Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

SKKN: Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ trong giờ làm quen với môi trường xung quanh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.26 KB, 37 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO TRẺ
TRONG GIỜ LÀM QUEN VỚI MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH


PHẦN MỞ ĐẦU
I/ Lý do chọn đề tài:
1.1 Cơ sở lý luận:
“ Xung quanh ta có bao điều kỳ lạ
Mà sao ta biết chẳng được bao nhiêu”
Đó là một câu hát rất quen thuộc đối với mọi người. Câu hát đã nói lên thế giới xung quanh ta
rất bao la rộng lớn, nó bao gồm tất cả các sự vật hiện tượng, cây cỏ, con vật, các vấn đề về tự
nhiên và xã hội. Chúng ta không thể đi đến hết tất cả mọi nơi, khơng thể tận mắt nhìn thấy hết
được các sự vật, hiện tượng nhưng con người ln có khát vọng muốn được khám phá, tìm
hiểu về thế giới xung quanh bởi vì thế giới xung quanh ta đó chính là mơi trường sống của
con người, nó lại là một kho tàng kiến thức vô tận ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
con người, cho nên con người ln có nhu cầu khám phá thế giới xung quanh thơng qua các
hoạt động để có những hiểu biết về thế giới, cải tạo thế giới nhằm phục vụ cho chính cuộc
sống của con người.
Nhu cầu khám phá, tìm hiểu về thế giới xung quanh của con người đã xuất hiện
ngay từ khi còn nhỏ, từ khi mới sinh ra trẻ đã có nhu cầu tìm hiểu, khám phá về thế giới xung
quanh và khi trẻ càng lớn thì nhu cầu đó ngày càng lớn hơn nhưng vì trẻ nhỏ chưa có vốn
sống, vốn kinh nghiệm, trẻ chưa thể tự khám phá được về thế giới xung quanh nên người lớn
phải giúp đỡ trẻ, phải tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia vào các hoạt động nhằm cho trẻ làm
quen, khám phá về môi trường xung quanh. Khi trẻ được làm quen với thế giới xung quanh sẽ
giúp trẻ tích luỹ được vốn sống, vốn kinh nghiệm, trẻ tích luỹ được những kiến thức, kỹ


năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ được phát triển tồn diện về các mặt: Đức- Trí – ThểMỹ- Lao cụ thể đó là:
+ Đối với phát triển trí tuệ: Khi trẻ được làm quen với mơi trường xung quanh sẽ giúp
trẻ biết được tên gọi, cấu tạo, đặc điểm, tính chất cơng dụng, cách sử dụng và các mối quan
hệ, liên hệ của các sự vật hiện tượng.


+ Đối với phát triển thể lực: Qua việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ
rèn luyện cho trẻ có một số kỹ năng vận động, giúp trẻ có thể lực tốt, có đầu óc, thoải mái,
sảng khoái.
+ Đối với giáo dục đạo đức: Qua việc cho trẻ l;àm quen với môi trường xung quanh sẽ
giáo dục cho trẻ có lịng u thiên nhiên, u cuộc sống, yêu cây cỏ, con vật từ đó trẻ có ý
thức chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên, biết cách cư xử tốt giữa con người với con người.
+ Đối với giáo dục thẩm mỹ: Khi cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ giúp
trẻ hiểu được cái đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống, từ đó trẻ biết yêu cái đẹp, biết hướng
tới cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp.
+Đối với giáo dục lao động: Qua việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ
hình thành và rèn luyện cho trẻ có một số kỹ năng lao động đơn giản.
- Như vậy: Thông qua việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ giúp trẻ
được phát triển toàn diện về các mặt, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển và đó
là mục đích hàng đầu của ngành học mầm non nói riêng và ngành giáo dục nói chung. Cho
nên, việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh là một việc làm rất thiết thực, cần thiết
và nội dung cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh đã được đưa vào trong chương
trình dạy trẻ thành một hoạt động và trẻ được học ngay từ độ tuổi nhà trẻ tới các độ tuổi tiếp
theo.


1.2. Cơ sở thực tế :
Trong thực tế, việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh đã được giáo viên
mầm non rất quan tâm, các giáo viên đã biết cách tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động
nhằm tìm hiểu về mơi trường xung quanh và hiệu quả đạt được rất cao. Đó là trẻ đã đã có
những kiến thức, những hiểu biết về một số sự vật, hiện tượng xung quanh như biết tên gọi,
cấu tao, đặc điểm, ích lợi… của sự vật hiện tượng, qua các hoạt động đã hình thành cho trẻ
một số kỹ năng góp phần phát triển tồn diện cho trẻ . Nhưng bên cạnh đó, vẫn cịn hiện
tượng là một số giáo viên chưa biết cách tổ chức hoạt động cho trẻ, chưa biết vận dụng những
biện pháp linh hoạt, sáng tạo vào trong quá trình dạy trẻ và đặc biệt là chưa biết thu hút sự tập
trung chú ý, sự tích cực tham gia vào các hoạt động của trẻ nên sự nhận thức của trẻ về thế

giới xung quanh còn chưa chắc chắc, trẻ còn hay quên, hay nhầm lẫn, chưa rèn luyện được kỹ
năng cho trẻ dẫn tới hiệu quả giáo dục chưa cao. Đứng trước vấn đề trên, là một giáo viên
mầm non đã lâu năm, tơi nghĩ rằng nếu tình trạng trên cứ diễn ra lâu dài thì sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng học của trẻ, ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ vì kiến thức của mơn
làm quen với mơi trường xung quanh có liên quan tới các mơn học khác, mà trẻ ở độ tuổi
mẫu giáo bé càng cần phải cho trẻ nắm bắt kiến thức một cách đầy đủ, chính xác, chắc chắn
để trẻ có cơ sở học tốt ở các lớp sau nên tôi đã nghiên cứu những nguyên nhân gây ra và
mạnh dạn đề ra một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ trong giờ làm quen với môi trường
xung quanh ở độ tuổi mẫu giáo bé ( 3- 4 tuổi)
II/. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu để nhằm mục đích tìm ra một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo
bé trong giờ làm quen với môi trường xung quanh để nâng cao hiệu quả giáo dục.


