Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Mối quan hệ giữa phát triển giáo dục và đào tạo với phát triển kinh tế xã hội ở thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.05 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN


HỒ THANH TÙNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN


HỒ THANH TÙNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số:

60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. VŨ VĂN GẦU

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học
của PGS, TS. Vũ Văn Gầu. Tơi xin hồn tồn
chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cơng
trình khoa học này.

Người làm luận văn

Hồ Thanh Tùng


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BHYT

Bảo hiểm y tế

HDI

Human Development Index
(Chỉ số phát triển con người)


GDP

Gross Domestic Product
(Tổng sản phẩm nội địa)

FDI

Foreign Direct Investment
(Đầu tư trực tiếp nước ngoài)

ILO

International Labour Organization
(Tổ chức Lao động Quốc tế)

USD

United States Dollar
(Đồng đô la Mỹ)

UNDP

United Nations Development Programme
(Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc)

UNESCO

United Nations Educational Scientific and Cultural Organization
(Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc)



MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI .............................. 9
1.1. Phát triển giáo dục và đào tạo, những nhân tố tác động đến nó ..... 9
1.1.1. Khái niệm giáo dục và đào tạo, phát triển giáo dục và đào tạo .......... 9
1.1.2. Những nhân tố tác động đến giáo dục và đào tạo ........................... 13
1.2. Phát triển kinh tế - xã hội và các tiêu chí đánh giá sự phát triển
kinh tế - xã hội ........................................................................................ 21
1.2.1. Khái niệm kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế - xã hội ..................... 21
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội.......................... 26
1.3. Mối quan hệ giữa phát triển giáo dục và đào tạo với phát triển
kinh tế - xã hội ........................................................................................ 30
1.3.1. Vai trò quyết định của kinh tế - xã hội đối với phát triển
giáo dục và đào tạo ................................................................................... 30
1.3.2. Vai trò tác động trở lại của giáo dục và đào tạo đối với phát triển
kinh tế - xã hội ......................................................................................... 32

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO GẮN LIỀN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......................................................... 45
2.1. Khái qt về vị trí địa lý, dân số, giáo dục và đào tạo,
kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh ....................................... 45
2.1.1. Khái quát về vị trí địa lý và dân số của Thành phố Hồ Chí Minh .... 45


2.1.2. Tình hình giáo dục và đào tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh

trong những năm qua................................................................................ 46
2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh
trong những năm qua................................................................................ 51
2.2. Thực trạng phát triển giáo dục và đào tạo gắn liền với phát triển
kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua
và những vấn đề đặt ra hiện nay ........................................................... 56
2.2.1. Thực trạng phát triển giáo dục và đào tạo gắn liền với phát triển kinh
tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua..................... 56
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với
phát triển giáo dục và đào tạo gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội
ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ......................................................... 63
2.3. Phương hướng và giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo
với phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ... 67
2.3.1. Phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo gắn liền với phát triển
kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ................................. 67
2.3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo gắn liền
với phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ........... 75
KẾT LUẬN ............................................................................................. 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 90


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu của mọi quốc gia
nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Ở nước ta, việc thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa được coi là nhiệm vụ trung tâm trong cả một chặng đường dài
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện

đại hóa cần huy động tổng thể các nguồn lực cần thiết bao gồm: nguồn lực
con người, nguồn lực tài chính, nguồn lực công nghệ, nguồn lực tài nguyên,
các ưu thế và lợi thế khác. Các nguồn lực nêu trên có vị trí, vai trị khác nhau,
trong đó nguồn lực con người có vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để con người vừa là
mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thì chúng ta phải
phát triển giáo dục và đào tạo.
Giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng nguồn
lực con người; chuẩn bị con người cho sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; cho lợi ích hiện tại và tương lai của đất nước. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011) xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí,
phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng trong phát
triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam” [24, tr.77]. Từ đó
có thể nhận thấy rằng, giáo dục và đào tạo có vai trị rất quan trọng, đặc biệt là
trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh
tế tri thức của đất nước. Vì vậy, phát triển một nền giáo dục và đào tạo hiện đại
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng u cầu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế


2

tri thức, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang là vấn
đề cấp thiết.
Cũng như các địa phương khác trên đất nước ta, Thành phố Hồ Chí
Minh đang trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
kinh tế tri thức, với trách nhiệm “vì cả nước, cùng cả nước” và “là đô thị
đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hố, giáo dục đào tạo, khoa học
cơng nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức

thu hút và sức lan toả lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí
chính trị quan trọng của cả nước”[30, tr.1], các ngành, các cấp và nhân dân
Thành phố phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, đã nỗ lực, phấn đấu bền
bỉ, năng động sáng tạo, chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn thách
thức, giành những thắng lợi to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị,
kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, xây dựng Ðảng, an ninh quốc phòng, duy
trì tốc độ phát triển hợp lý. Báo cáo tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội
qua 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần
thứ IX (2011 – 2013), Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố
khóa IX đã khẳng định: Mặc dù giai đoạn 2011-2013 tình hình kinh tế thế giới
tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhưng qua 3 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX gắn liền với 3 khâu đột phá
chiến lược và 6 chương trình đột phá của Thành phố, tình hình kinh tế - văn
hóa - xã hội của Thành phố đã đạt nhiều thành tựu ý nghĩa quan trọng, đúng
hướng trên hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, trong những năm qua, Thành phố
Hồ Chí Minh vẫn bộc lộ những hạn chế, yếu kém trong thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Đó là: Chất lượng tăng trưởng kinh tế
chưa bền vững; chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực còn phân tán,
chưa tương xứng với yêu cầu phát triển hội nhập; phát triển khoa học - công


3

nghệ, giáo dục và đào tạo chưa thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội của Thành phố…
Như vậy, vấn đề đang được đặt ra một cách cấp thiết ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay là làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, thật sự
trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền
vững của Thành phố, để xứng đáng là trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục
và đào tạo của đất nước.
Do đó, việc nghiên cứu, phân tích thực trạng mối quan hệ giữa phát triển

giáo dục và đào tạo với phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh
trong những năm qua, những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; xác định
phương hướng, giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo gắn với phát triển kinh tế
- xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, có ý nghĩa thiết thực, vừa cơ bản,
vừa cấp bách, cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội và phát triển giáo dục và đào tạo là những
có tính cấp bách ở Việt Nam hiện nay. Do đó, đã thu hút sự quan tâm đặc biệt
của các nhà khoa học, các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa và khoa học trên cả
nước. Và, cho đến hiện nay, nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về đề tài này
đã được cơng bố. Có thể khái qt các cơng trình tiêu biểu trong số đó theo các
chủ đề chính như sau:
Thứ nhất, lý luận chung về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển giáo dục
và đào tạo. Về chủ đề này, có các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Những
vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020” của tập
thể tác giả ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, do
PGS,TS. Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện làm chủ biên, đã đặt ra và giải
quyết 3 nội dung lớn để tháo gỡ khó khăn, yếu kém của nền kinh tế, đưa nền


4

kinh tế nước ta phát triển trong giai đoạn 2011 - 2020, đó là: những vấn đề về
mặt lý luận; thực tiễn nền kinh tế nước ta sau hơn 26 năm đổi mới; những định
hướng lớn nhằm phát triển nền kinh tế của đất nước trong giai đoạn 2011-2020.
Cơng trình của PGS,TS. Võ Văn Đức và TS. Đinh Ngọc Giang: “Một số
vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa ở
Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, đã đề cập và luận giải những vấn đề
nảy sinh trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta
hiện nay như: chuyển đổi chậm về cơ cấu kinh tế, thất nghiệp, các tệ nạn

