Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tổng hợp 6 bài phân tích nhân vật Xô- Cô-Lốp trong truyện ngắn Số phận con người của Sô Lô Khốp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.73 KB, 22 trang )

VĂN MẪU LỚP 12
TỔNG HỢP 6 BÀI PHÂN TÍCH NHÂN VẬT XÔ-CÔ-LỐP TRONG
TRUYỆN NGẮN SỐ PHẬN CON NGƯỜI CỦA SÔ LÔ KHỐP
BÀI MẪU SỐ 1:
Đến với văn học Nga, chắc hẳn ai cũng biết Leptonstoi hay Puskin và không thể không nhắc
Sôkholop. Sô cô lôp là một trong những nhà văn lớn nhất của Nga thế kỷ XX.Phong cách
nghệ thuật của ơng là thể hiện một cái nhìn tồn diện, chân thực. Tác phẩm viết về cuộc
sống và con người Nga trong những biến chuyển của lịch sử. Tác phẩm "số phận con người"
được viết năm 1957. Lúc này chiến tranh đã lùi xa 22 năm , cuộc sống đã hồi sinh nhưng
những mất mát đau thương vẫn làm trăn trở day dứt con người. Mục đích sáng tác của tác
phẩm là lên án chiến tranh, ngợi ca vẻ đẹp con người Nga kiên cường nhân hậu. Và nhân
vật thể hiện rõ hai điều ấy là Xô cô lôp.
Bản thân Xô cô lôp đã hai lần bị thương, hai năm bị đày đọa trong trại tập trung của phát xít
Đức. Hồn cảnh gia đình bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Vợ và hai con gái anh đã bị
bom phát xít giết hại năm 1942. Đứa con trai duy nhất của anh trong ngày chiến thắng bị
bắn chết. Nhà cửa bị phá nát tan tành. Chiến tranh đã cướp đi tất cả vợ con, gia đình và
niềm hi vọng cuối cùng của anh. Ngày chôn trên đất người, đất Đức, niềm vui sướng và
niềm hi vọng cuối cùng của anh "trong tơi như có gì đó vỡ tung ra", "như người mất hồn".
Anh rơi vào nỗi đau cùng cực, anh tìm đến rượu dù biết nó là món nguy hại.Những ám ảnh
kinh hồng về gia đình, về vợ con như một vết thương không cầm máu được.Anh phải chịu
nhiều bất hạnh sau chiến tranh là thế, nhưng trong anh vẫn là tính cách Nga kiên cường ấy.
Khi nhìn thấy bé Vania, Xô cô lôp không cầm được nước mắt, anh đã quyết định nhận bé
Vania làm con. Anh đã làm những việc yêu thương và chăm sóc bé Va ni a. Từ cắt tóc, tắm
rửa, may quần áo. Tất cả đều rất vụng về nhưng chứa đầy tình yêu thương."Sau bữa trưa, tơi
đưa nó tới hiệu cắt tóc, rồi về nhà đặt ngồi vào chậu giặt, tắm rửa xong rồi bọc nó vào tấm
khăn trải giường sạch"."Tơi mua cho nó một cái quần dạ, một sơ mi, đơi dép và một cái mũ
lưỡi trai bằng sợi.Tất nhiên là tất cả mọi thứ đều không vừa và chất lượng cũng
kém".Nhưng ni Vania cũng gặp nhiều khó khăn."Chỉ một mình tơi thì cần gì đâu?Một
mẩu bánh mì, một củ hành với tí muối, thế là đủ no cho một ngày của đời lính. Nhưng thêm
nó thì khác: khi thì phải mua sữa cho nó, khi thì phải luộc quả trứng, khơng có thức ăn nóng
cho nó là khơng xong". Rồi anh lại đâm phải con bò, bị tịch thu bằng lái. Khí khăn càng khó


khăn thêm.Nhưng dù vậy, họ vẫn là chỗ dựa tinh thần cho nhau.
Khi Vania hỏi về chiếc áo bành tơ da, anh đã nói dối để cốt n lịng chú bé. Xơ cơ lơp lần
đầu được ngủ một giấc yên lành sau bao nhiêu năm. Điều kì lạ là "ban ngày bao giờ tôi cũng
trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì
gối ướt đẫm nước mắt". Sức mạnh của tình yêu thương thật tuyệt diệu, nó sưởi ấm trái tim


cô đơn, đem lại niềm vui sống cho con người. Tác giả đã khám phá ra quy luật của tâm lý.
Chỉ có tình u thương mới chữa lành vết thương trong trái tim con người. Có bé Vania
nhưng anh chưa hồn tồn qn được chuyện buồn trong q khứ. Kí ức về chiến tranh ln
ám ảnh vị xé trái tim và tàn phá cơ thể: "hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những
người thân quá cố" , "quả tim tôi đã rệu rã lắm rồi". Việc nuôi dưỡng bé Vania đã cho thấy
lòng nhân hậu của Xocolop. Đã trải qua nhiều mất mát đau thương nhưng anh vẫn kiên
cường vượt qua.Khơng chỉ thế, ở anh cịn có một nghị lực phi thường. Anh cố gắng sắp xếp
công việc để dành thời gian chăm sóc bé Vania. Anh giấu sự thật về chiếc áo bành tô để bé
Vania được an tâm. Anh nén nỗi đau để trấn tĩnh, đem lại niềm vui cho bé Vania. Anh sẵn
sàng cuốc bộ khắp nước Nga để chờ cho Vania lớn lên. Tóm lại, nhân vật Xô cô lốp trong
chiến tranh dũng cảm phi thường, sau chiến tranh nhân hậu, nghị lực.Đây chính là vẻ đẹp
tâm hồn, tính cách Nga.
Với kết cấu truyện lồng truyện, bút pháp trữ tình hiện thực nghiêm ngặt.Tác giả đã phơi bày
sự thật tàn khốc của chiến tranh qua số phận các nhân vật đặc biệt là nhân vật Xơ cơ lốp.Xơ
cơ lốp chính là hiện thân của tính cách Nga kiên cường, nhân hậu, nghị lực phi thường. Anh
là nhân vật thể hiện rõ nhất tư tưởng và nội dung của tác phẩm này.
Trong truyện “Số phận con người” của nhà văn Sôlôkhốp để cho thấy, nhiệt tình tố cáo
thảm họa chiến tranh, mơ tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó, biểu dương khí phách anh
hùng của người lính Xơ viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái” – được thể
hiện bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.