III/. Giới hạn nghiên cứu:

Căn cứ vào khả năng và điều kiện của bản thân, tôi chỉ nghiên

cứu một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo bé( 3- 4 ) tuổi trong giờ làm quen với
môi trường xung quanh và tiến hành thực hiện tại trường mầm non n Thanh - ng Bí Quảng Ninh
IV/ Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp gây hứng thú cho trẻ 3- 4 tuổi trong giờ làm quen
với môi trường xung quanh.
4. 2.Khách thể nghiên cứu :
V/ Giả thuyết nghiên cứu: Nếu tìm ra một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ trong giờ làm
quen với mơi trường xung quanh phù hợp thì sẽ giúp trẻ luôn luôn tập trung chú ý vào giờ
học, vào sự truyền đạt kiến thức của cô để ghi nhớ tốt hơn, trẻ sẽ ln ln tích cực tham gia
vào các hoạt động, từ đó chất lượng giờ dạy sẽ cao hơn, nhân cách của trẻ sẽ được hình thành
và phát triển hơn.
VI/ Nhiệm vụ nghiên cứu;

6.1 Hệ thống các vấn đề lý luận về hứng thú, chú ý của trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi .
6.2 Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân việc tổ chức giờ dạy làm quen môi trường xung
quanh cho trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi ở trường mầm non Yên Thanh- ng Bí- Quảng
Ninh.
6.3 Đề xuất một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi trường mầm non
n Thanh - ng Bí - Quảng Ninh trong giờ làm quen với môi trường xung quanh.
VII/ Phương pháp nghiên cứu:
*Phương pháp nghiên cứu lý luận:


*Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Dùng phương pháp quan sát, đàm thoại tự nhiên để
xác định thực trạng việc gây hứng thú cho trẻ, cách tổ chức tiết hoc làm quen với môi trường
xung quanh cho trẻ 3- 4 tuổi ở trường mầm non Yên Thanh.
* Phương pháp thực nghiệm; Dùng các biện pháp gây hứng thú cho trẻ áp dụng vào
trong giờ học Làm quen với môi trường xung quanh để chứng minh tính đúng đắn của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Qua các sản phẩm trẻ tạo ra mà có thể
đốn được thái độ của trẻ.
VIII/ Kế hoạch thực hiện:
Thời gian nghiên cứu:
+Từ 10/10/2008- 20/10/2008: Viết đề cương.
+Từ1/11/2008- 30/03/2009: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
+ Từ 01/04/2009-01/05/2009: Viết sáng kiến
+ Từ 02/05/2009-20/05/2009 : Duyệt- Sửa chữa đề cương và in

NỘI DUNG

CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN SỰ HỨNG THÚ- CHÚ
Ý



1. Khái niệm hứng thú: Khi con người hứng thú về một cái gì đó nghĩa là họ ý thức rõ ý
nghĩa của nó đối với mình và gây ra cho họ một tình cảm đặc biệt vì vậy con người làm việc
có hiệu quả cao hơn.
* Đặc điểm hứng thú của trẻ mẫu giáo:
- Hứng thú của trẻ mẫu giáo thường không bền vững, không ổn định. Trẻ dễ dàng di
chuyển hứng thú của mình từ đối tượng này sang đối tượng khác.
- Hứng thú của trẻ bền vững thường xuất hiện ở cuối tuổi mẫu giáo và chỉ trong những
điều kiện là việc dạy dỗ được tổ chức tốt.
- Để hình thành hứng thú, phát triển trí tuệ thì phải dạy trẻ trong tiết học. Trong thời
gian học phải trang bị cho trẻ những tri thức, kỹ năng tương đối có hệ thống về các lĩnh vực .
Trong tiết học, giáo viên đề ra cho trẻ những yêu cầu nhất định về mức độ và chất lượng lĩnh
hội các tri thức và luyện tập cho trẻ những kỹ năng và làm theo sự chỉ dẫn của cô, dần dần
hứng thú của trẻ bắt đầu có sự phân hố và bền vững tạo nên ở trẻ những nguyện vọng đó là
được tham gia tích cực vào các hoạt động để tiếp thu tri thức..
2. Khái niệm chú ý:
Chú ý là sự tập trung vào một hay một nhóm đối tượng , sự vật nào đó để định hướng hoạt
động đảm bảo điều khiển thần kinh tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có kết quả.
* Vai trị - đặc điểm của chú ý:
- Chú ý là điều kiện để tiến hành hoạt động của con người, làm tăng hiệu quả ghi nhớ,
làm tăng hứng thú và làm cho hoạt động có kết quả cao.
- Chú ý phụ thuộc vào độ mới lạ của kích thích, vật kích thích càng mới thì càng dễ
gây ra chú ý khơng chủ định, yếu tố bất ngờ cũng dễ gây ra chú ý khơng chủ định , yếu tố
kích thích yếu và quen thuộc thì dễ làm mất đi chú ý không chủ định .


- Chú ý phụ thuộc vào độ hấp dẫn của kích thích, phụ thuộc vào nhu cầu cảm xúc, hứng
thú của trẻ
- Những đối tượng mới mẻ, khác lạ thường gây nên sự chú ý.
- Những đối tượng gây ra sự hứng thú cũng làm cho con người chú ý một cách tự nhiên
và say mê.

- Chú ý không chủ định thường thể hiện nhiều nhất ở trẻ mẫu giáo.
* Sự chuyển hố từ chú ý khơng chủ định sang chú ý có chủ định và ngược lại:
- Trong quá trình dạy học khi tổ chức hoạt động chú ý cho trẻ, giáo viên phải tạo ra sự
chuyển hoá từ chú ý khơng chủ định sang chú ý có chủ định và ngược lại để đạt được hiệu
quả cao hơn bằng cách: Trước hết, tạo ra một đối tượng mới lạ, hấp dãn để thu hút sự chú ý
của trẻ ( chú ý không chủ định), tiếp theo giáo viên gợi ý, nêu rõ mục đích nhiệm vụ cần chú
ý và tổ chức sự chú ý để duy trì chú ý của trẻ được lâu hơn`. như vậy là đã chuyển chú ý từ
khơng chủ định sang chú ý có chủ định . Khi trẻ học căng thẳng vì trẻ tập trung chú ý quá lâu
thì giáo viên phải tạo lại cho đối tượng đang được chú ý một sức hấp dẫn mới, cuốn hút sự
chú ý của trẻ một cách tự nhiên, say mê mà vẫn không mệt mỏi( chuyển chú ý từ có chủ định
sang khơng chủ định)