xã hội,… coi đó là lực cản, làm chậm lại q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
đơ thị hóa của đất nước.
Bài viết “Kinh tế học giáo dục trong nền kinh tế thị trường” của Đặng Thị
Minh Hiền, đăng trên Tạp chí Giáo dục số 95/2013, đã làm rõ các vấn đề
liên quan đến kinh tế học giáo dục như: khái niệm và những đặc trưng cơ bản
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; khái niệm và nội dung
nghiên cứu của kinh tế học giáo dục; những đặc điểm nổi bật của kinh tế học
giáo dục trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, một số nghiên cứu đã vận dụng
những quy luật, những lý thuyết kinh tế để làm cơ sở luận giải, đề xuất giải pháp
cho những vấn đề thực tiễn kinh tế giáo dục.
Bài viết “Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực Việt Nam” của
GS,TS. Chu Văn Cấp, đăng trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 6/2012,
đã phân tích những vấn đề ảnh hưởng đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
như: môi trường giáo dục lành mạnh, trung thực, đảm bảo công bằng trong
giáo dục khắc phục xu hướng thương mại hóa giáo dục; chất lượng giáo dục ở
tất cả các cấp học, đặc biệt là giáo dục đại học và cao đẳng; cơ chế quản lý, giáo
dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt; đầu tư cho
phát triển giáo dục và đào tạo.


5

Thứ hai, về mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội và giáo dục – đào tạo.
Về chủ đề này, có các cơng trình tiêu biểu như: “Vài suy nghĩ về giáo dục và đào
tạo phục vụ cho phát triển” của GS, VS. Nguyễn Văn Đạo - Bản tin Đại học
Quốc gia Hà Nội, số 250 - Tháng 01/2012, đã phân tích vai trị giáo dục, đào tạo
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia; vạch ra những định hướng
cho phát triển giáo dục như: phát triển giáo dục phải đi trước phát triển kinh tế;
cần giải quyết tốt vấn đề giáo viên, tăng cường đầu tư cho giáo dục, cải tiến
cách dạy và học; quan tâm đặc biệt đến việc phát triển giáo dục vùng nông thôn,

miền núi, hải đảo; quyết tâm xây dựng một nền giáo dục đậm đà sắc thái Việt
Nam.
Cơng trình: “Phát triển giáo dục – đào tạo là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội” của Trần Thị Minh Giới, đăng trên trang Web: www.vns.edu.vn, đã
phân tích vị trí, vai trị của giáo dục - đào tạo đối với sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội; đề xuất một số định hướng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục –
đào tạo đáp ứng yêu câu phát triển kinh tế - xã hội.
Bài viết “Những quan điểm hiện đại về vị trí, vai trị của giáo dục –
đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội” của Nguyễn Trung Thành, đăng
trên trang Web: , đã chỉ ra những quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm tiến bộ trên thế
giới như: quan điểm của tổng thống Mỹ - Obama, UNESCO về vị trí, vai trò của
giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ngồi ra, cịn nhiều cơng trình nghiên cứu về kinh tế - xã hội, giáo dục
và đào tạo đã được công bố trong các hội thảo khoa học, trên các tạp chí
khoa học,…
Như vậy, cho đến nay, khối lượng các cơng trình nghiên cứu về phát triển
kinh tế - xã hội và phát triển giáo dục - đào tạo là khá đồ sộ, có giá trị lý luận và


6

thực tiễn to lớn đối với quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế tri thức của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, chưa có
cơng trình khoa học độc lập nào nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ thống về
vấn đề mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với phát triển giáo dục và
đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, tơi chọn vấn đề:
“Mối quan hệ giữa phát triển giáo dục và đào tạo với phát triển kinh tế - xã
hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết cơng
trình luận văn thạc sỹ của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích làm rõ khái niệm phát triển giáo dục và đào tạo,
phát triển kinh tế - xã hội; và mối quan hệ giữa chúng trong phạm vi ở Thành
phố Hồ Chí Minh những năm qua. Luận văn đề xuất một số phương hướng và
giải pháp nhằm phát triển giáo dục và đào tạo gắn liền với phát triển kinh tế xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ một số khái niệm về phát triển giáo dục và đào tạo,
phát triển kinh tế - xã hội; mối quan hệ của chúng.
Thứ hai, Phân tích thực trạng phát triển giáo dục và đào tạo gắn liền với
phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua,
nguyên nhân của thực trạng đó và những vấn đề đặt ra hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển
giáo dục và đào tạo gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay.