BÀI MẪU SỐ 2:

Hêminguây (1899-1960) văn hào Mỹ, được giải thưởng Nôbel về văn chương năm 1954 đã
từng viết: “Tôi rất thích văn học Nga… Trong các nhà văn hiện đại tơi thích Sơlơkhốp”.Là
nhà văn Xơ Viết được giải thưởng Nobel về văn học năm 1965, Sôlôkhốp được ca ngợi là
“một trong những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỷ 20”.
“Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,… và “Số phận con người” đã đem đến vinh quang
cho Sôlôkhốp. Truyện “Số phận con người” xuất hiện trên báo “Sự thật” vào cuối năm
1956. Hình ảnh nhà văn Xơcơlốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy
bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm
họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh hùng
của người lính Xơ viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái – được thể hiện
bằng một bút phát nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp.
Đọc “Số phận con người” ta vô cùng xúc động trước trang đời đầy nước mắt và máu của
nhân vật Xôcôlốp.Năm 1941, phát xít Đức bất ngờ tấn cơng Liên Xơ.Cùng với hàng triệu
người Xơ viết cầm vũ khí đứng lên, Xôcôlốp ra trận.Anh nếm trải những gian truận, thất bại
buổi đầu của Liên Xô. Hai lần bị thương vào chân và tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa
suốt hai năm trong nhiều trại tập trung.Sống bằng xúp lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa. Áo
quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù ra bọc xương. Hàng trăm tù binh bỏ mạng. Tù binh
Nga bị bọn phát xít đánh bằng thanh sắt, thanh gỗ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm
bằng tay, đạp bằng chân vô cùng dã man. Bọn chỉ huy trại đấm vào mặt, vào mũi tù binh
cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trị “phòng bệnh cúm”.Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực
kỳ man rợ để đánh đập bắn giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt
sau hàng rào dây thép gai, Xôcôlốp cũng như các tù binh khác bị cái chết bủa vây, bị tử thần
rình rập.
Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn
làng mạc bị bom đạn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xơcơlốp gánh chịu bao mất mát
đau thương.Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai – đại uý pháo binh Anatôli,
niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một
tên thiện xạ phát xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xôcôlốp “như người mất
hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh khơng muốn về lại Vơrơnegiơ q
hương vì đâu cịn gia đình nữa. Bé Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha

“chết ở mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng
không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “khơng có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đau
ngủ đó”, “ai cho gì thì ăn nấy!” Áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”; “mặt
mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”…


Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xơcơlốp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm
động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mơ tả chiến tranh trong bộ mặt thật của
nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong thế chiến 2
phải trả là cực kỳ khủng khiếp.Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó,
nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Chiến tranh đã đi
qua, nhưng một năm sau Xôcôlốp cảm thấy quả tim mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự
nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất
do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn…
mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hồng cịn mãi trong ký ức, cứ
xiết chặt lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh,
tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô da của bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em
như một ám ảnh khơng ngi! Cịn Xơcơlốp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một
chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu
như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau
hàng rào dây thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ta một tiếng thở dài, một lời
than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước mắt…”. Xôcôlốp và bé Vania trở thành “côi
cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa
lạ…”
Nhân vật Xôcôlốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của
người lính Xơ viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ,
một lái xe. Một gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu
công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương
lành, anh lại cầm súng đánh giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng,
tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt

cưa, lưng bát xúp lõng bõng.Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ
khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muynle , chỉ huy trại
tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chế
sự đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hồng uống rượu, khơng chỉ uống một
cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình kinh ngạc khâm phục nói:
“Mày là một thằng lính Nga chân chính.Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí
tiết.Tao sẽ khơng bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xơcơlốp, của người lính Nga trong máu lửa
được miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận con người” mang vẻ
đẹp một “tiểu anh hùng ca”.
Qua nhân vật Xôlôlốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau
chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị
cứ níu lấy anh, khơng thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên
“điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lịng Xơcơlốp mãi không


ngi đau. Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê cái món
nguy hại ấy!”
Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng khơng có lối thốt. Nhưng rồi tình cảm người
cha, – tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay, như được
mọc lên một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, sống bơ vơ
nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của
em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xôcôlốp thấy “thích nó” và “nhớ
nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “Khơng thể để cho
mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!”Một quyết định đầy nhân
ái. Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “Ngay lúc
đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!” Câu nói khẽ của Xơcơlốp: “Là bố của
con” khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng đầy nước
mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mơng! Trước những cái hơn vào má, vào
môi, vào trán, trước những cử chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania Xơcơlốp vơ cùng xúc
động: “Mắt tơi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”

Xôcôlốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may áo quần mới,
săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến
tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều năm tôi được ngủ
một giấc yên lành. Cịn bé Vania thì rúc vào nách bố ni “như con chim sẻ dưới mái rạ,
ngáy khe khẽ…” Hạnh phúc là san sẻ. Xơcơlốp lịng vui khơng lời nào tả xiết, đêm đêm
thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự đổi thay kì
diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Vết thương
lịng đâu dễ ngi? Vì thế mà Xơcơlốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga.
Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào học một trường ổn định thì Xơcơlốp “mới có
thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người
bố đối với đứa con.
Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong
lịng tác giả bao nỗi buồn thấm thía, nhưng ơng vẫn tin vào dũng khí và lịng nhân ái của
người Nga, vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa
lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý
chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có
thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ
quốc kêu gọi”.
Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyện lồng trong truyện” đã tô đậm những đau
khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xơcơlốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm
hồn Nga, đem đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con người trong
chiến tranh và thời hậu chiến.


Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mơ tả mặt thật
của chiến tranh , ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong
máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiến tranh. Qua
nhân vật Xôcôlốp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sôlôkhốp gửi gắm
qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh;
với lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình

ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng.
Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xơcơlốp rất gần gũi với mỗi
chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được
mọi người yêu mến, cảm phục.