CHƯƠNG II: TÌM HIỂU THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Thực trạng của việc tổ chức tiết học cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh ở
lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi - trường mầm non Yên Thanh - Uông Bí - Quảng Ninh.
- Trong thời gian đầu năm học tôi thấy các giáo viên đứng lớp đã thực hiện theo đúng
chương trình mà ngành, phịng đã quy định đó là đã tổ chức cho trẻ tham gia đầy đủ các hoạt
động làm quen với môi trường xung quanh theo các chủ đề. Các giáo viên đã thực hiện theo
đúng phương pháp bộ môn, thực hiện đầy đủ và đúng trình tự các bước, các phần, bài dạy có
đầy đủ nội dung kiến thức. Trong tiết dạy đã chuẩn bị đủ đồ dùng dạy học nhưng tôi thấy giờ
học đạt kết quả không cao. Trong giờ học, trẻ không tập trung chú ý, trẻ có vẻ mệt mỏi, chán
nản, uể oải, không chú ý nghe cô giảng bài, lười suy nghĩ. Có rất ít trẻ tham gia tích cực vào
các hoạt động , trẻ không hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến dẫn tới khả năng ghi nhớ, khả
năng quan sát, phân biệt và kỹ năng phân tích, so sánh của trẻ kém. Trẻ không nắm bắt được
kiến thức mà cơ giáo truyền đạt và có nhiều trẻ kiến thức nắm bắt được không chắc chắn, hay
quên, khi cô đặt câu hỏi thì trẻ khơng trả lời được, hoặc trả lời ấp úng, khơng chính xác, rõ
ràng.
Với tình trạng trên, nên chất lượng giờ dạy của lớp rất thấp, các tiết dạy trẻ làm quen với môi
trường xung quanh của lớp được nhà trường dự giờ chỉ đánh giá xếp loại đạt yêu cầu.

2. Nguyên nhân:


Qua một thời gian tìm tịi, suy nghĩ bằng việc sử dụng một số biện pháp như quan sát,
đàm thoại… ở trên lớp . Tơi đã tìm ra được một số nguyên nhân gây ra tình trạng trên tại lớp
như sau:
- Do đồ dùng trực quan của giáo viên chưa đẹp, cịn cũ, xấu, chưa phong phú về chủng
loại, ít sử dụng vật thật để dạy ttrẻ nên chưa thu hút được sự chú ý của trẻ .
- Do trong quá trình dạy học, giáo viên dùng phương pháp sử dụng lời nói nhiều, chưa
tạo nhiều cơ hội cho trẻ tham gia hành động với đối tượng nên chưa kích thích được sự tích
cực hoạt động của trẻ .
- Các hình thức dạy của giáo viên cứ lặp đi lặp lại nhiều lần, ít sử dụng những hình
thức mới lạ, sáng tạo, hấp dẫn để thu hút sự chú ý của trẻ.
- Lời nói của giáo viên chưa gây được hứng thú, chú ý của trẻ, chưa lôi cuốn được trẻ
vào việc tích cực khám phá đối tượng.
Với những nguyên nhân trên tôi thấy: Muốn giờ học đạt kết quả tốt thì khơng
những phụ thuộc vào phương pháp dạy trẻ đúng chun mơn theo trình tự các bước, các
phần, đầy đủ nội dung mà còn phụ thuộc rất lớn vào sự tập trung chú ý, sự hứng thú và tích
cực hoạt động, sự say mê, ham hiểu biết , thích tị mị, khám phá của trẻ nên tơi đã dựa vào
đặc điểm tâm lý của trẻ để tìm ra một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ trong giờ làm quen
với môi trường xung quanh.
3.Một số thuận lợi và khó khăn của lớp :
*Thuận lợi: Năm học 2008- 2009 Lớp mẫu giáo 3A1- trường mầm non Yên Thanh,
đã luôn được sự quan tâm cuả phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường, được sự quan
tâm, giúp đỡ của phụ huynh đã đóng góp, ủng hộ kinh phí mua sắm một số đồ dùng đồ chơi
phục vụ cho môn học.


- Bên cạnh đó, hàng năm giáo viên đứng lớp còn được tham dự các buổi chuyên đề
của phòng, của trường tổ chức để học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ

- Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên thường
xuyên được tổ chức thăm lớp, dự giờ rút kinh nghiệm
- Các cháu ở lớp có cùng độ tuổi mạnh dạn thích học mơn làm quen với mơi trường
xung quanh
*Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi, trong quá trình thực hiện giáo viên cũng gặp
khơng ít những khó khăn sau :
- Các cháu phần đơng gia đình làm nơng nghiệp nên nhiều cháu cha mẹ cũng ít có thời
gian quan tâm đến con cái, ít có điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với một số sự vật, hiện tượng
nên kinh nghiệm của trẻ cịn hạn chế.
- Mơi trường cho trẻ hoạt động ở trường lớp cũng chưa phong phú (Chưa có nơi ni
một số con vật để cho trẻđược làm quen)

CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP
Qua một thời gian tìm tịi, nghiên cứu tôi thấy: Muốn gây được sự tập trung chú ý, sự hứng
thú tham gia tích cực vào các hoạt động của trẻ, khơi dậy được trí tị mị, khám phá, ham hiểu
biết của trẻ thì phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để tìm ra những biện pháp phù hợp
để đạt được hiệu quả giáo dục cao và tôi đã đưa ra những biện pháp sau:


1. Trong giờ học phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan đó là những đồ dùng phong
phú về chủng loại, có hình thức, màu sắc đẹp, đảm bảo tính thẩm mỹ, khoa học và phù hợp
với trẻ.
- Sử dụng đầy đủ đồ dùng trực quan phong phú về chủng loại đó là cơ phải sử dụng
các loại đồ dùng trực quan như tranh, ảnh, mơ hình, đồ dùng, đồ chơi, vật thật, màn hình…
bởi vì trẻ mầm non ln thích cái mới lạ, nếu trong giờ học cơ chỉ sử dụng một loại đồ dùng
trực quan hoặc tranh ảnh, hoặc đồ chơi, hoặc mơ hình thì sẽ gây cho trẻ sự chán nản, nhàm
chán. Mặt khác, mỗi loại đồ dùng đồ chơi đều có một ưu điểm, hạn chế riêng. Tranh ảnh thì
đẹp nhưng khơng sinh động , không thể hiện hết được những đặc điểm của sự vật, hiện tượng.
Vật thật thì giúp trẻ nắm bắt được đầyđủ, chính xác các kiến thức về đối tượng và sinh động
hơn tranh, ảnh nhưng khơng thể có đầy đủ các vât thật cho tất cả các tiết học và nhiều vật thật

