở dài
Nơi chốn xa cuộc đời mẹ quẳng gánh
Em còn khều sáng ánh đèn từ sương mai
Mẹ biết bây giờ con ngồi gác nhỏ


Gió hẹn mưa thề một khi con về quê
ngoại xưa


Để mẹ nhắn lời thăm


Trường làng cũ năm nào khi con còn bé


nhỏ


Theo mẹ đến trường giờ đây con đường
xưa cịn đó



Tóc liều vờn gió ru hồi ...


Bận hành qn nên khó thăm nhau
Nhưng có nhau như hơi thở vào đời
Tóc em cịn cỏ thơm hương cỏ may
Để anh nói chuyện ngày mai


Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi
Dăm đứa thân đơi khi chẳng trở về
Xin có em nguyện cầu cho đời anh
Đá mềm chân cứng để mẹ còn tương
lai ...


<b> </b>


<b> ---Nỗi Buồn Hoa Phượng</b>
<b> Ca sĩ:</b> Thanh Tuyền
<b>Nhạc Sĩ:</b> Thanh Sơn
Mỗi năm đến hè lịng man mác buồn,


Chín mươi ngày qua chứa chan tình
thương


Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi,
Phút gần gủi nhau mất rồi


Tạ từ là hết người ơi!


Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lịng,


biết ai cịn nhớ đến ân tình xưa


Đường xưa in bóng hai đứa nay đâu,
những chiều hẹn nhau hết rồi,


giờ như nước trôi qua cầụ


Giã biệt bạn lịng ơi! Thơi nay xa cách


rồi


Kỷ niệm mình xin nhớ mãi,


buồn riêng một mình ai chờ mong từng
đêm gối chiếc


Mối u hồi này ai có haỵ


Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn,
Cảm thông được nỗi vắng xa người
thương.


Màu hoa phượng thắm như máu con
tim,


mỗi lần hè thêm kỷ niệm
Người xưa biết đâu mà tìm


<b> Bạc Liêu Hoài Cổ</b>



<b> Nhạc Sĩ:</b> Thanh Sơn<b> - Ca sĩ:</b> Ngọc Sơn
Nghe tiếng đàn ai rao sáu câu


Như sống lại hồn Cao Văn Lầu


Về Bạc Liêu danh tiếng ơn lại (giấc ngủ vàng son)
Một thời để nhớ ngày đó xa rồi.


Bên nước mặng biển cho muối nhiều
Bên nước ngọt phù sa vun bồi


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

Cị bay thẳng cánh nhìn mõi mắt người
Bạc Liêu giấc mơ tình yêu


Dân gian ca rằng: "Bạc Liêu là xứ cơ cầu
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu
Nghe danh Công Tử Bạc Liêu


Ðốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu!"
Cho nhắn gởi Bạc Liêu mấy lời
Sơng có cạn tình không đổi dời
Dù đi xa trăm hướng


Ai người có nỗi ngồi hương


Bạc Liêu thương q ... hình bóng quê nhà ...


---Con Đường Xưa Em Đi

Nhạc Sĩ: Châu Kỳ
Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn dâng tái tê


Anh làm thơ vu quy, khách qua đường lắng nghe chuyện tình ta đã ghi
Những mùa trăng vu quy, vì mưa gió khơng về


Chiến trường anh bước đi


Có nàng hoen đơi mi, ngóng theo đường vắng hoe ...Hỏi cịn ai cố tri
Em ơi! nhìn gió lên khơi, lịng có trông vời một người xa cuối trời?
Nơi đây phiên gác canh dài, e ấp đơi lời mình cịn nhớ thương hồi
Em ơi! màu áo phong sương, mình ước huy hồng


được bàn tay chính nàng dâng hoa, dâng hết ân tình
Tình đến bao giờ


Hỏi đường xưa mà nhớ con đường xưa em đi
thời gian có qn gì


Đá mịn kia vẫn ghi, ghi một đêm trăng thanh
quán bên đường vắng tênh


Chỉ còn em với anh.


<b> ---Những Ngày Xưa Thân Ái</b>
<b>Ca sĩ:</b> Quang Lê


<b>Nhạc Sĩ:</b> Phạm Thế Mỹ


Những ngày xưa thân ái anh gởi lại cho ai
Gió mùa xuân êm đưa rung hàng cây lưa thưa
Anh cùng tôi bước nhỏ áo quần nhăn giấc ngủ


Đi tìm chim sáo nở ơi bây giờ anh cịn nhớ ?
Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho ai
Trăng mùa thu lên cao khóm dừa xanh lao xao
Anh cùng tôi trốn ngủ ra ngồi hiên lá đổ


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Đêm đêm nằm nghe súng nổ giữa rừng khuya thác đổ, anh cịn nhắc tên tơi ?
Đêm đêm nhìn trăng sáng tỏ bên đồi hoa trắng nở, cuộc đời anh có vui ?
Thời gian qua mau tìm anh nơi đâu


Tơi về qua xóm nhỏ con đò nay đã già
Nghe tin anh gục ngã


Dừng chân quán năm xưa


Uống nước dừa hay nước mắt quê hương


Những đường xưa phố cũ thôi nỡ đành quên sao
Xin gọi lại tên anh giữa trời sao long lanh


Anh giờ yên giấc ngủ tôi nằm nghe súng nổ
Như lời anh nhắc nhở ôi câm hờn dâng ngập lối
Những ngày xưa thân ái xin buộc vào tương lai
Anh cịn gì cho tơi tơi cịn gì cho em


Chỉ cịn tay súng nhỏ giữa rừng sâu giết thù
Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho em


<b>---Đường Về Hai Thôn</b>
<b>Ca sĩ:</b> Phi Nhung



<b>Nhạc Sĩ:</b> Phạm Thế Mỹ


Đường về thôn em duyên dáng bên ven sông con thuyền xuôi mái
Nhịp cầu băng qua men lối đi quanh co, cỏ hoa nối dài


Nhà em cuối xóm ghép đơi mái tranh nâu trăng cài trước sau
Có tằm mến thương dâu, Có trầu vấn vuöng cau


và đào tơ thơm ngát, ngát hương trinh ban đầu


Đường về thôn anh con sáo ru êm êm trên đồng xanh lúa
Nhịp cầu băng qua đưa lối sân rêu xưa thắm hoa bốn mùa
Nhà anh mái lá tháng năm vẫn chưa nghe duyên tròn ước mơ
Có giàn mướp xanh lơ, Có hồ cá nên thơ


mà lòng quê vẫn hát hát bao câu mong chờ


Mỗi đêm träng thanh ngà hội mùa lên tiếng ca góp tay cần lao
Ơi hai thơn giao đầu nhịp cầu tre bước chung êm vui dường bao


Tình ta lên men rồi cịn chi ngăn cách lịng mà chưa trao giấc mơ xuân cùng nhau
Chày dâng lên trăng màu, bà con đang mong cầu


rằng đôi ta sớm nên duyên ban đầu


Đường về hai thôn mai mốt đơi un ương qua cầu soi bóng
Nhủ thầm sơng ơi gương nước chưa phơi pha ta cịn vui hồi
Trời q bát ngát sẽ trơng thấy tương lai qua tình lứa đơi
Lúa đồng mãi xanh tươi, mướp cà thắm nơi nơi



và vành môi trai gái góp bao câu ca u đờì


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

<b> </b>


<b> Hoa Vẫn Nở Trên Đường Quê Hương</b>
<b> Ca sĩ:</b> Duy Khánh


<b>Nhạc Sĩ:</b> Phạm Thế Mỹ
Hoa vẫn nở trên đường q hương


Ơi q hương ta đó


Dù bóng tre xanh xao u sầu
Dù nước sơng quê tôi đỏ ngầu
Từng cánh hoa, từng cánh hoa
Hoa vẫn nở trong tơi tình thương
Hoa vẫn nở trên đường quê hương
Đường năm xưa đi trong bóng tối
Đường hôm nay đi trong ánh sáng
À á a, à á a


Ôi những người Việt Nam anh em
Đường hôm nay gian nan chiến đấu
Đường mai sau vui trong chiến thắng
À á a, à á a


Hãy lên đường và thương yêu nhau
Hoa vẫn nở trên đường q hương
Ơi q hương ta đó



Dù ánh trăng hôm nay hoen màu
Dù xác ai đang phơi trên cầu
Từng cánh hoa, từng cánh hoa
Hoa vẫn nở trên đường quê hương
Hoa vẫn nở trên đường quê hương


