Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

GIÁO TRÌNH KÝ SINH TRÙNG HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 135 trang )

PHẦN 1

ĐẠI CƯƠNG
KÍ SINH TRÙNG Y HỌC

13


Chương 1

CÁC KHÁI NIỆM VỀ KÍ SINH TRÙNG Y HỌC
Kí sinh trùng y học là một ngành khoa học nghiên cứu về đặc điểm hình thể,
đặc điểm sinh học, đặc điểm dịch tễ học, vai trị gây bệnh, chẩn đốn, điều trị và
biện pháp phòng chống các loại sinh vật sống ăn bám ở bên trong, bên ngoài
hoặc gần người một cách tạm thời hay vĩnh viễn với mục đích có chỗ trú ẩn hay
nguồn thức ăn để sinh sống và gây hại cho cơ thể con người.
Những sinh vật sống ăn bám là kí sinh trùng. Người và những sinh vật khác
bị kí sinh trùng sống ăn bám là vật chủ. Người có thể mắc bệnh do kí sinh trùng
gây ra (là các bệnh kí sinh trùng) và các bệnh do kí sinh trùng truyền.
Kí sinh trùng hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả những sinh vật thuộc giới thực
vật và giới động vật: vi khuẩn, virut, rickettsia, nấm, đơn bào, giun sán... Khoa
học ngày nay đã tách ra làm nhiều lĩnh vực nghiên cứu về kí sinh trùng (như kí
sinh trùng học thú y, kí sinh trùng học thực vật, kí sinh trùng y học…).
Để nghiên cứu đầy đủ về kí sinh trùng y học, địi hỏi phải có sự liên hệ mật
thiết và hợp tác rộng rãi với các ngành khoa học khác như dịch tễ học, vi sinh y
học, dược học, vệ sinh học, miễn dịch học, sinh học phân tử …
1. Các khái niệm quan hệ giữa các sinh vật trong quần xã sinh vật.
Các giới sinh vật có nhiều lồi cùng chung sống trong một khoảng không
gian và thời gian nhất định họp thành quần xã sinh vật và ln có những mối
quan hệ lẫn nhau.
Có những mối quan hệ có ích: cộng sinh, hỗ sinh, hội sinh…và có những mối


quan hệ có hại: kí sinh, cạnh tranh, kháng sinh, diệt sinh…
1.1. Cộng sinh (symbiosis):

Cộng sinh là kiểu chung sống giữa hai sinh vật dựa vào nhau để tồn tại và
phát triển. Quan hệ này có tính thường xun, bắt buộc và nếu tách rời nhau
chúng khó có thể tồn tại.
Ví dụ quan hệ giữa con mối và các trùng roi sống trong ruột mối (mối ăn gỗ,
nhưng khơng có men phân hủy gỗ. Trong khi đó trùng roi có men phân hủy
cellulose thành đường mà cả hai đều cần đường để phát triển. Do vậy chúng sống
không thể thiếu nhau). Hoặc quan hệ giữa tảo và nấm cộng sinh (nấm hút nước
giữ độ ẩm cung cấp cho tảo nước và muối khoáng để thực hiện chuyển hoá các
chất, tảo cung cấp cho nấm các chất hữu cơ vì tảo có chất diệp lục để tổng hợp
các chất hữu cơ cần thiết).
14


1.2. Hỗ sinh (mutualism):

Hỗ sinh là mối quan hệ có lợi cho cả hai bên, nhưng không bắt buộc phải sống
dựa vào nhau, tách khỏi nhau chúng vẫn có thể tồn tại được tuy có khó khăn.
Ví dụ hải qùy và tơm kí sinh (tơm chui vào hải quỳ để được bảo vệ, hải qùy
kiếm được nhiều thức ăn nhờ tôm bơi, di chuyển đi mọi nơi - bản thân hải qùy
không di chuyển được). Cũng như cua được ngụy trang bởi xoang tràng (Actini)
hoặc san hô bám trên vỏ (cua ăn mồi, thải thức ăn thừa cho san hô và xoang
tràng).
1.3. Hội sinh (commensalism):