BÀI MẪU SỐ 3:
Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,… và “Số phận con người” đã đem đến vinh quang
cho Sôlôkhốp. Truyện “Số phận con người” xuất hiện trên báo “Sự thật” vào cuối năm
1956. Hình ảnh nhà văn Xơcơlốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy
bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm
họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh hùng
của người lính Xơ viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái – được thể hiện
bằng một bút phát nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp.
Đọc “Số phận con người” ta vô cùng xúc động trước trang đời đầy nước mắt và máu của
nhân vật Xơcơlốp.Năm 1941, phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô.Cùng với hàng triệu
người Xô viết cầm vũ khí đứng lên, Xơcơlốp ra trận.Anh nếm trải những gian truận, thất bại
buổi đầu của Liên Xô. Hai lần bị thương vào chân và tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa
suốt hai năm trong nhiều trại tập trung.Sống bằng xúp lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa. Áo
quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù ra bọc xương. Hàng trăm tù binh bỏ mạng. Tù binh
Nga bị bọn phát xít đánh bằng thanh sắt, thanh gỗ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm
bằng tay, đạp bằng chân vô cùng dã man. Bọn chỉ huy trại đấm vào mặt, vào mũi tù binh
cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trị “phịng bệnh cúm”.Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực
kỳ man rợ để đánh đập bắn giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt
sau hàng rào dây thép gai, Xôcôlốp cũng như các tù binh khác bị cái chết bủa vây, bị tử thần
rình rập.
Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn
làng mạc bị bom đạn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xơcơlốp gánh chịu bao mất mát
đau thương.Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai – đại uý pháo binh Anatôli,
niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một

tên thiện xạ phát xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xôcôlốp “như người mất
hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh khơng muốn về lại Vơrơnegiơ q
hương vì đâu cịn gia đình nữa. Bé Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha
“chết ở mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng
không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “khơng có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đau
ngủ đó”, “ai cho gì thì ăn nấy!” Áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”; “mặt
mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”…
Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xôcôlốp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm
động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của
nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong thế chiến 2
phải trả là cực kỳ khủng khiếp.Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó,
nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Chiến tranh đã đi
qua, nhưng một năm sau Xôcôlốp cảm thấy quả tim mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự


nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất
do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn…
mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hồng cịn mãi trong ký ức, cứ
xiết chặt lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh,
tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô da của bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em
như một ám ảnh khơng ngi! Cịn Xơcơlốp thì nỗi đau như vơ tận “không ở lâu mãi một
chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu
như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau
hàng rào dây thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ta một tiếng thở dài, một lời
than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước mắt…”. Xơcơlốp và bé Vania trở thành “côi
cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa
lạ…”
Nhân vật Xôcôlốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của
người lính Xơ viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ,
một lái xe. Một gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu

công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương
lành, anh lại cầm súng đánh giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng,
tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt
cưa, lưng bát xúp lõng bõng.Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ
khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muynle , chỉ huy trại
tập trung. Với đơi mắt bình thản, anh nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chế
sự đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hồng uống rượu, khơng chỉ uống một
cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình kinh ngạc khâm phục nói:
“Mày là một thằng lính Nga chân chính.Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí
tiết.Tao sẽ khơng bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xơcơlốp, của người lính Nga trong máu lửa
được miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận con người” mang vẻ
đẹp một “tiểu anh hùng ca”.
Qua nhân vật Xôlôlốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau
chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị
cứ níu lấy anh, khơng thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên
“điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lịng Xơcơlốp mãi khơng
ngi đau.Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê cái món
nguy hại ấy!”
Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng khơng có lối thốt. Nhưng rồi tình cảm người
cha, – tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay, như được
mọc lên một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, sống bơ vơ
nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của


em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xơcơlốp thấy “thích nó” và “nhớ
nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “Khơng thể để cho
mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!”Một quyết định đầy nhân
ái. Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “Ngay lúc
đó tâm hồn tơi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!” Câu nói khẽ của Xơcơlốp: “Là bố của
con” khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng đầy nước

mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mơng! Trước những cái hôn vào má, vào
môi, vào trán, trước những cử chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania Xôcôlốp vô cùng xúc
động: “Mắt tơi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”
Xôcôlốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may áo quần mới,
săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến
tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều năm tôi được ngủ
một giấc n lành. Cịn bé Vania thì rúc vào nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ,
ngáy khe khẽ…” Hạnh phúc là san sẻ. Xơcơlốp lịng vui không lời nào tả xiết, đêm đêm
thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự đổi thay kì
diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Vết thương
lịng đâu dễ ngi? Vì thế mà Xôcôlốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga.
Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào học một trường ổn định thì Xơcơlốp “mới có
thể ở n một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người
bố đối với đứa con.
Cuộc gặp bất chợt với “hai con người cơi cút” và câu chuyện đau lịng của họ đã để lại trong
lòng tác giả bao nỗi buồn thấm thía, nhưng ơng vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của
người Nga, vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa
lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý
chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có
thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ
quốc kêu gọi”.
Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyện lồng trong truyện” đã tô đậm những đau
khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xôcôlốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm
hồn Nga, đem đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con người trong
chiến tranh và thời hậu chiến.
Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mô tả mặt thật
của chiến tranh , ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong
máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiến tranh. Qua
nhân vật Xôcôlốp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sôlôkhốp gửi gắm
qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh;


với lịng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình
ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng.


Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xơcơlốp rất gần gũi với mỗi
chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được
mọi người yêu mến, cảm phục.


