Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua tác phẩm văn học ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.83 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM-ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA: GIÁO DỤC MẦM NON

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Giáo dục đạo đức cho trẻ Mẫu Giáo 5-6
tuổi thông qua các tác phẩm văn học dành cho thiếu
nhi

1


MỞ ĐẦU
1. Lí

do chọn đề tài

Hiện nay dưới tác động mạnh mẽ của thế giới công nghệ, thế giới của thời đại 4.0,
giá trị đạo đức truyền thống trong xã hội đang vận động và biến đổi. Bên cạnh những
giá trị mới gắn liền với xã hội hiện đại , nhiều giá trị đạo đức đã bị giảm sút và đang
có nguy cơ bị mai một. Trên thực tế đã rất nhiều dấu hiệu khủng hoảng đạo đức xâm
nhập vào đời sống gia đình, trường học, và nhất là lớp thanh thiếu niên. Đứng trước
những vấn đề suy thoái đạo đức trong xã hội, là một người làm giáo dục, chúng ta
phải thật sự quan tâm đến vần đề này sắt sao hơn nữa và đặc biệt là với vai trò một
giáo viên mầm non tương lai. Truyền thống lâu đời nay của cha ông chúng ta cũng rất
coi trọng việc giáo dục đạo đức, xem đây là việc làm hàng đâu trong quá trình giáo
dục. Như Bác Hồ đã từng dạy chúng ta: “Có đức mà khơng có tài là người vơ dụng,
có tài mà khơng có đức làm việc gì cũng khó.” và mục tiêu của giáo dục mới hiện nay
Điều 22- Luật giáo dục, 2005 là :giúp trẻ phát triển tồn diện về 5 mặt đó là Đức, trí,
thể, mỹ và lao động.

Phẩm chất đạo đức mang ba yếu tố cơ bản: những tình cảm đạo đức, những


thói quen hành vi đạo đức và những ý niệm đạo đức. Ý niệm đạo đức là những
ý niệm về tốt, xấu, về sự trung thực, sự khiêm tốn, tính cần cù, tình bạn, lịng
dũng cảm, tinh thần trách nhiệm… Để hình thành những phẩm chất đạo đức
này, văn học nghệ thuật là một phương tiện hữu hiệu. Việc giáo dục đạo đức cho
trẻ thông qua tác phẩm văn học là thông qua những tác phẩm văn học trong nước hay
nước ngồi, những câu chuyện cổ tích hấp dẫn, những câu chuyện thần thoại,... từ đó
hướng trẻ đến cái thiện, cái tốt, cái đẹp, hình thành lịng u con người, yêu quê
hương đất nước cũng được nảy sinh từ đó. Tác phẩm văn học là một hình tượng thơ ca
dễ ăn sâu vào lịng người và từ đó các hình ảnh, hình tượng trong thơ ca sẽ khắc sâu
vào tâm trí trẻ như các hình ảnh của Cơ Tấm, Thạch Sanh, Ơng Bụt, Cơ Tiên,... thơng
qua đó để giáo dục trẻ đạo đức. Qua vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, những hành

động tình cảm cao quý của con người thể hiện trong tác phẩm sẽ giáo dục trẻ
tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, ý thức giữ gìn bảo vệ cây xanh, có cách đối xử
hiền từ đối với mọi sinh vật trên trái đất, xác lập hành vi thái độ của con người


đối với các hiện tượng của đời sống. Về những vấn đề này, chúng ta có thể tìm
thấy rất nhiều trong những áng ca dao, những bào thơ, những đoạn văn, những
câu truyện dành cho trẻ. Thông qua mỗi câu chuyện trẻ s ẽ hiểu được thêm về thế
giới xung quanh như ở hiền sẽ gặp lành, hay làm điều xấu sẽ bị trừng phạt, từ những
câu chuyện đó làm cho trẻ có tinh thần tự thơi thúc bản thân cao, hình thành cho trẻ
những bài học, trải nghiệm, đặc biệt là những trẻ MGL đang chuẩn bị hành trang bước
vào lớp 1 là một điều hết sức cần thiết.
Song thực rạng giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua các tác phẩm văn học hiện nay
chưa được xem trọng hay chỉ dạy theo một cách qua loa, không chú trọng nhiều về
giáo dực đạo đức cho trẻ. Vì vậy em quyết định chọn đề tài: “Giáo dục đạo đức cho
trẻ thông quá các tác phẩm văn học.” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch


sử vấn đề nghiên cứu

Văn học trẻ em hay văn học thiếu nhi hiểu theo nghĩa hẹp thì nó là các tác phẩm
dành riêng cho các em thiếu nhi. Ở khắp nơi trên thế giới , trẻ em đang ngày càng
được quan tâm, văn học viết cho các em ngày càng được coi trọng. Và làn lượt các tác
phẩm ấy ra đời để phục vụ thông qua việc dùng lời văn, câu chuyện ấy để gió dục các
em thiếu nhi như: truyện cổ Adersen, truyện ngắn của L.Tônxtôi, truyện ngắn của
Pêrôn, truyện ngụ ngôn của La Phơng-ten,...đó là những tác phẩm nước ngồi ra đời
để phục vụ các em rất sớm. Với mỗi dân tộc văn học viết cho các em với những nét
văn hóa riêng, nhưng đều gặp nhau ở mục đích nhân văn. Mỗi tác phẩm có một nét
giáo dục riêng nhưng đều hướng tới cái tốt, cái đẹp, cái cao quý, lòng yêu thương
trong cuộc sống. Ở Việt Nam đầu thế kỉ XX bắt đầu xuất hiện các tác phẩm viết cho
thiếu nhi, nhưng phải sau Cách mạng tháng tám năm 1945 nền văn học mới được
chính thức hình thành. Và cũng với mục đích giáo dục cho các em, nền văn học đã
đang và dần hoàn thiện trên con đường chuyển mình của nền văn học nói chung. Vấn
đề giáo dục đạo đức cho trẻ nói chung đặc biệt là giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua
các tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi nói riêng được các nhà giáo dục và những
nhà cầm bút sáng tác cho các em đang đặc biệt quan tâm.
Trên thế giới đã có rất nhiều nhà giáo dục quan đến việc phát triển đạo đức cho trẻ
thông qua tác phẩm văn học như: N.Krupxkcaia, Uxôrô,... Ở Việt Nam việc giáo dục
đạo đức cho trẻ thông qua tác phẩm văn học cũng đang được chú trọng.


Nhấn mạnh đến việc giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua truyện, thơ, tác giả
Nguyễn Thu Thủy trong cuốn Giáo dục trẻ mẫu giáo thông qua truyện và thơ đã
khẳng định tầm quan trọng của văn học đối với giáo dục đạo đức cho trẻ: “Thông qua
các nhân vật trong tác phẩm văn học, trẻ nhận thức được khái niệm đạo đức, trẻ bộc
lộ tình cảm đạo đức đúng mức đối với các nhân vật, và lấy đó làm bài học cho việc cư
xử của mình”. Cũng như tác giả Nguyễn Hà Kim Giang trong giáo trình Phương
pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nhấn mạnh: “Có thể nói, những ấn