Hoa vẫn nở trên đường quê hương
Ơi q hương ta đó


Dù bé thơ xanh xao gầy còm
Dù tiếng ru ban trưa mỏi mòn
Từng cánh hoa, từng cánh hoa
Hoa vẫn nở trong tơi tình thương
Hoa vẫn nở trên đường q hương
Lời em ca êm như tiếng suối
Lời thơ anh vang như thác núi
Và mắt em, và áo em


Ngát xanh như mạ non quê ta
Bàn chân em đi gieo lúa mới
Bàn chân anh đi thêm nắng mới
Về lối xa, về phố hoa


Quét cho tàn khổ đau trong ta
Hoa vẫn nở trên đường quê hương
Ơi q hương ta đó


Dù bóng đêm đang gieo kinh hoàng
Dù mái tranh bơ vơ điêu tàn



Từng cánh hoa, từng cánh hoa
Hoa vẫn nở trong đêm mù sương
Hoa vẫn nở trên đường quê hương


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<b> ---Xin Anh Giữ Trọn Tình Quê</b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Duy Khánh<b> - Ca sĩ:</b> Duy Khánh
Chung vui đêm này cho trọn tình u


thương


Đẹp tình q hương mai tơi về chúng
mình đơi đường


Giờ phút phân kỳ ai lên đường ai vấn
vương


Mình thương, thương nhau trong đời
Thương nhau trong lời yêu nước Việt mà
thôi


Xin nhớ anh ơi!


Anh ra đi vì nghe lời buồn quê hương
Nhịp cầu u thương bao năm rơì vẫn cịn
đơi đường


Từ giả phố phường anh lên đường không
vấn vương



Hỏi anh bao nhiêu thu rồi, biên cương xa
vời mơ ước gì hỡi lịng trai , Sơng núi
chia phôi


Anh ơi, anh ơi!


Trời Nam đau khổ, nhà Việt Nam cách
trở, Mẹ Việt Nam đau khổ


Mình người Nam mn thuở giữ trong
lịng cho trọn tình quê


Hơn hai mươi năm chinh chiến điêu tàn,
đau xót vơ vàn


Tơi sống âm thầm khơng nói nên lời nên
viết bài ca tặng người


Anh ơi cho dù anh trở về quê hương hoặc
còn tha phương


Xin anh cịn giữ vẹn câu thề


Dù gió mưa về vẫn một lòng yêu mến quê
Ngày mai ta xa nhau rồi nhưng tin trong
đời anh sẽ còn gặp tôi


Quê cũ mừng vui


<b> ---Mùa Xuân Lá Khô</b>


<b>Ca sĩ:</b> Duy Khánh


<b>Nhạc Sĩ:</b> Trần Thiện Thanh


Tôi trở lại vùng hành quân vùng xa xôi đá sỏi biết buồn
Ba tháng hậu phương yên bình tuy vết thương chưa lành hẳn
Tôi lại đi giữa lạnh sang Đông


Đời tôi chinh chiến lâu năm, yêu lúc băng rừng như mộng tình nhân
Kiếp chúng tơi như kiếp sông dài trôi đi miệt mài chẳng cần ai biết cho ai
Tôi đến đơn vị lại đi, nhọc hơi đâu đếm mỏi tháng ngày


Khi cánh dù mang tin lại những cánh thư xinh hậu tuyến
Tôi ngẩn ngơ biết mùa Xn sang ...


Ở đây khơng có hoa Mai, khơng có hoa Đào trang điểm trần ai


Những lá khô rơi suốt năm dài như trong một chiều lịng tơi biết u ai
Em tơi khơng đẹp như đời tưởng


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

Khi em nguyện chờ một người về xa


Tôi đã quen rồi chuyện đi và quen xa ánh đèn phố thị.


Nên dẫu mùa Xuân đơn vị không bánh ngon không rượu quý, tôi nào nghe thấy lạnh trong tôi
Chỉ thương em gái quê hương trong sớm Xuân hồng thiếu hẳn người thương


Em hỡi em khi chiến chinh dài xa nhau từng ngày và xa cả Xuân nay!

<b> </b>




</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

Em ở nơi nào ?


Có cịn mùa xn khơng em
Rừng ngàn lá gió


Từng đêm nhắc nhở thì thầm


Nắng ở trên đầu nắng trong lịng phố
Gió ở trên non gió cuốn mây về
Sao em vẫn ngồi mà nghe cô đơn
Mà nghe nức nở trong hồn


Và thương đôi mắt nhỏ em buồn


Vì mình yêu nhau


Vì mình thương nhau nên mới giận hờn
Vì mình xa nhau nên nhớ nhớ nhau hồi
Em ở nơi nào ?


Có cịn mùa xn khơng em
Rừng ngàn lá gió


Từng đêm nhắc nhở thì thầm


Mai lỡ khơng về chắc anh buồn biết mấy
Dáng nhỏ xuân xưa cũng nhớ đêm ngày


<b> ---Cám Ơn</b>




<b>Ca sĩ:</b> Duy Khánh


<b>Nhạc Sĩ:</b> Trịnh Lâm Ngân


Này là cánh thư, nghiêng nghiêng nét chữ cơ em học trị
Này là bánh chưng, Mẹ già tự tay gói gửi cho con
Này là áo len, bao nhiêu đêm thâu em ngồi em đan
Nay em gởi ra tới chiến trường,


Mang chút tình hậu phương thương mến


Ngồi đọc lá thư đơn sơ tha thiết văn chương học trị


Nhìn cặp bánh chưng, mà lịng chợt thương Mẹ gìa xa xơi.
Mặc vào áo len, sao như tôi nghe trong hồn chơi vơi.
Xuân đang về trên khắp đất trời.


Nhưng tất cả Xuân là ở đây.
Tôi xin cảm ơn người


Cảm ơn ai, đã đem luyến thương nồng ấm đến với lính.
Cảm ơn ai khi Xuân về vui thật là vui,


Khơng qn người sương gió sa trường
Âu yếm gửi tình đi mn nơi.


Thật nhiều mến thương, tâm tư tha thiết tôi xin gửi về
Gửi Mẹ kính yêu vài lời của con chúc mừng năm naỵ
Và gửi đến em bao nhiêu yêu thương anh dành cho em
Khi Xuân về xin hãy yêu đời.



Ta đón đợi Xuân hồng ngày mai...


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Hỏi em rằng . . . em ở ngoài ấy ra sao ?
Má xưa còn thắm ? ơ ớ . . . còn thắm hoa
đào ?


Mắt xưa còn . . . xanh màu biếc ?
Nụ cười có đẹp trăng sao ?


Hỏi em rằng . . . câu hị câu hát năm xưa
Có vang rộn tiếng ? ơ ớ . . . rộn tiếng vui
đùa ?


Hay là phịng . . . khơng đêm vắng ?
Ai về mai nặng chiều mưa ?


Hương Giang . . . thuyền khơng đỗ đậu
Ngự Viên có bướm hoa vàng


Hay là hài xưa in dấu ?


Đưa người đẹp ấy sang ngang


Ở nơi này . . . bốn mùa nắng cháy em ơi
Gió lên ngập bốn ơ ớ . . . ngập bốn
phương trời


Lối xưa về xa hun hút
Mây chiều gọi mưa chơi vơi


Mai đây . . . đường ra xứ Huế
Cùng em thấp thoáng hoa đèn
Buồn chi chuyện tình đơi lứa
Xin đừng bao giờ em qn
Em ơi . . . ngày mai trở lại
Cùng em thấp sáng tâm nguyền
Cịn đâu chuyện buồn đơi lứa
Duyên tình bao giờ em quên


<b> ---24 Giờ Phép</b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Trúc Phương<b> - Ca sĩ:</b> Duy Khánh
Từ xa tơi về phép hai mươi bốn giờ


Tìm người thương trong người thương
Chân nghe quen từng viên sỏi đường nhà
Chiều nghiêng nghiêng nắng đổ


Và người yêu đứng chờ ngoài đầu ngõ
bao giờ


Cửa tâm tư là mắt nên khi đối mặt
Chuyện buồn dương gian lẩn mất
Đưa ta đi về nguyên thủy loài người
Lời u khi muốn ngỏ vụng về


Ngơn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay
Bốn giờ đi dài thêm bốn giờ về


Thời gian còn lại anh cho em tất cả em ơi


Ta đưa ta đến đỉnh tuyệt vời


Đêm lạc lồi giấc ngủ mồ cơi
Người đi chưa đợi sáng


Đưa nhau cuối đường sợ làm đêm vui rủ
xuống


Thương quê hương và bé nhỏ tình này
Ngừng trong đôi mắt đỏ


<b>---Cho Một Người Nằm Xuống - </b>
<b>Ca sĩ:</b> Duy Khánh


<b>Nhạc Sĩ:</b> ::: Trịnh Công Sơn


Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy


Đã bay cao trong vòm trời đầy


Rồi nằm xuống, khơng bạn bè, khơng có ai
Khơng có ai, từng ngày, khơng có ai đời đời


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn


Đất ơm anh đưa vào cội nguồn


Rồi từ đó, trong trời rộng, đã vắng anh


Như cánh chim, bỏ rừng, như trái tim bỏ tình


Nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư khơng!
Bạn bè cịn đó anh biết khơng Anh?