Mối quan hệ này biểu hiện chỉ có lợi cho một bên, nhưng bên kia khơng bị
thiệt hại.
Ví dụ như cá nấp dưới bụng sứa để được bảo vệ, sứa khơng có lợi gì, nhưng

khơng bị thiệt hại. Entamoeba coli sống hội sinh, ăn thức ăn thừa trong đại tràng
của người, nhưng không gây hại cho người.
1.4. Cạnh tranh (competition):

Những cá thể của lồi này khơng tấn cơng, khơng làm hại các lồi kia, khơng
thải ra chất độc nào cả. Chúng chỉ sinh trưởng đơn thuần, nhưng sinh sản nhanh
hơn, vì vậy chiếm được ưu thế trong cuộc đấu tranh giành nguồn thức ăn có hạn,
làm cho lồi kia tàn lụi đi.
Ví dụ: hai lồi trùng roi Paramecium cudatum và Paramecium aurelia nuôi
chung ở mức dinh dưỡng hạn chế, sau 16 ngày chỉ có P.aurelia cịn sống, do loài
này sinh sản nhanh hơn chiếm hết chất dinh dưỡng ở môi trường.
1.5. Kháng sinh (antibiosis):

Kháng sinh là mối quan hệ loài này ức chế sự sinh trưởng của lồi khác.
Ví dụ: nấm mốc và vi khuẩn (nấm mốc Penicillinum tiết ra chất penicilin là
chất ức chế sinh trưởng của các lồi vi khuẩn).
1.6. Diệt sinh (biocide):

Đó là mối quan hệ giữa sinh vật này tiêu diệt một sinh vật khác để ăn thịt.
Sinh vật bị ăn thịt là con mồi. Trong quan hệ này vật ăn thịt (predactor) khơng
thể tồn tại nếu thiếu con mồi (prey).
1.7. Kí sinh (parasitism):

Kí sinh là một kiểu chung sống đặc biệt giữa hai sinh vật: một sinh vật sống
nhờ có lợi là kí sinh trùng, sinh vật kia bị kí sinh và bị thiệt hại gọi là vật chủ.
15


Kí sinh trùng sống bám trên bề mặt, hoặc ở bên trong vật chủ, hoặc ở gần vật
chủ để lợi dụng vật chủ làm nơi cư trú hoặc lấy nguồn cung cấp dinh dưỡng.

Một số kí sinh trùng có đời sống ngoại hoại sinh (exosaprophytism).
Ví dụ: Aspergillus, Sporothrix schenckii, Strongyloides stercoralis…
Hoặc nội hoại sinh (endosaprophytism).
Ví dụ: Entamoeba histolytica (forma minuta), Candida sp…
2. Các khái niệm về sinh vật kí sinh (kí sinh trùng).
2.1. Kí sinh trùng chuyên tính (kí sinh trùng bắt buộc):

Những kí sinh trùng muốn tồn tại bắt buộc phải sống bám vào cơ thể vật chủ,
không thể sống tự do.
Ví dụ: giun đũa (Ascaris lumbricoides), giun tóc (Trichuris trichiura), chấy
(Pediculus capilis) bắt buộc phải sống bám vào vật chủ.
2.2. Kí sinh trùng kiêm tính (kí sinh trùng tuỳ nghi):

Kí sinh trùng có thể sống kí sinh, hoặc cũng có thể sống tự do ở mơi trường
bên ngồi.
Ví dụ: giun lươn (Strongyloides stercoralis) và nấm Aspergillus sp…
2.3. Nội kí sinh trùng:

Nội kí sinh trùng là những kí sinh trùng sống ở bên trong cơ thể vật chủ: mô,
nội tạng, máu, thể dịch …
Ví dụ: giun đũa (Ascaris lumbricoides), giun soắn (Trichinella spiralis), sán
lá gan nhỏ (Clonorchis sinensis), amíp lị (Entamoeba histolytica)… Nội kí sinh
trùng có vai trị gây bệnh là chủ yếu.
2.4. Ngoại kí sinh trùng:

Ngoại kí sinh trùng là những kí sinh trùng sống ở ngồi cơ thể vật chủ hoặc
sống ở bề mặt cơ thể vật chủ.
Ví dụ: muỗi, mị, chấy, rận, ghẻ…
2.5. Kí sinh trùng lạc chỗ:


Kí sinh trùng lạc chỗ là những kí sinh trùng sống kí sinh lạc sang cơ quan,
phủ tạng khác với cơ quan, phủ tạng mà nó thường kí sinh.
Ví dụ: giun đũa người bình thường sống ở ruột non, khi lạc chỗ có thể chui
vào lệ đạo, vào ống tụy, ống mật…

16


2.6. Kí sinh trùng lạc chủ:

Kí sinh trùng lạc chủ là những kí sinh trùng bình thường sống kí sinh ở một
loài vật chủ nhất định, nhưng do tiếp xúc giữa vật chủ này với vật chủ khác, kí
sinh trùng có thể nhiễm qua vật chủ mới.
Ví dụ: giun đũa chó (Toxocara canis) có thể lạc chủ sang người, giun trịn kí
sinh ở động mạch phổi chuột (Angiostrongylus cantonensis) có thể gây viêm não,
màng não ở người.
3. Các khái niệm về vật chủ.
Vật chủ là những sinh vật mà ở đó kí sinh trùng sinh sản và phát triển để
hồn thiện vịng đời phát triển của chúng.
Có những kí sinh trùng kí sinh ở cả vật chủ chính và vật chủ phụ, có kí sinh
trùng chỉ kí sinh ở một vật chủ và ở ngoại cảnh, có kí sinh trùng kí sinh qua 2 vật
chủ phụ và có những kí sinh trùng kí sinh trên sinh vật mà vừa là vật chủ chính
vừa là vật chủ phụ.
3.1. Vật chủ chính:

Vật chủ chính là vật chủ ở đó kí sinh trùng sinh sản theo phương thức hữu
giới, hoặc kí sinh trùng sống ở giai đoạn trưởng thành.
Ví dụ: muỗi Anopheles là vật chủ chính của kí sinh trùng sốt rét, người là vật
chủ chính của giun chỉ, của các lồi sán là gan bé…
3.2. Vật chủ phụ (vật chủ trung gian):


Vật chủ trung gian là vật chủ ở đó kí sinh trùng sinh sản theo phương thức vô
giới hoặc nếu không sinh sản thì ở dưới dạng ấu trùng - chưa trưởng thành.
Một kí sinh trùng có thể có 1 hoặc 2 vật chủ phụ.
Ví dụ: người là vật chủ phụ của kí sinh trùng sốt rét, muỗi là vật chủ phụ của
giun chỉ, ốc là vật chủ phụ 1, cá là vật chủ phụ 2 của các loài sán lá gan bé.
Tuy nhiên có những kí sinh trùng chỉ có một vật chủ duy nhất để hoàn thành
sự phát triển vịng đời của chúng, nhưng cần có giai đoạn phát triển ở ngoại cảnh.
Ví dụ: giun đũa, giun tóc…
Cũng có loại kí sinh trùng phát triển ở cả giai đoạn trưởng thành và giai đoạn
ấu trùng trong một cơ thể vật chủ.
Ví dụ: lợn là vật chủ của giun soắn (Trichinella spiralis) vừa là vật chủ chính
vừa là vật chủ phụ.
3.3. Dự trữ mầm bệnh (reservoir):

Là sinh vật dự trữ mầm bệnh kí sinh trùng của người.
17


Ví dụ: mèo, chó… là sinh vật dự trữ mầm bệnh sán lá gan bé (Clonorchis
sinensis)…
3.4. Trung gian truyền bệnh (vector):