tượng trẻ thu được trong những năm tháng đầu tiên của cuộc đời qua tác phẩm văn
học rất sâu sắc, nhiều ấn tượng vẫn được lưu giữ trong tình cảm, ý thức suốt đời
người. Trẻ em rất nhạy cảm với nội dung giáo dục đạo đức trong tác phẩm văn học,...
Giáo dục đạo đức là một trong những mặt quan trọng của sự phát triển nhân cách.”.
cùng quan điểm này nhà nghiên cứu văn học thiếu nhi Lã Thị Bắc Lý trong chuyên
luận Văn học thiếu nhi với giáo dục mầm non có viết: “Bằng cách này hay cách
khác , văn học ln vì con người và hướng con người tới những tình cảm tốt đẹp. Văn
học thiếu nhi cũng vậy, các sáng tác cho các em luôn phản ánh những cái tốt, cái đẹp,
nhằm giáo dục lòng nhân ái cho các em,.... Giáo dục lòng nhân ái cho các em là cơ
sở hàng đầu giúp trẻ xác lập được các mối quan hệ tích cực với mơi trường xung
quanh và cuộc sơng để từ đó trẻ có thể phát triển nhân cách một cách tồn diện”.
Không chỉ các nhà nghiên cứu mà những tác giả trực tiếp cầm bút cũng rất quan
tâm, dành tâm huyết để cho văn học thiếu nhi trong giáo dục đạo đức cho các em
được phát triển tốt hơn. Trần Hoài Dương nhà văn suốt đời dành tâm huyết cho văn
học thiếu nhi tâm niệm: “Tôi chắt lọc từ cuộc sống ngổn ngang bề bộn những gì tinh
túy nhất, trong ngần nhất. Để viết cho các em, tôi đến với văn học thiếu nhi như một
thứ Đạo. Viết là để đem lại lòng yêu thương và vẻ đẹp tuyệt vời của văn chương cho
trẻ nhỏ. Tôi hi vọng những trang viết của tôi không chỉ dành riêng cho các em đọc mà
cho tất cả những ai muốn có những giây phút sống bình n trong thế giói trắng trong
của các đẹp và thánh thiện”. Và một số tác giả khác như Ngô Quân Miện,... cũng
cùng quan điểm như thế về tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho trẻ thơng
qua tác phẩm văn học.
3. Mục

đích nghiên cứu


Từ việc nghiên cứu thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua các tiết học
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học để hiểu thêm về vấn đề giáo dục đạo đức cho
trẻ ở các trường Mầm non, từ đó đề xuất một số biện pháp.


4. Đối

tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục đạo đức cho trẻ thông quá các tác phẩm văn học.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
4.2.1 Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Khi nghiên cứu về Thực trạng Giáo dục đạo đức cho trẻ thông quá các tác phẩm
văn học. Tôi muốn làm rõ giáo viên đã giáo dục đạo đức cho trẻ như thế nào thông
qua tác phẩm văn học. Nhận thức của giáo viên về vai trò, nội dung và phương pháp
Giáo dục đạo đức cho trẻ thông quá các tác phẩm văn học.
4.2.2 Phạm vi về địa bàn nghiên cứu
- Quan sát trên khoảng 200 trẻ
- Trường Mầm Non Hoa Mai. Thành Phố Huế
5. Nhiệm

vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu giáo dục đạo đức thông qua tác phẩm văn học của trường MN Hoa
Mai, Thành phố Huế.
- Nghiên cứu thực trạng dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học của trường MN
Hoa Mai, Thành phố Huế.
- Nghiên cứu, đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho trẻ thông
qua tác phẩm văn học .
6. Phương

pháp nghiên cứu


6.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp đọc sách và tài liệu


6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp khảo sát, điều tra
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
7. Giả

thuyết khoa học

Việc giáo dục đạo đức cho trẻ chưa đặc biệt được xem trọng tại các trường MN,
đặc biệt là giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi
chưa được quan tâm và hiểu rõ. Việc khai thác các thông tin ở trong tác phẩm văn học
để giáo dục đạo đức cho các em chưa được hợp lý.
8. Cấu

trúc của đề tài

Ngoài các phần Mở Bài, Kết Luận, Nội dung tiểu luận bao gồm 2 chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ MGL
THÔNG QUA TÁC PHẨM VĂN HỌC


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Lí luận Giáo dục đạo đức
1.1.1 Giáo dục
1.1.1.1 Khái niệm

Giáo dục là sự hình thành có mục đích và có tổ chức những sức mạnh về thể chất
và về tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu
thẩm mỹ cho con người.
1.1.1.2 Tầm quan trọng của giáo dục
Trong mỗi người chúng ta ai cũng hiểu được tầm quan trọng của giáo dục như thế
nào, hay câu cửa miệng của một người khi ai đó làm điều xấu là: “Khơng có giáo
dục”, hay khi ai đó ngoan ngỗn, lễ phép, biết điều là: “Con người có giáo dục có
khác”. Vậy ai trong chúng ta hiểu được tầm quan trọng của giáo dục?. Giáo dục khơng
chỉ là những bài giảng, những kì thi ở trường,... mà giáo dục còn là tất cả những gì
được truyền tải, tác động lên cách cư xử, cách tư duy của chúng ta trong cuộc sống.
Nếu có giáo dục cuộc sống của chúng ta sẽ ổn định hơn, ví dụ một người khơng được
giáo dục, khơng có học thức thì khó mà thành cơng trên con đường sự nghiệp.
1.1.2 Đạo đức
1.1.2.1 Khái niệm
Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện thái độ đáng giá quan hệ giữ lợi
ích của bản thân và lợi ích của người khác và của xã hội.
1.1.2.2 Nguồn gốc, chức năng của đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, xuất hiện ngay từ giai đoạn đầu tiên hi loài
người mới hình thành. Theo quan điểm Mác-Lênin: Đạo đức là một hình thái xã hội,
phát triển cùng với sự biến đổi và tồn tại của xã hội, các điều kiện sinh hoạt vật chất,
hoàn cảnh lịch sử-xã hội khác nhau. Song đạo đức khác so với các hình thức xã hội ở
chỗ, đạo đức điều khiển các hoạt động của con người trong các mối quan hệ xã hội,
giúp con người tự điều chỉnh, tự hồn thiện nhân cách của mình.


Đạo đức là một phạm trù lịch sử, khi điều kiện kinh tế nảy sinh ra nó thay đổi thì
tất yếu các quan hệ xã hội và quan hệ đạo đức cũng theo đó mà thay đổi. Đạo đức cá
nhân của con người được hình thành và phát triển dựa trên quá trình con người giao
lưu, tiếp xúc với những người xung quanh. Các hiểu biết của cá nhân về các yêu cầu
cả chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức trong cách ứng của giữa con người với

con người, giữa con người với môi trường xung quanh trong cuộc sống hàng ngày, các
hiểu biết của con người thông qua tri thức đó là các biểu hiện của đạo đức được biểu
hiện ra bên ngoài.
1.2 Giáo dục đạo đức
1.2.1 Khái niệm
Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục
nhân cách con người mới. Giáo dục đạo đức là quá trình lâu dài, được diễn ra ngay từ
khi còn thơ bé cho đến khi trưởng thành, thậm chí suốt đời.
Đối với trẻ thơ, giáo dục đạo đức là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có
kế hoạch nhằm trang bị cho trẻ những hiểu biết sơ đẳng về những yêu cầu của chuẩn
mực hành vi đạo đức trong các mối quan hệ ứng xử, rèn cho trẻ có tình cảm, hành vi
ứng xử đúng đắn với các mối quan hệ hàng ngày. Dựa trên cơ sở đó hình thành cho trẻ
những phẩm chất đạo đức, xứng với truyền thống của con người Việt Nam.
1.2.2 Ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức có ý nghĩa rất quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục con
người nới.
Việc giáo dục đạo đức không phải đến khi biết nhận thức mới được giáo dục và
hình thành, mà nó phải được hình thành ngay từ khi cịn nhỏ, khi trẻ đang ở lứa tuổi
nhà trẻ, mẫu giáo, giáo dục mẫu giáo là khâu đầu tiên trong sự hình thành những cơ sở
ban đầu của nhân cách con người tạo tiền đề cho sự phát triển về sau.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ tiếp thu những kinh
nhiệm đầu tiên, trẻ hình thành các hành vi, những quan hệ đầu tiên với người thân với
bạn bè, với các đồ vật trong thiên nhiên, trẻ tiếp nhận các chuẩn mực đạo đức xã hội
mới , có khả năng to lớn trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ thơng qua các hình thức