7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là giáo dục và đào tạo,
và kinh tế - xã hội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa phát triển giáo dục
và đào tạo với phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những
năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu của
luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về phát triển giáo dục và đào tạo, và phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn tài liệu: Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, của Thành ủy và
Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; các cơng trình nghiên cứu của các
tập thể, cá nhân các nhà khoa học trong và ngồi nước có liên quan đến đề tài;
các tài liệu, số liệu thống kê của các ban, ngành, đoàn thể các cấp ở Trung ương
và Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được hiện trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời
luận văn có sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp lơgích, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp,
thống kê, loại suy, nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng,… để
nghiên cứu và trình bày luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa lý luận, luận văn làm sáng tỏ lý luận về phát triển giáo dục và
đào tạo, phát triển kinh tế - xã hội và mối quan hệ giữa các mặt đó.


8

Về ý nghĩa thực tiễn, từ những kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn của
luận văn về mối quan hệ giữa phát triển giáo dục và đào tạo với phát triển kinh tế
- xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua, luận văn cung cấp
thêm nguồn tư liệu cho các hoạch định, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển
giáo dục và đào tạo gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay. Ngồi ra, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học
các chuyên ngành Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Chính trị học…
7. Kết cấu của luận văn

Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 6 tiết.


9

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1. Phát triển giáo dục và đào tạo, những nhân tố tác động đến nó
1.1.1. Khái niệm giáo dục và đào tạo, phát triển giáo dục và đào tạo
Khái niệm giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là một thuật ngữ kép của hai thuật ngữ “giáo dục”
và “đào tạo”. Trong khái niệm giáo dục có bao hàm cả đào tạo; khái niệm
đào tạo cũng có nội dung của giáo dục, nên khái niệm giáo dục luôn gắn liền
với khái niệm đào tạo.
Giáo dục được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học,
nó trở thành một thuật ngữ đa nghĩa. Cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa về khác
nhau về giáo dục. Tùy theo góc độ tiếp cận của từng người mà khái niệm giáo dục
chứa đựng những nội dung khác nhau.
Theo nghĩa gốc từ tiếng Latin, giáo dục được ghép bởi hai từ là “Ex” và
“Ducere” – “Ex-Ducere”. Có nghĩa là dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi
(“Ex”) hiện tại của họ để vươn tới những gì hồn thiện, tốt lành hơn và
hạnh phúc hơn.
Theo ông John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và nhà cải
cách giáo dục người Mỹ, ông cho rằng cá nhân con người không bao giờ vượt qua
được quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến thức, kinh nghiệm mà
cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại đòi hỏi phải
những kiến thức, kinh nghiệm của con người phải vượt qua được sự khống chế của

sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài


10

người để đảm bảo tồn tại xã hội. Ngoài ra, ông John Dewey cũng cho rằng, xã hội
không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, nhưng cịn tồn tại chính trong quá trình truyền dạy
ấy. Như vậy, theo quan điểm của ông John Dewey, ông cũng đề cập đến việc
truyền đạt, nhưng ơng nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục, là dạy dỗ.
Theo cách tiếp cận của giáo dục học, “giáo dục là hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng nào đó,
làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu
đề ra”[65, tr.379].
Theo cách tiếp cận của luận văn này, có thể quan niệm: Giáo dục là một
q trình đào tạo con người có mục đích, có hệ thống, nhằm chuẩn bị cho con
người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, nó được thể hiện bằng
cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử – xã hội
của loài người.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc trưng của xã hội loài người.
Giáo dục nảy sinh cùng với xã hội loài người, trở thành một chức năng sinh hoạt
không thể thiếu được và không bao giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội.
Về khái niệm đào tạo, theo Đại từ điển tiếng Việt là: “Dạy dỗ, rèn luyện để
trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp”[71, tr.593]. Cịn trong Từ điển
tiếng Việt, đào tạo được hiểu là: “Đào tạo, là quá trình tác động đến một con người
nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo…
một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và
khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định góp phần của mình vào việc
phát triển kinh tế xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của lồi người.
Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và lao động, người ta phân biệt đào tạo
chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ nhau với những