Là sinh vật mang kí sinh trùng và truyền kí sinh trùng từ người này sang
người khác. Cần phân biệt vật chủ trung gian với sinh vật trung gian truyền bệnh.
+ Vector sinh học (hay còn được gọi là vật chủ trung gian): khi kí sinh trùng
có sự phát triển tăng trưởng về số lượng trong cơ thể vector.
Ví dụ: muỗi Anopheles là vector sinh học của kí sinh trùng sốt rét.
+ Vector cơ học (hay còn được gọi là sinh vật trung gian truyền bệnh): khi kí
sinh trùng khơng có sự phát triển tăng trưởng về số lượng trong cơ thể vector.

Ví dụ: ruồi nhà là vector cơ học của Entamoeba histolytica truyền bệnh
amíp lị.
3.5. Người lành mang kí sinh trùng (porter):

Là người có kí sinh trùng trong cơ thể, nhưng khơng có biểu hiện bệnh lí gì.
Ví dụ: người mang bào nang amíp lị Entamoeba histolytica, hay người mang
kí sinh trùng sốt rét nhưng khơng có biểu hiện lâm sàng bệnh sốt rét.
4. Tính đặc hiệu kí sinh trùng.
Kí sinh trùng có những mức độ đặc hiệu khác nhau với cuộc sống kí sinh ở
một hay nhiều lồi vật chủ khác nhau. Ngay trong cơ thể một vật chủ, kí sinh trùng
cũng có thể sống ở vị trí này hay vị trí khác. Đó là tính đặc hiệu chuyên biệt.
4.1. Đặc hiệu về vật chủ:

+ Kí sinh trùng có thể chỉ kí sinh ở một lồi vật chủ duy nhất (đặc hiệu hẹp).
Ví dụ: giun đũa (Ascaris lumbricoides) chỉ kí sinh được trong ruột người.
+ Kí sinh trùng có thể kí sinh ở nhiều lồi vật chủ khác nhau (đặc hiệu rộng).
Ví dụ: Toxoplasma gondii có thể kí sinh ở người, trâu, bị, chim… Giun soắn
có thể kí sinh ở chuột, lợn, chó, mèo, cầy, cáo và người.
4.2. Đặc hiệu về vị trí kí sinh:

+ Kí sinh trùng có thể chỉ sống được ở một vị trí nhất định nào đó trong cơ
thể vật chủ (đặc hiệu hẹp).
Ví dụ: giun đũa (Ascaris lumbricoides) chỉ kí sinh được trong ruột non, giun
kim (Enterobius vermicularis) chỉ sống kí sinh ở ruột già của người.

18


+ Nhiều loại kí sinh trùng có thể sống ở nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể
vật chủ (đặc hiệu rộng).

Ví dụ: Toxoplasma gondii có thể kí sinh ở não, mắt, tim, phổi… của người.
+ Những kí sinh trùng có tính đặc hiệu hẹp về vị trí kí sinh thường có biểu
hiện lâm sàng khu trú, tương đối điển hình đặc hiệu. Nếu kí sinh trùng có tính
đặc hiệu rộng về vị trí kí sinh thì biểu hiện lâm sàng thường đa dạng, chẩn đốn
và điều trị khó khăn hơn.
Chương 2