BÀI MẪU SỐ 4:
Đó là cuộc đời gắn liền với một trang sử bi tráng hào hùng của nhân dân Nga, với chế độ
Xô-viết đã tạo thành phẩm chất của những con người Nga kiên cường.
M.Sôlôkhôp đã dựng lên chân dung một con người Nga bình thường nhất, một người xơ
viết chân chính. Số phận ấy tiêu biểu cho bao người con ưu tú đã viết nên trang sử thời đại
hào hùng của đất nước Liên Xô cũ.
Cuộc sống hiện lên trần trụi như nó vốn có – khơng khoa trương hào nhống, khơng bi kịch
hố mà cứ đều đều như giọng kể của người đàn ơng Nga có cái họ bình thường như bao
người Nga: Xơcơlơp. Nhưng trong số phận anh có sức nặng của nỗi đau dân tộc Nga qua
các thời kỳ khốc liệt nhất.Không tránh né sự thật – đó là phẩm chất hàng đầu của các cây
bút Nga – xơ viết mà M. Sơlơkhơp chính là một tấm gương. Sự thật đó khơng phải được kể
bằng giọng lạnh lùng thản nhiên mà còn hằn nguyên nỗi đau trong giọng văn thấm thía,
trong những ám ảnh kí ức hằn sâu trong tâm trí của người cựu binh xơ viết – chính là phản
chiếu một mảng hiện thực rộng lớn và xuyên suốt các chặng đường của nhân dân Nga.
Trước hết là kí ức những ngày nội chiến, khi chính quyền xơ viết non trẻ phải đối mặt với lũ
bạch vệ, thổ phỉ và can thiệp. Người đọc có thể nhận ra những dấu ấn quen thuộc làm nên
tên tuổi của M.Sơlơkhơp trong Sơng Đơng êm đềm.Nạn đói, cuộc sống cùng cực khơng quật
ngã nổi ý chí của người dân xô viết. Xôcôlôp từng trải qua cuộc đời làm thuê, từng chứng
kiến gia đình gục chết trong cái đói, nhưng chính sự tàn khốc ấy là một sự lý giải vì sao anh
trở thành chiến sĩ hồng quân, vì sao anh lại có một hạnh phúc từ đau thương bất hạnh. Đó là

hạnh phúc của những người nghèo khổ được xây lên từ bất hạnh để họ khẳng định tư thế
làm chủ cuộc đời.
Có lẽ kí ức nhân loại mãi mãi không phai mờ bao ám ảnh khủng khiếp của Chiến tranh thế
giới lần thứ II. Nhưng nhà văn không theo cách thông thường để ca ngợi vào những đóng
góp xương máu của hơn hai mươi triệu người xô viết làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại. bi kịch chiến tranh hiện hữu ngay trong từng số phận, từng gia đình. Sức hủy
diệt của nó khiến cho Xơcơlơp mất vợ và hai con; bé Vania mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mất mát
là điều khơng tránh khỏi nhưng với người trong cuộc cịn kinh khủng hơn rất nhiều, khi sức
ám ảnh của nó vẫn trở về trong những giấc ngủ nặng nề, để Xôcôlôp mỗi lần tỉnh giấc lại
đầm đìa nước mắt. Nhưng vào thời điểm đối mặt quyết liệt với kẻ thù, nước mắt khơng thể
rơi! Chỉ có thể là ánh mắt rực lửa căm hờn và khinh bỉ với kẻ thù, với những tên phản
bội.Anh đã sống đúng với tư cách người lính ngay cả khi “chiến bại”, bị bắt làm tù binh.
Cảm hứng về cuộc chiến tranh của M.Sơlơkhơp có phần gần gũi với Alêcxây Tơnxtơi với
“Tính cách Nga”, với “Người xơ viết chúng tơi”… Nhưng người đọc hiểu đó chính là lúc
con người đang chiến đấu vì danh dự dân tộc, vì những niềm hy vọng khơng tắt về tương
lai. Xôcôlôp đã là người chiến thắng, ngẩng cao đầu trong trại tập trung của kẻ thù, mưu trí


dũng cảm trở về đội ngũ, chiến đấu bằng tất cả lịng căm thù sục sơi với kẻ đã hủy hoại hạnh
phúc gia đình, và cả “niềm hy vọng cuối cùng” – người con trai đã thành đại úy pháo binh
Anđrây Xôcôlôp. Trớ trêu thay, vào ngày cờ đỏ thắm trên nóc nhà Quốc hội Đức , anh đã
phải tiễn đưa con mình. Dẫu biết sự hy sinh ấy là anh hùng, là cần thiết, nhưng quả thật đó
là một cú đập phũ phàng của định mệnh khiến bất cứ ai yếu lịng cũng có thể quị ngã. Có lẽ
đó cũng là những trang viết gợi nhắc cho chúng ta nhiều nhất về ý nghĩa tàn khốc của chiến
tranh, vinh quang và cay đắng, hạnh phú và bất hạnh, niềm vui chung và nỗi đau riêng để từ
đó suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của từ “hy sinh”.
Thế nhưng tuyệt nhiên ta không nhận thấy tâm trạng của những con người – nhân dân Nga
trở về sau chiến tranh lại nặng nề bi thảm như của “thế hệ vứt đi” trở về sau Đại chiến I ở
Mỹ hay châu Âu. Bởi lẽ hy sinh sẽ là vơ ích nếu như sự sống sẽ tê liệt sau bao mất mát.Bởi
thế, Xôcôlôp đã sống, làm việc như bao người lính xơ viết trở về sau chiến trận.Nỗi đau

lắng vào trong và chỉ thật sự hiện hữu khi Xôcôlôp tìm quên trong men rượu. Áp lực đời
thường và hậu quả chiến tranh quá nặng nề tưởng chừng có thể làm cho con người gục ngã.
Sự tình cờ, ngỡ như ngẫu nhiên mà tất yếu đã gắn chặt cuộc đời Xôcôlôp với bé Vania. Chú
bé Vania – đôi mắt đen lay láy, cuộc sống vất vưởng là một hình tượng nghệ thuật có thể
làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Chú bé chính là hiện thân của thế hệ tương lai nước
Nga, là vẻ đẹp của sự thơ ngây thánh thiện cần phải chở che, bảo bọc. Cuộc gặp gỡ của hai
con người ấy là tất yếu. Không chỉ cảm động vì khoảnh khắc thì thầm của Xơcơlơp với bé
Vania: “Ta là bố của con”, lúc nhận bố con cũng là lúc người đọc chứng kiến sự trở lại của
những giọt nước mắt ở con người tưởng như trái tim đã khơ héo vì đau khổ. Nước mắt –
hạnh phúc và xót xa cứ đan quyện vào nhau, thấm vào lòng tất cả mọi người.
Ngỡ rằng hạnh phúc đã thật sự trở lại, ngỡ rằng từ đây đầy ắp tiếng cười và những tiếng ríu
rít như chim của bé Vania, nhưng kí ức vẫn hiện về đấy ám ảnh. Người đọc phải chứng kiến
những lời nói dối – nhưng lạ thay đó lại là lời đẹp hơn trăm lần sự thật. Bởi sự đồng cảm số
phận và tình thương yêu đã gắn chặt cuộc đời hai bố con – một người đang cần nén chặt nỗi
đau quá khứ và một người cần được bảo đảm tương lai tốt đẹp. Vậy mà định mệnh lại trêu
cợt để cho bố con Xơcơlơp lại tiếp tục hành trình giữa đời thường với bao thử thách đón chờ
phía trước.
Số phận con người là câu chuyện kể chân thực về một con người bình thường. Nhưng cuộc
sống bao dồn đẩy sóng gió đã tơi luyện cho anh một phẩm chất kiên cường, một tình thương
yêu bao la. Gương mặt người đàn ông ấy đã sắt lại vì đau khổ, nhưng trái tim tổn thương ấy
vẫn đập những nhịp thương yêu nồng nàn với con người. Nhà văn đã lên tiếng thay nhân vật
ở cuối tác phẩm, bằng tất cả niềm xúc động sâu xa và lịng cảm phục vơ hạn trước nhân
cách một Con Người chân chính. Bức thơng điệp của nhà văn giúp ta nhận ra rõ hơn chân
dung của nhân dân Nga, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và sức mạnh của con người vượt lên bao
bi kịch bất hạnh. Đó là sự khẳng định tuyệt đối của nhà văn thể hiện niềm tin tưởng vào Con