Người tình cịn đó anh nhớ khơng anh?
Vườn cỏ cịn xanh, mặt trời cịn lên


Khi bóng anh như cánh chim chìm xuống.
Vùng trời nào đó anh đã bay qua?


Chỉ còn lại đây những sáng bao la
Người tình rồi qn, bạn bè rồi xa


Ơi tháng năm, những dấu chân người cũng bụi mờ.
Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du


Đứa con xưa đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hị


Người thành phố, trong một ngày, đã nhắc tên
Những sớm mai, lửa đạn


những máu xương chập chùng
Xin cho một người vừa nằm xuống


thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang. - HBT-18-05-08


<b> Xin Còn Gọi Tên Nhau</b>
<b> Ca sĩ:</b> Delena



<b>Nhạc Sĩ:</b> Trường Sa
Tiếng hát bay trên hàng phố bâng khuâng


Chiều đong đưa những bước chân đau
mòn


Chợt nghe mùa thu bay trên trời khơng
Cịn ai giữa mênh mơng đời mình
Nỗi đau mù lấp trên tuổi thơ...
Phố vẫn hoang vu từ lúc em đi
Rồi trong mưa gió biết ai vỗ về
Bàn tay nào đưa em trong lần vui
Bằng những tiếng chim non thì thầm
Cho ngày tháng ưu phiền em quên...


Tình trong cơn ngủ mê
Rồi phai trên hàng mi
Chợt khi mình nhớ về
Mộng thành mây bay đi
Cịn gì trên đơi tay
Nên thầm hờn dỗi mình
Cho tình càng thêm say


Tiếng hát ru em cịn nuối trên môi
Lời nào gian giối cũng xin qua rồi
Để lỡ ngày sau khi ta cần nhau
Cịn ni chút êm vui ngày đầu
Cho mình mãi gọi thầm tên nhau...!



</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt
rào,


Tình Mẹ tha thiết như giịng suối hiền
ngọt ngào,


Lời Mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào.
Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng Mẹ
u.


Lịng Mẹ thương con như vầng trăng trịn
mùa thu.


Tình Mẹ u mến như làn gió đùa mặt hồ.
Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ.
Nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát
trẻ thơ.


Thương con thao thức bao đêm trường,
Con đà yên giấc Mẹ hiền vui sướng biết
bao.


Thương con khuya sớm bao tháng ngày.
Lặn lội gieo neo nuôi con tới ngày lớn
khơn.


Dù cho mưa gió khơng quản thân gầy
Mẹ hiền.


Một sương hai nắng cho bạc mái đầu


buồn phiền.


Ngày đêm sớm tối vui cùng con nhỏ
một niềm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

<b> --- Cơ Hàng Xóm (Vùng Ngoại Ô)</b>


<b> Ca sĩ:</b> Duy Khánh - <b>Nhạc Sĩ:</b> Bảo Thu
Vùng ngoại ơ, tơi có căn nhà tranh


Tuy bé nhưng thật xinh


Tháng ngày sống riêng một mình
Nhà gần bên, em sống trong giàu sang
Quen gấm nhung đài trang


Đi về xe đón đưa


Đêm đêm dưới ánh trăng vàng
Tôi với cây đàn âm thầm thở than
Và cơ nàng bên xóm


Mỗi lúc lên đèn, sang nhà làm quen
ĐK:


Tôi ca không hay tôi đàn nghe cũng dở
Nhưng nàng khen nhiều và thật nhiều
Làm tôi thấy trong tâm tư xôn sao
Như lời âu yếm mặn nồng



Của đơi lứa u nhau


Hai năm trơi qua, nhưng tình khơng dám
ngỏ


Tơi sợ thân mình là bọt bèo


Làm sao ước mơ tơ duyên mai sau
Tôi sợ ngang trái làm phận đời
Chua xót thương đau


Rồi một hôm tôi quyết đi thật xa
Tôi cố quên người ta


Những hình bóng trong xa mờ


Nhờ thời gian, phương thuốc hay thần
tiên


Chia cách đơi tình dun
Nên người xưa đã qn


Hơm nay đón cánh thiệp hồng


Em báo tin mừng lấy chồng giàu sang
Đời em nhiều may mắn


<b> --- Giã Từ Vũ Khí</b>



<b> </b>

Nhạc Sĩ: Ngân Khánh

-

Ca sĩ: Duy Khánh




Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến
tàn


Anh chẳng còn chi, chẳng cịn chi
Ngồi con tim héo em ơi !


Xin trả lại đây, bỏ lại đây
Thép gai giăng với lũy hào sâu
Lổ châu mai với những địa lơi


Ðã bao phen máu anh tn, cho cịn lại
đến mãi bây giờ


Trả súng đạn này, ôi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ
mất năm nao


Vui cùng ruộng nương, cùng đàn trâu
Với cây đa khóm trúc hàng cau
Với con đê có chiếc cầu tre
Ðã bao năm vắng chân anh


Nên trở thành hoang phế rong rêu


Rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa
Rồi anh sẽ đón cha mẹ về
Rồi anh sẽ sang thăm nhà em


Với miếng cau, với miếng trầu, ta làm lại


từ đầu


Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm
Mộ bia kín trong nghĩa địa buồn
Bạn anh đó đang say ngủ yên


Xin cám ơn ! Xin cám ơn ! Người nằm
xuống


Ðể có một ngày, có một ngày cho chúng
mình


Ta lại gặp ta, còn vòng tay
Mở rộng thương mến bao la.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

Bếp ai lên khói ấm tình thương
Bát cơm rau thắm mối tình q


Có con trâu, có nương dâu


Thiên đường này mơ ước bao lâu.


<b> --- Trường Cũ Tình Xưa </b>



<b> Nhạc Sĩ: Duy Khánh -</b>

Ca sĩ:<b> Hương Lan</b>

<b> </b>


Hôm nay tôi trở về thăm trường cũ


Nhiều nét đổ thay tường mái rêu mờ
Bên hiên hằng giờ tìm những bạn xưa
May ra có cịn đơi đứa



Vẫn n vui sống đời học trò..


Bâng khuâng đợi chờ người sao chẳng
đến?


Hỏi lá hỏi hoa chỉ thấy im lìm


Cây dương đầu trường còn khắc hàng tên
Hoa leo phũ phàng đan kín


Tiếng ve ru nghe gợi buồn thêm ..


Bạn cũ xa rồi, có người về đất buôn xuôi
Năm ba đứa bạt phương trời


Hai thằng chờ đầu quân năm tới..
Ve ơi, hát gì điệu nhạc lâm ly
Khóc người biền biệt sơn khê
Cố nhân đi bao giờ mới về?


Hôm nay trở lại nhiều khn mặt mới
Thầy đó trường đây bạn hữu đâu rồi?
Bao nhiêu kỷ niệm hoa bướm ngày thơ
Vang trong nỗi niềm nhung nhớ


Có ai đi thương về trường xưa?


<b> --- Căn Nhà Màu Tím</b>




<b> Nhạc Sĩ: Hoài Linh - </b>

Ca sĩ:<b> Chế Linh - Hương Lan</b>


Chiều nhìn qua đầu ngõ, dâng dâng niềm
thương nhớ dáng xinh xinh một ngườị
Được nghỉ hai ngày phép, mất hai hơm
làm quen em mới cho mình biết tên.
Cuộc đời chinh chiến, quanh năm với
bưng biền, thì gót liễu mong manh, làm
sao bước song hành


Anh chỉ e ngại, gió lay nụ tầm xuân vừa
hé ...