khơng thể cho trẻ chơi trị chơi được cho nên giáo viên phải biết lựa chọn nhiều loại đồ dùng
trực quan để đưa vào trong tiết dạy và phù hợp với nội dung tiết dạy của mình sao cho vừa có
thể thuận tiện cho việc truyền thụ kiến thức của cơ, vừa có thể gây được hứng thú cho trẻ,
giúp trẻ tập trung chú ý, quan sát đối tượng, tích cực hoạt động với đối tượng để nắm bắt kiến
thức một cách dễ dàng, nhanh chóng, đầy đủ chính xác.
Việc sử dụng các loại đồ dùng trực quan phải phù hợp với nội dung từng tiết dạy.
Đối với những tiết chủ đề về mơi trường xã hội thì giáo viên nên lựa chọn tranh, ảnh để dạy
trẻ. Thông qua các bức tranh trẻ được quan sát sẽ giúp trẻ nắm bắt được những kiến thức mà
cô truyền đạt. Đối với đồ dùng trực quan là đồ chơi, cô có thể đưa vào trong các tiết dạy như:
Đồ chơi của bé, phương tiện giao thông, quả, rau, con vật…Qua những đồ chơi được làm
khéo léo, giống với thực tế sẽ giúp trẻ chú ý quan sát đồ chơi, chơi với đồ chơi để khám phá
những kiến thức về đối tượng


Vì trẻ mẫu giáo có sự tưởng tượng chưa phong phú, kinh nghiệm sống của trẻ cịn ít
nên cơ phải thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ . Khi cho trẻ được tiếp xúc với vật
thật thì trẻ sẽ thấy hấp dẫn và sinh động hơn vì vật thật là đối tượng cụ thể, chính xác nhất
giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng và chính xác và tồn diện hơn.
Ví dụ: Khi đưa ra những loai rau, quả, hoa thật…để dạy trẻ thì những vật thật đó sẽ
gây được sự chú ý đối với trẻ vì trẻ được nhìn thấy đối tượng một cách tồn diện hơn, được
ngắm nhình xung quanh vật một cách kỹ lưỡng. Mặt khác, trẻ còn được khám phá đối tượng
bằng cách hành động với đối tượng để khám phá ra đặc điểm của đối tượng một cách dễ
dàng, chính xác.
Hoặc khi cho trẻ làm quen với một số loại động vật thì giáo viên nên chuẩn bị
những con vật quen thuộc, dễ tìm như chó, mèo, gà, vịt, cá, tôm…để cho trẻ quan sát. Khi trẻ
quan sát những con vật đó thì trẻ thấy nó sinh động, đáng u hơn vì nó là đối tượng quan sát
động chứ khơng phải là tĩnh như tranh. Trẻ có thể nhìn thấy con vật nó đi lại, vểnh tai,
nghiêng đầu, kêu, ăn, bơi..cho nên với tính chất động của đối tượng quan sát sẽ lôi cuốn trẻ,
thu hút sự tập trung chú ý của trẻ vào việc quan sát và khám phá đối tượng .
Việc sử dụng màn hình, đèn chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực quan đồng thời

cũng là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giờ dạy. Thông qua những cảnh quay,
đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự mới lạ cho trẻ bởi vì tất cả các sự
vật hiện tượng trên thực tế đều có thể quay lại, chụp lại để đưa lên ,màn hình. Những hình
ảnh có thể là tĩnh như ảnh chụp và có thể là động như cảnh quay và qua những cảnh quay đã
diễn tả lại mọi hoạt động của các sự vật hiện tượng và với màu sắc đẹp của hình ảnh và tính
thực tiễn sẽ lơi cuốn trẻ, giúp trẻ có hứng thú tham gia vào việc khám phá kiến thức về đối


tượng. Mặt khác qua việc sử dụng màn hình sẽ mở rộng được nhiều kiến thức và khắc sâu
kiến thức cho trẻ hơn.
Việc sử dụng các đồ dùng trực quan phải được giáo viên sử dụng một cách linh hoạt
sáng tạo. Trong một tiết dạy, cô không nên sử dụng một loại đồ dùng từ đầu đến cuối mà cô
phải biết phối hợp sử dụng nhiều loại đồ dùng trực quan sao cho phù hợp, linh hoạt theo từng
phần để giúp trẻ khơng nhàm chán.
Ví dụ : Trong tiết dạy cho trẻ làm quen với một số loại rau cô có thể sử dụng các
loại đồ dùng như: Tranh lơ tơ, vật thật, màn hình, đồ chơi..kết hợp với nhau sao cho linh hoạt
và phù hợp như phần đầu giới thiệu bài cơ có thẻ cho trẻ đi thăm quan mơ hình vườn rau,
phần cung cấp kiến thức cơ cho trẻ làm quen qua các loại rau thật, phần luyện tập cơ cho trẻ
chơi trị chơi qua những đồ chơi rau nhựa, tranh lơ tơ và cơ có thể sử dụng màn hình đèn
chiếu vào các phần trong tiết học sao cho phù hợp với nội dung tiết dạy và sự thiết kế giáo án
của cô.
Việc kết hợp sử dụng các loại đồ dùng trực quan trong tiết học sẽ giúp cho trẻ có
cảm giác mới lạ, hấp dẫn trẻ, lôi cuốn trẻ, thu hút sự chú ý của trẻ, từ đó trẻ sẽ tham gia hoạt
động để khám phá kiến thức một các tích cực và có hiệu quả hơn.
* Vì trẻ mẫu giáo bé rất thích cái đẹp, cái mới lạ, hấp dẫn nên khi sử dụng đồ dùng
trực quan cô phải chú ý lựa chọn những đồ dùng đẹp, có màu sắc rõ ràng, rực rỡ, tươi tắn để
gây sự hấp dẫn dối với trẻ, vì khi cơ đưa ra những đồ dùng, đồ chơi đẹp thì những đồ dùng
đồ chơi đó sẽ nổi bật lên trong lớp khiến trẻ thích thú ngắm nhìn, quan sát chúng kỹ hơn,để
có thể dễ dàng khám phá ra những đặc điểm của đồ dùng đó.
Cụ thể : Khi sử dụng tranh ảnh để dạy trẻ thì cơ phải chọn những tranh cịn mới, có

màu sắc tươi tắn, dường nét rõ ràng, đẹp. Bức tranh vẽ phải giống với thực tế, có kích thước