hoạt động khác nhau. Tạo cho trẻ tính tích cực và tính độc lập, sự quan tâm của trẻ
đến các quan hệ xã hội.
Những ấn tượng đầu tiên của thời thơ ấu được lưu lại và ảnh hương về sau đối với
trẻ, nếu không giáo dục trẻ ngày từ đầu, thì việc giáo dục sau này rất khó khăn và mất

thời gian nhiều hơn so với lứa tuổi trước. Giáo dục đúng đắn sẽ tích lũy cho trẻ những
kinh nghiệm tích cực, hình thành và phát triển các kĩ xảo và những thói quen hành vi
tốt, làm cho trẻ hình thành những phẩm chất đạo đức tốt nơi trẻ.
1.2.3 Ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức với trẻ mẫu giáo
Đạo đức khơng phải sinh ra đã có sẵn mà đó là cả một q trình được hình thành
và phát triển của sự giáo dục và tự giáo dục. Bác hồ cũng đã từng khẳng định:
“Hiền dữ đâu phải tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
Giáo dục đạo đức không phải ngày một ngày hai, hay là để trẻ lớn, ý thức rồi mới
giáo dục mà đó là một q trình lâu dài, thậm chí suốt cả đời. Vì vậy giáo dục đạo đức
cho trẻ là phải giáo dục ngay từ ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo phải coi đây là vấn đề
trọng tâm
Ở lứa tuổi mẫu giáo, được sự hướng dẫn của người lớn, trẻ tiếp nhận những kinh
nghiệm đầu tiên về hành vi trong quan hệ với người thân, bạn bè, với các đồ vật và
thiên nhiên, lĩnh hội các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội mới.
1.2.4 Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo
1.2.4.1 Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo
Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi
này là hình thành ở trẻ tình cảm đạo đức, kĩ xảo và thói quen hành vi đạo đức trong sự
thống nhất với những biểu tượng đạo đức và động cơ hành vi.
Đối với trẻ ở những năm đầu tiên, việc hình thành những tình cảm đạo đức có vai
trị quan trọng đầu tiên đối với trẻ trong giai đoạn này. Điều đó phù hợp với sự xuất
hiện ở trẻ các nhu cầu xã hội đầu tiên ở trẻ như nhu cầu giao tiếp. Lòng tốt là cơ sở để
hình thành nơi trẻ các tình cảm đạo đức khác.


Đối với trẻ sự chân thành trong tình cảm phải được thống nhất qua hành động của
trẻ, ở các độ tuổi khác nhau, tình cảm đạo đức của trẻ cũng khác nhau để phù hợp với
tâm sinh lí theo độ tuổi của trẻ.
Quá trình đức dục quan trọng hàng đầu được hình thành các kĩ xảo và thói quen

cho trẻ mẫu giáo. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo là khả năng bắt chước, muốn được làm
người lớn, nhưng do ước muốn và khả năng của trẻ tỉ lệ nghịch với nhau nên trẻ thiếu
tính tự giác trong hành vi, chưa điều khiển được hành động của mình, chưa hiểu được
nội dung đạo đức của hành vi, từ đó ở trẻ có thể gây ra những hành động xấu mà trẻ
chưa ý thức được hành động đó. Vì vậy, người lớn phải hình thành ở trẻ những kỉ xảo
và thói quen hành vi đạo đức khác nhau thể hiện thông qua sự kính trọng với người
lớn như: chào hỏi, nghe lời và cảm ơn, có thái độ tốt với bạn bè như: nhường nhịn,
chia sẻ, quan tâm, ý thức bảo vệ các vật dụng, sách vở, đồ dùng phục vụ cho trẻ, và ý
thức hành vi văn hóa ở những nơi cơng cộng như: khơng nói to, la hét chốn đơng
người, không làm ảnh hưởng tới người khác,...
Ở mỗi độ tuổi sẽ đồi hỏi những kĩ xảo và hành vi về thói quen đạo đức khác nhau
Giáo viên là người có nhiệm vụ phát triển các khái niệm đạo đức sơ đảng ở trẻ,
trên cơ sở đó hình thành các động cơ hành vi. Cơ phải giải thích cho trẻ hiểu rõ lợi
ích, sự cơng bằng và tính chất hành vi mà cô yêu cầu trẻ thực hiện, cô nên cho trẻ các
dẫn chứng cụ thể để hướng các em tới các hành động đúng đắn nhất.
Các nhiệm vụ giáo dục tình cảm đạo đức, hình thành các khái niệm đạo đức, thói
quen đạo đức và động cơ hành vi được thực hiện thống nhất trong quá trình giáo dục
đạo đức cho trẻ mẫu giáo.
1.2.4.2 Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo
Giáo dục lòng nhân ái và những nhân tố sơ đẳng của lịng u nước
Sống trong tình thương được mọi người đùm bọc và yêu thương và trẻ yêu mến
mọi người là hạnh phúc của trẻ thơ. Giáo dục tình thương cũng đồng thời đáp ứng một
nhu cầu sống của trẻ. Mà đạo đức cũng xuất phát từ tình thương, vì vậy giáo tình
thương là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình giáo dục đạo đức cho
trẻ, bao gồm các mặt giáo dục về


Giáo dục tình yêu Gia đình: Trẻ phải hiểu được mối tình ruột thịt trong gia đình,
vì vậy mọi người trong gia đình trẻ phải sống hịa thuận và u thương lẫn nhau. Vì
vậy nên dạy trẻ khơng quấy rối, vòi vĩnh trong lúc ba mẹ làm việc, anh chị học hành,

muốn để trẻ hiểu điều này phải giáo dục cho trẻ biết nhưng cơng việc đó là cơng việc
có ích cho gia đình và xã hội.
Giáo dục tình yêu và thái độ quan tâm đến mọi người: Trẻ yêu mến và quý trọng
người lớn, bạn bè, biết giúp đỡ những người già yếu, biết yêu mến, nhường nhịn, chia
sẻ, quan tâm, giúp đỡ và yêu mến mọi người
Giáo dục tình yêu thiên nhiên: dạy trẻ biết yêu thiên nhiên qua các giờ học về
động thực vật, các giờ giã ngoại,... trẻ yêu cây cỏ, chim muông, súc vật,... trẻ ý thức
bảo vệ thiên nhiên và muôn thú
Cần giáo dục những nhân tố sơ đẳng, làm nề tảng ban đầu trong việc giáo dục
lòng yêu nước sau này của trẻ. Giáo dục trẻ yêu mến bác hồ, yêu mến lá cờ tổ quốc,
quan tâm đến các ngày lễ hội quan trọng ở trong nước hoặc địa phương, lịch sử của
đất nước, địa phương, nhưng nên chú ý đến đặc điểm tâm sinh lí của trẻ dùng từ ngữ
dễ hiểu để trẻ hiểu, tránh làm trẻ cảm thấy chán. Sẽ phản lại tác dụng giáo dục trẻ.
Giáo dục quan hệ bạn bè: xây dựng lớp đoàn kết thân ái
Đến lứa tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu chơi với nhau, nên giáo dục quan hệ bạn bè ở
trẻ lứa tuổi này hết sức quan trọng, là một trong những nội dung đòi hỏi giáo viên phải
nắm vững theo từng độ tuổi
Đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, trẻ biết tự tập hợp và tự đề xuất trò chơi, trẻ chơi và
quanh quẩn bên bạn bè nhiều hơn, trẻ ảnh hưởng lẫn nhau trong tính cách và hành vi
ứng xử. Cần dạy trẻ biết xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, những người bạn tốt,
trẻ biết cư xử, quan tâm, giúp đỡ và học tập lẫn nhau.
Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của trẻ chịu ảnh hưởng của quá trình
trưởng thành về quan hệ bạn bè của trẻ đặc biệt ở lớp nhỡ và lớp lớn. Trẻ chịu ảnh
hưởng từ bạn bè, dễ a dua theo số đông để điều chỉnh hành vi cư xử của mình, vì vậy
cần giáo dục trẻ biết gắn bó với lớp, quan tâm đến hoạt động tập thể, biết góp phần
trong việc phát triển nhóm lớp là một nhiệm vụ khơng thể thiếu trong giáo dục đạo
đức cho trẻ.