Chiều nào khi về bến, ngang căn nhà màu
tím


biết em đang trộm nhìn.


Vào mộng chưa tỏ lối bến mơ đang chờ
nơi


chưa thấy ai vừa ý thôị


Đời người con gái, mơ sa giữa lưng trời,
hạt xuống giếng ngậm ngùi, hạt rơi luống
hoa cườị


Ai chẳng mơ, gặp bến trong khỏi hờn


duyên má hồng ...



Đời anh đây đó mười phương,
gặp em anh đã thương, càng thương.
Thương đôi môi đầy nhựa sống.
Thương tia mắt dào dạt sóng.


Tuổi ngọc xuân son, nét ngà uốn trăng
tròn


Đời em cao vút Trường Sơn
gặp anh em ước mong gì hơn.
Cho anh bơng hồng cịn thắm,
cho anh trái ngọt vườn cấm,
và còn cho nữa tiếng ru trẻ thợ


Nẻo đời mn vạn lối, u nhau vì lời
nói,


mến nhau qua nụ cườị


Dặn dị thêm lần cuối, sách trao cho bầy
em,


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Ngày lành hăm sáu, hai mươi chiếc xe
màu


chở đám cưới cơ dâu cài hoa trắng trên


đầụ



Ta nhìn nhau, tia mắt trao một nụ hôn ban
đầu ...!


<b> --- Hồ Bình ơi ! Tình Em Biển Rộng Sơng Dài</b>
<b> Nhạc Sĩ:</b> Thông Đạt<b> - Ca sĩ:</b> Chế Linh - Hương Lan
Hịa bình ơi,


Tình u em như sơng biển rộng.
Tình u em như lúa ngồi đồng.
Tình u em tát cạn biển đơng.
Hịa Bình ơi, ơi hịa bình ơi


Sao em nỡ lịng kẻ đợi người trơng.
Sao em nỡ lịng lúa khơ ngồi đồng.
Sao em nỡ lịng.


Người về đây xin may áo cuới
Tặng người yêu vui trong lúa mới.
Tơi đón em đi về. Tơi đón em đi về.


Xây dựng lại tình q.


Hịa bình ơi, chờ trơng nhau như con chờ
mẹ


Chờ trơng nhau như gió mùa hè
Chờ trơng nhau nắng đẹp tình q
Hịa bình ơi, ơi hịa bình ơi


Ba muơi tuổi đời thốt từ vành nơi


Ba muơi năm truờng khổ đau nhiều rồi.
Về đây hỡi người ơi! Về đây hỡi người
ơi...!


HBT - 15-06-07


<b> --- Ngày Đá Đơm Bông</b>
<b>Ca sĩ:</b> Duy Khánh


<b>Nhạc Sĩ:</b> Trịnh Lâm Ngân


Buổi tối ngủ trên đồi hỏi hòn đá nhỏ


Con đường nào, con đường nào dẫn đến một dòng sơng
Một dịng sơng mà em vẫn thường ra ngồi giặt áo
Và con đò, và câu hò theo nước trôi xuôi


Buổi sáng ngồi trên rừng hỏi ngàn lá đổ


Con đường nào, con đường nào dẫn đến một miền quê
Một miền quê trời hanh nắngm ruộng khô cằn sỏi đá
Đợi mưa về, đợi mưa về cho lúa đơm bơng


Ơ hơ hớ q mình giờ đây con sơng xưa thuyền có xi ngược
ơ hơ hớ kẽo kẹt võng đưa ơ hờ hờ ...tiếng ru ngọt mơi


Thường những buổi trưa buồn hỏi mình khe khẽ


con đường nào, con đường nào dẫn đến những ngày xưa
Ngày xưa đó mẹ ra đứng cười rung làn tóc trắng



Tre cuối làng, cầu sau vườn theo gió đong đưa
Buổi sáng hỏi mây trời đi hồi có rõ


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

Ngày vui đó bầy chim sáo rủ nhau về xây tổ
Mưa sẽ về, mưa sẽ về cho đá đơm bông


<b> --- Ngày Trở Về (1975)</b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Phạm Duy - <b>Ca sĩ:</b> Duy Khánh
Ngày trở về, anh bước lê


Trên quãng đường đê đến bên lũy tre
Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè cười
đón người về


Mẹ lần mị, ra trước ao


Nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ
Tiếc rằng ta, đơi mắt đã lịa vì q đợi
chờ


Ngày trở về, trong bếp vui


Anh nói chuyện nghe: chuyện đời chiến sĩ
Sống say mê, đường xa lắm khi nương
hồn về quê


Chiều lặn tà, anh bước ra



Vườn khuya sáng mờ, ruộng đất hoang vu
Luống nghẹn ngào, hẹn sớm tinh mơ anh
về đồng lúa.


Ngày trở về, có anh nơng phu chống nạng
cày bừa


Vì thương yêu anh nên ngày trở về
Có con trâu xanh hết lịng giúp đỡ
Ngày trở về, lúa ngơ thi nhau hát đùa
trước ngõ


Gió mát trăng thanh, ôi ngày trở về
Có anh thương binh sống đời hịa bình.


Ngày trở về, những đóa hoa


Thấm thốt mười năm nhớ anh vắng xa
Có nhiều khi đời hoa chóng già vì thiếu
mặn mà


Đàn trẻ đùa bên lũ trâu


Tiếng hát bình minh thống trên bãi dâu
Gió về đâu, cịn thương tiếc người giọng
hát rầu rầu.


Người kể rằng : Ai hỡi ai


Ai nhớ chuyện ai, chuyện người con gái


Chiến binh ơi, vì sao nát tan gia đình yên
vui


Đừng giận hờn, thơi tiếc thương
Vì Xn đã về trên khắp q hương
Chớ thẹn thuồng vì nếu tơi quen em ngồi
đồng vắng.


Ngày trở về, có anh thương binh lấy vợ
hiền lành


Người đẹp bên anh, ta cùng học hành
Những khi tan công, hết việc, xếp gánh
Ngày lại ngày có em vui tươi xách gạo
bến nước


Có nắm cơm ngon, ơi trời lạnh lùng
Có đơi uyên ương sống đời mặn nồng
Ôi trời lạnh lùng


Có đơi un ương sống đời mặn nồng


<b> </b>


<b> --- Lối Về Đất Mẹ - </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

Ngày qua giã từ đất mẹ mà đi
Vì nghe tình quê tình nước đơi bề
Nước chia hai đường nước chưa về
Trót thương cho người lỡ câu thề



Lên đường từ ly, hỏi rằng lịng lưu luyến


Mẹ ơi chỉ cịn đất mẹ mà thơi
để con, cịn đi gìn giữ cho đời
đã mang trong lịng kiếp con người
Phải thương nhau hoài chớ quên lời
Mong một ngày mai chan hòa đất mẹ
niềm vui


À ơi ... à ơi ...à ơi


Mẹ thương con ra cầu ái tử
Vợ trông chồng lên núi vọng phu
Chiều chiều trơng về viễn khu
Lịng căm hờn ốn qn thù
À ơi ... à ơi ...à ơi


Chiêù nay lơí về ðât' mẹ là ðây


ðương` xưa con` âp' bong' trÔng gõ
Cú nghe ờm trng` tiờng' ai cươì
Có nghe ðêm trương`tiêng ru hơì
Sí lệ ðoan` viên giưã long` ðât' mẹ
triên` miện


HBT-09-05-08


<b> --- Những Đóm Mắt Hỏa Châu</b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Hàn Châu - <b> Ca sĩ:</b> Duy Khánh
Có những đêm dài, anh ngồi nhìn hỏa châu rơi


Nghe vùng tâm tư cháy đỏ xoay ngang lưng trời
Những đóm mắt hỏa châu bừng lên trong màn tối
Như mắt em sáng ngời, theo anh đi ngàn lối


Những đêm không ngủ anh ngồi tâm sự cùng hỏa châu rơi..
( => ĐK:... )


Dưới ánh châu hồng, anh ngồi gọi thầm tên em
Mơ một ngày mai pháo nổ vang trên lối về
Những đóm mắt hỏa châu là hoa đăng ngày cưới
Khi chiến chinh hết rồi, tương lai ta tìm tới


Có nhau trong đời đêm trường khơng sợ lạc lồi u thương...
Đ.K.:


