Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích nghệ thuật mô tả các pho tượng của Huy Cận trong bài thơ "Các vị La Hán chùa Tây Phương"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.18 KB, 4 trang )

Đề bài: Phân tích nghệ thuật mơ tả các pho tượng của Huy Cận trong bài thơ "Các vị
La Hán chùa Tây Phương"
Bài làm
"Các vị La Hán chùa Tây Phương" là một bài thơ không chỉ hay về nội dung mà cịn có
nhiều đặc sắc về nghệ thuật. Mà nghệ thuật chủ yếu là mô tả và khắc họa các pho tượng
Viết về mười tám vị La Hán chùa Tây Phương, người làm thơ đứng trước một khó khăn: đó
là làm thế nào cho người đọc hình dung được một cách sinh động hình ảnh của từng pho
tượng lại cũng phải làm cho người đọc có một cái nhìn tổng quát về tất cả mười tám pho
tượng. Nếu Huy Cận đi theo hướng tả lại lần lượt mười tám pho tượng ấy, mỗi pho tượng
một khổ thơ thì người đọc sẽ thấy đủ mặt từng vị một nhưng bài thơ sẽ quá dài, không cần
thiết. Nhưng nếu đi theo hướng khái qt chung thì người đọc lại khơng thể hình dung được
một cách sinh động mỗi một pho tượng như thế nào. Trước yêu cầu ấy, Huy Cận đã có một
giải pháp nghệ thuật hợp lý: phối hợp đặc tả cụ thể với bao qt tồn thể. Nhờ đó mà đem
đến cho người đọc một cảm nhận khá toàn diện: vừa có riêng vừa có chung, vừa gần vừa xa.
vừa có điểm trọng tâm, vừa có diện mở rộng, vừa chi li cụ thể, lại vừa khái quát tổng thể...
đủ để cho người đọc hình dung được về cái thế giới riêng của mười tám vị La Hán này.
Ba khổ thơ đầu nghiêng về đặc tả. Còn ba khổ thơ tiếp theo lại nghiêng về bao quát. Huy
Cận chỉ chọn ba gương mặt tiêu biểu cho ba tâm tính, ba khí chất, ba thời điểm điển hình của
cuộc họp này.
Pho tượng thứ nhất xem ra là một tâm tính điềm đạm, bình tĩnh như là phong thái của người
từng trải. Mặc dù trong lòng rối bời lên một tâm sự lớn nhưng vẫn có khả năng kiềm chế, tiết
chế, khơng cho cảm xúc lộ ra ngoài. Pho tượng này hiện ra với dáng điệu trầm ngâm, lặng lẽ
suy tưởng một mình. Nhưng bên trong cái dáng lặng lẽ, ít lời ấy người ta vẫn thấy rõ một
ngọn lửa lòng, một ngọn hoả tâm đang thiêu đốt:
"Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy


Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay".
Ở khổ thứ hai, nhà thơ miêu tả pho tượng dường như tương phản với vị trên Đây là pho


tượng có một tâm tính xốc nổi và nơng nổi. Tất cả nhiệt tình bên trong đều tràn cả ra ngoài,
tất cả những cảm xúc đều hiện ra trong cử chỉ, hành động. Tâm tình của pho tượng ấy làm
tốt lên một sự nơn nóng, vội vã, hấp tấp. Phải chăng đây là một người trẻ tuổi, còn đầy sức
lực:
"Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng, biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sơi".
Cịn vị thứ ba lại tiêu biểu cho một tâm tính, một khi chất khác. Vị này có vẻ an phận, bng
xi. Sau khi suy nghĩ và cảm thấy những nghĩ suy đã làm cho mình mệt mỏi, cho nên có
thái độ phó mặc, ngại đương đầu với những gì quyết liệt, dữ dội, phức tạp. Tuy nhiên, cũng
không thể lảng tránh được, nỗi đau khổ của cuộc đời cứ dội đến đơi tai dài rộng
"Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn… "
Nhìn vào dáng điệu của ba pho tượng này chúng ta còn thay mỗi tư thế cũng điển hình cho
một thời khác. Phải chăng vị thứ nhất tiêu biểu cho thời điểm cuộc họp mới bắt đầu, câu hỏi
vừa mới tung ra, các thành viên còn bình tĩnh và tự tin rằng có thể sẽ tìm kiếm được câu trả
lời? Còn vị thứ hai lại tiêu biểu cho thời điểm cuộc họp vào lúc ráo riết nhất, căng thẳng
nhất. Tất cả đều nung nấu, lao tâm khổ tứ để tìm kiếm câu trả lời nhưng mà vẫn chưa ra.
Nhìn vào pho tượng này người ta cịn thấy được cả khơng khí oi ả, bức xúc của cuộc họp. Vị


cuối cùng phải chăng là thời điểm mà mọi kiếm tìm đến vơ vọng rồi? Rõ ràng Huy Cận đã
chọn ba pho tượng để đặc tả một cách rất chính xác. Ý nghĩa điển hình rất cao. Chỉ cần ba
pho tượng ấy thơi đã đủ cho người đọc hình dung về tâm trạng của mười làm pho còn lại.
Như chúng ta đã biết, Huy Cận đã phát hiện ra dụng ý của các nghệ nhân ngày xưa chỉ là
mượn đề tài tượng Phật để nói về cuộc đời thực, cho nên mỗi một pho tượng mang một vẻ
mặt con người Điều đó khiến cho Huy Cận cần phải nhận diện được từng tính cách của