nội dung do địi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học,


11

kỹ thuật - cơng nghệ và văn hố của đất nước. Có nhiều hình thức đào tạo; đào tạo
cấp tốc, đào tạo chính quy và khơng chính quy”. Về cơ bản, đào tạo là hoạt động
giảng dạy của nhà trường, gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và
nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc
vào hoạt động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự học
và tham gia vào các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tự rút kinh nghiệm của
người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá trình tự đào tạo
một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao.
Từ khái niệm giáo dục và khái niệm đào tạo như phân tích ở trên, dưới
góc độ tiếp cận của luận văn này, chúng tơi có thể quan niệm: Giáo dục và
đào tạo là hoạt động tự giác có mục đích của các chủ thể nhằm tác động một
cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực, chuyên môn nghề nghiệp của đối
tượng, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.
Chủ thể trực tiếp của giáo dục và đào tạo là hệ thống giáo dục quốc dân và
đội ngũ nhà giáo. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục
thường xuyên; các cấp giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học.
Mục tiêu giáo dục và đào tạo là phát triển tinh thần, thể chất, hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực, chuyên môn nghề nghiệp của đối
tượng. Đối với Việt Nam là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện,
có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục và đào tạo là phản ánh những
tri thức, kỹ năng, những năng lực, phẩm chất cần đạt được, cũng như cách dạy và

cách học theo từng cấp học và loại hình giáo dục và đào tạo.


12

Như vậy, giáo dục và đào tạo có vị trí đặc biệt quan trọng, không thể thay
thế. Hiện nay, giáo dục và đào tạo được nhiều quốc gia xác định là quốc sách
hàng đầu. Đối với nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh:
“Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát
triển”[24, tr.77]. Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là
nội dung là “đột phá chiến lược” của sự phát triển đất nước thời kỳ mới.
Đột phá chiến lược này là "yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng
và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững”[24, tr.130]. Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao góp phần thúc đẩy kinh tế tri thức, phát huy tinh thần dân tộc,
tạo động lực cho sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong thời kỳ mới. Nền kinh tế tri thức sẽ không thể phát triển nếu khơng có
được nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu, nếu không đẩy mạnh
giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Trên cơ sở bồi dưỡng
tình cảm yêu nước, ý thức dân tộc, giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao trang bị phương pháp và tri thức khoa học, thì tinh thần dân
tộc của nguồn nhân lực này càng được phát huy, hồn thành tốt vai trị
nịng cốt, “đầu tàu” của mình trong các hoạt động, đặc biệt trong hội nhập
quốc tế.
Khái niệm phát triển giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là quá trình tiếp diễn liên tục suốt đời, do vậy nó
khơng thể được đặc trưng bằng chỉ một mục đích cuối cùng nào. Theo cách