người Nhân dân và tương lai của đất nước. Nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra
tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu .



BÀI MẪU SỐ 5:
Tác phẩm là lời tự sự của nhân vật trung tâm – anh lính hồng qn Xơcơlơp, người đàn ông
đã chịu bao giông tố khắc nghiệt của cuộc đời đổ ập lên số phận. Đó là cuộc đời gắn liền với
một trang sử bi tráng hào hùng của nhân dân Nga, với chế độ Xô-viết đã tạo thành phẩm
chất của những con người Nga kiên cường.
M.Sôlôkhôp đã dựng lên chân dung một con người Nga bình thường nhất, một người xơ
viết chân chính. Số phận ấy tiêu biểu cho bao người con ưu tú đã viết nên trang sử thời đại
hào hùng của đất nước Liên Xô cũ.
Cuộc sống hiện lên trần trụi như nó vốn có – khơng khoa trương hào nhống, khơng bi kịch
hố mà cứ đều đều như giọng kể của người đàn ông Nga có cái họ bình thường như bao
người Nga: Xơcơlơp. Nhưng trong số phận anh có sức nặng của nỗi đau dân tộc Nga qua
các thời kỳ khốc liệt nhất.Không tránh né sự thật – đó là phẩm chất hàng đầu của các cây
bút Nga – xô viết mà M. Sơlơkhơp chính là một tấm gương. Sự thật đó khơng phải được kể
bằng giọng lạnh lùng thản nhiên mà còn hằn nguyên nỗi đau trong giọng văn thấm thía,
trong những ám ảnh kí ức hằn sâu trong tâm trí của người cựu binh xơ viết – chính là phản
chiếu một mảng hiện thực rộng lớn và xuyên suốt các chặng đường của nhân dân Nga.
Trước hết là kí ức những ngày nội chiến, khi chính quyền xơ viết non trẻ phải đối mặt với lũ
bạch vệ, thổ phỉ và can thiệp. Người đọc có thể nhận ra những dấu ấn quen thuộc làm nên
tên tuổi của M.Sôlôkhôp trong Sông Đông êm đềm.Nạn đói, cuộc sống cùng cực khơng quật
ngã nổi ý chí của người dân xơ viết. Xơcơlơp từng trải qua cuộc đời làm thuê, từng chứng
kiến gia đình gục chết trong cái đói, nhưng chính sự tàn khốc ấy là một sự lý giải vì sao anh
trở thành chiến sĩ hồng qn, vì sao anh lại có một hạnh phúc từ đau thương bất hạnh. Đó là
hạnh phúc của những người nghèo khổ được xây lên từ bất hạnh để họ khẳng định tư thế
làm chủ cuộc đời.
Có lẽ kí ức nhân loại mãi mãi khơng phai mờ bao ám ảnh khủng khiếp của Chiến tranh thế
giới lần thứ II. Nhưng nhà văn không theo cách thông thường để ca ngợi vào những đóng
góp xương máu của hơn hai mươi triệu người xô viết làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại. bi kịch chiến tranh hiện hữu ngay trong từng số phận, từng gia đình. Sức hủy
diệt của nó khiến cho Xơcơlơp mất vợ và hai con; bé Vania mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mất mát

là điều không tránh khỏi nhưng với người trong cuộc còn kinh khủng hơn rất nhiều, khi sức
ám ảnh của nó vẫn trở về trong những giấc ngủ nặng nề, để Xơcơlơp mỗi lần tỉnh giấc lại
đầm đìa nước mắt. Nhưng vào thời điểm đối mặt quyết liệt với kẻ thù, nước mắt khơng thể
rơi! Chỉ có thể là ánh mắt rực lửa căm hờn và khinh bỉ với kẻ thù, với những tên phản
bội.Anh đã sống đúng với tư cách người lính ngay cả khi “chiến bại”, bị bắt làm tù binh.
Cảm hứng về cuộc chiến tranh của M.Sơlơkhơp có phần gần gũi với Alêcxây Tơnxtơi với


