A.PHẦN MỞ ĐẦU
1/.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hội nghị BCH TW lần 4 khoá VII tháng 1/1993 đã khẳng định Xã hội hoá
giáo dục là một trong những định hướng cơ bản đổi mới sự nghiệp giáo dục đào
tạo.Hội nghị BCH TW lần 2 khoá VIII tháng 12/1996 tiếp tục khẳng định xã
hội hoá giáo dục là một trong những giải pháp chủ yếu thực hiện chiến lược
giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xã hội hoá giáo dục là tư tưởng chiến lược của Đảng nhằm huy động sức
mạnh toàn xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội.
Thực hiện xã hội hoá giáo dục nhằm phát triển tiềm năng về trí tuệ và vật
chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, đồng
thời tạo điều kiện để toàn xã hội được thụ hưởng thành quả giáo dục ở mức độ
ngày càng cao. ( Đề án “Quy hoạch phát triển xã hội hoá giáo dục giai đoạn
2005 – 2010” của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo phê duyệt ngày 24/6/2005
theo Quyết định số 20/2005/QĐ-BGD&ĐT.
Bậc học Trung học cơ sở là bậc học tạo tiền đề cho các em học tiếp bậc học
tiếp theo, nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành người công dân có đủ Đức, đủ Tài, phát
triển toàn diện về thể chất lẫn tâm hồn đáp ứng yêu cầu xã hội, đáp ứng mục
tiêu giáo dục, đòi hỏi nhà trường phải đáp ứng những yêu cầu cần thiết cho việc
trang bị cơ sở vật chất. Muốn cơ sở vật chất nhà trường đáp ứng được nhu cầu
thiết yếu đó thì việc thực hiện xã hội hoá giáo dục là quy luật tất yếu để làm
giáo dục cho mỗi trường.
Nhà trường là cơ quan chuyên về giáo dục, phải xác định đúng và rõ ràng
các mối quan hệ của từng lực lượng xã hội trên điạ bàn để có tác động đúng.
Hơn ai hết, nhà trường hiểu rõ những yêu cầu của mình về xã hội hoá giáo dục
1
để thực hiện mục đích, nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục nhằm đáp
ứng nhu cầu của giáo dục. Vì vậy, phải giữ vai trò chủ động chính là hiệu
trưởng, hiệu trưởng phải đóng vai trò trung tâm, nòng cốt trong cơ chế tổ chức
xã hội hoá giáo dục, phải là người chủ động tổ chức, thực hiện các chủ trương,
giải pháp đề ra.
Là một cán bộ quản lý tôi muốn góp một phần nhỏ công sức của mình vào
việc tu bổ cơ sở vật chất nhà trường được khang trang hơn, đẹp hơn nhằm thực
hiện mục tiêu giáo dục nên tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Giải pháp của hiệu
trưởng nhằm nâng cao hiệu quả xã hội hoá giáo dục ở trường THCS Tân
Hưng – Tân Châu – Tây Ninh” .
2/.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Giải pháp của hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả xã hội hoá giáo dục.
- Vai trò của hiệu trưởng trong việc thực hiện xã hội hoá giáo dục.
- Ý thức của cha mẹ học sinh trong việc xã hội hoá giáo dục.
3/.PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Công tác xã hội hoá giáo dục ở trường THCS Tân Hưng- Tân Châu– Tây
Ninh nhằm trang bị cơ sở vật chất nhà trường.
Thời gian nghiên cứu: 2007-2010.
Mức độ nghiên cứu: qua thực nghiệm công tác xã hội hoá giáo dục của
trường.
4/.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo, tài liệu có liên quan.
- Phương pháp điều tra
- Trao đổi kinh nghiệm với các hiệu trưởng làm tốt công tác xã hội hoá
giáo dục.
- Phương pháp tổng hợp, rút kinh nghiệm.
- Kiểm tra so sánh kết quả.
2
Giả thuyết khoa học:
Qua thực tế cho thấy, những cơ sở giáo dục nào cơ sở vật chất còn nghèo
nàn, thiếu thốn thì chất lượng giáo dục chưa cao, ý thức học tập của học sinh
còn thấp và ý thức bảo quản cơ sở vật chất của học sinh chưa tốt. Bên cạnh,
chưa tạo uy tín trong nhân dân và xã hội về chất lượng giáo dục.