tiếp cận này người ta chú trọng đến phát triển sự hiểu biết ở người học hơn là


13

truyền thụ nội dung kiến thức đã được xác định trước hay tạo nên sự thay đổi
nào đó về hành vi ở người học. Với quan điểm giáo dục và đào tạo là một
quá trình, mức độ làm chủ bản thân tiềm ẩn ở mỗi người được phát triển
một cách tối đa, vì vậy dưới góc độ tiếp cận của luận văn này, chúng tơi có thể
đưa ra quan niệm: Phát triển giáo dục và đào tạo là phải phát triển tối đa
mọi năng lực tiềm ẩn trong mỗi con người, làm cho họ làm chủ được những
tình huống, đương đầu được với những thách thức sẽ gặp phải trong cuộc đời
một cách chủ động và sáng tạo.
1.1.2. Những nhân tố tác động đến giáo dục và đào tạo
Một là, tác động từ cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cơ chế, chính sách quy định phương hướng, mục tiêu, quy mô giáo dục
và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực và
nguồn nhân lực chất lượng cao không phải là sự phát triển được đến đâu
hay đến đó, mà phải là q trình chủ động, tự giác, với những cơ chế, chính
sách cụ thể phù hợp, khả thi của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước là
chủ thể lãnh đạo, quản lý quyết định cơ chế, chính sách, quy định phương
hướng, mục tiêu và mở rộng quy mô phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao trong từng thời kỳ. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Nhà nước tăng đầu tư
cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục,
hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo”[20, tr.35]. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực, quản lý giáo dục, đào tạo trên
tinh thần tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục,
trọng dụng và thu hút nhân tài.



14

Cơ chế, chính sách quy định việc đổi mới nội dung, chương trình
giáo dục và đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao phải có nội dung, chương trình giáo dục và
đào tạo phù hợp với tất cả các cấp học. Điều đó chỉ có thể có được khi có
một hệ cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp. Nhận rõ tầm quan trọng của
vấn đề, Đại hội XI của Đảng yêu cầu “phải đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học, thi kiểm tra theo hướng hiện đại, nâng cao
chất lượng giáo dục; hồn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục;
khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, thu hút nhân tài,
chuyên gia giỏi; thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng,
đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học”[24, tr.219].
Cơ chế, chính sách quyết định đến tính hiệu quả, chất lượng phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao. Sự tác động của cơ chế, chính sách của
Đảng, Nhà nước đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là tác động
trực tiếp đến các vấn đề cơ bản của giáo dục và đào tạo. Cơ chế, chính sách
đúng, phù hợp thì khơng những thu hút được người tài, người giỏi,
tăng số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn thúc đẩy lao động
sáng tạo, cống hiến to lớn của nguồn nhân lực này cho sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cơ chế, chính sách khơng phù hợp, thậm chí
gây cản trở sự cống hiến của con người, thì sẽ làm thui chột nhân tài,
kìm hãm sự phát triển của nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay,
chính sách, cơ chế đối với nguồn nhân lực chất lượng cao cịn nhiều hạn chế.
“Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ, cơng chức,
người lao động gắn bó, tận tâm với cơng việc”[24, tr.168]. Đó là một yếu tố
gây nên tình trạng “chảy máu chất xám”, làm việc cầm chừng diễn ra khá



15

phổ biến trong tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động trong đời sống
kinh tế - xã hội nước ta.
Hai là, tác động của điều kiện kinh tế - xã hội.
Điều kiện kinh tế - xã hội tác động tích cực tạo mơi trường, điều kiện
cho phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều kiện
kinh tế - xã hội là nhân tố tác động cơ bản phản ánh mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và phát triển nguồn nhân lực. Trình độ phát triển kinh tế xã hội và sự phát triển nguồn nhân lực quan hệ biện chứng với nhau,
tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Kinh tế - xã hội phát triển, thiết bị
công nghệ sản xuất hiện đại đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải phù hợp.
Đồng thời, sự phát triển kinh tế - xã hội lại cho phép con người có điều kiện
nâng cao trí lực, thể lực, có điều kiện phát triển giáo dục, đào tạo, y tế,
văn hố, thực hiện chính sách xã hội, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao. Điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, mặt trái của kinh tế thị trường
chi phối mạnh mẽ, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Mặt trái của kinh tế thị trường trực tiếp huỷ hoại nhiều tổ chức và
con người; làm xuất hiện và phát triển những căn bệnh khó có liều thuốc
chữa; những giá trị tinh thần, chính trị, đạo đức, văn hóa… bị mặt trái của
kinh tế thị trường mang ra thách đố và bị hạ xuống hạng bậc thứ yếu trong
hệ thống giá trị, địa vị đồng tiền lên ngôi. Việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao chịu sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình trên.
Ba là, tác động của điều kiện văn hóa, tâm lý, phong tục, tập quán.
Điều kiện văn hóa, tâm lý, phong tục, tập quán là một yếu tố tác động
không nhỏ đến việc phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển giáo dục và đào
tạo là phát triển con người cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Điều kiện
văn hóa, tâm lý, phong tục, tập quán có nhiều yếu tố tích cực, tiến bộ,