Giáo dục những quy tắc lễ phép và văn hóa, những tính tốt

Giáo dục cho trẻ những quy tắc như chào hỏi, thưa gửi, xin và cảm ơn,... những
quy tắc nơi công cộng như giữa trật tự, không bứt hoa, làm hỏng đồ,... cách ứng xử
với mọi người như giúp đỡ, không trêu ghẹo người tàn tật,... Đối với trẻ mẫu giáo cần
để ý để tuyên dương những tính tốt và khun răn, uốn nắn nếu trẻ có những tính xấu.
Một số tính tốt cần giáo dục cho trẻ là:
Tính tự lập: dạy trẻ tự giác, tự làm lấy, không ỷ lại hay nhõng nhẽo
Tính mạnh dạn: mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người, không sợ tiêm chủng,
uống thuốc, khi được yêu cầu múa hát, trẻ không e dè, ngại ngùng, hay khơng sợ
nước, sợ ma,...
Tính ngăn nắp: ăn mang, quần áo, đầu tóc gọn gàng, biết sắp xếp đồ chơi đúng
nơi sau khi chơi, khơng vứt lung tung
Tính kỉ luật: biết nghe lời, biết tuân thủ những quy tắc chung, biết tự kiềm chế,...
Giáo dục những quy tắc hành vi, những nét tính cách phải phù hợp với đặc điểm
lứa tuổi trẻ, không làm cho trẻ mất đi sự ngây thơ, hồn nhiên của lứa tuổi. Tạo cho trẻ
môi trường sống lành mạnh, để trẻ phát triển tốt nhất, đúng với tính chất của từng độ
tuổi.
1.2.4.3 Phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo
Phương pháp giải thích: Giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của các hành động cụ thể và
quy tắc hành vi, nhận thức được việc phải hoàn thành chúng trong đời sống tập thể
hàng ngày. Cần tạo cho trẻ động cơ để trẻ hành động như cho trẻ thấy lợi ích sự cần
thiết của hành động đó, tổ chức để trẻ trao đổi nhằm nâng cao cho trẻ các kĩ năng lĩnh
hội các khái niệm như hiền lành, tốt bụng,...
Phương pháp nêu gương: đây được coi là phương pháp được sử dụng nhiều nhất
ở lứa tuổi mẫu giáo, tính dịu dàng của cơ giáo, hay sự quan tâm của bạn bè với nhau
để lại cho trẻ ấn tượng khá sâu sắc, đặc biệt trẻ nhìn qua những tấm gương của các
bạn làm việc tốt được khen ngợi, giúp trẻ hứng thú, hào hứng mong thực hiện để nhận
được lời khen,... và các tấm gương ở trong các tác phẩm văn học cũng đáng để trẻ học
hỏi.



Ngồi ra cịn sử dụng ở trẻ các phương pháp hỗ trợ như khen ngợi và chê trách,
nhằm giáo dục trẻ biết hành vi nào là tốt hay xâu, nhưng giáo viên cũng nên khéo léo
trong phương pháp này, khi khen ngợi và chê trách giáo viên cần hiểu rõ động cơ
hành vi của trẻ, nhằm không làm ảnh hưởng xấu tới tâm lý trẻ. Phương pháp nhận xét
và phê bình nhận xét việc làm của trẻ để trẻ hiểu rõ hành vi nào là tốt hay xâu, để phê
bình đúng lúc, cơ giáo nên phê bình nếu đó là một hành vi khó sữa chữa để trẻ hiểu.
Phương pháp cưỡng bức, đây là phương pháp giáo dục được áp dụng khi các phương
pháp giáo dục khác không đem lại kết quả, nhưng cơ giáo nên giải thích để trẻ hiểu tại
sao trẻ bị trừng phạt, cơ có thể trừng phạt như cấm không cho trẻ chơi, nếu trẻ hay
trêu chọc, phá bạn,.. không nên trừng phạt trẻ về thể xác như bắt nhịn ăn, dọa nạt,
đánh đập,…
1.3 Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 5-6 tuổi thơng qua hoạt động làm quen tác
phẩm văn học
1.3.1 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi
Vào tuổi mẫu giáo nhiều hình thức hoạt động phong phú đã xuất hiện như: vui
chơi, học tập, sinh hoạt, lao động,... trong đó hoạt động học tập ở trường mẫu giáo
được tổ chức một cách có hệ thống, nhằm hướng tới phát triển tồn diện cho trẻ. Vì
vậy, việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đã được các nhà tâm lí và sư phạm
quan tâm nghiên cứu. Đặc điểm tâm lý với những xúc cảm tình cảm lối tư duy cụ
thể... của trẻ chính là cơ sở của việc tiếp thu văn học ở lứa tuổi này.
Ở lứa tuổi mẫu giáo trẻ đã phát triển hơn nhiều so với lứa tuổi trước, trẻ đã làm
chủ được khá nhiều hành vi thuộc các lĩnh vực sinh hoạt, vui chơi, quan hệ với mọi
người, nhằm xây dựng cho trẻ những hiểu biết tối thiểu về mối quan hệ giữa con
người với nhau. Do vậy khả năng làm chủ hành vi ngày càng được phát triển, ý thức
trong tất cả các hoạt động đã được xuất hiện để điều chỉnh, điều khiển kiểm soát các
thao tác hành vi kể cả những hành vi, thói quen. Tất cả sự phát triển tâm lí của trẻ ở
lứa tuổi này phụ thuộc rất nhiều vào những hướng dẫn của cô giáo và gia đình và
những người xung quanh mà trẻ tiếp xúc, từ đó tình cảm của trẻ phát triển mạnh
nhưng dễ dao động, dễ thất thường trong tình hướng.



Một lời nói sâu sắc, một câu chuyện kể hấp dẫn, một bài thơ trong sáng và ngộ
nghĩnh đó có lẽ là những thứ in sâu mãi trong tâm trí trẻ là tiền đề cho sự hình thành
nhân cách, hình thành những tình cảm đạo đức cho trẻ về sau, vì trẻ ở độ tuổi này rất
ham hiểu biết, trẻ khao khát khám phá, tìm hiểu các hiện tượng tự nhiên, các hiện
tượng về đời sống con người, và biết bao lĩnh vực nhận thức khác. Nói chung trẻ có
nhu cầu giao tiếp với cô giáo và đặc biệt là bạn cùng lớp
Qua những câu chuyện, bài thơ mà người lớn kể trẻ biết phân biệt được các chuẩn
mực xã hội, biết như thế nào là đúng, là sai, trẻ bắt chước và làm theo những hành vi
đó như chăm học, lễ phép,...từ đó trẻ biết được bổn phận và trách nhiệm của mình
trong gia đình và trong nhóm lớp.