Nếu người Hiệu trưởng tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội
hoá giáo dục làm cho cơ sở vật chất trường học khang trang hơn, sạch đẹp hơn
sẽ giúp cho nhà trường có uy tín với nhân dân thì sự đóng góp để trang bị cơ sở
vật chất sẽ được ủng hộ tích cực, đáp ứng yêu cầu của xã hội, đáp ứng mục tiêu
cấp học, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện.
B.NỘI DUNG
1/.CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1/Quan niệm về xã hội hoá giáo dục và mục đích xã hội hoá giáo dục:
Xã hội hoá giáo dục là thực hiện bản chất xã hội của giáo dục, như vậy đó là
một hoạt động có tính quy luật. là một yếu tố khách quan vốn có của sự nghiệp
giáo dục chứ không phải do một ý nghĩ chủ quan hay một hoàn cảnh xã hội đặc
biệt nào. Xã hội hoá giáo dục là một quy luật tất yếu để làm giáo dục cho mỗi
quốc gia.
Xã hội hoá giáo dục theo nghĩa nguyên từ là làm cho giáo dục có đầy đủ tính
xã hội, giáo dục liên hệ hữu cơ với xã hội.Nói cách khác như Nguyễn Văn Đản,
xã hội hoá giáo dục về bản chất là một hệ thống các hoạt động của các cá
nhân và tổ chức nhằm trả lại chức năng giáo dục của xã hội cho xã hội và
trả lại chức năng xã hội của giáo dục cho chính giáo dục.
Ý nghĩa phổ biến nhất của xã hội hoá giáo dục là tổ chức cho toàn xã hội
làm giáo dục.Nghị quyết TW 4 khoá VII và Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã thể
hiện một quan niệm cụ thể về xã hội hoá giáo dục là huy động xã hội làm
3
giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục
quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước.
Như vậy, xã hội hoá giáo dục là thực hiện bản chất của xã hội, của sự nghiệp
giáo dục, huy động các lực lượng của cộng đồng xã hội làm giáo dục, tạo môi
trường cho bản chất xã hội của giáo dục phát huy tối đa vai trò của mình, làm
cho giáo dục đáp ứng có hiệu quả nhu cầu thực tế của xã hội, gắn với xã hội,
không thoát ly với cuộc sống. Theo đó, nội hàm của khái niệm xã hội hoá giáo
dục khá rộng, mọi việc làm của các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, các cơ
quan, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân có tác động thiết thực đến mục tiêu:
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đều được coi là góp
phần thực hiện xã hội hoá giáo dục.
1.2/Nhiệm vụ của hiệu trưởng trong công tác xã hội hoá giáo dục:
Công tác giáo dục được thực hiện ở từng gia đình, nhưng chất lượng công
tác giáo dục được quyết định ở từng cơ sở trường học. Muốn công tác giáo dục
có chất lượng thì đứng ở góc độ nội bộ nhà trường, xây dựng được đội ngũ giáo
viên đồng bộ, đủ sức để tiến hành tất cả các hoạt động dạy học, vui chơi, giải
trí, lao động kỹ thuật, hoạt động xã hội với chất lượng cao; phải tổ chức tốt các
hoạt động giảng dạy, giáo dục và học tập; phải không ngừng nâng cao chất
lượng đào tạo, phát huy hiệu quả giáo dục, gắn với cộng đồng vì sự phát triển
cộng đồng.
Người hiệu trưởng trong công tác xã hội hoá giáo dục phải xây dựng được
môi trường giáo dục đồng bộ giữa gia đình và nhà trường, cộng đồng xã hội để
toàn xã hội chăm lo, tạo điều kiện cho nhà trường và Hiệu trưởng hoàn thành
nhiệm vụ của mình.
Trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp
giảng dạy thì cơ sở vật chất là một trong những nhân tố quan trọng góp phần
quyết định chất lượng, hiệu quả giáo dục.
