Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.58 KB, 11 trang )

A. MỞ ĐẦU:
Non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch - Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc. Người đã
lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh chống lại hai tên thực dân, đế quốc đầu
sỏ Pháp, Mỹ. Bằng sự dẫn dắt tài tình và tầm tư tưởng của một vĩ nhân, Người
đã đưa đất nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước có chủ quyền,
độc lập, tự do, đưa nhân dân Việt Nam từ than phận nô lệ đứng lên làm chủ
vận mệnh, đất nước, được hưởng tự do, hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã đi xa
nhưng tư tưởng mà Người để lại cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị mà
chúng ta còn phải học tập noi theo. Như mọi tư tưởng, học thuyết khác, tư
tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc và q trình hình thành, phát triển của nó.
Nghiên cứu nguồn gốc, q trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
là một mắt khâu trong nghiên cứu, học tập tư tưởng của Người. Qua bài phân
tích dưới đây, nhóm 1 chúng em xin đi sâu tìm hiểu: “Cơ sở thực tiễn hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh”.
B. NỘI DUNG:
Thực tiễn lịch sử có vai trị rất quan trọng đối với sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh.Theo Hồ Chí Minh: “Mưốn hiểu biết một việc gì, một vật gì, thì
phải tham gia vào cuộc đấu tranh và biến đổi của việc ấy, vật ấy. Có như thế
mới thấy được hiện tượng của nó, và tiến tới hiểu biết bản chất của nó. Đó là
con đường thực tế, ai muốn hiểu biết cũng phải trải qua... Khơng thực hành
thì nhất định khơng thể hiểu biết. Do thực hành mà hiểu biết1.
I. Thực tiễn cách mạng Việt Nam:
1. Nửa cuối thế kỉ XIX:
a. Tính chất xã hội Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược được thể
hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, về chính trị bên trong thì đàn áp bóc lột nhân dân từ đó dẫn đến
hệ quả gây ra mâu thuẫn giữa nông dân Việt Nam với địa chủ phong kiến.
1

Hồ Chi Minh, toàn tập, Nxb. CTQG. H. 2002. Tập 6. Tr 251



1


Đồng thời nhà Nguyễn cịn thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng khơng giao
lưu trao đổi với bên ngồi.
Thứ hai, về kinh tế không phải là sản xuất hàng hóa phát triển mà duy trì
nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu tự cung tự cấp là chủ yếu.
Thứ ba, về văn hóa tư tưởng một mặt nhà Nguyễn khơng mở trường đào
tạo khoa học kĩ thuật nhưng mặt khác lại cự tuyệt đề án canh tân cải cách của
các nhà tư tưởng tiến bộ vì vậy khơng tạo ra động lực cho các nhà tư tưởng
tiến bộ phát triển2.
Thứ tư, về quân sự, quân đội triều đình nhà Nguyễn được trang bị hết sức
thơ sơ. Vì vậy khi thực dân pháp xâm lược Việt Nam chúng ta chống lại súng
đạn của kẻ thù bằng gậy tầm vông và giáo mác.
Như vậy, có thể nói, xã hội Việt Nam tồn tại với tính chất là một xã hội
phong kiến, lạc hậu, bảo thủ và thậm chí cịn mang tính phản động. Triều đình
nhà Nguyễn đã khơng chuẩn bị tiềm lực cả về vật chất và tinh thần để đương
đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Đây cũng chính là
nguyên nhân hàng đầu kiến cho các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của
triều đình bị thất bại.
b. Tính chất xã hội Việt Nam khi thực dân Pháp xâm lược
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều
đình nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành
tay sai của thực dân Pháp.
Sau khi đã hoàn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự,
thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam một cách mạnh mẽ và
từng bước biến nước ta từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa và
phong kiến dẫn tới sự biến đổi về cơ cấu gia cấp, tầng lớp trong xã hội 3. Bên
cạnh tầng lớp thợ thủ công, tiểu thương, trong xã hội Việt Nam xuất hiện

những giai tầng mới. Đó là giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu
2


Thuật ngữ “thuộc địa và phong kiến” là thuật ngữ Hồ Chí minh nêu trong tác phầm Thưởng thức chính trị,
được in trong sách Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.8, tr.254 và tr.260.
3