16

phù hợp là cơ sở rất quan trọng hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho con
người, cho sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là những yếu tố
nền tảng mà trên cơ sở đó mỗi con người và cả nguồn nhân lực được
phát triển. Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc hoà quyện
với các giá trị cách mạng tạo thành lực lượng tinh thần to lớn trong
chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, yêu nước phát triển thành yêu nước xã hội chủ nghĩa; chủ
nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ trong chiến đấu mà cả trong lao động
sản suất xây dựng đất nước; cần cù lao động không chỉ cho bản thân,
gia đình mà cịn cho xã hội; thương người đã trở thành lẽ sống và hành động
giải phóng con người, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân lao động.
Tồn bộ giá trị tinh thần tốt đẹp đó tác động sâu sắc và tạo cơ sở,
làm “bệ đỡ” cho việc hình thành những phẩm chất tốt đẹp của nhân lực
chất lượng cao.
Tuy nhiên, những phong tục, tập quán, tâm lý, thói quen lạc hậu cũng là
yếu tố gây cản trở không nhỏ đến sự phát triển giáo dục và đào tạo.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là
kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại khơng
thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu
dài”[50, tr.287]. Những tư tưởng, tâm lý không muốn người khác hơn mình,
địa phương chủ nghĩa, thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ luật, kèn cựa, đùn đẩy
trách nhiệm, không dân chủ, hám danh, hám lợi…, nếu khơng khắc phục tốt
thì đó sẽ là vật cản sự phát triển của con người và nguồn nhân lực chất lượng
cao.
Bốn là, tác động của hội nhập quốc tế.


17


Hội nhập quốc tế thúc đẩy sự phát triển giáo dục và đào tạo.
Trong điều kiện tồn cầu hố, hội nhập quốc tế trở thành vấn đề đặc biệt
hệ trọng trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Giao lưu và hợp tác
quốc tế ngày càng mở rộng về quy mô và phát triển về chiều sâu trên tất cả
các lĩnh vực sẽ tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao. Những chuyên gia, trí thức giỏi, các nhà
lãnh đạo, quản lý các cấp, các nhà quản trị doanh nghiệp, kinh doanh,
lao động có tay nghề cao… sẽ được thử sức trong môi trường mới do
hội nhập quốc tế mang lại. Qua đó, trình độ tư duy, tri thức, chun mơn,
khả năng lao động sáng tạo, kinh nghiệm làm việc tập thể, năng lực quản lý,
toàn bộ hệ phẩm chất, năng lực của họ được nâng lên, nâng cao chất lượng
từng người và cả nguồn nhân lực chất lượng cao.
Hội nhập quốc tế vừa tạo cơ hội cho sự phát triển đất nước, đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, vừa đặt ra nhiều vấn đề mới trong việc
phát triển giáo dục và đào tạo, với nhiều nguy cơ tiềm ẩn nếu khơng có
chiến lược hội nhập và phát triển phù hợp. Thực tế đó tác động trực tiếp đến
tư tưởng, tình cảm con người, ảnh hưởng nhất định đến giáo dục và đào tạo.
Hơn nữa, q trình hội nhập khơng chỉ có “hoa thơm và trái ngọt” mà có cả
“rác rưởi”, “nọc độc” về văn hố, chính trị thâm nhập vào bằng nhiều
con đường với nhiều hình thức khác nhau, làm cho tư tưởng, đạo đức con
người dễ bị nhiễm độc. Phát triển giáo dục và đào tạo trong bối cảnh đó,
khơng thể khơng chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, ảnh hưởng như thế nào và khắc
phục nó ra sao là do sự nỗ lực chủ quan của từng tập thể, từng con người,
của các cơ sở giáo dục và đào tạo, của các cấp, các ngành, của Đảng,
Nhà nước và toàn xã hội.