4
Nếu làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục thì việc xây dựng cơ sở vật chất sẽ
có nhiều thuận lợi và trái lại, điều đó luôn phù hợp với phương châm : “Nhà
nước và nhân dân cùng làm” mà Đảng và Nhà nước luôn vận động.
Trên cơ sở lý luận này, trường THCS Tân Hưng quyết tâm thực hiện tốt
công tác xã hội hoá giáo dục nhằm từng bước thay đổi diện mạo nhà trường
ngày càng khang trang đáp ứng tốt cho hoạt động dạy và học nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục.
1.3/Nội dung xã hội hoá giáo dục
- Huy động toàn xã hội đóng góp tài lực, vật chất thực hiện đa dạng hoá các
nguồn đầu tư vật chất cho giáo dục bằng các hình thức:
+ Xây dựng cơ sở vật chất – trường lớp.
+ Tăng cường trang thiết bị giảng dạy cho nhà trường.
+ Chăm lo cho học sinh, nhất là học sinh nghèo diện chính sách và khó
khăn, đồng thời khuyến khích học sinh giỏi phát triển tài năng.
+ Chăm lo cho thầy cô giáo, giúp thầy cô giáo hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình.
- Huy động các lực lượng xã hội ( cộng đồng địa phương ) tham gia thực
hiện các chỉ tiêu kế hoạch phát triển trên địa bàn.
- Các lực lượng tham gia vào việc đa dạng hoá các hình thức học tập, các
loại hình trường, lớp.
- Huy động xã hội xây dựng môi trường thuận lợi cho việc giáo dục trẻ.
- Thu hút các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục.
2/.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
2.1.Đặc điểm tình hình điạ phương:
Tân Hưng là xã nông thôn với tổng diện tích giáp với 3 huyện thị:
Dương Minh Châu, Thị xã, Tân Biên. Xã Tân Hưng cách thị trấn Tân
5
Châu10km, cách trung tâm thị xã Tây ninh 20km. Toàn xã có 2 dân tộc sinh
sống là : Kinh và Chăm.
Kinh tế nhân dân trong xã chủ yếu dựa vào thu nhập từ sản xuất nông
nghiệp.
Trình độ dân trí chưa cao, trình độ hiểu biết về giáo dục còn nhiều hạn chế, ý
thức đóng góp xây dựng cơ sở vật chất trường học còn thấp và cho rằng đó là
việc làm của Nhà nước.
2.2.Thực trạng trong công tác xã hội hoá giáo dục ở trường THCS Tân
Hưng:
Cơ sở vật chất tuy đáp ứng được số lượng, song chất lượng chưa đạt yêu
cầu. Một số phòng không đúng kích thước quy định và được nâng cấp từ các
phòng học tạm thời, ánh sáng không đảm bảo, phòng học không có la-phong.
Bàn ghế học sinh không đúng quy cách kích thước phù hợp cho học sinh khối
Trung học cơ sở. Bảng thì sử dụng bảng tường nên bị chói học sinh không nhìn
thấy.
Sân trường chưa được bê-tông hoá nên rất bụi và bẩn khi học sinh vui chơi,
giải trí.
Thiết bị dạy học được trang cấp chưa có sự bảo quản tốt, hư hỏng và mất
nhiều.
Tỉ lệ học sinh bỏ học rất cao, chất lượng giáo dục còn thấp.
Học sinh vi phạm đạo đức, vi phạm điều cấm quy định trong Điều lệ trường
Trung học thường xuyên, thành lập băng nhóm đánh nhau rất phổ biến.
2.3.Nguyên nhân:
Hiệu trưởng chưa nhận thức đúng đắn mục đích, vai trò của công tác xã hội
hoá giáo dục và nhiệm vụ của người Hiệu trưởng trong công tác xã hội hoá giáo
dục.
6
Điều kiện kinh tế nhân dân trong xã thu nhập còn thấp, mức đóng góp đầu tư
cho giáo dục còn quá ít, sự phối hợp giữa các cấp chưa đồng bộ.
Kinh phí hoạt động không có, sự đóng góp của nhân dân rất hạn chế.
Hội cha mẹ học sinh hoạt động còn rời rạt, phong trào xã hội hoá giáo dục
chưa cao.