2


tư sản ở thành thị. Từ đó, liền với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến
là nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới: Mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa toàn thể
nhân dân Việt Nam với đế quốc Pháp.Trong thời kì này hình thành 2 khung
hướng đối lập:
Thứ nhất, về phía triều đình phong kiến nhà Nguyễn đi từ quan điểm chủ
chiến đến nhân nhượng và đầu hàng thực dân pháp. Chính quyền nhà Nguyễn
đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, không mở ra cho Việt Nam
cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Không phát huy
được những thế mạnh của truyền thống dân tộc và đất nước, không chống lại
được âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt
Nam năm 1858 và đến năm 1883, triều đình Huế ký kết Hiệp ước Harmand
với đế quốc Pháp, thừa nhận quyền bảo hộ của họ trên khắp An Nam. Từ sau
Hiệp ước Patenôtre năm 1884, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Mặc dù Việt Nam vẫn có vua Nguyễn đứng đầu nhưng thực chất
chỉ là bù nhìn là tay sai cho thực dân Pháp, triều đình phong kiến đã khơng
dám đứng lên bảo về chính quyền lợi của cả dân tộc mà ngược lại “cõng rắn
cắn gà nhà” chia đất nước ta cho chúng. Từ đây Việt Nam trở thành 1 nước
thuộc địa nửa phong kiến.

Thứ hai, nhân dân Việt Nam dưới chính sách thống trị của triều đình nhà
Nguyễn đã có mâu thuẫn với địa chủ phong kiến. Các phong trào đấu tranh nổ
ra chống cả triều lẫn tây. Cho nên có các phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng phong kiến được dẫn dắt bằng hệ tư tưởng phong kiến với mục
đích là thiết lập lại chế độ phong kiến.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng: phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những
phong trào tiêu biểu trong thời kỳ này là:
- Phong trào Cần Vương (1885-1896), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc
Giang) diễn ra từ năm 1884 kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
3


- Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các cuộc khởi nghĩa vũ
trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam tiếp diễn, nhưng đều không thành
công.
Hay phong trào của các sĩ phu yêu nước theo ý thức hệ phong kiến: với tư
tưởng tôn quân, chưa tin tưởng vào nhân dân. Mục tiêu đánh Pháp để phục
hồi chế độ phong kiến: Tiêu biểu như Trương Định, Nguyễn Trung Trực ở
Miền Nam, Phan Đình Phùng ở Miền Trung, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn
Quang Bích ở Miền Bắc... Sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa này về bản
chất thể hiện sự bất lực, sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm
vụ lịch sử.
2. Nửa đầu thế kỉ XX:
Bước sang đầu thế kỷ XX, sau khi tạm thời dập tắt các cuộc đấu tranh vũ
trang của nhân dân ta, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác lần thứ nhất.
Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hoá mạnh mẽ các giai tầng trong
xã hội, mầm mống của giai cấp tư sản bắt đầu xuất hiện. Cùng lúc đó, ảnh
hưởng của cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu
(Trung Quốc) tràn vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân

dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các
phong trào như: Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam
Quang phục hội,... Nhưng các phong trào ấy cũng chỉ rộ lên được một thời
gian ngắn rồi lần lượt bị dập tắt. Như vậy, ngọn cờ tư tưởng tư sản cũng
không đáp ứng được sự đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cách
mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối. Từ đó đặt ra yêu
cầu lịch sử đối với cách mạng Việt Nam đó là: muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc cần tìm ra con đường cứu nước và đường lối Cách mạng đúng đắn,
phải xác định phương pháp cách mạng phù hợp và giai cấp lãnh đạo tiên
phong. Ngồi ra Cách mạng Việt Nam cần có một người lãnh tụ đủ tầm ảnh
hưởng để thống nhất mọi phong trào.
4


Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) lớn lên, trong lúc phong trào cứu nước
đang ở thời kỳ khó khăn nhất. Trường Đơng Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa
(12.1907), cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn
áp (4.1908), vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và tàn sát (6.1908), căn cứ nghĩa
quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá (1.1909), phong trào Đông Du bị tan rã,
Phan Bội Châu và các đồng chí của ơng bị trục xuất khỏi nước Nhật (2.1909),
các lãnh tụ của phong trào Duy Tân Trung Kỳ, người bị lên máy chém (Trần
Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi,...) người bị đầy ra Côn Đảo (Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Ngơ Đức Kế, Đặng Ngun Cẩn...). Chính hồn cảnh đó,
đã thơi thúc Nguyễn Tất Thành, năm 1911 ra đi tìm con đường cứu nước mới.
Tiếp theo, thực tiễn lịch sử Việt Nam từ 1912 - 1969, nhất là thực tiễn nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành Cách mạng Tháng Tám, kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
vừa đấu tranh giải phóng miền Nam... Đây là cơ sở, động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sự hình thành, phát triển, hồn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư
tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng và chủ

nghĩa xã hội nói riêng.
II.