vừa phải để trẻ tri giác. Cịn khi cơ sử dụng các loại đồ chơi để dạy trẻ thì cơ phải lựa chọn
những đồ chơi cịn mới, sạch sẽ, có hình dáng đẹp, giống với thực tế, có màu sắc hấp dẫn bởi
chính màu sắc, hình dạng và tính thẩm mỹ của đồ chơi đã lôi cuốn sự chú ý của trẻ khiến trẻ
tập trung chú ý quan sát để khám phá về đối tượng đó. Khi sử dụng vật thật thì cơ phải chọn
những vật tươi ngon có hình dạng đẹp, sạch sẽ, có màu sắc rõ ràng tươi tắn, có kích thước
vừa phải, khơng độc hại, nguy hiểm cho trẻ .Khi lựa chọn những con vật thì cơ phải chú ý
chọn những con vật khoẻ mạnh, sạch sẽ, đáng yêu để khi cô đưa ra những vật thật sẽ gây ra
cho trẻ sự cảm tình, thích thú khiến trẻ say mê khám phá đối tượng từ đó trẻ sẽ nắm bắt kiến
thức một cách dễ dàng và sâu sắc hơn
2. Trẻ mẫu giáo bé có đặc điểm nhận thức là : Nhận thức cảm tính là chủ yếu, trẻ chỉ
có thể nhận biết về các sự vật hiện tượng khi trẻ được tiếp xúc với đối tượng bằng các giác
quan, cho nên trong q trình dạy trẻ cơ phải tạo mọi cơ hội để trẻ có thể sử dụng nhiều giác
quan như thị giác, xúc giác, vị giác, thính giác, khứu giác để tham gia vào việc khám phá đối
tượng .
Không phải tiết dạy nào mà trẻ cũng có thể sử dụng cùng một lúc tất cả các giác
quan cho nên cơ phải lựa chọn các hình thức để trẻ sử dụng những giác quan để khám phá
kiến thức sao cho phù hợp với nội dung dạy trẻ.
Ví dụ: Đối với tiết dạy “ Một số loại quả”cô có thể cho trẻ sử dụng các giác quan
như thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác để trẻ khám phấ đối tượng. Trẻ sẽ dùng thị giác để
quan sát quả từ đó khám phá ra quả có màu sắc, hình dạng, kích thước như thế nào? Trẻ sẽ
dùng vị giác để nếm quả xem quả có vị gì mà khi trẻ được nếm trẻ sẽ rất thích thú, trẻ sẽ dùng
xúc giác để sờ quả xem quả nhẵn hay sần sùi, trẻ dùng khứu giác để ngửi quả xem quả có
thơm khơng?


Hoặc đối với tiết dạy trẻ nhận biết về một số phương tiện giao thơng , cơ có thể
cho trẻ sử dụng một số giác quan như thị giác, xúc giác, thính giác để khám phá kiến thức về

các phương tiện giao thơng đó là cho trẻ quan sát phương tiện giao thông ( xe đạp, xe máy đồ
chơi hoặc tranh ảnh…) qua thị giác để trẻ phát hiện ra cấu tạo, hình dạng, màu sắc của
phương tiện giao thơng, trẻ sử dụng thính giác để để nghe tiếng kêu của phương tiện giao
thông, được dùng xúc giác để sờ mó vào phương tiện giao thơng để từ đó trẻ sẽ trẻ nắm bắt
được những kiến thức về phương tiện giao thơng, trẻ có thể dễ dàng so sánh được sự khác
nhau của một số phương tiện giao thông một cách đầy đủ và chính xác nhất.
Việc trẻ được hành động với đối tượng là sờ mó, nếm ngửi, nghe…sẽ giúp trẻ rất
thú vị vì trẻ được trực tiếp hành động, trực tiếp tự mình khám phá đó chính là nhu cầu của trẻ
khiến trẻ sẽ có hứng thú, tích cực tham gia hoạt động để tìm hiểu, khám phá về đối tượng và
trẻ được tự nói lên suy nghĩ, ý kiến, nhận xét của mình về sự vật hiện tượng từ đó sẽ khắc
sâu kiến thức cho trẻ, giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách chắc chắn hơn.
3. Trẻ mẫu giáo có tính hiếu động, thích tị mị, khám phá đó chính là nhu cầu thiết
yếu của trẻ nên trong quá trình dạy trẻ bằng những đồ dùng trực quan cô phải cho trẻ được
hành động với đối tượng thông qua những việc làm cụ thể với đối tượng vừa để thoả mãn
nhu cầu của trẻ giúp trẻ sẽ có hứng thú. Mặt khác, khi cho trẻ hành động với đối tượng sẽ
giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng và khắc sâu kiến thức cho trẻ.
Khi cho trẻ làm quen với một số con vật. Muốn cho trẻ nhận biết được về tập tính
như sự đi lại, chạy, nhảy, cách ăn uống của con vật cơ có thể chuẩn bị một số thức ăn cho con
vật. Cô không nên cho con vật ăn mà cô cho trẻ tự tay đưa thức ăn cho con vật( cho gà, cá
ăn..). Khi trẻ được tự tay đưa thức ăn cho con vật thì trẻ sẽ rất thích thú và chú ý quan sát
xem con vật có ăn những thức ăn đó khơng, nó ăn như thế nào và trẻ quan sát một cách kỹ


lưỡng sẽ thấy con cá ăn cơm bằng cách đớp mồi, con gà ăn thóc, gạo bằng cách dùng mỏ mổ
thức ăn, con chó ăn cơn bằng cách dùng lưỡi liếm thức ăn. Những tập tính của con vật đã thể
hiện ngay ra trước mắt trẻ, trẻ được quan sát một cách trực tiếp sẽ giúp trẻ ghi nhớ một cách
sâu sắc hơn.
Hoặc đối với tiết dạy về quần áo và đồ dùng của bé. Trong tiết học này cô phải dạy
cho trẻ biết cách mặc quần áo. Muốn trẻ nắm được các kỹ năng về sử dụng quần áo và đồ
dùng một cách dễ dàng và nhanh chóng thì cô nên tổ chức cho trẻ tự mặc quần áo, lúc đó trẻ