Các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường phần lớn tham gia với tính cách tự
phát, chưa có kế hoạch cụ thể.
Hiệu trưởng chưa xây dựng tốt kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa các lực
lượng trong và ngoài nhà trường.
2.4.Sự cần thiết của đề tài:
Để đáp ứng được yêu cầu của xã hội, đáp ứng mục tiêu cấp học, đòi hỏi phải
đáp ứng yêu cầu cơ sở vật chất, để trường lớp ngày càng khang trang đáp ứng
yêu cầu giáo dục toàn diện phục vụ mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra. Nếu
cơ sở vật chất tốt và đầy đủ tạo môi trường giáo dục tốt quyết định hiệu quả
giáo dục của nhà trường. Tạo điều kiện quan trọng cho quá trình Dạy và Học,
đồng thời góp phần giáo dục các em tình cảm yêu trường, mến bạn, kính trọng
thầy, cô giáo, giúp đỡ nhau trong học tập.
Muốn trường có cơ sở vật chất khang trang, người Hiệu trưởng không chỉ
trong chờ vào cấp trên mà phải biết vận động và làm tốt công tác xã hội hoá
giáo dục.
3.NỘI DUNG VẤN ĐỀ:
3.1.Vấn đề đặt ra:
Từ những hạn chế và nguyên nhân nêu trên, người Hiệu trưởng muốn làm
tốt công tác xã hội hoá giáo dục thì vấn đề đặt ra là phải thực hiện đồng bộ và
phối hợp nhịp nhàng các công tác sau:
- Lập kế hoạch huy động cộng đồng tham gia xây dựng trường, lớp.
- Công tác tham mưu.
7
- Công tác tuyên truyền.
- Công tác phối hợp.
3.2.Giải pháp cụ thể:
3.2.1.Lập kế hoạch huy động cộng đồng tham gia xây dựng trường, lớp:
Kế hoạch phải phù hợp với kinh tế địa phương và có tính khả thi.
Trước hết, Hiệu trưởng cần tổ chức kiểm tra cơ sở vật chất nhà trường, tổng
hợp các công trình đã xuống cấp, công trình còn thiếu chưa được xây dựng.
Sau đó,Hiệu trưởng bàn bạc thống nhất trong Ban giám hiệu nhà trường xác
định những hạng mục, công trình nào cần sửa chữa và xây dựng trước để đáp
ứng yêu cầu cần thiết, cấp bách nhằm phục vụ công tác Dạy và Học của nhà
trường.
Hiệu trưởng lập kế hoạch và đề ra mục tiêu phải đạt được cho từng năm cụ
thể, kế hoạch phải có tính khả thi phù hợp với điều kiện của địa phương và nhà
trường. Kế hoạch được thực hiện từ từ, tránh nóng vội.
Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất phải thông qua Hội đồng sư phạm nhà
trường để toàn thể CB-GV-CNV nắm bắt và hỗ trợ nhà trường trong công tác
vận động Cha mẹ học sinh tham gia đóng góp, ủng hộ nhà trường.
Thông qua Ban chấp hành Hội CMHS (Cha mẹ học sinh) để xác định tầm
quan trọng của việc xây dựng cơ sở vật chất nhà trường, bàn bạc thống nhất
mức đóng góp của từng năm học. Lưu ý, mức đóng góp phải phù hợp với tình
hình kinh tế điạ phương, không quá cao và đề ra tiêu chí miễn giảm cụ thể,
không áp đặt cho mọi đối tượng.
Hiệu trưởng phải thể hiện vai trò của mình trong việc nâng cao tính thuyết
phục để dân hiểu tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác xã hội hoá giáo
dục, tình hình bức xúc của cơ sở vật chất nhà trường, nêu những khó khăn của
địa phương.Từ đó, CMHS tự nguyện đóng góp xây dựng và sửa chữa trường
lớp.
8
Chuẩn bị vào năm học mới Hiệu trưởng cùng với Ban chấp hành Hội CMHS
trình cho UBND xã về kế hoạch huy động cộng đồng tham gia xây dựng trường
học để kế hoạch được sự ủng hộ của chính quyền các cấp nhằm hỗ trợ cho nhà
trường hoàn thành kế hoạch đề ra.