“Tính cách Nga”, với “Người xơ viết chúng tơi”… Nhưng người đọc hiểu đó chính là lúc
con
người đang chiến đấu vì danh dự dân tộc, vì những niềm hy vọng không tắt về tương lai.
Xôcôlôp đã là người chiến thắng, ngẩng cao đầu trong trại tập trung của kẻ thù, mưu trí
dũng cảm trở về đội ngũ, chiến đấu bằng tất cả lịng căm thù sục sơi với kẻ đã hủy hoại hạnh
phúc gia đình, và cả “niềm hy vọng cuối cùng” – người con trai đã thành đại úy pháo binh
Anđrây Xôcôlôp. Trớ trêu thay, vào ngày cờ đỏ thắm trên nóc nhà Quốc hội Đức , anh đã
phải tiễn đưa con mình. Dẫu biết sự hy sinh ấy là anh hùng, là cần thiết, nhưng quả thật đó
là một cú đập phũ phàng của định mệnh khiến bất cứ ai yếu lịng cũng có thể quị ngã. Có lẽ
đó cũng là những trang viết gợi nhắc cho chúng ta nhiều nhất về ý nghĩa tàn khốc của chiến
tranh, vinh quang và cay đắng, hạnh phú và bất hạnh, niềm vui chung và nỗi đau riêng để từ
đó suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của từ “hy sinh”.
Thế nhưng tuyệt nhiên ta không nhận thấy tâm trạng của những con người – nhân dân Nga
trở về sau chiến tranh lại nặng nề bi thảm như của “thế hệ vứt đi” trở về sau Đại chiến I ở
Mỹ hay châu Âu. Bởi lẽ hy sinh sẽ là vơ ích nếu như sự sống sẽ tê liệt sau bao mất mát.Bởi
thế, Xôcôlôp đã sống, làm việc như bao người lính xơ viết trở về sau chiến trận.Nỗi đau
lắng vào trong và chỉ thật sự hiện hữu khi Xơcơlơp tìm qn trong men rượu. Áp lực đời
thường và hậu quả chiến tranh quá nặng nề tưởng chừng có thể làm cho con người gục ngã.
Sự tình cờ, ngỡ như ngẫu nhiên mà tất yếu đã gắn chặt cuộc đời Xôcôlôp với bé Vania. Chú
bé Vania – đôi mắt đen lay láy, cuộc sống vất vưởng là một hình tượng nghệ thuật có thể
làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Chú bé chính là hiện thân của thế hệ tương lai nước
Nga, là vẻ đẹp của sự thơ ngây thánh thiện cần phải chở che, bảo bọc. Cuộc gặp gỡ của hai

con người ấy là tất yếu. Không chỉ cảm động vì khoảnh khắc thì thầm của Xơcơlơp với bé
Vania: “Ta là bố của con”, lúc nhận bố con cũng là lúc người đọc chứng kiến sự trở lại của
những giọt nước mắt ở con người tưởng như trái tim đã khơ héo vì đau khổ. Nước mắt –
hạnh phúc và xót xa cứ đan quyện vào nhau, thấm vào lòng tất cả mọi người.
Ngỡ rằng hạnh phúc đã thật sự trở lại, ngỡ rằng từ đây đầy ắp tiếng cười và những tiếng ríu
rít như chim của bé Vania, nhưng kí ức vẫn hiện về đấy ám ảnh. Người đọc phải chứng kiến
những lời nói dối – nhưng lạ thay đó lại là lời đẹp hơn trăm lần sự thật. Bởi sự đồng cảm số
phận và tình thương yêu đã gắn chặt cuộc đời hai bố con – một người đang cần nén chặt nỗi
đau quá khứ và một người cần được bảo đảm tương lai tốt đẹp. Vậy mà định mệnh lại trêu
cợt để cho bố con Xơcơlơp lại tiếp tục hành trình giữa đời thường với bao thử thách đón chờ
phía trước.
Số phận con người là câu chuyện kể chân thực về một con người bình thường. Nhưng cuộc
sống bao dồn đẩy sóng gió đã tôi luyện cho anh một phẩm chất kiên cường, một tình thương
u bao la. Gương mặt người đàn ơng ấy đã sắt lại vì đau khổ, nhưng trái tim tổn thương ấy
vẫn đập những nhịp thương yêu nồng nàn với con người. Nhà văn đã lên tiếng thay nhân vật


ở cuối tác phẩm, bằng tất cả niềm xúc động sâu xa và lịng cảm phục vơ hạn trước nhân
cách một Con Người chân chính. Bức thơng điệp của nhà văn giúp ta nhận ra rõ hơn chân
dung của nhân dân Nga, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và sức mạnh của con người vượt lên bao
bi kịch bất hạnh. Đó là sự khẳng định tuyệt đối của nhà văn thể hiện niềm tin tưởng vào Con
người Nhân dân và tương lai của đất nước. Nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra
tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu .


BÀI MẪU SỐ 6:
Hêminguây (1899-1960) văn hào Mỹ, được giải thưởng Nôbel về văn chương năm 1954 đã
từng viết: “Tôi rất thích văn học Nga… Trong các nhà văn hiện đại tơi thích Sơlơkhốp”.Là
nhà văn Xơ Viết được giải thưởng Nobel về văn học năm 1965, Sôlôkhốp được ca ngợi là
“một trong những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỷ 20”.

“Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,… và “Số phận con người” đã đem đến vinh quang
cho Sôlôkhốp. Truyện “Số phận con người” xuất hiện trên báo “Sự thật” vào cuối năm
1956. Hình ảnh nhà văn Xơcơlốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy
bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm
họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh hùng
của người lính Xơ viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái – được thể hiện
bằng một bút phát nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp.
Đọc “Số phận con người” ta vô cùng xúc động trước trang đời đầy nước mắt và máu của
nhân vật Xôcôlốp.Năm 1941, phát xít Đức bất ngờ tấn cơng Liên Xơ.Cùng với hàng triệu
người Xơ viết cầm vũ khí đứng lên, Xôcôlốp ra trận.Anh nếm trải những gian truận, thất bại
buổi đầu của Liên Xô. Hai lần bị thương vào chân và tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa
suốt hai năm trong nhiều trại tập trung.Sống bằng xúp lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa. Áo
quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù ra bọc xương. Hàng trăm tù binh bỏ mạng. Tù binh
Nga bị bọn phát xít đánh bằng thanh sắt, thanh gỗ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm
bằng tay, đạp bằng chân vô cùng dã man. Bọn chỉ huy trại đấm vào mặt, vào mũi tù binh
cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trị “phòng bệnh cúm”.Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực
kỳ man rợ để đánh đập bắn giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt
sau hàng rào dây thép gai, Xôcôlốp cũng như các tù binh khác bị cái chết bủa vây, bị tử thần
rình rập.
Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn
làng mạc bị bom đạn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xơcơlốp gánh chịu bao mất mát
đau thương.Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai – đại uý pháo binh Anatôli,
niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một
tên thiện xạ phát xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xôcôlốp “như người mất
hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh khơng muốn về lại Vơrơnegiơ q
hương vì đâu cịn gia đình nữa. Bé Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha
“chết ở mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng
không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “khơng có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đau
ngủ đó”, “ai cho gì thì ăn nấy!” Áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”; “mặt
mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”…



Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xơcơlốp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm
động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mơ tả chiến tranh trong bộ mặt thật của
nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong thế chiến 2
phải trả là cực kỳ khủng khiếp.Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó,
nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Chiến tranh đã đi
qua, nhưng một năm sau Xôcôlốp cảm thấy quả tim mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự
nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất
do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn…
mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hồng cịn mãi trong ký ức, cứ
xiết chặt lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh,
tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô da của bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em
như một ám ảnh khơng ngi! Cịn Xơcơlốp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một
chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu
như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau
hàng rào dây thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ta một tiếng thở dài, một lời
than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước mắt…”. Xôcôlốp và bé Vania trở thành “côi
cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa
lạ…”
Nhân vật Xôcôlốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của
người lính Xơ viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ,
một lái xe. Một gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu
công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương
lành, anh lại cầm súng đánh giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng,
tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt
cưa, lưng bát xúp lõng bõng.Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ
khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muynle , chỉ huy trại
tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chế
sự đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hồng uống rượu, khơng chỉ uống một

cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình kinh ngạc khâm phục nói:
“Mày là một thằng lính Nga chân chính.Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí
tiết.Tao sẽ khơng bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xơcơlốp, của người lính Nga trong máu lửa
được miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận con người” mang vẻ
đẹp một “tiểu anh hùng ca”.
Qua nhân vật Xôlôlốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau
chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị
cứ níu lấy anh, khơng thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên
“điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lịng Xơcơlốp mãi không


ngi đau. Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê cái món
nguy hại ấy!”
Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng khơng có lối thốt. Nhưng rồi tình cảm người
cha, – tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay, như được
mọc lên một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, sống bơ vơ
nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của
em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xôcôlốp thấy “thích nó” và “nhớ
nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “Khơng thể để cho
mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!”Một quyết định đầy nhân
ái. Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “Ngay lúc
đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!” Câu nói khẽ của Xơcơlốp: “Là bố của
con” khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng đầy nước
mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mơng! Trước những cái hơn vào má, vào
môi, vào trán, trước những cử chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania Xơcơlốp vơ cùng xúc
động: “Mắt tơi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”
Xôcôlốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may áo quần mới,
săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến
tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều năm tôi được ngủ
một giấc yên lành. Cịn bé Vania thì rúc vào nách bố ni “như con chim sẻ dưới mái rạ,

ngáy khe khẽ…” Hạnh phúc là san sẻ. Xơcơlốp lịng vui khơng lời nào tả xiết, đêm đêm
thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự đổi thay kì
diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Vết thương
lịng đâu dễ ngi? Vì thế mà Xơcơlốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga.
Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào học một trường ổn định thì Xơcơlốp “mới có
thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người
bố đối với đứa con.
Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong
lịng tác giả bao nỗi buồn thấm thía, nhưng ơng vẫn tin vào dũng khí và lịng nhân ái của
người Nga, vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa
lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý
chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có
thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ
quốc kêu gọi”.
Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyện lồng trong truyện” đã tô đậm những đau
khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xơcơlốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm
hồn Nga, đem đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con người trong
chiến tranh và thời hậu chiến.


Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mơ tả mặt thật
của chiến tranh , ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong
máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiến tranh. Qua
nhân vật Xôcôlốp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sôlôkhốp gửi gắm
qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh;
với lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình
ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng.
Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xơcơlốp rất gần gũi với mỗi
chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được
mọi người yêu mến, cảm phục.

Tác phẩm là lời tự sự của nhân vật trung tâm – anh lính hồng qn Xơcơlơp, người đàn ơng
đã chịu bao giông tố khắc nghiệt của cuộc đời đổ ập lên số phận. Đó là cuộc đời gắn liền với
một trang sử bi tráng hào hùng của nhân dân Nga, với chế độ Xô-viết đã tạo thành phẩm
chất của những con người Nga kiên cường.
M.Sôlôkhôp đã dựng lên chân dung một con người Nga bình thường nhất, một người xơ
viết chân chính. Số phận ấy tiêu biểu cho bao người con ưu tú đã viết nên trang sử thời đại
hào hùng của đất nước Liên Xô cũ.
Cuộc sống hiện lên trần trụi như nó vốn có – khơng khoa trương hào nhống, khơng bi kịch
hố mà cứ đều đều như giọng kể của người đàn ơng Nga có cái họ bình thường như bao
người Nga: Xơcơlơp. Nhưng trong số phận anh có sức nặng của nỗi đau dân tộc Nga qua
các thời kỳ khốc liệt nhất.Không tránh né sự thật – đó là phẩm chất hàng đầu của các cây
bút Nga – xơ viết mà M. Sơlơkhơp chính là một tấm gương. Sự thật đó khơng phải được kể
bằng giọng lạnh lùng thản nhiên mà còn hằn nguyên nỗi đau trong giọng văn thấm thía,
trong những ám ảnh kí ức hằn sâu trong tâm trí của người cựu binh xơ viết – chính là phản
chiếu một mảng hiện thực rộng lớn và xuyên suốt các chặng đường của nhân dân Nga.
Trước hết là kí ức những ngày nội chiến, khi chính quyền xơ viết non trẻ phải đối mặt với lũ
bạch vệ, thổ phỉ và can thiệp. Người đọc có thể nhận ra những dấu ấn quen thuộc làm nên
tên tuổi của M.Sơlơkhơp trong Sơng Đơng êm đềm.Nạn đói, cuộc sống cùng cực khơng quật
ngã nổi ý chí của người dân xô viết. Xôcôlôp từng trải qua cuộc đời làm th, từng chứng
kiến gia đình gục chết trong cái đói, nhưng chính sự tàn khốc ấy là một sự lý giải vì sao anh
trở thành chiến sĩ hồng quân, vì sao anh lại có một hạnh phúc từ đau thương bất hạnh. Đó là
hạnh phúc của những người nghèo khổ được xây lên từ bất hạnh để họ khẳng định tư thế
làm chủ cuộc đời.
Có lẽ kí ức nhân loại mãi mãi không phai mờ bao ám ảnh khủng khiếp của Chiến tranh thế
giới lần thứ II. Nhưng nhà văn không theo cách thông thường để ca ngợi vào những đóng