được tự tay cầm vào quần áo đẹp do cơ chuẩn bị, được tự mình cho tay, chân vào ống quần,
tay áo, được tự cài cúc, chui đầu qua sự gợi ý, hướng dẫn của cô. Bằng các thao tác và hành
động trẻ sẽ thấy thích thú vì trẻ nhỏ rất thích được mặc quần áo đẹp, trẻ thấy vui sướng khi
được thực hiện nhiệm vụ do cô yêu cầu từ đó trẻ sẽ cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ.
Việc cho trẻ hành động với đối tượng sẽ giúp trẻ cảm thấy thoải mái, thích thú,
khích thích được tính tị mị ham hiểu biết ở trẻ từ đó trẻ sẽ dễ dàng nắm bắt được những kiến
thức mà cô truyền đạt.
4. Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo bé rất thích cái mới lạ, hấp dẫn sinh động, còn những cái
mà quen thuộc, lặp đi lặp lại nhiều lần gây cho trẻ sự nhàm chán cho nên trong q trình dạy
trẻ cơ phải lựa chọn những hình thức sao cho sinh động, hấp dẫn, sáng tạo và luôn có sự thay
đổi để lơi cuốn sự chú ý của trẻ đặc biệt là trong phần giới thiệu bài( vì đây là phần để gây
hứng thú cho trẻ nhiều nhất trong tiết học )
Khi cho trẻ khám phá các đối tượng cô không nên đưa luôn ra ngay đối tượng đó vì
nó sẽ mang tính chất khơ cứng, dập khn, máy móc, khơng tạo được sự hấp dẫn cho trẻ mà
cơ cần đưa ra những tình huống có vấn đề, những hinh thức sinh động, sáng tạo để lôi cuốn
sự tập trung , chú ý, khơi dậy trí tị mị, khám phá của trẻ .


Phần giới thiệu bài cơ có thể đưa ra những hình thức như cho trẻ chơi một trị chơi
nhỏ, cho trẻ đi thăm quan một vườn rau, vườn hoa.., cho trẻ đi tham dự sinh nhật hoặc cô kể
một câu chuyện ngắn hấp dẫn tạo ra tình huống có vấn đề để lôi cuốn trẻ, thu hút sự chú ý của
trẻ.
Việc lựa chọn những hình thức để đưa vào trong phần giới thiệu bầi phải phù hợp với
nội dung dạy, sao cho sinh động, hấp dẫn với trẻ. Những hình thức giới thiệu bài phải luôn
thay đổi trong các tiết học để cho trẻ khỏi bị nhàm chán.
Ví dụ: Phần giớithiệu bài của tiết dạy” Làm quen với một số loại rau” cơ có thể tổ
chức cho trẻ chơi một trị chơi “ Thi hái rau”. Cơ cho trẻ cùng nhau thi đua chạy ra vườn rau(
mơ hình vườn rau mà cô chuẩn bị) để hái những cây rau rồi mang về và trẻ được thi đua như
vậy trẻ sẽ rất thích thú, hăng hái muốn được kể về những cây rau mà trẻ mang về và mong
muốn cùng cô và các bạn khám phá, tìm hiểu về những loại rau đó.

Hoặc đối với tiết dạy cho trẻ làm quen với một số loại hoa, cây….cơ có thể cho trẻ đi
tham quan một vườn hoa, rau, cây…( mơ hình mà cơ chuẩn bị có nhiều loại hoa, rau có màu
sắc khác nhau, tươi, đẹp) trẻ sẽ được đi từ trong lớp ra ngồi sân, lúc đó, trẻ sẽ có hứng thú và
mong muốn được quan sát vườn hoa, rau đẹp mà cô vừa giới thiệu. Mặt khác, trẻ được vận
động, được đi ra ngoài trời sẽ tạo ra sự thay đổi, tạo khơng khí mới cho trẻ , khiến trẻ có cảm
giác dễ chịu, thoải mái, sảng khối và lúc tới nơi trẻ sẽ tập trung chú ý ngắm nhìn nhữngcây
hoa, cây rau thật vì màu sắc đẹp rực rỡ, tươi tắn từ đó tạo sự hứngthú cho trẻ, trẻ muốn khám
phá về đối tượng.
Đối với tiết dạy về một số loại quả, hoa, cơ cũng có thể đưa ra hình thức là kể một
câu chuyện ngắn, hoặc hình thức hội thi của một số loại hoa, quả. Các loại hoa, quả cùng
nhau khoe sắc, cùng nhau nói về mình( có thể qua mơ hình , rối hoặc qua một đoạn băng mà


cơ thiết kế). Cơ sẽ tạo ra một tình huống là ban giám khảo không biết lựa chọn loại hoa, quả
nào và nhờ lớp sẽ chọn giúp ban giám khảo.
Không những phần giới thiệu bài phải lựa chọn những hình thức sinh động, sáng
tạo và thay đổi thường xuyên mà trong các phần của tiết dạy cũng phải lựa chọn những hình
thức sinh động và khơng được lặp đi lặp lại nhiều lần. Đối với phần cung cấp kiến thức cho
trẻ thông qua việc cho trẻ tri giác đối tượng cô cũng cần tạo ra sự mới lạ, hấp dẫn đối với trẻ .
Khi đưa ra đối tượng cô không cần đưa ngay ra để cho trẻ quan sát mà cơ cần kích thích sự tị
mị của trẻ , cơ có thể dùng câu đố để trẻ đốn, có đối tượng cơ có thể đọc một đoạn thơ, hát
một đoạn bài hát nói về đối tượng, có đối tượng cơ cho vào túi, vào hộp và giới thiệu đó là
món q tặng lớp hoặc đó là một bí mật để trẻ đốn. Với những hình thức thay đổi trong cùng
một tiết dạy sẽ tạo cho trẻ có cảm giác mới lạ, trẻ sẽ thích thú và tập trung chú ý vào việc
quan sát đối tượng.
5. Đối với trẻ mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, phương châm của trẻ
là: “Học bằng chơi, chơi mà học” nên trong q trình cho trẻ làm quen với mơi trường xung
quanh cơ phải thường xun sử dụng trị chơi trong tiết học nhằm mục đích ơn luyện, củng
cố kiến thức cho trẻ. Qua những trị chơi, trẻ vừa được ơn luyện củng cố kiến thức, vừa được
thoả mãn nhu cầu chơi cho nên giáo viên phải thường xuyên đưa trò chơi vào các phần của

tiết dạy , có thể là phần giới thiệu bài, có thể là phần cuối ơn luyện kiến thức. Với tính chất
của trị chơi là vui nhộn, trẻ được hành động bằng tay, chân, được chạy, nhảy, đi lại ở các trò
chơi động và yếu tố thi đua với nhau ở những trò chơi tĩnh đã lôi cuốn trẻ, thu hút sự chú ý
của trẻ, giúp trẻ có hứng thú tham gia tích cực vào trị chơi.
Khi đưa trị chơi vào trong tiết daỵ, cơ phải chú ý đưa xen kẽ cả trò chơi động và trị
chơi tĩnh để thay đổi khơng khí cho trẻ và đảm bảo sức khoẻ cho trẻ. Có rất nhiều trị chơi đã


