Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Anh Huong Tu Tuong Phat Giao Trong Nhac Tinh CuaTrinh Cong Son

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.82 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ảnh Hưởng Tư Tưởng Phật Giáo Trong</b>


<b>Nhạc Tình Của Trịnh Cơng Sơn</b>



Viết bởi Trần Thanh Hà
Thứ tư, 12 Tháng năm 2010


Huế - mảnh đất của văn hóa, của tâm linh. Cái vẻ trầm mặc, ưu tư
của thành cổ và lối sống bình lặng của chốn cố đô đã tạo nên một phong chách –
phong cách Huế. Người Huế đa số theo đạo Phật. Tư tưởng Phật giáo như thấm sâu
vào cách sống, lối sống và tâm hồn.


Trịnh Công Sơn (1939-2001), ông sinh tại Đắc Lắc, lúc nhở ông sống ở Huế, trưởng
thành ở Đà Lạt, Quy Nhơn, Sài Gịn. Có thể nói, Đắc Lắc cho ơng một tính cách cơ
đơn, mãnh liệt; Đà Lạt nuôi thơ và tâm hồn mộng mị; Huế mang đến một không gian
buồn bã, lắng đọng. ở Huế, TCS theo học các trường Lyceè Francais, Provindence
Huế, sau vào Sài Gòn học triết ở trường Tây Lyceè J.J Rousseau Sài Gịn. Triết học là
chìa khóa duy nhất giải mã cho tâm hồn người thanh niên non nớt này về cuộc sống,
bản thân, đặc biệt về Phật giáo. Chính TCS khi trả lời phỏng vấn các nhà báo cũng đã
từng nói: “Huế và đạo phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tơi. Tất
cả những gì thuộc về cuộc sống đều có ảnh hưởng trên đời sống tinh thần và tình cảm
của tơi.” Trong dịng ca khúc của TCS, có thể thấy rõ quan niệm sáng tác qua từng
giai đoạn: Dịng ca khúc trữ tình, dịng ca khúc chống chiến tranh (phản chiến), và
dòng ca khúc âm ỉ thứ ba: giải thoát bản ngã. Ca khúc trữ tình là phần nghiêng trong
sáng tác của TCS, đặc biệt là vào thời kỳ trước 1975, trong số 400 bài được xuất bản
và phổ biến. Ở những ca khúc đầu tay, thời gian được xóa nhịa trong cõi mộng, gờn
gợn thứ âm nhạc liêu trai, một chút cô đơn, một ít tuyệt vọng và chưa thể hiện rõ tư
tưởng Phật gióa trong những sáng tác của mình. Cuộc sống nhiều cọ sát đã mang đến
cho ông thêm những triết lý về cuộc đời để những ca khúc trở nên bớt gập ghềnh hơn,
sâu sắc hơn và những nhạc phẩm mà ông tạo ra trong giai đoạn sau đã có sự hội tụ
giữa Đạo và Tình. Triết lý nhà Phật thấm sâu trong tâm hồn, trong tư tưởng với những
xúc cảm giữa đời thường đã được nhạc sĩ gửi gắm trong những ca khúc của mình.


Điều đó thể hiện qua cái nhìn về cuộc đời, về con người, về tình yêu.
Phật giáo – một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, có ảnh hưởng sâu sắc trong đời
sống xã hội của người Phương Đông. Phật giáo không chỉ đơn thuần là một tơn giáo
thể hiện tín ngưỡng con người mà cịn thể hiện tư tưởng triết học qua cái nhìn và cách
lý giải về con người, về đời sống, về xã hội. Ở Việt Nam, Phật giáo được truyền vào
rất sớm, từ thế kỷ I và II, đến thời Lý – Trần (thế kỷ X và XIV) Phật giáo đã là quốc
đạo, từ triều Lê đến triều Nguyễn (thế kỷ XV đến XIX) Phật giáo khơng cịn ở địa vị
quốc đạo nhưng chỗ đứng của Phật giáo vẫn còn vững chắc trong đời sống con người


Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2></div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Được mất là lẽ thường, khơng có gì tồn tại mãi mãi và cũng đừng ảo tưởng về sự bất
biến của lịng người. Vậy nên, em khơng cần bận bịu gì vì để lại sau lưng cuộc tình
một tâm hồn hoang vu, một cõi lòng tan nát mà vẫn đầy thương mến. Tình thương
mến ấy như bao trùm lên cả khoảng cách của sự chia xa, của nỗi đau ẩn giấu trong
tâm hồn để Ru em dù đã chia xa. Ru em tình nghĩa vu vơ. Yêu em u thêm tình phụ.
u em lịng chợt từ bi bất ngờ (Ru em). Em và tình như đóa hoa vơ thường nên cho
dù đã chờ ở kiếp trước, đã hẹn ở kiếp này nhưng chia xa vẫn không thể tránh khỏi.
Tình đến, tình rộ rồi tình tàn lụi, héo rữa và chết đi cũng là chu trình “Thành, trụ,
hoại, khơng” như đời người “Sinh, lão, bệnh, tử”. Mất đi để đầu thai kiếp khác. Tình
chết đi để tái sinh cuộc tình mới. Cái cịn thì chẳng cịn, cái mất thì chẳng mất. Tình
cũng như thế giới này, sinh sinh diệt diệt, biến chuyển khơng ngừng. Đã là quy luật
thì cưỡng lại sao lời cảm tạ: Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời đã đưa
em về chốn này (Tạ ơn); hãy cùng bước đi cho bình minh đang tới, cho đời chút ơn
biết tà áo nọ. Em là đóa hoa cho đời sắc hương, là lời hát ca cho trần gian (Cho đời
chút ơn) và Em đã cho tôi, cho tôi bầu trời. Em đã cho tơi thêm u lồi người (Em đã
cho tơi bầu trời).


Sẽ có người cho rằng: Nếu nhạc sỹ họ Trịnh khơng ốn trách người tình sao những ca
từ lại ảo não, đau đớn đến như vậy Tình réo, tình âm thầm, sầu réo sầu bên bờ vực sâu


hoặc Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dại, tình khơng mơi cười hay Xin vỗ tay cho
đều khi đêm đổ xuống đời ta. Xin vỗ tay cho đều khi tình tơi đã trơi xa và Xin ngủ
trong vịng nơi, ta ru ta ngậm ngùi. Đã có người cho rằng: Âm nhạc của TCS chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Đã là chủ nghĩa hiện sinh thì con người bao giờ cũng
cơ đơn, thấy cuộc đời mình “như thừa ra”, xã hội như khơng có nhu cầu gì về sự tồn
tại của mình, con người khơng đối tượng hóa được nên cuộc đời thành vơ nghĩa. Đó là
nỗi đau khổ của con người. Điều đó cũng chưa hẳn, tuy ít nhiều nhạc sỹ họ Trịnh chịu
ảnh hưởng của Albert Camus khi tự ví mình là phận cỏ hèn: Đời ta có khi tựa lá cỏ,
ngồi hát ca rất tự do hoặc Sống chết mong manh như thân cỏ hiền mọc đầy núi non.
Tuy nhiên, TCS cũng khơng cho rằng “mình là người thừa ra”, mình khơng đứng
ngồi lề của cuộc đời này và nỗi buồn thương, sầu khổ và tuyệt vọng cũng không phải
lời tách cứ, không phải là nỗi niềm nuối tiếc. Đó là tiếng lịng u người và đó là bể
khổ, bể khổ của cõi tình. Bản chất con người là khổ mà yêu lại càng khổ. Khổ không
phải vì bị phụ lịng, khổ khơng phải vì mất tình u mà khổ vì cịn là người và cịn
u, mãi yêu. Tránh sao được cái khổ của đời, của tình? Thế nên, tốt nhất là đối mặt
với nó, gặm nhấm nỗi cô đơn muộn phiền bên bãi đời hiu quạnh, trên lịng đường
buồn tênh, trong bóng đêm heo hút, giữa tường trắng lặng câm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

bay. Để rồi kết thúc nhạc phẩm là một lời ai oán não nề Trẻ thơ ơi! Trẻ thơ ơi! Tin
buồn từ ngày mẹ cha mang nặng kiếp người.