Ơi đẹp làm sao, màu hỏa châu


Đêm đêm tô son, tô phấn những con đường
Ôi những con đường mang nặng đau thương
Cho anh nhận diện quê hương giữa đêm đen buồn
Bằng những giịng sơng chảy xi đêm trường
Ơi những giịng sơng nhẫn nhục đau thương...
( => Dưới ánh ... )


<b> </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

<b> Ca sĩ:</b> Hương Lan


<b>Nhạc Sĩ:</b> Hàn Châu
Khi vũ trụ lên đèn


Thành phố ngã nghiêng
Men rượu say mềm
Tuổi thơ đi hoang
Nghìn đêm trốn ngũ
Phần ba tuổi đời
Hoang phế sau lưng
Nay góp mặt góp lời
Làm lính mà thơi
Đối diện đây rồi
Từng đêm quê hương
Đạn bay súng nổ
Hỏa châu sáng tỏa


Những khuôn mặt người yêu phố thị


ĐK


Ngày nào đó
Tơi cịn thèm
Ánh sáng kinh đô


Thèm ly bia qua tiếng nhạc mơ hồ
Cùng ngàn nụ nười


Ánh mắt giai nhân
Nay trả lại cho người
Thành phố sau lưng


Môi ngọt rượu nồng
Giày sô tôi đi


Hằng trên lá cỏ
Đồn xa tôi ở


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

<b> --- Ngoại Ô Buồn</b>
<b> Ca sĩ:</b> Trường Vũ
<b>Nhạc Sĩ:</b> Chưa biết


Từ tiền tuyến tôi về, thăm căn nhà ngoại ơ,
thấy lịng thương vơ bờ .


Cũng con đường này đây,
cũng mái nhà này đây,
cịn mang kỷ niệm đầy
Nhưng trăng đêm nay,


khơng cịn tha thiết như những m trăng đắm say
Tơi nghe gió ru cây, chim kêu trên ngàn mây,


Triền miên man khắc khoải chìm giữa khung nhạc đêm dài
Năm xưa anh đi, từng đêm vạm võ vùng ngoại ô có người mong.
Hôm nao tôi đi, quê cũ thưa người vì hy sinh cho non sơng.
Hơn hai mươi năm, lửa binh tàn phá vùng ngoại ô lắm khổ đau


Tôi theo chân anh, vai súng lên đường cùng hiên ngang viết sử xanh .
Chạnh lòng thấy u hồi,


khi xưa mình ở đây, với tình u vơi đầy



Khóm hoa hàng dậu thưa, lối xóm mình còn kia, mà sao quá âm thầm.
Sương rơi miên mang, khơi nhiều nhung nhớ cho những ngày vui đã qua
Tơi quay gót ra đi, khơng mang theo gì hơn,


nhìn đêm khuya vắng vẻ càng thấy thương ngoại ô buồn


<b> </b>


<b> --- Đám Cưới Đầu Xuân</b>
<b>Ca sĩ:</b> Nhật Trường


<b>Nhạc Sĩ:</b> Trần Thiện Thanh


Ngày xửa ngày xưa đôi ta chung nón đơi ta chung đường.
Lên sáu lên năm đôi ta cùng sách đôi ta cùng trường.
Đường qua nhà em nghiêng nghiêng sân nắng,
nghiêng nghiêng mây hồng.


Chiều nao đuổi bướm, bướm bay vô vườn
mà nước mắt rưng rưng ...


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

nhụy thì đời trai vui chinh chiến


Anh xuôi miền xa bao lần đếm bước xuân qua
Anh ơi, kỷ niệm xưa em cịn giữ mãi trong lịng
Em biết khơng em, xn lại trở về,


đường rừng chiều hoang sương xuống.



Thương sao là thương trong màu tím sắc hoa xưa ...
Dĩ vãng đâu trôi về nhắc ta ngày xưa.


Chuyện xửa chuyện xưa,


chuyện từ xuân trước xuân nay chưa nhịa


Anh nói em nghe thương em từ lúc hoa chưa mặn mà
Cầu cho mùa xuân nồng nàn trên má em thơi đợi chờ
Giữa lịng chiều hoang nâng cánh sim rừng


Ngỡ màu hoa tím năm xưa ...


<b>--- Chuyện Tình Người Trinh Nữ Tên Thi</b>
<b>Ca sĩ:</b> Tuấn Vũ


<b>Nhạc Sĩ:</b> Hồng Thi Thơ


1.Thuở ấy xa xưa có một nàng một nàng thiếu nữ
Một đóa hoa hồng tình phơi phới tuổi mới trăng tròn
Cuộc đời hồng nhan cay và đắng thơi thì lắm trái ngang
Bao nhiêu trai làng yêu nàng


Đi theo xin nàng tim vàng
Nàng vẫn khơng màng
2.


Nàng đã trót u u một chàng một chàng nghệ sĩ
Tình hỡi ơi tình chàng đã có đã có gia đình



Người đời cười chê cho tình đó như là gió với trăng
E sao dun mình khơng thành


Như bao cơ nàng thất tình
Nàng khóc một mình
Điệp khúc


Thi ơi Thi ơi Thi,Thi biết biết không Thi ?
Khi con tim yêu đương là sống với đau thương
Khi con tim yêu đương là chết với u sầu


Thì Thi đã biết cớ sao Thi buồn
3.


Nàng quyết ra đi xa làng mình người tình yêu dấu
Đời ngỡ chắc rằng nàng đã bước đã bước qua cầu
Mà nào ngờ đâu ơm tình ấy đi tìm dẫy núi cao
Đi sâu vơ rừng qn tình


Hay đi vơ rừng trốn mình
Tình vẫn u sầu


4.


Từ đó khơng ai ai còn gặp gặp nàng đâu nữạ


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

Rồi một mùa đơng chim nhìn thấy thấy nàng dưới gốc cây
Tương tư nhân tình khơn lường


Đau thương u tình vơ cùng


Nàng chết trong rừng


Thi ơi Thi ơi Thi,Thi biết biết không Thi ?
Khi con tim yêu đương là sống với đau thương
Khi con tim yêu đương là chết với u sầu


Thì Thi đã biết cớ sao Thi buồn
-<b>-- Hận Đồ Bàn</b>


<b>Ca sĩ:</b> Tuấn Vũ


<b>Nhạc Sĩ:</b> Xuân Tiên
Rừng hoang vu!


Vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù
Ngàn gió ru


Mn tiếng vang trong tối tăm mịt mù.
Vạc kêu sương!


Buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường.
Đàn đóm vương


Như bóng ai trong lúc đêm trường về.
Rừng trầm cô tịch


Đèo cao thác sâu
Đồi hoang suối reo
Hoang vắng cheo leo
Ngàn muôn tiếng âm


Tháng, năm buồn ngân ...


Âm thầm hòa bài hận vong quốc ca
Người xưa đâu


Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầụ
Lầu các đâu


Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu
Đồ Bàn miền Trung đường về đây ...
Máu như loang thắm chưa phai dấu


xương trắng sâu vùi khí hờn căm ...khó tan.


Kìa ngồi trùng dương đồn thuyền ai nhấp nhơ trên sóng xa xa tắp!
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga ...


Vượt khơi
Về kinh đô


Ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù ...
Triền sóng xơ


Mn lớp qn Chiêm tiến như tràn bờ ...
Tiệc liên hoan


Nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
Dạ yến ban


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

Người dân nước Chiêm


Lừng ghi chiến công
Vang khắp non sông.
Mộng kia dẫu tan.


Cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non.
Người xưa đâu


Mồ đắp cao hay đã sâu thành hào
Lầu các đâu


Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu
Đồ Bàn miền Trung đường về đây ...
Máu như loang thắm chưa phai dấu


xương trắng sâu vùi khí hờn căm ...khó tan.


Kìa ngồi trùng dương đồn thuyền ai nhấp nhơ trên sóng xa xa tắp !
Mơ bóng Chiêm thuyền Chế Bồng Nga ...


Người xưa đâu ?


<b>--- Những Đồi Hoa Sim</b>


<b>Ca sĩ:</b> Tuấn Vũ - <b>Nhạc Sĩ:</b> Dzũng Chinh - thơ/lời: Hữu Loan
1.


Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt
Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi cịn tóc búi vai!
Mấy lúc xơng pha ngồi trận tuyến



Ai hẹn được ngày về rồi một chiều mây bay
Từ nơi chiến trường đơng bắc đó


lần ghé về thăm xóm hồng hơn tắt sau đồi


Những chiều hành qn ơi những chiều hành qn
tím chiều hoang biền biệt


Một chiều rừng mưa được tin em gái mất
chiếc thuyền như vỡ đôi!


Phút cuối không nghe được em nói


khơng nhìn được một lần dù một lần đơn sơ
Để khơng chết người trai khói lửa


mà chết người em nhỏ hậu phương tuổi xuân thì


<i>Điệp khúc </i>


Ơi ngày trở lại nhìn đồi sim nay vắng người em thơ
ơi đồi sim tím chạy xa tít tan dần theo bóng tối
Xưa xưa nói gì bên em . . .


Một người đi chưa về mà đành lỡ ước tơ dun
Nói nói gì cho mây gió


Một rừng đầy hoa sim nên để chiều đi khơng hết
3.



Tím cả chiều hoang nay tím cả chiều hoang
đến ngồi bên mộ nàng


Từ dạo hợp hơn nàng khơng may áo cưới
thống buồn trên nét mi


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

Mà đường về thênh thang
Đồi sim vẫn còn trong lối cũ


Giờ thiếu người xưa ấy đồi hoang mới tiêu điều!


<b> --- Bài thánh ca </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

Bài thánh ca đó cịn nhớ khơng em
Noel năm nào chúng mình có nhau
Long lanh sao trời thêm đẹp môi mắt
Áo trắng em bay như cánh thiên thần
Giọt môi hôn dưới tháp chuông ngân
Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao
sang


Xin cho đôi mình suốt đời có nhau
Vang trong đêm lạnh bài ca Thiên Chúa
Khẽ hát theo câu đêm thánh vô cùng
Ơi giọng hát em mênh mơng buồn...
ĐK :


Rồi mùa giá buốt cũng qua mau
Lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu



Rồi một chiều áo trắng phai màu
Em qua cầu xác pháo bay sau


Lời nguyện mình Chúa có nghe khơng
Sao bây giờ mình hồi xa vắng


Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian
Bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu


Rồi những đêm thánh đường đón Noel
Lang thang qua miền giáo đường dấu
yêu


Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối
Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn
Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi ...
HBT-05-12-07


<b> </b>


<b> --- Xa </b>

<b> </b>

<b>vaé</b>

<b> ng </b>

<b> - </b>

Nhạc Sĩ: Y Van - Ca sĩ: Phuong Dung


<b> </b>



Lời: Ý thơ: Đặng Trần Cơn, Đồn Thị Điểm


Ý thơ: Chinh Phụ Ngâm Khúc (Đặng Trần Cơn, Đồn Thị Điểm)
"Nương song luống ngẩn ngơ lòng


Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai!



Ngày anh xa vắng


Em không trang điểm đợi chờ
Những đêm gió lạnh đầu hè
Khuê phịng phủ kín tâm tư
Nhìn từng hạt mưa sa
Thương đời biển sầu bao la
Để cho cành hoa héo khơ
Lỡ cung ái ân xn thì
Ngày anh xa vắng


Phấn son xếp lại chẳng dùng
Trắng đêm đối ngọn đèn tàn
Trăng mờ lạnh giấc cô miên
Đợi chàng một hai năm
Hay là cả đời xuân xanh
Ngày nao đầu pha tuyết sương
Vẫn mong tái ngộ một lần


Chàng đi chinh chiến
Gieo neo rừng khuya


Là mong chiến thắng vai mang vòng hoa
Còn em khuya sớm chăm lo miền quê
Cho lúa lên ngơi hai mùa


Sống cho tình u thế hệ
Ngày anh xa vắng


Tóc bng giữ vẹn lời thề


Ước mong ngấn lệ ngày về
Thay dòng nước mắt chia ly
Vì trời làm phong ba


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

<b> --- Chuyện Hoa Tigôn</b>
<b>Ca sĩ:</b> Như Quỳnh -


<b>Nhạc Sĩ:</b> Anh Bằng- Thơ: TTKH
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng biết buồn
Nhuộm ánh trăng tà qua mái tóc
Tơi chờ người đến với u thương
Người ấy thướng hay vuốt tóc tơi
Thở dài khi thấy tôi hay cười
Bảo rằng hoa sáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng thế thơi
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Từ mùa thu trước rất xa xơi
Đến nay tơi hiểu thì tơi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi


ĐK:


Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời hỡi người ấy có buồn khơng
Có cịn nghĩ tới lồi hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa màu hồng
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Từ mùa thu trước rất xa xơi
Đến nay tơi hiểu thì tơi đã


Làm lỡ tình dun cũ mất rồi
Nếu biết rằng tơi đã lấy chồng
Trời hỡi người ấy có buồn khơng
Có cịn nghĩ tới lồi hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng...


<b> --- Đám Cưới Trên Đường Quê</b>
<b> Ca sĩ:</b> Sơn Ca & Tuấn Minh


<b>Nhạc Sĩ:</b> Hồng Thi Thơ
Ơ ! ơ ! sáng hôm nay trên quê hương
tôi,


Quê hương xinh xinh quê hương hữu tình,
Quê hương xinh xinh quê hương hịa
bình,


Đường nở hoa trắng, xanh, vàng, tím,
Đẹp làm sao bướm bay chập chờn.
Đàn chim non véo von ngọn tre,
Khăn mầu son, áo mầu vàng,
Ơi, bà con đến xem mùa cưới !
Chân hài cong, tay dù hồng.


Lâu thật lâu mới thấy được một ngày vui !
Ơ ! ơ ! sáng hơm nay q tôi ra xem
Cô dâu con con y trang mỹ miều.
Cô dâu non non dung nhan mặn mà.
Chà ! nhà ai có ơng rể q.



Chà ! nhà ai có cơ dâu hiền.
Ồ ! ngộ thay có con lợn quay,
Xôi đầy mâm, cau đầy buồng.
Đây nguồn vui hiếm hoi ngày cưới.
Trông thật hay, trông buồn cười.


Ra mà xem mới thấy được cả niềm vui !
Anh anh ơi ! Người tình tơi ơi !


Anh anh ơi ! Xem người ta họ cưới nhau
rồi !


Em em ơi ! Người tình tơi ơi !


Em em ơi ! Chuyện chúng mình đã tính
sao chưa ?


Anh anh ơi ! Người tình tôi ơi !


Anh anh ơi ! Xem người ta họ cưới nhau
rồi !


Em em ơi ! Người tình tơi ơi !


Em em ơi ! Chuyện chúng mình cũng tính
đi thơi


<b> </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

<b> Nhạc Sĩ:</b> Thông Đạt<b> - Ca sĩ:</b> Trúc Mai


Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng quắt


Nghe đâu đây tiếng vọng hịa bình
Lệ nhạt nhịa đơi mắt long lanh
nghe tin con vẫn còn ngày xanh
Một cành hoa em cài mái tóc
Anh đưa em qua quãng đường dài
Về thành đô anh may áo cưới
Ta thương nhau xây dựng ngày maị


Ta yêu người, ta yêu đời, ta yêu mình,
tình mình đừng phai


Xin em đừng qua vùng cỏ hoang


Xin em đừng, đến những nơi chim xanh
hoan ca


Cuộc tình nào không vào đam mê
Anh xin em giữ trọn lời thề


Tình mình nghèo người đời khen chê
Ta thương nhau giữ trọn tình quê


<b> </b>


<b> --- Tình Em Biển Rộng Sơng Dài - </b>
<b> Nhạc Sĩ:</b> Thông Đạt - <b>Ca sĩ:</b> Tuấn Vũ


Hịa bình ơi,



Tình u em như sơng biển rộng.
Tình u em như lúa ngồi đồng.
Tình u em tát cạn biển đơng.
Hịa Bình ơi, ơi hịa bình ơi


Sao em nỡ lịng kẻ đợi người trơng.
Sao em nỡ lịng lúa khơ ngồi đồng.
Sao em nỡ lịng.


Người về đây xin may áo cuới
Tặng người yêu vui trong lúa mới.
Tơi đón em đi về. Tơi đón em đi về.


Xây dựng lại tình q.


Hịa bình ơi, chờ trông nhau như con chờ
mẹ


Chờ trông nhau như gió mùa hè
Chờ trơng nhau nắng đẹp tình q
Hịa bình ơi, ơi hịa bình ơi


Ba muơi tuổi đời thốt từ vành nơi
Ba muơi năm truờng khổ đau nhiều rồi.
Về đây hỡi người ơi! Về đây hỡi người
ơi...!