1.3.2 Đặc điểm nhận thức
Ở lứa tuổi này khả năng nhận thức của trẻ tiếp tục phát triển như: tri giác, trí nhớ,
tưởng tượng,... nhưng phát triển ở mức độ cao hơn. Các loại trí nhớ phát triển một
cách máy móc và có ý nghĩa hơn như trí nhớ ngắn hạn, dài hạn,... đều được phát triển.
Ngồi ra trẻ cịn có khả năng đưa ra nhận xét về câu chuyện, bài thơ, ca dao, đồng dao
mà trẻ được nghe kể, từ đó trẻ có thể nhớ và kể lại một cách sáng tạo hơn
Tri nhớ của trẻ MGL là trí nhớ trực quan, chủ yếu là trực quan hình tượng. Từ
những âm thanh, nhịp điệu, ngôn ngữ,... trong những câu chuyện mà trẻ được nghe trẻ
có thể ghi nhớ nội dung và tình tiết của câu chuyện, bài thơ, cách các nhân vật đối
thoại, từ đó trẻ có thể nhập vai và diễn lại một cách hóm hỉnh, ngộ nghĩnh nhưng trình
tự sắp xếp câu chuyện có logic và đầy chất sáng tạo, nhưng không hề làm nội dung
của câu chuyện bị thay đổi, hay bị bóp méo.
Người giáo viên phải biết là thế nào để để cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
để phát triển nhận thức và vốn tích lũy ban đầu mà trẻ có, vì trẻ đã có những hiểu biết
nhất định về các sự vật, các hiện tượng tự nhiên về cuộc sống, về con người và mối
quan hệ giũa con người với nhau, trẻ có khả năng quan sát, nghe ngóng nói năng kể
chuyện, ca hát, vẽ,...

1.3.3 Đặc điểm phát triển tư duy
Nhờ sự phát triển của lời nói mà kích thích tư duy của trẻ phát triển. Qua việc cho
trẻ làm quen với tác phẩm văn học tư duy của trẻ chuyển từ tư duy trực quan hình
tượng sang tư duy trực quan hành động, bước chuyển biến này còn dựa vào khả năng
tập trung, chú ý của trẻ thông qua các nhân vật trong các tác phẩm văn học thiếu nhi.
Đó là tiền đề cho trẻ khả năng phản ánh nhân vật trong tác phẩm, giúp trẻ biết tốt xấu
để thể hiện hành vi ứng xử của mình, trẻ em ở lứa tuổi MGL có khả năng hiểu một
cách rõ ràng và nhanh chóng các sự vật hiện tượng. Người giáo viên phải biết cách
làm sao cho trẻ nhớ được nội dung, tình tiết của câu chuyện trong tác phẩm giúp trẻ
hình thành các chuẩn mực hành vi đạo đức thơng qua các tác phẩm. Đặc biệt giáo viên
cũng nên dạy trẻ biết thơng qua các tác phẩm đó để thể hiện tính sáng tạo của mình để
trẻ thể hiện câu chuyện đó theo ý tưởng riêng của trẻ.
1.4 Tác phẩm văn học đối với giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi


1.4.1 Ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua
tác phẩm văn học
Giáo dục đạo đức cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng ở trường mầm
non, đặc biệt ở lứa tuổi mẫu giáo 5-6 tuổi, lứa tuổi chuẩn bị hành trang cho trẻ vào lớp
1, là một phần không thể thiếu trong giáo dục nhân cách con người mới, đó là một q
trình rèn luyện có mục đích nhân cách trẻ, một bộ phận nền tảng của giáo dục . Những
quan điểm giáo dục đạo đức truyền thống ấy đã đưa vào tác phẩm văn học và đang
được trẻ nhỏ rất yêu thích, nên kể cho trẻ nghe những câu chuyện có giá trị đích thực,
chứa đựng những triết lí đạo đức cao cả, phù hợp với lứa tuổi. Qua cách kể chuyện
của cô, cô biết khơi sáng các đẹp trong tác phẩm, bởi vì cái đẹp khi nào cũng có mối
liên hệ với đạo đức, vì vậy giáo dục đạo đức có mối liên hệ chặt chẽ với giáo dục
thẩm mỹ.
Giáo dục cho trẻ tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước qua những áng
văn, những vần thơ, những câu chuyện, trong ca dao,...trẻ biết cách giữ gìn môi
trường xanh, cách đối xử hiền từ với nhân vật, để từ đó xác lập hành vi thái độc của

con người đối với các hiện tượng của đời sống. Với những áng văn tình yêu thiên
nhiên, quê hương, đất nước xuất phát rất bình dị, dân dạ mà dễ hiểu, được phát xuất từ
những đồng lúa mênh mông, những con đường làng quê, khóm tre,... mà chỉ khi nghe
về ta đã cảm thấy bồi hồi, thương nhớ:
“Con cò bay lả bay la
Bay từ ruộng lúa bay ra cánh đồng”
Hay trên những con đường quanh co nơi thơn q bình dị
“Đường vô xứ nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Hay dạy trẻ yêu mái nhà, cái gần gũi mà thân thuộc, mang đậm chất hồn quê, khơi
gợi trẻ có ấn tượng sâu sắc với ngơi nhà truyền dân tộc, để trẻ ý thức về truyền thống
thơ ca dân gian.
“Chẳng đâu bằng chính nhà em
Có đàn chim sẻ bên thềm líu lo


Có nàng gà mái hoa mơ
Cục ta cục tác khi vừa đẻ xong”
(Em yêu nhà em- Đoàn Thị Lam Luyến)
Những tác phẩm viết về đề tài gia đình, đã giáo dục trẻ tình yêu con người, yêu
nhân dân, tức là yêu những người sống quanh ta, qua các tác phẩm như truyện “Tích
Chu” bài thơ “Mẹ ốm”, “Làm anh”,... giáo dục trẻ tình u thắm thiết đối với ơng bà,
với cha mẹ và với anh chị em. Câu chuyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” “Đôi bạn tốt”
đã giáo dục trẻ lịng nhân hậu đối với đồng loại, tình thân ái và tinh thần đoàn kết.
Các tác phẩm dân gian nhìn nhận từ góc độ đạo đức, vì vậy xung đột của truyện
chủ yếu là xung đột thuộc phạm trù đạo đức, sự đối lập thiện ác, cái tốt cái xâu, trung
thục xảo quyệt, ích kỉ vị tha,... truyện cổ tích đi vào sâu cái thiện và cái ác theo cách
đơn giản và dễ hiểu đối với trẻ. Như cô bé mồ côi tốt bụng và siêng năng, mụ phù
thủy độc ác và xấu xí, cái thiện ln chiến thắng và ln được đáp đền, cịn cái xấu bị
diệt trừ và phải trả giá, đem cái thiện chống trọi lại với cái ác là điểm đặc biệt làm ý

nghĩa giáo dục của truyện cổ tích thêm phần mới mẻ hơn. Ý niệm ln đi đơi với
truyện cổ tích là “chính nghĩa thắng gian tà” đây là nét đặc trưng làm nó nổi bật và
được trẻ tiếp đón một cách nồng hậu. Vì vậy, truyện cổ tích có ý nghĩa lớn đới với
việc giáo dục tình cảm đạo đức, có ý nghĩa cao cả trong ý thức xã hội của trẻ.
Vì vậy văn học nghệ thuật và việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có ý
nghĩa vơ cùng to lớn trong việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng phẩm chất, tâm hồn, phát
triển nhân cách ở trẻ
1.4.2 Nguyên tắc lựa chọn tác phẩm văn học cho trẻ
Tác phẩm văn học là một hiện tượng phong phú và phức tạp về bản chất và đặc
trưng, nhưng không phải vì lí do đó mà ta khơng lựa chọn để trở thành nội dung và
phương tiện giáo dục trẻ em, mà ta phải khai thác một cách triệt để, để nó phát huy tác
dụng tốt nhất.
Vì thế để lựa chọn cho trẻ được những tác phẩm khai sáng được con người trẻ ta
phải thật sự b biết trẻ và hiểu trẻ. Trẻ có thể chia sẻ với chúng ta trong thế giới ta đang