được biên soạn để cho trẻ chơi như trò chơi: “Thi xem ai nhanh”, “Cái túi kỳ lạ”, “Cái gì biến
mất, “Gieo hạt”…. nhưng cô phải biết lựa chọn những trò chơi sao cho phù hợp với nội dung
dạy trẻ, phải luân phiên thay đổi các trò chơi trong tiết học, khơng lặp đi lặp lại nhiều lần và
có thể cải biến trò chơi, sáng tạo ra những trò chơi mới.
Ví dụ: Trị chơi : “Cái túi kỳ lạ” theo chương trình có luật chơi là: Cơ chuẩn bị
một cái túi trong đựng những đối tượng mà trẻ vừa học. Cô cho một trẻ lên chơi và nhắm mắt
lại, khi cơ gọi tên đối tượng gì thì trẻ cho tay vào túi và chọn đúng đối tượng đó giơ lên và
gọi tên đối tượng cho cả lớp cùng nghe. Nhưng cơ có thể cải biến trị chơi đi một chút để nó
mới lạ hơn đó là cơ cho trẻ chơi trị chơi “Nhà thám hiểm”, cơ cũng đưa ra những cái túi hoặc
hộp mà bên trong đựng các đối tượng trẻ vừa học, cô cho 2,3 trẻ lên chơi cùng một lúc, trẻ
lên chơi được đeo kính màu( do cơ tự làm) để khơng nhìn thấy gì. trẻ chú ý, khi cơ gọi tên đối
tượng gì thì trẻ cho tay vào túi và chọn nhanh được đúng đối tượng đó. Ai chọn nhanh và
đúng sẽ là nhà thám tử giỏi, hoặc thắng cuộc. Với cách chơi như vậy cô đã đưa yếu tố thi đua
vào trong trò chơi giúp trẻ sẽ cố gắng chơi thật nhanh, thật giỏi.
Ngoài việc cải biến một số trò chơi theo những trò chơi đã biên soạn để tạo sự mới
mẻ đối với trẻ, cô cịn có thể sáng tạo ra một số trị chơi mới vừa phù hợp với nội dung tiết
dạy, vừa gây được sự hứng thú, chú ý cho trẻ.
Ví dụ:
* Trị chơi; “Bác sửa chữa giỏi”- ( tổ chức trong giờ học :“Làm quen với một số phương
tiện giao thông”)
Cách chơi: Cô đưa ra những bức tranh về phương tiện giao thơng nhưng cịn thiếu một
số bộ phận( bánh xe, cửa sổ, cửa ra vào, thùng xe….) và cô chuẩn bị sẵn một số bộ phận của

phương tiên giao thông. Cô cho trẻ quan sát tranh để phát hiện ra phương tiện giao thơng đó


cịn thiếu bộ phận gì rồi chọn bộ phận đó và dán vào đúng vị trí ( cơ có thể cho trẻ chơi theo
hình thức tổ, nhóm, cá nhân)
* Trị chơi : “Hái hoa”- (Tổ chức trong giờ học: “Một số loại hoa”)
+ Chuấn bị: - Cô chuẩn bị 3 mơ hình vườn hoa, có trồng hoa hồng, hoa cúc, hoa sen ( có
thể là hoa thật hoặc cơ làm, có màu sắc, rực rỡ, tươi tắn, đẹp)
- 3 thảm cỏ làm chướng ngại vật, 3 lọ hoa
+ Cách bố trí các đồ chơi : Trước mỗi tổ là thảm cỏ, trước thảm cỏ là 3 vườn hoa
+ Cách chơi: Cô cho trẻ xếp 3 thành hàng dọc theo 3 tổ, cả 3 tổ cùng thi đua với nhau
bằng cách cô cho lần lượt cảc trẻ trong 3 tổ lên bật qua thảm cỏ tới vườn hoa hái một bông
mang về cắm vào lọ hoa của tổ mình. Tổ hoa hồng chỉ được hái những bông hoa hồng, tôt
hoa cúc chỉ được hái những bông hoa cúc và tổ hoa sen sẽ hái những bông hoa sen. Trong
một thời gian, tổ nào hái đúng và nhanh là thắng cuộc.
Đó là một số trị chơi mà cơ sáng tạo ra để tổ chức cho trẻ chơi trong giờ học. Với
những trò chơi mới mẻ, sinh động, hấp dẫn được tổ chức thay đổi trong các tiết học vừa có
tác dụng, củng cố, ôn luyện kiến thức cho trẻ vừa làm thoả mãn nhu cầu chơi của trẻ, giúp trẻ
có hứng thú, tích cực tham gia vào trị chơi để nắm bắt kiến thức một cách chắc chắn hơn.
6. Một biện pháp để gây hứng thú cho trẻ trong giờ làm quen với mơi trường xung
quanh nữa đó là lời nói, thái độ, nét mặt của cơ. Vì trẻ mẫu giáo ưa nhẹ nhàng, tình cảm nên
trong q rình dạy trẻ cơ phải ln có thái độ q mến, gần gũi với trẻ, không được quát
mắng trẻ. Cô luôn cư xử công bằng với tất cả các trẻ trong lớp, luôn thể hiện sự dịu dàng, yêu
mến trẻ .


Trong khi dạy trẻ, cơ phải có lời nói nhẹ nhàng, tình cảm. Cường độ giọng nói của
cơ phải vừa phải, khơng nói q to hoặc q nhỏ, nếu nói q nhỏ thì trẻ sẽ khơng đủ nghe,
nếu nói q to thì trẻ có cảm giác là cơ mắng nên trẻ sợ hãi.
Lời nói của cơ phải diễn cảm kết hợp với cử chỉ, điệu bô, ánh mắt để thể hiện đúng