*Kết quả:
Năm học 2006 – 2007: Hội CMHS quyên góp ủng hộ nhà trường số tiền:
17.000.000 đ trang bị cơ sở vật chất cho phòng Tin học, Phòng Giáo dục & Đào
tạo Tân Châu hỗ trợ 20 máy vi tính.
Năm học 2007 – 2008: Hội CMHS quyên góp ủng hộ xây dựng sân xi măng
với số tiên 15.750.000 đ.
Năm học 2008 – 2009: Hội CMHS tiếp tục hỗ trợ xây xi măng sân trường ra
đến cổng với số tiền 13.553.000 đ.
Năm học 2009 – 2010: Hội CMHS quyên góp 27.395.000 đ để nâng cấp
nhà vệ sinh học sinh có hệ thống nước hoàn chỉnh và hỗ trợ xây bồn hoa kiểng
4.989.000 đ.
3.2.2.Công tác tham mưu:
a.Tham mưu với địa phương.
Đảng và chính quyền địa phương giữ vai trò lãnh đạo và quản lý công tác xã
hội hoá giáo dục ở địa phương, có tính chất quyết định trong xã hội hoá giáo
dục ở cộng đồng. Chính vì thế, Hiệu trưởng phải làm tốt công tác tham mưu với
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, tranh thủ sự ủng hộ và chỉ đạo kịp thời
trong công tác xã hội hoá giáo dục.
Muốn làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, trước hết Hiệu trưởng phải có kế
hoạch cụ thể trong từng năm học. Kế hoạch phải phù hợp với tình hình kinh tế
điạ phương. Từ đó, cấp ủy Đảng và chính quyền điạ phương thấy rõ sự cần
thiết,cấp bách của nhà trường để ủng hộ, giúp nhà trường đạt kế hoạch đề ra.
9
Hàng năm, trước khi chuẩn bị cho năm học mới Hiệu trưởng phải tham mưu
với UBND xã đề ra phương hướng cho công tác xã hội hoá giáo dục, tham mưu
tổ chức Đại hội CMHS nhằm củng cố lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
ngay từ đầu năm học.
Nếu kế hoạch phù hợp với tình hình kinh tế của điạ phương và được sự phê
duyệt của chính quyền điạ phương thì sẽ có tính khả thi.
b.Tham mưu với Ngành.
Nhằm thực hiện cuộc vận động “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, hiệu
trưởng tham mưu tốt với Phòng GD&ĐT tranh thủ sự hỗ trợ của ngành trong
việc xây dựng cơ sở vật chất.Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch chi tiết kinh phí
của từng hạng mục công trình và phân rõ dân đóng góp bao nhiêu, phần còn lại
là sự hỗ trợ của ngành.
Kết quả:
Năm học 2006 – 2007: nhân dân đóng góp trang bị bàn ghế phòng Tin học,
Phòng Giáo dục hỗ trợ 21 máy vi tính
Năm học 2007 – 2008: tổng kinh phí xây dựng sân xi măng là 47.893.000đ,
CMHS đóng góp 15.750.000 đ, Phòng Giáo dục hỗ trợ 32.143.000đ.
Năm học 2009 – 2010: Phòng Giáo dục hỗ trợ đóng la-phong cho 7 phòng
học.
3.2.3.Công tác tuyên truyền:
Hiệu trưởng đóng vai trò nòng cốt trong công tác tuyên truyền, công tác
tuyên truyền muốn thành công phải có sự thống nhất của Ban giám hiệu và Hội
đồng sư phạm nhà trường.Khi đã thống nhất trong nội bộ thì việc tuyên truyền
đến CMHS sẽ có kết quả tốt.
Ngay từ đầu năm học, nhà trường phải có kế hoạch tuyên truyền trong Hội
đồng sư phạm về nội dung xã hội hoá giáo dục và kế hoạch xây dựng cơ sở vật
chất trong năm học nhằm giúp nhà trường hoàn thành kế hoạch đề ra.Mỗi cán
10
bộ, giáo viên, công nhân viên phải thấy được trách nhiệm của mình trong việc
xây dựng cơ sở vật chất góp phần thúc đẩy xã hội hoá giáo dục tại địa phương.