người, thân phận người, gương mặt người trong từng pho tượng gỗ. Làm thế nào để cho mỗi
pho tượng hiện ra là một con người sống động? Đó chính là câu hỏi đầy khó khăn. Để trả lời
câu hỏi này, Huy Cận đã sử dụng một nghệ thuật rất cổ truyền nhưng cũng rất phù hợp: biến
cái tĩnh thành cái động. Các pho tượng này vốn bằng gỗ được đặt bất động tại chùa Tây
Phương Nhưng các nghệ nhân ngày xưa là những bàn tay tài hoa. dường như đã thổi vào đó
sự sống. Cho nên pho tượng nào cũng sống động, mọi đường nét, hình khối để diễn tả gương
mặt tượng, dáng điệu tượng đều làm toát lên được đời sống nội tâm ở bên trong. Đến lượt
mình, Huy Cận đã biến những hình tượng điêu khắc thành những hinh tượng của thi ca. Một
lần nữa, họ hiện ra như những con người thực. Mỗi trạng thái tỉnh của tượng đều hoá thành
trạng thái động của người. Vị thứ nhất thỉ "trầm ngâm đau khổ", tự bấy ngồi y cho đến nay".
Nghĩa là bước vào cuộc họp, vị ấy đã chọn một tư thế ngồi và cứ ngồi y nguyên ở đấy suốt
hai thế kỷ qua. Có vị thì sau khi suy nghĩ đã co mình, tay chân thu lại giống như động tác thu
minh của một con người an phận. Chúng ta có cảm tưởng như động tác ấy vừa mới diễn ra.
Nhưng sống động nhất có lẽ vẫn là pho tượng thứ hai. Chúng ta có cảm giác như từ pho
tượng tốt ra cả hơi ấm của sự sống. Bên dưới lồng ngực là trái tim đang đập mãnh liệt, bên
dưới làn da, mạch máu đang chạy, cặp mắt vừa mới giương lên, vầng trán nổi sóng mà nhất
là đơi mơi và bàn tay: "mơi cong chua chát", "gân vặn bàn tay". Có thể nói ở đây Huy Cận có
phần nào bị ảnh hưởng lối cảm nhận và diễn tả của nhà điêu khắc Rôđanh ở bức tượng
"Người suy nghĩ". Nhà điêu khắc này đã tà một người suy nghĩ đang trong trạng thái căng
thẳng nhất, khơng chỉ có trí não hoạt động mà tất cả bắp cơ, mọi đường gân. thớ thịt đang
được tập trung dồn vào việc nghỉ ngơi ở pho tượng này cũng thế, Vị La Hán đang căng toàn
thân một cách ráo riết, quyết liệt mong tìm kiếm được ngay câu trả lời. Đó là cực điểm của
sự suy nghĩ. Cho nên tác giả đã dồn vào đấy rất nhiều động từ nhằm thể hiện một nội tâm sôi
động, bức xúc: "mắt giương", "mày nhíu xệch", "Trán như nổi sóng"... Qua cách tả của Huy


Cận, mười tám pho tượng đều như thế: Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau", "quay theo
tám hướng" Tất cà khiến cho khơng khí trở nên cực kỳ căng thẳng: "cuồn cuộn đau thương
chảy dưới trời”. Và cho đến bây giờ, hai trăm năm đã trơi qua. khơng khí ấy vẫn chưa hề tiêu
tan, những vết hằn trên mặt tượng vẫn còn nguyên, chưa chịu giãn ra

"Các vị La Hán chùa Tây Phương" là một thành công của Huy Cận. Thành cơng ấy trước hết
thuộc về tình u của tác giả đối với cha ông. Bài thơ thể hiện một sự cảm thông lớn đối với
nỗi đau khổ, bế tắc trong q khứ. Nhưng nếu chỉ có một tình thương đơn thuần thì cũng
chưa thể có sáng tạo nghệ thuật.
Thành cơng của bài thơ cịn thuộc về tài hoa của Huy Cận Ông đã biết phát huy những thủ
pháp nghệ thuật phù hợp để khắc họa những hình tượng của mình. Nhờ đó mà giờ đây, bên
cạnh mười tám pho tượng của ngành điêu khắc Việt Nam, nên thơ ca hiện đại Việt Nam cũng
có mười tám vị La Hán được tạc bằng ngơn từ.
Rất có thể những người tinh thông Phật giáo viếng thăm chùa Tây Phương sẽ giải thích các
pho tượng La Hán kia một cách khác chăng. Nhưng Huy Cận thì khơng hề quan sát và miêu
tả các vị ấy theo quan điểm Phật giáo. Nhà thơ không đối thoại với các nhà Phật học mà đối
thoại với "bác thợ cả" ngày xưa đã tạc nên 18 pho tượng tuyệt vời này như những cơng trình
nghệ thuật phản ánh thời đại của mình, đúng vào cái thế kỷ mà Nguyễn Du viết Truyện Kiêu
và Văn Chiêu hồn.



×