sống và đồng thời trẻ lại ở một thế giới khác. Vì vậy giáo dục trẻ là bổn phận của
chúng ta, nên việc lựa chọn tác phẩm văn học cho trẻ cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Tác phẩm văn học dành cho trẻ phải đáp ứng tiêu chuẩn phân tích đánh giá tác
phẩm văn học nói chung, phải là tác phẩm văn học đích thực, phải xuất phát từ
những tác phẩm văn học có giá trị cả về nội dung và hình thức nghệ thuật, phù hợp
với chủ điểm, mục đích chứ khơng phải xuất phát từ mục đích chủ điểm hay những
bài văn khơng có nội dung giá trị văn học.
Trước hết là tác phẩm văn học có sự thống nhất hài hịa giữa nội dung và hình
thức nghệ thuật: Tác phẩm ấy phải chứa đựng sự thống nhất nội tại giữa thế giới
người lớn và thế giới trẻ em. Mỗi người trong chúng ta đều nhận thấy kỉ niệm về mẹ
và bà của em bé trong tác phẩm “Mẹ ốm” của Trần Đăng Khoa, mối tình bạn bè trong
truyện đồng thoại “Đôi bạn tốt”, sự ứng xử mang tính người trong “Bác gấu đen và
hai chú thỏ”, “chú dê đen”. nên thế giới người lớn và thế giới trẻ tồn tại trong tác
phẩm để làm sáng tỏ lẫn nhau. Trong cách suy nghĩ, người lớn nào mà chẳng vương

vấn kỉ niệm hay xót xa về qua khứ trong văn học thiếu nhi, ngược lại, trẻ em nào cũng
mong ước được lớn, và suy nghĩ những điều quan trọng trong tương lai. Trong tác
phẩm văn học cho người lớn có miêu tả thế giới trẻ thơ của Victo Huygo như “Những
người khốn khổ”, hay “Cố Hương” của Lỗ Tấn, hoặc “Thế giới hai người mà không
bớt cô đơn” của Sơlơkhốp. Trong tác phẩm người lớn có trẻ em và trong tác phẩm trẻ
chứa đựng bao nối tiếc của người lớn.
Vì vậy tác phẩm phải đáp ứng được nhu cầu nhận thức khám phá cuộc sống theo
tinh thần nhân văn, nhân đạo. Trong nó chứa đựng tình u con người trân trọng và ca
ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người, bênh vực, chở che những mảnh đời yếu
đuối, đơn độc,... Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống, được biểu thị trong bức
tranh sáng tạo hiện thực của người viết làm nó trở nên trong sáng và thánh thiện tạo
sự độc đáo, mới lạ.
Đảm bảo tính vừa sức của tác phẩm đối với trẻ , nó phải phù hợp với tâm lí lứa
tuổi, tâm lí sư phạm. Văn học cho trẻ cần tươi sáng, thể hiện cái đẹp của thiên nhiên
cuộc sống và tâm hồn con người. Nó phải chứa chất những điều tốt lành, tích cực
trong cuộc sống. Khi lựa chọn cho trẻ nên vừa phải trong cái buồn thương, yếu hèn,
thấp kém. Chủ yếu tìm cách nâng cao niềm vui và sự hứng thú với hình tượng văn học


nghệ thuật cho các em. Nên lựa chọn tác phẩm kết cấu đơn giản, có thể theo trục thời
gian, theo hai tuyến nhân vật đối lập, ngôn ngữ dễ hiểu, các nhân vật có sự hành động
để hợp với tư duy của trẻ. Như vậy “Vừa sức” là tác phẩm có tính chất, mức độ, nội
dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện phù hợp với đặc điểm tâm lí nhận thức của trẻ.
Tránh duy nghĩ “vừa tầm” làm giảm khả năng tư duy, sáng tạo hứng thú vốn có ở trẻ.
Khối lượng và dung lượng không nên quá dài.
Đa dạng về thể loại với các đề tài phong phú để trẻ nhận ra đước sự phong phú
độc đáo của phong cách, vẻ đẹp riêng của mỗi thể loại văn học. Truyện kể: thần thoại,
truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngơn, đồng thoại,...; Thơ ca: thơ lục bát, tự do, đồng dao,...
khơng thể có một chủ đề nào q khó mà không dẫn dắt trẻ tới như nhà thơ Tố Hữu đã
nói: “Chúng ta có thể và cần đem đến cho trẻ những tư tưởng lớn, tình cảm lớn, chân

lí lớn. Vấn đề là nói thế nào cho trẻ hứng thú”. vì vậy lựa chọn tác phẩm cho trẻ phải
có giá trị, có ý nghĩa giáo dục cao. Cho nên sự lựa chọn đúng đắn tác phẩm văn học
nghệ thuật có giá trị và sử dụng chúng với mục đích giáo dục là vấn đề đặt ra đối với
giáo viên mầm non.
Cần thống nhất chủ đề và hình tượng, tránh sự chồng chéo gây ra những biểu
tượng không rõ ràng đối với các em về những bài đã được nghe nên việc chuẩn bị kĩ
trước khi đến lớp là điều cần thiết
1.4.3 Các nguyên tắc tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học
Với mục đích giáo dục trẻ qua thẩm mỹ nên khơng phải cái gì ta cũng có thể dạy
trẻ mà phải hiểu rõ ràng về mục đích và các yêu cầu khi giáo dục trẻ phát triển toàn
diện. Khi giáo dục trẻ cũng cần tuân thủ các quy định hướng hướng tổ chức dạy học,
nguyên tắc dạy học hay còn gọi là nguyên tắc tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học. Sau đây là những nguyên tắc đặc thù của tổ chức các hoạt động làm quen với
tác phẩm văn học ở trường MN
Phát huy tính tích cực sáng tạo cảu chủ thể trẻ em trong hoạt động làm quen với
tác phẩm văn học. Phát huy chủ thể trẻ em là nguyên tắc cơ bản chủ yếu quyết định
hiệu quả dạy học, nguyên tắc này có liên kết với các nguyên tắc khác nhưng là đầu
mối quy tụ, là thước đo hiệu lực thực sự của các nguyên tắc khác cũng như bất kì


phương pháp nào được áp dụng trong quá trình dạy học. Khơng có sự vận thân của
chủ thể thì mọi lời mời gọi của cô giáo đều trở nên vô nghĩa và áp đặt. Chỉ khi những
tiềm năng của trẻ có, được phát huy thực sự thì những kiến thức và thể nghiệm mình
trong tác phẩm văn học mới hứng thú trẻ, và quá trình tiếp thu và truyền thụ kiến thức
mới xảy ra, và các kĩ năng, kĩ xảo cũng từng bước hồn thành. Vì vậy địi hỏi ở các
em tinh thần chủ động và sáng tạo cao. Người giáo viên nắm một vai trò quan trọng
trong nguyên tắc này, các cô không nên chỉ cho trẻ tham giá mà phải làm sao để trẻ
tiếp nhận toàn diện và thích hợp từ nhận thức trí tuệ đến cảm xúc và rung động tâm
hồn, từ đó biết đến nhận xét, đánh gia và cao hơn là biết cái hay, cái đẹp của tác phẩm