Ngoài ra, việc tuyên truyền của Hiệu trưởng đến Ban chấp hành Hội CMHS
cũng không kém phần quan trọng, nếu việc tuyên tuyền của Hiệu trưởng giúp
cho BCH Hội hiểu và thấy được tầm quan trọng của công tác xã hội hoá giáo
dục là góp phần tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục. Từ đó, việc tuyên
truyền rộng khắp trong toàn thể CMHS sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Để công tác tuyên truyền của Hiệu trưởng có kết quả cao, nhà trường không
chỉ kêu gọi nhân dân đóng góp mà cần phải nỗ lực phấn đấu để nâng cao chất
lượng giáo dục tạo uy tín và lòng tin trong nhân dân:
Năm học 2008- 2009 bắt đầu từ khối 6 nhà trường tổ chức mở lớp học “nâng
cao” dành cho học sinh khá, giỏi tham gia nhằm tạo nguồn học sinh giỏi cho
nhhững năm sau. Bên cạnh, nhà trường cũng tổ chức phụ đạo học sinh yếu các
môn: Toán ,Lý, Hoá, Anh ở tất cả các khối lớp nhưng không thu tiền, giúp các
em mất căn bản dần lấy lại kiến thức và không chán nản khi đến trường. Năm
học 2009 – 2010 lớp “Nâng cao” cũng được CMHS ủng hộ và duy trì tiếp tục
thêm lớp 7 và việc phụ đạo học sinh yếu vẫn được duy trì tốt.
*Kết quả:
3.2.4.Công tác phối hợp:
a.Phối hợp với Hội CMHS
Hội nghị CMHS là hình thức tổ chức phối hợp tích cực do nhà trường và
Hội CMHS tổ chức nhằm tổng kết công tác phối hợp trong năm học qua và đề
ra nhiệm vụ, biện pháp, chương trình hành động cụ thể trong hoạt động chung
của nhà trường và Hội CMHS, gia đình trong năm học mới.
Từ đầu năm học, nhà trường xây dựng kế hoạch tổ chức Đại hội CMHS,
thông qua đại hội sẽ tiến hành triển khai các nội dung sau:
11
+ Tổng kết công tác Hội CMHS, sự phối hợp giữa nhà trường – gia đình để
rút ra những bài học cần thiết.
+ Giúp CMHS nắm được kế hoạch học tập của con em mình ở mức độ thích
hợp. Yêu cầu CMHS đảm bảo các điều kiện tối thiểu cho con em học ở nhà,
thực hiện những nguyên tắc, hình thức, tác động giáo dục cần thiết.
+ Định hướng được chương trình, hình thức hành động thích hợp của Hội,
sự phối hợp giáo dục.
+ Bầu cử được Ban thường trực Hội và Ban cán sự Chi hội nhiệt tình, có khả
năng hoạt động nhiều kết quả.
Sau khi đã bầu chọn, Ban đại diện CMHS sẽ phối hợp cùng nhà trường thực
hiện các hoạt động giáo dục, xây dựng môi trường thân thiện.
Hiệu trưởng sẽ tổ chức triển khai kế hoạch xây dựng các hạng mục công
trình cần thiết trong năm học và kế hoạch thực hiện phong trào thi “Thi đua xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Qua đó, Ban chấp hành hội
cùng với nhà trường bàn bạc thống nhất mức đóng góp và chương trình hoạt
động cùng nhà trường hưởng ứng phong trào thi đua xây dựng môi trường thân
thiện.
Tổ chức mời Ban đại diện CMHS tham dự vào các buổi sinh chủ điểm của
nhà trường, tham gia giáo dục học sinh cá biệt, chưa ngoan, tham gia cùng nhà
trường thực hiện “Ngày hội Thắp sáng ước mơ”, “Hội chợ Ẩm thực – Trò chơi
dân gian”, Ngày hội “Thiếu nhi khoẻ - Tiến bước lên Đoàn”. Qua đó, sẽ làm
tăng tinh thần trách nhiệm của các bậc cha mẹ, tăng mối liên kết giữa nhà
trường – gia đình trong giáo dục, tạo động lực khích lệ lao động sư phạm của
giáo viên và học tập của học sinh, đạt được sự thống nhất tác động giáo dục của
gia đình, huy động được các nguồn lực khác nhau từ CMHS vào xây dựng và
phát triển nhà trường.