HBT-2-9-07



<b> --- Linh Hồn Tượng Đá</b>


<b> Ca sĩ:</b> Minh Thông, Khải Tuấn
<b>Nhạc Sĩ:</b> Mai Bích Dung - 1970


Trên dốc đá tơi tình cờ quen nàng
Ngồi bên nhau gọi tên nhau để rồi xa
nhau


Em đã đến và đã đến như áng mây
Như cánh chim bay qua bầu trời
Ơi hình hài một vài giờ vui


Tơi muốn nói lên trọn lời êm đềm


Kề tai em bằng con tim một người yêu em
Trưa nắng cháy sợ gió núi xơ sóng khơi
Tan vỡ mau nên tơi nghẹn lời


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

Mà khi rời gót lịng đầy cô liêu
Nên xa em rồi tôi nhớ em nhiều
Em ơi, em ơi thà không gặp gỡ
Thà đừng quen nhau


Đừng cho hình bóng, đừng nhình nhau
lâu


Tôi không ôm ấp kỷ niệm đớn đau


Tôi đứng đó như hình một pho tượng


Chờ ai đây đợi ai đây và tìm ai đây
Nghe nuối tiếc gào thét giữa mn sóng
khơi


Nghe trái tim rung lên bồi hồi
Mong gì gặp lại lần thứ hai


<b> --- Lòng Mẹ</b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Y Vân - <b>Ca sĩ:</b> Mạnh Quỳnh
Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt


rào,


Tình Mẹ tha thiết như giịng suối biển
ngọt ngào, Lời Mẹ êm ái như đồng lúa
chiều rì rào. Tiếng ru bên thềm trăng tà
soi bóng Mẹ u .


Lịng Mẹ thương con như vầng trăng trịn
mùa thụ.


Tình Mẹ u mến như làn gió đùa mặt hồ.
Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ.
Nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát
trẻ thơ


Thương con thao thức bao đêm trường,
Con đà yên giấc Mẹ hiền vui sướng biết
bao



Thương con khuya sớm bao tháng ngày
Lặn lội gieo neo ni con tới ngày lớn
khơn.


Dù cho mưa gió không quản thân gầy Mẹ
hiền.


Một sương hai nắng cho bạc mái đầu
buồn phiền.


Ngày đêm sớm tối vui cùng con nhỏ một
niềm.


Tiếng ru êm đềm mẹ hiền năm tháng triền
miên.


Lòng Mẹ chan chứa trên bao xóm làng
gần xa


Tình Mẹ dâng tới trăng ngàn đứng lặng để
nghe,


Lời ru xao xuyến núi đồi suối rừng rặng
trẹ


Sóng ven Thái Bình im lìm khi tiếng Mẹ
ru


Một lịng ni nấng vỗ về những ngày


cịn thơ


Một tình thương mến êm như tiếng đàn
lời ca


Mẹ hiền sớm tối khuyên ngủ bao lời mặn
mà.


Khắc ghi bên lòng con trẻ muôn bước
đường xa


Thương con Mẹ hát câu êm đềm,
Run lịng thơ ấu quản gì khi thức trắng
đêm.


Bao năm nước mắt như suối nguồn.
Chảy vào tim con mái tóc chót đành đẫm
sương.


Dù ai xa vắng trên đường sớm chiều về
đâu


Dù khi mưa gió tháng ngày trong đời bể
dâu


Dù cho phai nắng nhưng lòng thương
chẳng lạt mầu


Vẫn mong quay về vui vầy dưới bóng mẹ
yêu



</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

<b> Nhạc Sĩ:</b> Trần Thiện Thanh - <b> Ca sĩ:</b> Cẩm Ly
Ngày nào anh yêu em, anh đã quen trong cay đắng tuyệt vời.


Ngày nào em yêu anh, em hẳn quên với trời hạnh phúc mới
Em ơi Đông lại về từ trăm năm lạnh giá


Tim anh như ngừng thở, từ sau ân tình đó ...
Em nghe khơng? Mùa đơng, mùa đông


Ngày nào ta xa nhau, anh bước sâu trong vũng tối nhạt nhịa
Từng mùa đơng theo qua, anh đã quen với đường đời băng giá
Xưa hôn em một lần, rồi đau thương tràn lấp


Anh yêu em một ngày và xa em trọn kiếp


Nên anh yêu mùa đông, nên anh yêu mùa đông, ôi Mùa Đông của anh.
<i>Điệp khúc: </i>


Anh chỉ là người điên trong vườn hoa tình ái.
Anh chỉ là người say bên đường em nhìn thấy.


Anh đi đi, người điên không biết nhớ và người say không biết buồn ...
Những cuộc tình dương gian, mn đời khơng nghĩa lý ...


Nhưng người vẫn tìm nhau trong vịng tay tình ý


Như đơi ta ... niềm u xưa chỉ cịn một vì sao anh lẻ loi.
Trời lập đơng chưa em, cho lũ dơi đi tìm giấc ngủ vùi



Để mặc anh lang thang, ôm giá băng ngỡ thầm người yêu tới.
Đêm chia ly em về, đường khuya em bật khóc ...


Anh xa em thật rồi, làm sao qn mùi tóc


Em hỡi em, có phải tình băng giá là tình đẹp trên thế gian
...


Em hỡi em, có phải tình băng giá là tình nồng hai chúng ta .


<b> --- Mười Năm Tình Cũ - </b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Trần Quảng Nam<b> - Ca sĩ:</b> Tuấn Vũ
Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ


Mây bay bao năm tưởng mình đã quên
Như mưa bay đi một trời thương nhớ
Em ơi ! Bên kia có cịn mắt buồn?
Mười năm cách biệt một lần bỡ ngỡ
Quên đi quên đi mộng buồn bấy lâu
Nhưng em yêu ơi ! Một vùng ký ức
Vẫn còn trong ta cả một trời yêu
Cả một trời yêu bao giờ trở lại
Ôi ! Ta xa nhau tưởng chừng như đã
Ôi ! Ta u nhau để lịng cứ ngỡ
Tình bất phân ly - tình vẫn như mơ
Đành nhủ lịng thơi giã từ kỷ niệm


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

Mười năm không gặp
Mười Năm Nhớ Thương !



<b> --- Nhớ Người Yêu</b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Hoàng Hoa - Thảo Trang<b> - Ca sĩ:</b> Chế Linh


Thức trọn đêm nay để nhớ thương anh
Em nghe tình yêu nhắc nhở êm đềm
Nhớ từng nụ cười ánh mắt


Nhớ lời ngọt ngào âu yếm
Tóc em thơm giấc ngủ dịu hiền.
Biết giờ này anh nhớ em khơng
Có nghe tình u thức dậy trong lịng
Đếm từng màu thời gian đến


Bóng hình người mình u mến
Ơi nhớ gì hơn nhớ người u.


Anh ơi lịng em thì rất chân thành
Ước nguyện trọn đời yêu anh
Chớ đừng giận hờn anh nhé
Em ơi đừng bao giờ nói chia lìa
Sẽ làm tội nghiệp anh lắm


Đã thương nhau chớ phụ tình nhau.
Thức trọn đêm nay để nhớ thương anh
Sương rơi lạnh câm cảnh vật im lìm
Ước gì mình đừng ngăn cách
Ước gì nhà mình chung vách



Hai đứa mình thức trắng đêm nay...!


<b> </b>


<b> --- Nỗi Buồn Đêm Đông</b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Anh Minh -<b> Ca sĩ:</b> Phương Dung
Anh ở biên thùy có nhớ khơng?


Đêm nay có người đang ngóng trơng
(chờ)


Nhớ anh lệ thắm khăn tay
Ngắm con ngủ say giấc nồng
Bẽ bàng mộng ước đêm Đơng.
Ơi buổi ban đầu mới biết nhau
Đêm trăng ước mộng hai mái đầu
Ước sao mình sống bên nhau
Dẫu cho gió mưa bão bùng


Thề yêu nhau đến muôn ngàn sau


ĐK:


Anh đi ải xa miệt mài


Phong ba bước chân đường dài
Niềm thương hòa chung non nước
Hẹn nhau ngày mai thái bình
Tình đơi ta mãi khơng lìa xa.


