Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh để làm nổi bật "tinh
thần thép" hoặc " nét cổ điển hiện đại".
Xưa nay viết về chiều muộn vốn là nguồn cảm hứng khơng vơi cạn của văn chương nghệ
thuật. Khó có thể kể hết những bức tranh chiều, những bản nhạc chiều , những áng thơ
chiều mà các nghệ sĩ, tao nhân đã để lại cho đời sống con người. Về mặt này, Hồ Chí
Minh trong tư cách một nhà thơ cũng khơng phải là ngoại lệ. Có thể thấy ngay từ tập thơ
Nhật Kí Trong Tù, trái tim của thi nhân ấy đã không chỉ một lần rung động trước vẻ gợi
cảm của buổi chiều hôm để viết ra những vần thơ mà còn được nhiều người nhớ mãi như
“ Vãn chiều hơm”, “ Hồng hơn” ,.. Song trước tất cả và quen thuộc hơn tất cả những bài
thơ chúng ta vừa kể đến vẫn phải là bài thơ mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây : “Mộ” (
chiều tối).
Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng
( Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa từng khơng
Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết lị than đã rực hồng. )
“ Chiều tối “ là một bài thơ viết về những vẻ đẹp của buổi chiều hôm, nhưng điều lý thú
là trong hai câu thơ đầu tiên cũng như cả bài thơ lại không dùng đến một chữ “ chiều “
nào. Vậy mà cảnh chiều và hồn chiều vẫn hiện lên rất rõ, rất đẹp và đầy vẻ gợi cảm. Nhà
thơ chỉ vờn vẽ lên một vài nét tiêu sơ, gợi nên hình ảnh cánh chim chiều về tổ hay một
chịm mây, áng mây chầm chậm trôi ngang qua bầu trời. Ít nét thế thôi song lại là những
nét rất tiêu biểu cho những thời khắc cuối cùng của ban ngày, trước khi bóng tối bng
màn xuống vạn vật. Từ những câu thơ cuối cùng lan toả ra một cảm giác nhẹ nhàng , man
mác bâng khuâng của buổi chiều hôm khi mà mọi vật dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Đó
có thể là một buổi chiều thực mà Bác đã gặp và ghi lại trong một cuộc chuyển giao từ nhà
lao này sang nhà lao khác. Nhưng cũng không thể khơng thấy rằng buổi chiều ấy cịn
mang một vẻ đẹp đã trở nên vĩnh hằng của những buổi chiều mà hình sắc cịn đọng lại
trong những câu thơ cổ mà ở đó vẫn đi về khơng ít những “ quyện điểu “ với “ cô vân”.
"Chim hơm thoi thót về rừng /Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành" ( Nguyễn Du), "Ngàn
mai gió cuốn chim bay mỏi" ( Bà Huyện Thanh Quan) hay như : "Chúng điểu cao phi
tận/ Cô vân độc khứ nhàn" (Lý Bạch ) Và như thế, những dòng thơ đầu tiên hình như đã
làm cho bài thơ “ Chiều tối “ của Bác đã nhuốm một phong vị cổ điển. Cảm xúc bài thơ
vì thế mà càng trở nên mênh mang hơn, khơng chỉ trong khơng gian mà cịn cả ở thời
gian.Những xúc cảm như thế đã được nhà thơ gửi gắm vào hai câu thơ về chiều hơm đó.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chịm mây trơi nhẹ giữa từng khơng Có nhiều người cho
rằng những dịng thơ ẩn chứa một nỗi buồn kín đáo và thấm thía của một người tù trên
con đường đày ải đang thấm một nỗi xót xa khi thấy những cánh chim chiều cũng tìm ra
chốn ngủ, những đám mây cũng lững lờ nghỉ ngơi trên bầu trời bao la. Trong khi đó,
người tù vẫn bị xiềng xích, trói buộc chẳng bằng cánh chim nọ, áng mây kia vì chiều đã
sắp hết rồi mà mình vẫn khơng có nổi một chốn dừng chân. Mặt khác, cũng có một cách
hiểu dường như hồn tồn ngược lại. Theo đó, có thể thấy đây là hai dòng thơ của một
tâm hồn đã vượt lên trên cảnh ngục tù, xiềng xích và trói buộc để lưu luyến, dõi nhìn theo
một cánh chim , một áng mây chiều để cảm thấy tim mình xao xuyến một tình cảm rất
người, cho dù đang phải sống một cuộc sống “ khác loài”. Nên chăng ta hãy hiểu theo
một cách hiểu được nhiều người ủng hộ nhất, cách hiểu thứ hai. Song hiểu theo cách nào
trong hai cách trên, chúng ta vẫn tìm thấy ở đó một chân dung tinh thần của một chủ tịch
Hồ Chí Minh thi sĩ, một con người yêu tha thiết vẻ đẹp của thiên nhiên , đất trời và cuộc
sống. Đó là một con người dù trong hồn cảnh nào cũng vẫn khơng để mất đi dù chỉ một
mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn
vẹn cuộc sống con người, dù trong hồn cảnh có khác loài người. Cũng như nhiều bài thơ
khác trong “ Nhật kí trong tù “, “ Chiều tối “ biểu hiện một cảm nhận của tác giả về cuộc
sống ln có sự vận động, phát triển, chảy trơi. Chúng ta có thể thấy điều ấy khi đối chiếu
hai câu đầu với hai câu cuối của bài thơ.