Kết quả:
12
Xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp sạch, đẹp, an toàn:
Phòng học bộ môn Tin học đã kết nối Internet phục vụ đầy đủ cho học sinh
từ khối 6 đến khối 9.
Hội CMHS hỗ trợ xây dựng bồn hoa kiễng và trồng hoa với tổng kinh phí
4.989.000đ, trang bị 4 ghế đá trị giá 1.200.000đ.
Có đủ nhà vệ sinh dành cho giáo viên và học sinh riêng biệt, nhà vệ sinh học
sinh luôn được vệ sinh sạch sẽ, hệ thống thoát nước đảm bảo vệ sinh. Mỗi tháng
CMHS hỗ trợ 550.000đ thuê nhân công dọn vệ sinh.
Mỗi phòng học được bố trí đèn, quạt hợp lý đảm bảo đủ ánh sáng và không
khí thoáng mát cho học sinh học tập. Được trang bị mới la-phong cho 7 phòng
học nâng số phòng có la-phong là 18 phòng ( còn 4 phòng chưa có la-phong ).
Sân trường được xây xi măng giúp học sinh có chỗ vui chơi thoải mái, an
toàn.
Tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch nhà trường:
Tham gia cùng nhà trường đến nhà của những học sinh cá biệt, trao đổi với
CMHS phối hợp cùng nhà trường giáo dục con em mình tốt hơn, chất luợng
giáo dục ngày một nâng cao.
CMHS còn hỗ trợ kinh phí trang phục cho học sinh trong Ngày hội “Thiếu
nhi khoẻ - Tiến bước lên Đoàn”.
Ban đại diện CMHS vận động quyên góp 2.150.000 đ hỗ trợ cấp học bỗng
cho học sinh trong Ngày hội “Thắp sáng ước mơ”.
Đặc biệt ông Lê Văn Hớn thành viên Ban chấp hành Hội CMHS là mạnh
thường quân thường xuyên ủng hộ nhà trường xây dựng Quỹ hỗ trợ học bỗng
cho học sinh.
b.Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể địa phương:
b.1/ Thực hiện phổ cập giáo dục:
13
Đến ngày tựu trường, sau khi đã sắp xếp lớp GVCN phải ổn định tổ chức
lớp, kiểm diện số học sinh mình quản lý, những học sinh chưa ra lớp GVCN
phải kết hợp với giáo viên địa bàn đến tận nhà học sinh để nắm tình hình.
Giáo viên được phân công phụ trách theo từng địa bàn cùng với GVCN phối
hợp với Tổ, Ấp vận động và kịp thời hỗ trợ những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn, giúp các em có điều kiện đến trường, hỗ trợ sách giáo khoa, đồng phục
cho các em.
Kết quả:
Luôn giữ vững tỉ lệ học sinh tuyển 6 ra lớp từ 98% trở lên.
b.2/ Thực hiện duy trì sĩ số:
Chỉ đạo cho GVCN phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của học sinh, nắm
danh sách những học sinh có nguy cơ bỏ học giữa chừng, xây dựng kế hoạch
chống học sinh bỏ học bằng những biện pháp cụ thể. Thường xuyên trao đổi
trực tiếp với CMHS tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em để có cách giải
quyết phù hợp, hạn chế học sinh bỏ học giữa chừng.
Thường xuyên liên lạc với CMHS qua điện thoại hoặc thông qua sổ liên lạc,
đặc biệt là việc thực hiện sổ liên lạc điện tử hàng tháng thông báo kết quả học
tập và số ngày nghỉ trong tháng cho phụ huynh biết.
Phối hợp với Ban đại diện CMHS vận động mạnh thường quân kịp thời hỗ
trợ những học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
*Kết quả:
Chỉ đạo Ban hoạt động NGLL tổ chức các hoạt động từ thiện nhân đạo hỗ
trợ cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Thông qua các hoạt động đó giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh.