Xuân sẽ không về lúc chiến chinh
Mang theo cuối trời câu khấn nguyện
Nhớ anh nhìn bóng con thơ


Tiếng ru nét mơi mỉm cười


Niềm tin u xóa tan sầu thương...


<b> --- Nỗi Buồn Hoa Phượng - </b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> ::: Thanh Sơn - <b>Ca sĩ:</b> Phương Dung
Mỗi năm đến hè lịng man mác buồn,


Chín mươi ngày qua chứa chan tình


thương


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

Phút gần gủi nhau mất rồi
Tạ từ là hết người ơi!


Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng,
biết ai cịn nhớ đến ân tình xưa


Đường xưa in bóng hai đứa nay đâu,
những chiều hẹn nhau hết rồi,


giờ như nước trôi qua cầu.


Giã biệt bạn lịng ơi! Thơi nay xa cách rồi



Kỷ niệm mình xin nhớ mãi,


buồn riêng một mình ai chờ mong từng
đêm gối chiếc


Mối u hồi này ai có haỵ


Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn,
Cảm thông được nỗi vắng xa người
thương.


Màu hoa phượng thắm như máu con tim,
mỗi lần hè thêm kỷ niệm


Người xưa biết đâu mà tìm


<b> Nỗi lòng người đi - </b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Anh Bằng - <b> Ca sĩ:</b> Anh Khoa
Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu


Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ


Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa
Tơi xa Hà Nội năm em mười sáu xn trịn đắm say
Đơi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy


Bạn lịng ơi! Ngày ấy tơi mang cây đàn quen sống ca vui bên nàng
Nay khóc tơ dun lìa tan



Giờ đây biết ngày nào gặp nhau


Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu


Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ


Hơm nay Sài Gịn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi


trong bùi ngùi


Sài Gịn ơi! Mộng với tay cao hơn trời


Tơi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi


<b> --- Thương Quá Việt Nam</b>
<b> Nhạc Sĩ:</b> Phạm Thế Mỹ - <b>Ca sĩ:</b> Tuấn Vũ


Em nghe gì khơng hỡi em
Con chim nó hót vang đầu hè
Em thấy gì khơng hỡi em
Con chim nó múa trên cành tre
Hót đi chim, hót đi chim
Hót cho hồng mặt trời quê ta
Hót đi chim, hót đi chim
Hót cho đời nhọc nhằn trơi xa
Chim trên đồng chim trên non
Chim tung cánh xóa tan sương mù


Chim trong hồn chim trong tim


Ôi thương quá tiếng chim việt Nam
2.


Hoa cúc vàng trên sân anh
Xinh như áo mới em ngày nào
Hoa nắng hồng trên quê anh
Xinh như má thắm em ngày xanh
Nắng lên đi, nắng lên đi


Nắng lên hồng nụ cười quê em
Nắng lên đi, nắng lên đi


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

Hoa thơm ngát thế gian đêm buổn
Hoa trên đồi hoa trên mơi


Ơi thương quá cánh hoa việt Nam
3.


Trăng sáng ngời trên môi hoa
Trăng lên tiếng hát vui đêm già
Trăng sáng ngời trên non xa
Trăng xua bóng tối trong hồn ta
Sáng lên trăng, sáng lên trăng
Sáng cho ngưởi tìm về bên nhau
Sáng lên trăng, sáng lên trăng
Sáng cho tình ngưởi nở đêm sâu
Trăng mn đời trăng mn nơi
Trăng đem bóng mát cho mn người


Trăng thanh bình trăng n vui


Ơi thương q ánh trăng Việt Nam
4.


Bao nhiêu đèn bao nhiêu hoa
Bao nhiêu nến thắp lên trong hồn
Yêu quê Mẹ yêu quê Cha


Yêu luôn những mái tranh làng xa
Thắp tim lên thắp tim lên


Thắp cho tình người dậy trong ta
Thắp tim lên thắp tim lên


Thắp cho mặt trời dậy trong ta
Yêu thương người yêu thương ta
Yêu luôn những thú hoang rừng già
Yêu bạn bè như yêu ta


Ôi thương quá trái tim Việt Nam


<b> --- Tình Lỡ</b>


<b> Nhạc Sĩ:</b> Thanh Bình . 1969 - <b>Ca sĩ:</b> Tuấn Vũ
Thơi rồi cịn chi đâu em ơi


Có cịn lại chăng dư âm thôi


Trong cơn thương đau men đắng môi


Yêu rồi tình yêu sao chua cay


Men nào bằng men thương đau đây
Hỡi người bỏ ta trong mưa bay
Phương trời mình đi xa thêm xa
Nghe vạn mùa thu sau lưng ta
Em ơi, em ơi! Thu thiết tha
Ơi người vì ta qua phong ba
Có cịn gì sâu trong tâm tư
Mắt lệ mờ hoen dư âm xưa


Một vầng trăng vỡ đã thôi không theo
nhau


Cuộc tình đã lỡ với bao nhiêu thương
đau


Hết rồi thơi đã khơng cịn gì thật rồi
Chỉ cịn hiu hắt cơn sầu khơng ngi
Con đường mình đi sao chơng gai
Bước vào đời nhau qua bao nay
Em ơi, em ơi! Sao đắng cay
Thôi đành vùi sâu tâm tư thơi
Hết rồi cịn chi đâu em ơi


Hết rồi còn chi đâu em ơi

<b> Xin Còn Gọi Tên Nhau Nhạc Sĩ: Trường Sa - Ca sĩ: Kiều Nga </b>



Tiếng hát bay trên hàng phố bâng khuâng
Chiều đong đưa những bước chân đau


mòn


Chợt nghe mùa thu bay trên trời khơng
Cịn ai giữa mênh mơng đời mình
Nỗi đau mù lấp trên tuổi thơ...
Phố vẫn hoang vu từ lúc em đi
Rồi trong mưa gió biết ai vỗ về
Bàn tay nào đưa em trong lần vui


Bằng những tiếng chim non thì thầm
Cho ngày tháng ưu phiền em quên...
Tình trong cơn ngủ mê


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

Cho tình càng thêm say


Tiếng hát ru em cịn nuối trên mơi
Lời nào gian giối cũng xin qua rồi


Để lỡ ngày sau khi ta cần nhau
Cịn ni chút êm vui ngày đầu
Cho mình mãi gọi thầm tên nhau...!


<b> -- Yêu 1 mình - </b>Nhạc Sĩ:<b> Trịnh Lâm Ngân - </b>

<b>Ca sĩ: Thiên Trang </b>


Nhà em có hoa vàng trước ngõ


Tường thật là cao, gió leo cây kín rào
Nhà anh cuối con đường ngoại ô


Vách thưa đèn dầu thắp, gió lùa vào từng
đêm



Tuổi em cũng như hoa mới nở


Vạn người thầm mong được đưa đón chân
em


Xót xa anh cịn trắng tay hồi


Sách đèn nợ chưa dứt, nên lận đận truân
chuyên


Đôi ta đứa đầu sông cuối sông
Bao nhiêu cách trở mình em thơi


Đơi khi thấy lịng mình bâng khng
Biết ngỏ lời cùng ai, nghĩ rồi câm nín
hồi


Chiều nao pháo bay đầy trước ngõ
Tạ từ thơ ngây, dáng hoa đi lấy chồng
Đường quen bỗng bây giờ buồn tênh
Mỗi khi chiều gần xuống, thấy lòng mình
ngẩn ngơ


Ngày xưa tiếc sao mình khơng ngỏ
Để rồi chiều nay mình đâu thấy cơ đơn
Ván kia bây giờ đóng thuyền rồi


Có cịn gì đâu nữa, thôi đành hẹn trong
mơ...



<b>Xuân yêu thương - Nhạc Ngoại Quốc </b>


<b>- Lời Việt QUỲNH GIANG</b>



Xuân đã đến bên em
Dáng xuân tuyệt vời
Xuân đã đến bên người,


Xin người hãy cùng em vui xuân.
Mang hạnh phúc cho đời


Gió xuân tuyệt vời


Mang say đắm cho người


Xin người hãy cùng em vui xuân


Còn nhớ phút giây gặp gỡ
Mùa xuân muôn hoa sắc hồng
Chiều xuống gió xn nồng cháy
Người cho mơi em ngỡ ngàng
Người đến cho tình em chợt mở
Mn hoa thổn thức.


Mang hạnh phúc tuyệt vời
Nhớ nghe anh yêu


Mang say đắm cho đời


</div>


<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×