18


Năm là, tác động tích cực của việc giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và
ứng dụng khoa học công nghệ đến chất lượng nền giáo dục và đào tạo, trực
tiếp là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Trong các yếu tố tác động, thì giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và ứng
dụng khoa học công nghệ là yếu tố tác động mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản và
trực tiếp. Bởi vì, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng khoa học
công nghệ trực tiếp trang bị cho con người, cho cả nguồn nhân lực những
tri thức cần thiết, những kinh nghiệm, khả năng lao động, chuyên môn, nghề
nghiệp nhất định.
Khoa học, công nghệ đã tạo ra sự phát triển mới của lực lượng sản xuất,
trong lao động sản xuất ra của cải, con người phải nắm bắt và nhận thức
được đối tượng lao động và công cụ lao động để dùng những tri thức đó
tạo ra vật chất, những tri thức về xã hội sẽ giúp cho con người phát triển
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất tạo ra một phương thức
sản xuất hiện đại. Bằng tri thức con người có thể vận hành tốt và thích nghi
những trang thiết bị hiện đại, tiên tiến trong sản xuất. Mặt khác, thiết bị
hiện đại, tinh vi không ngừng biến đổi ngày càng hiện đại địi hỏi con người
khơng ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, kỹ năng lao động để khỏi bị
đào thải trong quá trình phát triển của xã hội. Vì vậy, mà chất lượng đội ngũ
lao động ngày được nâng cao và hoàn thiện. Với tư cách là một yếu tố của
lực lượng sản xuất, tri thức khoa học có vai trị quan trọng mang tính quyết
định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngoài ra, tri thức khoa học
cịn có vai trị trong việc hồn thiện quan hệ sản xuất để phù hợp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, đó là hồn thiện cơ chế
tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh nhằm mục tiêu phát triển kinh tế
bền vững.


19


Cuộc cách mạng khoa khọc và công nghệ hiện nay đã tác động và
làm biến đổi mạnh mẽ lao động xã hội theo hướng tăng tỷ trọng của lao động trí
tuệ, giảm bớt các hoạt động chân tay, làm cho lao động trí tuệ trở thành hoạt
động cơ bản của con người. Trình độ dân trí cao sẽ là nền tảng để phát huy cao
độ năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ của tất cả mọi người trong
hoạt động sáng tạo. Chính vì lẽ đó mà việc tạo ra một đội ngũ cán bộ khoa học,
công nghệ có đủ trình độ để quản lý Nhà nước, tổ chức quản lý nền sản xuất và
áp dụng được những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất là
một việc hết sức quan trọng và cấp thiết của chúng ta hiện nay. Vì vậy, đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, vừa là yêu cầu
cấp bách là nhiệm vụ lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta. Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Khoa học và cơng nghệ giữ vai trị
then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và
môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và
sức cạnh tranh của nền kinh tế”[24, tr.78].
Thơng qua chương trình, nội dung và phương pháp, giáo dục và đào tạo,
cùng với nghiên cứu khoa học trang bị tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng cho
người học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mọi yếu tố cấu thành phẩm
chất, năng lực nguồn nhân lực chất lượng cao cơ bản đều được hình thành từ
giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.
Nếu giáo dục và đào tạo được thực hiện tốt, nội dung, chương trình khoa
học, hiện đại, tiên tiến, phương pháp quản lý, giảng dạy và học tập phù hợp,
khoa học, thì chất lượng người học được nâng cao. Hoạt động nghiên cứu,
ứng dụng khoa học công nghệ là hoạt động mang tính đặc thù của nguồn
nhân lực chất lượng cao. Những chuyên gia, trí thức giỏi, quản lý,


×