*Phát động phong trào “Hũ gạo tình thương”, “Nuôi heo đất”, “Chiếc áo
mùa xuân”.
14
*Tổ chức các hoạt động vui chơi như: thi TDTT, văn nghệ, các trò chơi dân
gian, giúp học sinh tham gia giải trí sau những giờ học căng thẳng.
*Tổ chức “Hội chợ Ẩm thực”, chương trình “Thắp sáng ước mơ”… Kinh
phí vận động được dùng để hỗ trợ học bổng, áo quần, tập, sách cho học sinh
nghèo. Qua đó, góp phần hạn chế tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng do
hoàn cảnh khó khăn.
b.2.1/Phối hợp với Công đoàn nhà trường:
Phối hợp với Công đoàn thực hiện tốt việc vận động “Kỹ cương, tình
thương, trách nhiệm” do Công đoàn Giáo dục Việt Nam và Bộ Giáo dục đề ra.
Động viên lòng nhân ái, tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật trong giảng dạy,
công tác. Tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, giáo viên, công nhân viên tự điều chỉnh
mình, bảo đảm kỷ cương trong hoạt động giáo dục – dạy học, cải thiện môi
trường sư phạm, hạn chế tiêu cực.
Thực hiện tốt lương tâm nhà giáo, tình thương đối với đồng nghiệp, đối với
học sinh.
Tinh thần trách nhiệm trong hoạt động giáo dục – dạy học.
Xây dựng tiêu chí thi đua cụ thể, kết hợp chế độ khen thưởng kịp thời để
động viên tinh thần những cá nhân tích cực, điển hình trong công tác.Qua đó
giáo viên nâng cao tinh thần sáng tạo trong công tác, giảng dạy có chất lượng,
yêu nghề, mến trẻ, tạo không khí thân thiện, cởi mở giúp học sinh học tập
tốt.Từ đó, góp phần hạn chế học sinh bỏ học giữa chừng do mất căn bản không
hiểu bài dẫn đến chán nản.
C. KẾT LUẬN
1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Sau 3 năm thực hiện đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục tại trường THCS Tân
Hưng, mặc dù cơ sở vật chất trường, lớp chưa được xây dựng kiên cố hoá hoàn
toàn nhưng cũng tạo được khuông viên trường khang trang hơn, sạch đẹp hơn
15
đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng hoạt động dạy – học và đặc biệt là tạo sự tin
tưởng của CMHS trong công tác giáo dục.Đó là thành công lớn của nhà trường
nhằm tạo điều kiện cho tốt cho giáo viên giảng dạy, thực hiện nghiên cứu đổi
mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng giảng
dạy, tâm huyết với nghề, học sinh hứng thú trong học tập, hăng hái, vui vẻ đến
trường góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Qua đó, bản thân rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
Xã hội hoá giáo dục là hoạt động rất cần thiết và thực hiện thường xuyên
trong năm học, nếu Hiệu trưởng biết phát huy các nguồn lực trong cộng đồng
địa phương thì chắc chắn sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Hiệu trưởng phải năng động, sáng tạo, dám nghỉ, dám làm và giám chịu
trách nhiệm trước nhiệm vụ của mình.
Hiệu trưởng phải giữ vai trò nòng cốt trong công tác tham mưu, làm tốt công
tác tham mưu cho Cấp ủy và chính quyền địa phương biến các nhu cầu của giáo
dục thành chủ trương của Đảng và chính quyền tạo cơ sở pháp lý cho công tác
giáo dục và tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, Ủy ban trong quá trình tổ chức
thực hiện.
Muốn thực hiện tốt công tác tuyên truyền, Hiệu trưởng phải biết khéo léo,
tuyên truyền phải có tính thuyết phục để dân hiểu và thấy được tầm quan trọng
của công tác xã hội hoá giáo dục và đồng tình ủng hộ.
Quan trọng nhất là công tác phối hợp, đây là hoạt động quyết định sự thành
công của việc thực hiện xã hội hoá giáo dục nhà trường,
16
17