Trong ca khúc “Ngẫu nhiên” nhạc sỹ đã lý giải sự hiện hữu của con người và vạn vật
của cuộc đời này là ngẫu nhiên mà mỗi chúng ta cũng không biết được điểm đến,
điểm dừng, điểm đi của thân phận mình Khơng có đâu em này, khơng có cái chết đầu
tiên và có đâu bao giờ, đâu có chết sau cùng. Hịn đá lăn bên đồi, hòn đá rớt xuống
cành mai, rụng cánh hoa mai gầy, chim chóc hót tiếng qua đời. Người ơm lấy mn
lồi nằm trong tiếng bi ai. Cuộc sống ngẫu nhiên còn cái chết là tất nhiên nên con
người với cuộc đời này chỉ là “Ở trọ”: Tôi nay ở trọ trần gian, bâng khng vì những
đơi mắt rất hồng. Cũng từ quan niệm ấy mà nhạc sỹ đã hiểu điều trong Kinh thánh
viết “cát bụi lại trở về với cát bụi”: Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một


chiều tóc trắng như vơi. Lá úa trên cao rụng đầy. Cho trăm năm vào chết một ngày.
Phải! Trăm năm rồi cũng kết thúc bởi thân phận con người là thế. Cái chết là lẽ tự
nhiên, là một cõi đi về của đời người, vì thế Đường nào dìu tơi đi đến cơn say. Một
lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời. Dù thật lệ rơi lịng khơng buồn mấy. Giật mình tỉnh
ra ơ nắng lên rồi (Bên đời hiu quạnh). Chỉ một câu hát mà chứa đựng biết bao nguồn
cảm xúc. Lịng khơng buồn bởi lẽ sinh tử là chuyện thường tình, thế nhưng lệ rơi vẫn
thể hiện sự gắn bó, u thương đối với trần thế và thốt khỏi cơn mơ thấy màu nắng
lên vẫn hy vọng đợi chờ vào một ngày mai. Dù rằng, đối với tư tưởng Phật giáo thì
muốn thốt khỏi bể khổ con người phải hướng tới nghiệp lành, diệt trừ nghiệp ác. Ở
nhạc Trịnh khổ cũng là tình mà sự cứu rỗi, giải thốt cũng chỉ là tình. Tình là một cõi
đi về của bước chân vô định mà nhạc sỹ họ Trịnh đã bước trên cõi đời này. Dù phiêu
du một đời, dù khơng cịn ai, dù có đêm thấy mình là thác đổ, dù có lúc giật mình vì
chiếc lá thu phai, thì bên bước chân của kẻ lữ hành cơ độc ấy vẫn là tình. Tình đối với
người, đối với đời. Nhạc Trịnh buồn, nhiều ý kiến cho rằng sướt mướt, rên rỉ nhưng
xét cho cùng thì: Nếu khơng u cuộc đời này thì sao phải buồn khi xa nó? Nếu
khơng yêu người thì sao phải sầu héo khi xa người? Nếu khơng thương kiếp đời người
thì sao phải buồn thương cho số kiếp làm người? Điều mà trong quan niệm nhà Phật
tâm niệm và được thể hiện qua nhạc Trịnh là tình u thương dành cho con người. Đó
chẳng phải là chiều sâu của tính nhân bản sao? Và phải chăng là lý do mà mỗi người
trong chúng ta ai ai cũng từng cất tiếng hát hoặc thấy ngân nga trong hồn giai điệu của
một Diễm xưa, tình xa hay Một cõi đi về.


Khi nói về nhạc tình của TCS, người đời gọi ông là “kẻ du ca về phận người”, “sứ giả
của tình yêu”, “người hát rong của thế kỷ XX”, hoặc như Hoàng Phủ Ngọc Tường,
một nhà văn, một nhà phê bình văn học, một con người xứ Huế, một người bạn gắn
bó với Trịnh Cơng Sơn đã từng cho rằng; khỏi phải e ngại rằng TCS định làm triết lý
thay vì âm nhạc. Điều mà Hồng Phủ Ngọc Tường muốn nói tới: TCS muốn “mượn”
âm nhạc để thể hiện những quan niệm, tư tưởng của mình về cuộc đời, về con người.
Nhưng chưa hẳn như vậy, nhạc của TCS được thăng hoa từ những cảm xúc yêu
thương từ những nỗi đau ngọt ngào vì con người, vì cuộc sống mà ẩn chứa trong đó là


cái nhìn mang tính triết lý, triết lý của nhà Phật…


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5></div>

<!--links-->

×