nội dung câu nói, đúng hồn cảnh, nói phải có ngữ điệu, ngắt, nghỉ đúng chỗ.
Ví dụ: khi sử dụng lời nói trong phần trị chơi, cơ phải nói với giọng vui tươi, sôi nổi,
thể hiện sự vui nhộn của trị chơi để tạo khơng khí vui vẻ cho q trình chơi của trẻ từ đó sẽ
hấp dẫn lơi cuốn trẻ tham gia vào trị chơi một cách tích cực. Khi cơ nói trong phần truyền
đạt, cung cấp kến thức thì cơ phải nói chậm rãi nhưng rõ ràng ngắn gọn, dễ hiểu đẻ trẻ dễ
dàng nắm bắt được kiến thức mà cô truyền đạt. Hoặc khi kể một câu chuyện nhỏ trong phần
giới thiệu bài cô phải kể diễn cảm thể hiện thể hiện được tính cách của nhân vật qua lời nói,
kể phải chậm rãi, rõ ràng để thu hút sự chú ý của trẻ để trẻ cảm nhận được nội dung câu
chuyện .
Trong quá trình dạy cơ cũng phải thường xun sử dụng những câu nói, lời nói có
tính chất động viên khích lệ trẻ để lôi cuốn trẻ tham gia vào hoạt động như: “Cô đố các con
biết”, “ Chúng mình cùng thi đua xem ai giỏi hơn, ai nhanh hơn, ai thông minh hơn, ai khéo
hơn…”
Trong q trình dạy, cơ phải biết các xử lý những tình huống thật khéo léo, tế nhị, vì
trẻ mẫu giáo bé hay sợ sệt, nhút nhát và trẻ lại rất thích khen ngợi nên cơ phải thường xun
khen ngợi, động viên trẻ . Khi trẻ trả lời đúng và làm tốt những cơng viêc, nhiệm vụ được
giao thì cơ phải, nêu gương, khen ngợi trẻ kịp thời, cịn khi trẻ trả lời chưa đúng hoặc làm
chưa tốt thì cô không được quát mắng trẻ hoặc lờ đi mà cô cần nhẹ nhàng động viên trẻ, khéo
léo gợi ý để trẻ hiểu ra và trả lời được câu hỏi của cô.


Với những lời nói nhẹ nhàng, tình cảm, nói diễn cảm thể hiện được đúng nội dung của
câu nói, nói đúng hồn cảnh, tình huống kết hợp với ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, thái độ của cô
sẽ lôi cuốn trẻ , thu hút sự tập trung chú ý của trẻ vào việc khám phá đối tượng từ đó trẻ sẽ dễ
dàng nắm bắt được những kiến thức mà cô truyền đạt.

KẾT QUẢ

Qua một thời gian áp dụng những biện pháp gây hứng thú cho trẻ trong giờ làm quen
với mơi trường xung quanh vào trong q trình dạy trẻ, tơi thấy có những kết quả như sau:



+ Về kiến thức: Trẻ đã nắm được tên gọi, cấu tạo, đặc điểm, tính chất của các sự vật
hiện tượng. Trẻ phân biệt được sự giống và khác nhau giữa các sự vật hiện tượng, biết được
ích lợi, cách bảo quản, cách sử dụng, các mối liên hê, quan hệ….giữa các sự vật hiện tượng,
trẻ biết được đặc điểm, ý nghĩa của một số hiện tượng tự nhiên , hiện tượng xã hội.
+Về kỹ năng:Trong quá trình cho trẻ làm quen với mơi trường xung quanh đã hình
thành và rèn luyện ở trẻ một số kỹ năng như khả năng quan sát, khả năng diễn đạt, khả năng
phân tích, so sánh, tổng hợp, phân loại, phân biệt. Rèn luyện kỹ năng tô, vẽ, đếm, kỹ năng
vận động ….
+Về thái độ:Trong q trình cho trẻ làm quen với mơi trường xung quanh đã hình thành
ở trẻ ý thức học tập, trẻ học ngoan, luôn tập trung chú ý nghe cô giảng bài, trẻ học rất sôi nổi,
hăng hái tham gia phát biểu ý kiến, nhiệt tình, tích cực tham gia vào các hoạt động, đặc biệt là
hoạt động nhóm, trẻ ln có sự phối hợp với nhau, tích cực , chủ động tìm tịi để khám phá
kiến thức
- Trẻ ln u thích mơn học, u q những sự vật hiện tượng có lợi xung quanh, trẻ
có ý thức chăm sóc và bảo vệ những sự vật, hiện tượng đó
Như vậy, Với những kết quả đã đạt được ở trên chứng tỏ rằng chất lượng những tiết
dạy của tôi đã được nâng lên, tỉ lệ trẻ nắm đfược bàiđạt được theo yêu cầu của hoạt động đã
tăng lên 90% - 95% các giờ dạy được nhà trường đánh giá xếp loại giỏi, đó là một kết quả tốt
trong quả trình giáo dục trẻ.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM


Trong tiết học làm quen với môi trường xung quanh, muốn trẻ nhận thức được một
cách nhanh chóng, đầy đủ, chính xác những kiến thức mà cơ truyền đạt thì phải có một số
biện pháp gây hứng thú cho trẻ để lơi cuốn trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động khám phá
kiến thức.
Muốn gây được hứng thú cho trẻ thì cơ phải sử dụng một số biện pháp sau:

+ Phải sử dụng đầy đủ đồ dùng trực quan trong giờ học, các đồ dùng phải phong phú về
chủng loại ( Tranh, ảnh, đồ chơi, mơ hình, vật thật, màn hình…) được sử dụng xen kẽ nhau
trong tiết học và những đồ dùng trực quan phải đảm bảo tính thẩm mỹ , tính khoa học…đó
là phải đẹp có màu sắc hấp dẫn và phù hợp với trẻ để lôi cuốn sự tập trung chú ý của trẻ.
+ Phải luôn cho trẻ tri giác sự vật hiện tượng thông qua các giác quan để rèn luyện giác
quan cho trẻ và giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng.
+ Phải cho trẻ được hoạt động, hành động với đối tượng để kích thích sự tìm tịi, khám
phá của trẻ .
+ Phải thường xuyên sử dụng những hình thức dạy sinh động, sáng tạo, hấp dẫn vào
trong quá trình dạy trẻ và phải thay đổi các hình thức trong tiết dạy để trẻ khỏi bị nhàm chán.
+ Phải tổ chức các trò chơi trong giờ học và thay đổi các trị chơi khác nhau, hình thức
chơi khác nhau để thoả mãn nhu cầu chơi của trẻ và để trẻ khỏi nhàm chán.
+ Lời nói của cơ trong khi dạy phải nhẹ nhàng, rõ ràng và diễn cảm thể hiện được
đúng nội dung câu nói, đúng hồn cảnh, tình huống kết hợp với cử chỉ, nét mặt, ánh mắt, điệu
bộ của cô để thu hút sự chú ý của trẻ.

Ngày 15 tháng 05 năm 2009


×