Điều kiện lịch sử thế giới:

Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc như Anh, Pháp,
Mỹ, Đức, Nga, Nhật Bản,… đã chi phối tồn bộ tình hình trên thế giới. Chủ
nghĩa đến quốc vừa câu kết với nhau biến dân tộc yếu kém thành thuộc địa
của mình, vừa làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lịng chủ nghĩa tư
bản là mâu thuẫn giữa các gia cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư
bản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau. Khi chuyển sang giai đoạn
này chủ nghĩa tư bản đã trở thành kẻ thù chung của tất cả các quốc gia, dân
tộc lệ thuộc địa. Và mâu thuẫn trở nên ngày càng gay gắt thì giữa các dân tộc
thuộc địa và giai cấp vơ sản quốc tế đều mong muốn là giải phóng dân tộc. Vì
vậy mà nhiều phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản,
5


nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ở các nước lệ
thuộc vào thuộc địa nổ ra.
Trong điều kiện lịch sử mới thì mỗi thuộc địa là một mắt khâu của hệ
thống đế quốc. Do đó, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước nếu
tiến hành riêng rẽ thì khơng giành được thắng lợi và sự thất bại của các phong
trào cứu nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ở Việt Nam nguyên nhân chủ
yếu là do không nhận thức được đặc điểm thời đại cho nên họ tiến hành đấu
tranh theo đường lối cũ như: tự mình nổi dậy đấu tranh (Phan Đình Phùng,
Hồng Hoa Thám), đấu tranh khơng thắng nổi thì đi cầu viện (Phan Bội
Châu).
Khi cịn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành tuy chưa nhận thức được đặc

điểm của thời đại nhưng từ thực tế lịch sử thì Người đã thấy rõ con đường cứu
nước của cha anh là cũ kỹ, không đem lại kết quả cho nên Người phải đi tìm
con đường mới.
Trong tác phẩm những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh có
nêu: Khoảng năm 1912, Bác Hồ đang đi làm thuê ở một chiếc tàu bn vịng
quanh các nước Châu Phi. Người thấy được cảnh tượng, những tên thực dân ở
trên bờ bắt những người da đen nhảy xuống biển bơi ra khơi để liên lạc với
chiếc tàu ở ngoài khơi xa và họ lần lượt đều bị sóng biển cuốn trơi. Nhìn thấy
cảnh tượng này Bác Hồ nghĩ tới những người dân An Nam, và sau này Hồ
Chí Minh đã rút ra một kết luận có tính chân lý: “dù màu da có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột. Mà cũng chỉ có một số mối tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ
sản4”.
Khi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) nổ ra và thành cơng thì đã mở
ra một thời đại mới cho lịch sử loài người - thời đại đó là thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức về cuộc cách mạng này, Hồ
Chí Minh đã nói rằng: “Cách mạng Tháng Mười Nga như là mặt trời rạng
4

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.266

6


đơng xua tan bóng tối”. Và chính vì vậy Hồ Chí Minh quyết tìm hiểu cuộc
cách mạng này và tìm hiểu lãnh tụ Lenin. Cùng với đó là sự ra đời của Quốc
tế Cộng sản (3/1919), khi Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập, ra đời năm
1919 thì đã làm cho phong trào đấu tranh của công nhân ở các nước tư bản
chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa càng có
quan hệ mật thiết hơn. Trong bối cảnh lịch sử đó đã đem lại cho Hồ Chí Minh

một nhận thức rằng: “Ở những năm đầu thế kỷ XX, chỉ có những phong trào
cách mạng nào có mục tiêu giải quyết đồng thời những mâu thuẫn lớn của
thời đại ở nước mình thì mới có thể đi tới thắng lợi”. Đây được xem như là
nhận thức đầu tiên của Hồ Chí Minh về một con đường mới mà VN phải đi,
vốn trước đó chúng ta bế tắc về đường lối, khơng tìm ra được.. Nhưng chưa
dừng lại ở đó, nhận thức này ngày càng được thể hiện rõ hơn bởi những sự
kiện đặc biệt trong hoạt động của Hồ Chí Minh. Quốc tế cộng sản 3 ra đời
( tháng 3 – 1919) đề cập tới vấn đề thuộc địa, bênh vực các dân tộc thuộc địa,
ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giúp đỡ đào tạo cách mạng,
vạch ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa. Sự ra đời của Nhà nước
Xô Viết , thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và sự thành lập Quốc
tế III cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã ảnh hưởng sâu sắc tới
Hồ Chí Minh . Đó chính là cơ sở thực tiễn cách mạng thế giới trực tiếp dẫn tới
sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh .
Vào năm 1919, Hồ Chí Minh gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến
Hội nghị Véc-xây đã làm chấn động dư luận nước Pháp và là “phát pháo
hiệu” thức tỉnh nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh giải phóng. Nhằm mục
đích để nhờ các nước đế quốc thắng trận trong cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ nhất giúp đỡ nhân dân An Nam, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho
nhân dân An Nam. Nhưng các nước đế quốc khơng chấp nhận các u sách
đó. Do đó, việc gửi bản Yêu sách này đã thất bại. Chính cái thất bại này Hồ
Chí Minh đã rút ra bài học kinh nghiệm đầu tiên là: “Muốn được giải phóng
7