góp xương máu của hơn hai mươi triệu người xơ viết làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại. bi kịch chiến tranh hiện hữu ngay trong từng số phận, từng gia đình. Sức hủy



diệt của nó khiến cho Xơcơlơp mất vợ và hai con; bé Vania mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mất mát
là điều không tránh khỏi nhưng với người trong cuộc còn kinh khủng hơn rất nhiều, khi sức
ám ảnh của nó vẫn trở về trong những giấc ngủ nặng nề, để Xơcơlơp mỗi lần tỉnh giấc lại
đầm đìa nước mắt. Nhưng vào thời điểm đối mặt quyết liệt với kẻ thù, nước mắt khơng thể
rơi! Chỉ có thể là ánh mắt rực lửa căm hờn và khinh bỉ với kẻ thù, với những tên phản
bội.Anh đã sống đúng với tư cách người lính ngay cả khi “chiến bại”, bị bắt làm tù binh.
Cảm hứng về cuộc chiến tranh của M.Sôlôkhôp có phần gần gũi với Alêcxây Tơnxtơi với
“Tính cách Nga”, với “Người xô viết chúng tôi”… Nhưng người đọc hiểu đó chính là lúc
con người đang chiến đấu vì danh dự dân tộc, vì những niềm hy vọng khơng tắt về tương
lai. Xôcôlôp đã là người chiến thắng, ngẩng cao đầu trong trại tập trung của kẻ thù, mưu trí
dũng cảm trở về đội ngũ, chiến đấu bằng tất cả lịng căm thù sục sơi với kẻ đã hủy hoại hạnh
phúc gia đình, và cả “niềm hy vọng cuối cùng” – người con trai đã thành đại úy pháo binh
Anđrây Xôcôlôp. Trớ trêu thay, vào ngày cờ đỏ thắm trên nóc nhà Quốc hội Đức , anh đã
phải tiễn đưa con mình. Dẫu biết sự hy sinh ấy là anh hùng, là cần thiết, nhưng quả thật đó
là một cú đập phũ phàng của định mệnh khiến bất cứ ai yếu lịng cũng có thể quị ngã. Có lẽ
đó cũng là những trang viết gợi nhắc cho chúng ta nhiều nhất về ý nghĩa tàn khốc của chiến
tranh, vinh quang và cay đắng, hạnh phú và bất hạnh, niềm vui chung và nỗi đau riêng để từ
đó suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của từ “hy sinh”.
Thế nhưng tuyệt nhiên ta không nhận thấy tâm trạng của những con người – nhân dân Nga
trở về sau chiến tranh lại nặng nề bi thảm như của “thế hệ vứt đi” trở về sau Đại chiến I ở
Mỹ hay châu Âu. Bởi lẽ hy sinh sẽ là vô ích nếu như sự sống sẽ tê liệt sau bao mất mát.Bởi
thế, Xôcôlôp đã sống, làm việc như bao người lính xơ viết trở về sau chiến trận.Nỗi đau
lắng vào trong và chỉ thật sự hiện hữu khi Xơcơlơp tìm quên trong men rượu. Áp lực đời
thường và hậu quả chiến tranh quá nặng nề tưởng chừng có thể làm cho con người gục ngã.
Sự tình cờ, ngỡ như ngẫu nhiên mà tất yếu đã gắn chặt cuộc đời Xôcôlôp với bé Vania. Chú
bé Vania – đôi mắt đen lay láy, cuộc sống vất vưởng là một hình tượng nghệ thuật có thể
làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Chú bé chính là hiện thân của thế hệ tương lai nước
Nga, là vẻ đẹp của sự thơ ngây thánh thiện cần phải chở che, bảo bọc. Cuộc gặp gỡ của hai
con người ấy là tất yếu. Không chỉ cảm động vì khoảnh khắc thì thầm của Xơcơlơp với bé
Vania: “Ta là bố của con”, lúc nhận bố con cũng là lúc người đọc chứng kiến sự trở lại của

những giọt nước mắt ở con người tưởng như trái tim đã khơ héo vì đau khổ. Nước mắt –
hạnh phúc và xót xa cứ đan quyện vào nhau, thấm vào lòng tất cả mọi người.
Ngỡ rằng hạnh phúc đã thật sự trở lại, ngỡ rằng từ đây đầy ắp tiếng cười và những tiếng ríu
rít như chim của bé Vania, nhưng kí ức vẫn hiện về đấy ám ảnh. Người đọc phải chứng kiến
những lời nói dối – nhưng lạ thay đó lại là lời đẹp hơn trăm lần sự thật. Bởi sự đồng cảm số
phận và tình thương yêu đã gắn chặt cuộc đời hai bố con – một người đang cần nén chặt nỗi

đau quá khứ và một người cần được bảo đảm tương lai tốt đẹp. Vậy mà định mệnh lại trêu
cợt để cho bố con Xôcôlôp lại tiếp tục hành trình giữa đời thường với bao thử thách đón chờ
phía trước.


Số phận con người là câu chuyện kể chân thực về một con người bình thường. Nhưng cuộc
sống bao dồn đẩy sóng gió đã tơi luyện cho anh một phẩm chất kiên cường, một tình thương
yêu bao la. Gương mặt người đàn ơng ấy đã sắt lại vì đau khổ, nhưng trái tim tổn thương ấy
vẫn đập những nhịp thương yêu nồng nàn với con người. Nhà văn đã lên tiếng thay nhân vật
ở cuối tác phẩm, bằng tất cả niềm xúc động sâu xa và lịng cảm phục vơ hạn trước nhân
cách một Con Người chân chính. Bức thơng điệp của nhà văn giúp ta nhận ra rõ hơn chân
dung của nhân dân Nga, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và sức mạnh của con người vượt lên bao
bi kịch bất hạnh. Đó là sự khẳng định tuyệt đối của nhà văn thể hiện niềm tin tưởng vào Con
người Nhân dân và tương lai của đất nước. Nỗi buồn kết lại tác phẩm lại khiến ta nhận ra
tầm vóc vĩ đại của đất nước và con người Nga xô viết quả cảm, kiên cường, nhân hậu



×