Đảm bảo tính vừa sức phù hợp ở đây không phải là tạo ra sự phù hợp với khả
năng hiện có của trẻ mà hướng tới khả năng có thể đạt được bằng nỗ lực đánh thức tài
năng của trẻ nhờ các phương pháp trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học. Để tạo ra sức cơ giáo cần chú ý đến tính phức tạp, dung lượng của tác phẩm phù
hợp với độ tuổi, với mục tiêu, yêu cần các phương pháp biện pháp thích hợp. Khơi
dậy hứng thú, làm ham muốn khám phá. Để làm được điều này cơ giáo trong q trình
dạy học, không chỉ đưa ra các nhiệm vụ dễ dàng quen thuộc mà phải đưa ra những
nhiệm vụ đòi hỏi sự nộ lực trí tuệ. Sự chỉ dẫn của cơ giáo là yếu tố quan trọng để thúc
đẩy sáng tạo ở vùng phát triển gần nhất của mình, giúp việc đến trường của trẻ mang
đầy đủ ý nghĩa của nó
Đảm bảo tính sưu phạm, hệ thống trong kế hoạch tổ chức là đòi hỏi phải lựa chọn
nội dung theo chương trình phát triển các mặt nhân cách gắn với các nhiệm vụ giáo
dục được xác định. Phải lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với nội dung các đối
tượng, đi từ đơn giản đến phức tạp. Giáo dục đúng đắn là đánh thức được năng lực trẻ
có, giúp trẻ phát triển theo định hướng sư phạm. Phải chăng cần phát triển ở trẻ trực
cảm văn học thông qua việc hình thanh ngày càng nhiều và có chất lượng hơn những
biểu tượng và mối liên hệ giữa các biểu tượng đó. Trẻ càng phát triển thì càng có khả
năng kết hợp mạch lạc, hệ thống hơn trong một chỉnh thể. Việc cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học giúp trẻ hệ thống hóa các tri thức về văn học, hình thành ở trẻ
những phẩm chất nhân cách bền vững.
Phải đảm bảo sự gợi cảm, hứng thú khi nhắc đến văn học người ta nghĩ ngay tới
tính chất văn, tính nghệ thuật ngơn từ, bản chất thẩm mỹ của nó, đồng thời người ta


cũng quan tâm đến nền tảng nghệ thuật với giáo dục, sư phạm. Tổ chức cho trẻ làm
quen tác phẩm hướng tới trọng tâm là giáo dục thẩm mỹ, giáo dục nghệ thuật, chính là
hình thành ở trẻ sự cảm thụ văn học, khả năng hoạt động văn hộc nghệ thuật trong yêu
câu xác định chất lượng các hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, có một thứ
khơng thể bỏ qua đó là chất lượng thẩm mỹ. Vì vậy địi hỏi ở giáo viên phải có sự
nhạy cảm thẩm mỹ, trình độ cảm thụ văn học mới có thể tổ chức tốt hoạt động này.

Chính là ngơn ngữ trong tác phẩm phải mang màu sắc xúc cảm cá nhân, vừa có tính
cách trình bày, khơi gợi, kích thích sự đồng cảm của các em, để ngơn ngữ có tính chất
lượng thẩm mỹ cao cần chú ý đến tính nhạc và tính họa, cần chú ý đúng mức sự giàu
nhạc điệu, màu sắc hình ảnh của tiếng việt. Để làm tốt các hoạt động này người giáo
viên cần: tự trau dồi vốn ngôn ngữ phong phú, đáp ứng được nhu cầu của hoạt động.
Nắm sẵn nội dung từng hoạt động, nắm vững tâm lí đối tượng, có ngơn ngữ biểu cảm,
gợi cảm thẩm mỹ khi tiếp xúc với trẻ. Giữ vững và luyện giọng nói, giọng đọc giàu
sức truyền cảm, biết kết hợp đúng mức ngôn từ và ngữ điệu. Ngoài những yêu cầu
trên cần chú ý tới trang phục của cô giáo, môi trường gắn với tác phẩm các vật
dụng,... Các đồ chơi dạy học tranh, ảnh,.. cũng cần có tính gợi cảm, tránh khơ khan,
qua qt đơn điệu.
Hướng trẻ vào cảm nhận giá trị nội dung, hình thức của tác phẩm văn học giá trị
của những tác phẩm văn học được thống nhất qua sự hài hòa giữa nội dung và hình
thức tác phẩm. Trong khi cho trẻ tác tiếp xúc với tác phẩm văn học việc để trẻ có ấn
tượng trực tiếp từ tác phẩm văn học là vơ cùng quan trọng. Vì tư tưởng, nội dung tác
phẩm sẽ được tiếp thu từ hình tượng nghệ thuật giàu sức biểu cảm dưới sự dẫn dắt của
cô giáo. Tuy chưa hiểu biết về ngôn ngữ ở lúa tuổi này, nhưng ở trẻ xuất hiện sự chú
ý, say mê với cốt truyện và các hình tượng của các tác phẩm tự sự, với âm thanh, nhịp
điệu của thơ ca.
Tích hợp nội dung hướng vào mục tiêu giáo dục, đặc biệt văn học và ngôn ngữ
trong tổ chức hoạt động làm quen TPVH xuất phát từ cái nhìn nhận thế giới tự nhiên,
xã hội con người là một thể thống nhất. Lại do sự phát triển của trẻ dưới 6 tuổi chưa
tách biệt thành các chức năng riêng biệt, nên trong q trình dạy học khơng thể thực
hiện các tác động riêng lẻ, tác rời các nội dung cũng như của các mặt giáo dục. Tức là
làm sao đẻ nó thể hiện được mối liên hệ với các hoạt động văn hóa khác. Hoạt động
cho trẻ làm quen TPVH không tồn tại một cách độc lập, riêng lẻ mà đan xen, liên kết


với các hoạt động khác tới một chủ đề, chủ điểm được xác định, nhằm hình thành
những nhân cách cho trẻ.

Thống nhất các nguyên tắc, phối hợp các phương pháp, biện pháp nghĩa là các
nguyên tắc phải được quán triệt trong những hành động, những thao tác dạy học cụ
thể để đạt được các mục đích giáo dục đã đề ra
1.4.4 Cách tiến hành việc giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua các tiết làm
quen tác phẩm văn học
Để tiến hành giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua tác phẩm văn học ta cần tiến
hành the các bước sau:
Sưu tầm, lựa chọn tác phẩm văn học phù hợp với lứa tuổi và chủ điểm, nội dung
phải logic phù hợp với chủ đề trong tuần, người giáo viên cần lựa chọn tác phẩm dựa
trên mục đích mà cơ muốn trẻ đạt được, ở đây để giáo dục đạo đức cho trẻ cơ có thể
lựa chộn các tác phẩm như: Tấm Cám cô giáo dục cho trẻ biết nhân vật nào tốt, nhân
vật nào xấu và thông qua nhân vật Tấm cho trẻ hiểu được nếu sống thật thà, chịu khó
thì sẽ được mọi người giúp đỡ và u q, cịn sống độc ác, lười biếng thì bị mọi
người ghét bỏ và không ai muốn giúp đỡ.
Chuẩn bị đồ dung, đồ chơi, địa điểm trước khi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động.
Khi cô giáo đã cho trẻ làm quen với các câu chuyện thì sẽ tiến hành cho trẻ đóng kịch,
vì trẻ ở lứa tuổi này, khơng thể tự đọc mà cịn phụ thuộc vào cơ thơng qua ngồi lắng
nghe cơ kể, vì vậy các ấn tượng sẽ không để lại sâu sắc cho trẻ, mà phải thông qua,
cho trẻ thực hành, hóa vai vào nhân vật, như vậy trẻ sẽ hiểu sâu sắc câu chuyện và
nhớ lâu hơn để trẻ áp dụng qua cách thức thể hiện hành vi đạo đức ra ngoài.
Ngoài việc giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua tác phẩm văn học tổ chức trong tiết
dạy tự do (25-30 phút) Giáo viên có thể lồng ghép giáo dục đạo đức thông qua các
hoạt động như: đón trẻ, tập thể dục sáng, ăn cơm, trả trẻ,... đòi hòi người giáo viên
phải thật sự tinh nhạy, để giúp trẻ phát triển tồn diện, vì trẻ ở độ tuổi này mang cảm
xúc cảm tính, cho nên việc cho trẻ nghe, hay chứng kiến những hành động tốt hình
thành ở trẻ những hình ảnh đẹp, mà hình ảnh thì sẽ lưu lại lâu và làm trẻ nhớ lâu hơn,
từ đó giáo dục đạo đức cho phát triển một cách toàn diện hơn.