các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng của bản
thân mình…5”.
Khơng nản chí, Hồ Chí Minh tiếp tục con đường tìm hiểu, khảo sát,
nghiên cứu các cuộc cách mạng của các quốc gia trên thế giới để tìm được

con đường cách mạng phù hợp áp dụng cho Việt Nam.
Cũng trong năm 1919, Người ra nhập Đảng Xã hội Pháp bởi đây là chính
đảng theo đuổi những lý tưởng cao đẹp: tự do, bình đẳng, bác ái. Tại Đại hội
lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua, Nguyễn Ái Quốc
là đại biểu chính thức của Đảng và là đại biểu duy nhất của các nước thuộc
địa Đông Dương. Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản.
Năm 1920, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đọc được một bài viết của Lênin có
tên là Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Và sau này, Hồ Chí Minh đã kể lại: “Bản Luận cương của Lênin làm cho tôi
rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi xúc động đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Chính sự kiện của năm
1920 đã đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, bước đầu tìm được
con đường cách mạng Việt Nam phải đi đó là con đường cách mạng vơ sản.
Hồ Chí Minh đưa ra kết luận nói rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vơ sản”, chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Tham gia Đại hội Tua (30/12/1920) là một sự kiện quan trọng đánh dấu
bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh: từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng
dân tộc mình trong sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc, đồng thời cũng

5

Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, hà Nội, 1970, tr.30

8



đánh dấu bước ngoặt mới của cách mạng nước ta, mở ra nước chuyển biến
cho bao thế hệ người Việt Nam: từ người yêu nước thành người cộng sản6.
Khi nói đến những bối cảnh quốc tế thì ta nói đến những đặc điểm nổi bật
đó là mâu thuẫn của thời đại lúc này giữa các nước đế quốc và các nước thuộc
địa. Cuộc đấu tranh của các nước thuộc địa khơng phải cuộc đấu tranh riêng
rẽ mà cần phải có sự đoàn kết quốc tế giữa nhân dân các nước thuộc địa với
giai cấp vô sản trên thế giới. Và sau này Hồ Chí Minh khi tiếp cận được với
chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Người thấy được rằng con đường đúng đắn
nhất với cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản.
C. KẾT LUẬN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh được đúc kết và hình thành trong những điều kiện
lịch sử - xã hội rất phức tạp, hết sức khó khăn gian khổ xuyên suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người. Sau khi tìm hiểu về điều kiện lịch sử và xã
hội hình thành tư tưởng của Người, em cảm thấy khâm phục tài năng, nhân
cách, trí tuệ uyên bác, sự hy sinh cao cả của Hồ Chí Minh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta ngày nay là
một tài sản vô cùng quý báu không chỉ có giá trị trong thời kỳ kháng chiến
chống xâm lược, đấu tranh giành độc lập dân tộc khi xưa mà cho đến tận ngày
nay và mai sau nữa chúng ta vẫn phải nghiên cứu, học tập và làm theo tư
tưởng của Người trên mọi lĩnh vực. Minh chứng rõ nét nhất cho điều đó là
hiện nay Đảng và Nhà nước đang phát động phong trào tìm hiểu và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong tồn xã hội và được hưởng ứng nhiệt
tình từ khắp các tỉnh thành trên cả nước. Hồ Chí Minh cũng như tư tưởng của
Người mãi mãi là niềm tự hào của đất nước, non sông và dân tộc Việt Nam.

6

Hội đồng Trung ương, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.30


9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng
khơng chun ngành Mac- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb Chính trị quốc
gia.
2. Thuật ngữ “thuộc địa và phong kiến” là thuật ngữ Hồ Chí minh nêu
trong tác phầm Thưởng thức chính trị, được in trong sách Hồ Chí Minh Tồn
tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
4.

Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,

Nxb. Văn học, hà Nội, 1970.
10


5. Hội đồng Trung ương, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

11



×