Nét cổ điển thấy rõ qua việc tác giả vẽ lên không gian buổi chiều với những thi liệu quen
thuộc: cánh chim, chòm mây, bầu trời... bên cạnh đó là thể thơ thất ngơn đường luật cùng
nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã giúp cho thi nhân phát triển ý đồ nghệ thuật của mình. Nét
hiện đại: tất cả được vẽ nên thơ qua tình cảm bao la của Bác. Ví dụ: cánh chim trong thơ
cổ thường xuất hiện và bay hút vào vũ trụ, là cánh chim phiêu dạt, vô định trước bầu
trời... thì trong thơ Bác cánh chim rất gần gũi với con người. Bác thấy được trong cánh
chim chiều muộn bay về tìm chốn dừng chân là cánh chim "mỏi". Phải yêu thiên nhiên,
cảnh vật và có mối đồng cảm bao la thì mới nhìn được cái dáng mỏi mệt của cánh chim
kia...
Rõ ràng hai câu thơ trên đã viết về một khung cảnh thiên nhiên vào lúc chiều tà, nhưng
đến hai câu thơ sau đã có thể thấy rõ trời đã đổ tối. Thời gian không ngừng trôi, mặc dù
nhà thơ trong nguyên tác đã không cần dùng đến chữ “ tối”.( Chữ “ tối “ trong bản dịch là
do người dịch tự thêm vào). Và bởi phải vào thời điểm như thế, người ta mới thấy được
rõ ràng sự rực hồng của bếp lửa, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ
“ tối “ mà nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Và như thế, cặp mắt của thi nhân sẽ thơi
khơng ngước nhìn mãi về phía bầu trời mà hướng về mặt đất để nhận thấy ấn tượng về
một xóm núi, về một cơ gái xay ngơ, một chiếc lị than trong ngơi nhà đơn sơ , giản dị.
Bức tranh của cảnh vật sẽ nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt con người. Hình ảnh trung
tâm của hai câu thơ cũng sẽ không phải là một cánh chim chiều về tổ, một áng mây trôi
mà là một con người lao động. Và ngôn từ của những dịng thơ cũng sẽ theo đó mà đổi
thay. Hai câu thơ này khơng thấm thía hương vị thơ cổ điển như hai câu trên mà mang
nhiều chất “ bạch thoại”, mộc mạc , đời thường, thể hiện rõ nhất ở chữ “ bao túc” xuất
hiện đến hai lần. Hai câu thơ này một lần nữa không chỉ là để ghi lại những gì nhà thơ đã
thấy trong một buổi chiều. Bởi không nên quên rằng “ Chiều tối” vẫn là một tác phẩm trữ
tình và cái hồn của câu thơ nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào
trong những dòng chữ. Nhiều người đã thấy ở đây nỗi xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà
thơ đối với con người lao động. Nhà thơ dường như đã đồng cảm với sự nhọc nhằn của
họ. Đồng cảm ở cách nhà thơ nói việc xay ngô, ở cách dùng chữ “ ma bao túc” để bật lên
những vòng quay nặng nề, luẩn quẩn và ở âm điệu của những câu thơ mà đọc lên có thể
cảm thấy vất vả, khó khăn. Và như thế, chúng ta có thể cảm nhận được tình thương đối
với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù đó là những con người khơng phải
là đồng bào của Bác, khơng quen thân, thậm chí chưa hề gặp mặt. Song cũng nhiều người
muốn hiểu hai câu thơ sau này theo nghĩa khác, một hướng tiếp nhận khác. Phải chú ý
đến những chữ “ hoàn “ ( hết ) và hình ảnh của chiếc lị than đã rực đỏ lên, để nhận ra
rằng nhà thơ muốn nói đến cảm giác về một sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc
bình dị trong một căn nhà ấm cúng. Bếp lửa đã cháy lên và cơng việc lao động cũng đã
hồn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vơ song của Bác, khả
năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất
lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người .
Nhưng hai ý kiến ấy ngẫm ra cũng khơng hồn tồn đối lập, bởi vì đều nói lên một phẩm
chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất , nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và
thật thấm thía trong những câu thơ : "Chỉ biết quên mình cho hết thảy" hay: Nâng niu tất
cả chỉ quên mình". Chúng ta nhận ra “ Chiều tối “ là những vần thơ quên mình vĩ đại.
Cực độ con người đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng vẫn có thể rung
động được với nỗi khổ hoặc niềm vui của những con người bình thường khác, tình cờ gặp
mặt hoặc thấy trên con đường đày ải. Nhưng có lẽ cũng khơng nên nói rằng Bác Hồ đã
qn mình bởi một người như Bác thì bầu trời, xóm núi, cơ gái xay ngơ và bếp lửa đang
rực hồng lên ấy không phải là những cái ở bên ngồi mình.
Bị trói, bị tù đày, bị giải đi " Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết
giày". Nhưng dường như Người khơng hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình.
Người ln hướng ngoại, lấy tình u của mình trải lên cả khơng gian bao la để quên đi
nỗi nhọc nhằn. Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than van.
Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh.
Dường như với Bác, đấy là cuộc sống của chính mình. Vậy nói như nhà thơ Tố Hữu, Bác
có thể nâng niu tất cả, vì Bác sống như trời đất, vì Bác có một trái tim có thể ơm trọn mọi
non sơng, kiếp người: Bác sống như trời đất của ta.