1.4.5 Các phương pháp cơ bản tổ chức cho trẻ làm quen tác phẩm văn học

nhằm giáo dục đạo đức
Đọc và kể tác phẩm có nghệ thuật hay cịn được gọi là đọc diễn cảm, kết hợp với
các hình thức nghệ thuật khác như âm nhạc, vũ điệu, biểu diễn,... để trình bày tác
phẩm sáng tạo. Do trẻ ở lứa tuổi này chưa biết đọc, biết viết nên cô giáo là cầu nối trẻ
với tác phẩm thơng qua cách trình bày tác phẩm một cách nghệ thuật, cô giúp trẻ dễ đi
sâu vào các hình ảnh tưởng tượng nghệ thuật, giúp các em dễ dàng hiểu được nội
dung, hình tượng, khung cảnh, các tình tiết để đánh giá chúng một cách đúng đắn, từ
đó trẻ hiểu được tính nhạc trong ngôn ngữ mạnh hơn, tinh tường hơn. Đây được coi là
phương pháp chủ đạo tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Đọc diễn cảm là
quá trình tái tạo, chuyển đổi nội dung ý nghĩa nghệ thuật của văn bản thành âm thanh,
nhịp điệu, tốc độ, sự ngừng nghỉ và sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ và thái độ
thẩm mĩ của người đọc. Kể diễn cảm là q trình sáng tạo khơng phải tạo ra một câu
chuyện khác mà là tạo nên hình thức truyền đạt thể hiện ở lời kể, sự phối hợp cần thiết
nét mặt, cử chỉ,... mà không làm biến dạng câu chuyện.
Trao đổi, gợi mở, trò chuyện với trẻ về TPVH nhằm kích thích hoạt động nhận
thức của trẻ, phương pháp này địi hỏi phải lơi cuốn trẻ tham gia trao đổi, bộc lộ suy
nghĩ, cảm nhận riêng của mình, hay là khơi gợi ở trẻ bộc lộ cảm thụ của các nhân một
cách tự do, hồn nhiên.
Sử dụng các phương tiện trực quan đó được xem là ngơn ngữ hình thể của cô giáo
làm phương tiện bổ trợ, bổ sung làm sâu sắc hơn, sống dạy hình tượng tác phẩm. Khả
năng rung cảm, hiểu biết của cô giáo sẽ được bộc lộ qua cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, điệu
bộ khi trình bày tác phẩm khiến trẻ có thể cảm nhận bằng trực cảm. Kể chuyện mà nét
mắt thờ ơ, lạnh nhạt, khơng có sự giao cảm với người nghe thì dù câu chuyện có hay
mấy cũng khó có thể lôi cuốn được người nghe. Để sử dụng phương pháp này hiệu
quả cần phải biết kết hợp khéo léo với lời nói, cơ giáo cần nắm được tâm lí của trẻ để
hướng dẫn trẻ cách tri giác trực quan, đảm bảo tính hệ thống, tránh lạm dụng, tùy từng
thời điểm, mục đích mà sử dụng. Một trong những phương tiện trực quan hay dũng
nữa đó là hình ảnh, tranh minh họa, việc này lợi dụng được bản năng tuyệt vời của kí
ức trực giác, xem tranh minh họa có ý nghĩa lớn trong việc hình thành những biểu
tượng nghệ thuật văn học của trẻ. Có cần chú ý theo từng độ tuổi để sử dụng tranh



minh họa một cách tốt nhất, vì trẻ càng lớn thì sức cần thiết hay tranh minh họa khơng
cịn hứng thú lắm với trẻ, đây được xem là đặc điểm khá quan trọng cho những người
hướng dẫn trẻ làm quen TPVH.
Phương pháp tổ chức cho trẻ hoạt động văn học nghệ thuật thực ra đây là phương
pháp cho trẻ thực hành luyện tập để củng cố kiến thức và vận dụng những điều đã tiếp
thu được vào giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn, hình thành và hồn thiện các kĩ
năng, kĩ xảo nhất định, trên cơ sở đó rèn luyện tính độc lập cho trẻ. Để thực hiện mực
tiêu đã xác định, tổ chức hoạt động thực hành rèn luyện làm quen văn học ở trường
MN chính là tổ chức cho trẻ bước vào hoạt động có tính chất văn học nghệ thuật đọc
thơ, kể chuyện diễn cảm, nhập vai trong trị chơi đóng kịch. Có thể xem đây là
phương pháp học tập rất tích cực gắn với phương châm “Học mà chơi, chơi mà học”
được thể hiện một cách sinh động. Đây là phương pháp phù hợp với trẻ vì hoạt động
chủ đạo của trẻ chủ đao là hoạt động chơi.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI THÔNG QUA TÁC PHẨM VĂN HỌC
2.1 Vài nét về trường mầm non Hoa Mai Thành Phố Huế
2.1.1. Về cơ sở vật chất
Trường Mầm non Hoa Mai được xây dựng và đưa vào sử dụng theo QĐ số 3116
QĐ/UB ngày 18/12/1978 của UBND tỉnh Bình Trị Thiên, lúc đầu trường có tên Nhà
trẻ 26/3, sau đó đổi tên là "Nhà trẻ Hoa Mai" theo QĐ số 1078 QĐ/UB ngày
30/7/1979 của UBND tỉnh Bình trị Thiên. Trường tọa lạc tại 46 Đống Đa, phường Phú
Nhuận, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trường có Chi bộ 16 Đảng viên, liên tục đạt danh hiệu "Chi bộ trong sạch vững
mạnh xuất sắc, đáp ứng yêu cầu của trường trọng điểm chất lượng cao của Tỉnh,
của Thành phố.
Tháng 8 năm 2011 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia mức độ II; Trường

vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất. Nhiều
năm qua trường liên tục đạt danh hiệu "Tập thể Lao động Xuất sắc". Nhà trường được
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh cấp Giấy chứng nhận Kiểm định chất lượng giáo dục:
"Đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục cấp độ 2", theo QĐ số 1019/QĐ-UBND ngày
31/5/2013 đầu tiên trên toàn tỉnh Thùa Thiên Huế. Năm học 2012-2013 Trường được
UBND Tỉnh tặng Cờ Đơn vị Thi đua Xuất sắc Khối giáo dục Mầm non, Đơn vị đạt
danh hiệu Tập thể Lao động Xuất sắc, được Đảng ủy Phường Phú Nhuận tặng giấy
khen Chi bộ đạt "Tiêu chuẩn Chi bộ trong sạch Vững mạnh" năm 2013. Với thành tích
đạt được trong năm học 2015-2016, trường Mầm non Hoa Mai đã được Bộ trưởng Bộ
Giáo dục tặng bằng khen (QĐ số 4444/QĐ-BGD ĐT, ngày 12/10/2016), Thủ tướng
Chính phủ tặng Bằng khen (QĐ 180/QĐ-TT ngày 09/02/2017). Những năm học qua,
trường liên tục đạt danh hiệu Tập thể Lao động xuất sấc, được UBND tỉnh tặng Cờ
Thi đua; và nhiều Bằng khen của Bộ GD&ĐT, Cơng đồn ngành Giáo dục, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam.
Mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường luôn gương mẫu về đạo đức, lối
sống, về sự tận tâm, trách nhiệm trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Mỗi cơ giáo,
nhân viên trường mầm non Hoa Mai luôn khắc ghi và thường xuyên phấn đấu thực


×