Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Hội trại tuổi trẻ tòng quân huyện Tân Châu - Tây Ninh năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.99 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Kỹ thuật giới thiệu/dạy ngữ liệu mới</b>



Giới thiệu ngữ liệu mới là làm rõ nghĩa, cách phát âm, cấu trúc hình thái, và cách dùng của
một mục dạy nào đó trong một ngữ cảnh nhất định. Mục dạy có thể là các mẫu lời nói, từ vựng
hay ngữ pháp, hoặc một nội dung chủ điểm nào đó, thường được giới thiệu thông qua một bài
hội thoại hay một bài khố, hoặc những tình huống có sự hỗ trợ của giáo cụ trực quan.


Với phương pháp dạy học mới, cơng việc giới thiệu ngữ liệu khơng cịn thuần tuý chỉ là
việc thày giải thích nghĩa của từ mới (mà phần lớn giáo viên thường thực hiện bằng cách cho
nghĩa tiếng Việt) và giải thích các quy tắc ngữ pháp và các mẫu câu. ở phần này, người giáo viên
còn cần phải đồng thời làm rõ cách sử dụng của các mẫu câu hoặc từ mới đó trong ngữ cảnh.
Chỉ khi được giới thiệu trong ngữ cảnh, nghĩa và cách sử dụng của các ngữ liệu cần dạy mới
được làm sáng tỏ. Như vậy, nội dung cần giới thiệu ở bước giới thiệu ngữ liệu là:


 Hình thái (Form: pronunciation; spelling; grammar)
 Ngữ nghĩa (Meaning)


 Cách sử dụng (Use)


Một đặc điểm nổi bật của phương pháp mới trong việc giới thiệu ngữ liệu là phương pháp mới
rất chú trọng tới việc phải làm sao cho học sinh tiếp thụ bài học khơng chỉ qua nghe thụ động mà cịn
được vận động trí óc, chủ động tham gia vào q trình của họat động này qua nhiều hoạt động ngơn
ngữ khác nhau.


Có nhiều cách/ thủ thuật giới thiệu ngữ liệu. Sau đây là một số thủ thuật giới thiệu ngữ
liệu mà các giáo viên có thể tham khảo để ứng dụng cho bài dạy cụ thể của mình.


<i><b>Các thủ thuật tạo dựng tình huống. (setting up situations/ contexts)</b></i>


a). Dùng môi trường, đồ vật thật trong lớp, trong trường;
b). Sử dụng những tình huống thật trong lớp;



c). Dùng các tình huống thật trong đời sống thật của hoc sinh;
d). Dùng các câu chuyện có thật, các hiện tượng thật trong thực tế;
e). Sử dụng các bảng biểu, bản đồ, bảng tin, báo chí;


f). Sử dụng tranh, ảnh, giáo cụ trực quan;
g). Sử dụng ngôn ngữ học sinh đã biết;
h). Sử dụng các bài hội thoại ngắn;
i). Sử dụng tiếng mẹ đẻ;


k). Phối hợp một hay nhiều cách trên.


<i><b>Giới thiệu hình thái ngơn ngữ</b></i>


Sau khi dùng ngữ cảnh để giới thiệu nghĩa và cách dùng của các mục dạy, lúc này giáo
viên có thể làm rõ hình thái cấu trúc, các quy tắc ngữ pháp nếu có để học sinh nhớ được dễ hơn
và hệ thống hoá được những ngữ liệu đã học. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh tự nhận xét và
lập thành mẫu câu hoặc lập ra các công thức dễ nhớ.


<i><b>Kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh.</b></i> (Checking comprehension)


Sau khi giáo viên đã giới thiệu làm rõ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu mới, cần thực
hiện việc kiểm tra mức độ tiếp thu bài của học sinh để qua đó biết được học sinh đã thực sự
hiểu bài chưa, mức độ hiểu đến đâu, để trên cơ sở đó có thể kịp thời bổ xung bài giảng nếu cần.
Việc kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh ở phần giới thiệu ngữ liệu này có thể được
thực hiện thơng qua một số bài tập thực hành như:


 Học sinh ứng dụng mẫu câu vừa học vào các tình huống tương tự khác giáo viên đưa ra;
 thực hiện một số bài tập lắp ghép;



 xây dựng các bài hội thoại ngắn theo mẫu bằng cách lắp ghép những từ, đoạn câu gợi ý;
 thực hiện các bài tập hỏi /trả lời theo dạng câu hỏi đóng hoặc các câu hỏi trắc nghiệm


đúng sai (comprehensive questions, True/False questions)


 dịch ra tiếng Việt (nếu phù hợp và cần thiết)


<i><b> Tóm tắt các bước giới thiệu ngữ liệu mới</b></i>


Các bước giới thiệu ngữ liệu mới có thể được tóm tắt theo một tiến trình như sau:


1) Giới thiệu ngữ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu: cấu trúc ngữ pháp/ từ mới/
mẫu câu chức năng qua tình huống, ngữ cảnh, mẫu hội thoại, tranh ảnh...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nghe nhắc lại hoặc bằng các thủ thuật khác nhằm hướng sự chú ý của học sinh vào những mục
dạy đó.


3) Viết các cấu trúc/ từ mới lên bảng, làm rõ hình thái cấu trúc, giải thích nếu cần.
4) Làm rõ thêm nghĩa và cách sử dụng bằng cách tiếp tục đưa thêm các tình
huống hoặc các ví dụ khác.


5) Lặp lại tương tự bước 2 hoặc cho học sinh tái tạo theo gợi ý.


6) Kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh sử dụng các thủ thuật kiểm tra hiểu như
gợí ý ở mục 2.3.


Khi giáo viên nhận thấy học sinh đã làm tốt được bước 6. thì có thể chuyển sang phần
luyện tập sáng tạo hơn với các loại bài tập mang tính giao tiếp hơn.


Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng không phải lúc nào việc giới thiệu ngữ liệu cũng phải tuân


theo tuần tự tiến trình trên. Ví dụ, ngay sau bước 2. nếu giáo viên cảm thấy học sinh đã hiểu và
có thể làm tốt các bài tập tái tạo thì có thể chuyển ngay sang bước 6. Hoặc cơng việc của bước
3. cũng có thể để lui lại để thực hiện vào cuối bài ở bước củng cố bài, sau khi học sinh đã làm
các bài tập thực hành.


<i><b> Một số lưu ý khi giới thiệu/dạy từ vựng</b></i>


Tiến trình giới thiệu ngữ liệu được trình bày ở trên có thể được coi là tiến trình chung cho
việc giới thiệu ngữ liệu mới. Tuy nhiên, cách giới thiệu từ vựng cũng có những đặc thù riêng.
Phần này sẽ trình bày một số điểm cần lưu ý khi giới thiệu từ mới.


<i><b>Chọn từ để dạy</b></i>


Thông thường trong một bài học sẽ ln ln có từ mới. Song không phải từ mới nào cũng
cần đưa vào dạy như nhau. Để lựa chọn từ để dạy, giáo viên cần xem xét các câu hỏi sau:


a) Từ chủ động hay từ bị động?


 Từ chủ động (active/ productive vocabulary) là những từ học sinh hiểu, nhận biết và sử


dụng được trong giao tiếp nói và viết.


 Từ bị động (passive/ receptive vocabulary) là những từ học sinh chỉ hiểu và nhận biết


được khi nghe và đọc.


Cách dạy hai loại từ này có khác nhau. Từ chủ động liên quan đến cả 4 kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết, cần đầu tư thời gian để giới thiệu và luyện tập nhiều hơn, đặc biệt là cách sử dụng. Với từ bị
động, giáo viên có thể chỉ dừng lại ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động
ứng dụng. Giáo viên cần xác định xem sẽ dạy từ nào như một từ bị động và từ nào như một từ chủ


động. Với từ bị động, giáo viên có thể khuyến khích học sinh tự tìm hiểu nghĩa từ (ví dụ: tra từ điển),
hoặc đốn từ qua ngữ cảnh.


<i>b) Học sinh đã biết từ này chưa?</i>


Giáo viên cần xác định rõ từ mình định dạy có thực sự là từ cần dạy hay không. Vốn từ của học
sinh luôn luôn được mở rộng bằng nhiều con đường, và cũng có thể bị quên bằng nhiều lý do khác
nhau. Để tránh tình trạng giới thiệu những từ không cần thiết và mất thời gian, giáo viên có thể dùng
những thủ thuật nhằm phát hiện xem các em đã biết những từ đó chưa và biết đến đâu. Giáo viên có
thể dùng các thủ thuật như eliciting; brainstorming; các thủ thuật dùng ở các bước 5) và 6) trong tiến
trình giới thiệu ngữ liệu mới; hoặc có thể hỏi trực tiếp học sinh những từ nào là từ mới và khó trong bài.


<i><b>Những thủ thuật làm rõ nghĩa từ</b></i>


Ngoài những thủ thuật giới thiệu nghĩa trong ngữ cảnh đã đề cập ở phần giới thiệu ngữ
liệu chung, có thể sử dụng một số thủ thuật đặc thù cho từ vựng như:


a) Dùng trực quan như: đồ vật thật trên lớp, tranh ảnh, hình vẽ phác hoạ (hình que),
hình cắt dán từ tạp chí, cử chỉ điệu bộ v.v.


b) Dùng ngôn ngữ đã học:


 Định nghĩa, miêu tả;


 Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa;


 Dựa vào các quy tắc hình thành từ, tạo từ;
 Tạo tình huống;


 Đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh



c) Dịch sang tiếng mẹ đẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

lúc kiểm tra được mức độ tiếp thu bài của học sinh.


<i><b>Tăng cường sự tham gia của học sinh ở bước giới thiệu ngữ liệu mới</b></i>


Như đã đề cập, điểm nổi bật ở phương pháp mới là tạo cho học sinh được tham gia vào
quá trình giới thiệu ngữ liệu mới.


Trong giai đoạn giới thiệu ngữ liệu mới, thông thường giáo viên đóng vai trị chính, vai trị
truyền thụ, học sinh đóng vai tiếp nhận, thụ động là chủ yếu. Tuy nhiên, nếu giáo viên tạo được
điều kiện cho học sinh tham gia vào quá trình này, kết quả tiếp thu bài của các em sẽ tốt hơn
nhiều.


Để làm được điều đó, giáo viên cần tìm kiếm và sử dụng những thủ thuật phát huy sự chủ
động suy đoán, tự phát hiện của học sinh. Ví dụ, phát hiện và nhận biết cấu trúc hay từ mới và tự
rút ra mẫu cấu trúc của các mục ngữ pháp, hoặc đoán nghĩa từ trong ngữ cảnh, tự giải thích
nghĩa từ bằng vốn từ có sẵn, cho từ đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa,v.v.


<i><b>Sử dụng phối hợp các kỹ năng trong khi giới thiệu ngữ liệu mới</b></i>


</div>

<!--links-->

×