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU KÍ SINH TRÙNG Y HỌC
Kí sinh trùng y học tập trung nghiên cứu các nội dung:
+ Đặc điểm hình thể và phân loại.
+ Đặc điểm sinh học kí sinh trùng y học bao gồm những đặc điểm về sinh lí,
sinh thái, vịng đời kí sinh trùng.
+ Tác động qua lại giữa kí sinh trùng và vật chủ bao gồm các biểu hiện lâm
sàng bệnh do kí sinh trùng, khả năng đáp ứng, mẫn cảm của cơ thể con người với
kí sinh trùng, các biện pháp chẩn đốn, các thuốc điều trị bệnh kí sinh trùng.
+ Các quy luật dịch học, các biện pháp phòng chống bệnh kí sinh trùng bao
gồm các biện pháp tiêu diệt hoặc loại trừ kí sinh trùng ra khỏi cơ thể con người
và các biện pháp cải tạo hồn cảnh, mơi trường để hạn chế sự phát triển hoặc diệt
trừ kí sinh trùng.
Để nghiên cứu các nội dung trên, kí sinh trùng y học phải có sự liên hệ mật
thiết và cộng tác rộng rãi với các ngành khoa học khác: Dịch tễ học, Vi sinh học,
Dược động học, Vệ sinh học, Sinh lí bệnh học, Miễn dịch học, Lâm sàng….
Trong thời gian gần đây, nhờ những thành tựu của các ngành khoa học đặc
biệt là những thành tựu trong lĩnh vực Sinh học phân tử, Miễn dịch học, Dược
động học… đã và đang được ứng dụng vào ngành kí sinh trùng. Do vậy, các lĩnh
vực nghiên cứu cơ bản, chẩn đốn, điều trị và phịng chống bệnh kí sinh trùng đã
mở ra nhiều triển vọng hứa hẹn.
1. Đặc điểm hình thể và phân loại kí sinh trùng y học.
1.1. Đặc điểm hình thể:


Khoa học đã chứng minh rằng tổ tiên của các lồi kí sinh trùng là những
động vật ngun thủy sống tự do. Chúng buộc phải cạnh tranh với các sinh vật
khác để sống. Chỉ những sinh vật nào có khả năng thích nghi mới có thể tồn tại
19


và phát triển. Trong đó có một số sinh vật đã sống thích nghi dựa vào sinh vật
khác để tồn tại và phát triển thành kí sinh trùng. Do vậy, hình thể kí sinh trùng
cũng có những đặc điểm thích nghi với đời sống kí sinh:
+ Hình thể của ngoại kí sinh trùng thường có thân ngắn, dẹt để dễ bám vào da
của vật chủ (ví dụ: chấy, rận, rệp, ve...) hoặc để dễ luồn lách, lẩn trốn (bọ chét)…
+ Hình thể đặc biệt của một vài bộ phận chỉ thấy ở động vật kí sinh giúp cho
kí sinh trùng bám được vào cơ thể vật chủ như: giác bám của các loại sán, mơi và
móc của các lồi giun, móng vuốt của ve, mị…
+ Một số bộ phận trong cấu tạo cơ thể kí sinh trùng rất phát triển:
- Bộ máy tiêu hố của rệp, ve có dung lượng lớn, sau một lần hút máu có thể
sống rất lâu chờ cơ hội hiếm có mới lại được hút máu vật chủ. Một lần hút máu:
rệp có thể sống qua một năm, ve có thể sống qua 5 năm hoặc hơn nữa.
- Bộ phận sinh dục của kí sinh trùng rất phát triển vì thường sống trong mơi
trường giàu chất dinh dưỡng của vật chủ và khả năng sinh sản lớn, do trong q
trình phát triển vịng đời sinh học gặp nhiều yếu tố bất lợi cho sự bảo toàn giống
lồi, nên kí sinh trùng phải sinh sản nhiều giúp các thế hệ sau có nhiều cơ hội gặp
được vật chủ kí sinh để tiếp tục tồn tại và phát triển.
+ Bộ máy tiêu hố của một vài loại kí sinh trùng bị thoái hoá hoặc mất hẳn do
sống trong cơ thể vật chủ có nhiều chất dinh dưỡng, nên khơng cần phải tiêu hố,
khơng cần có hậu mơn để thải bã. (ví dụ: sán lá, sán dây...).
+ Do đời sống kí sinh khơng cần đến, do vậy các loại nội kí sinh trùng khơng
có mắt, khơng có bộ phận để chuyển động. Nhưng có thể ở giai đoạn ấu trùng
chúng vẫn có mắt, hoặc có lơng để bơi.
+ Kích thước của kí sinh trùng rất khác nhau: có lồi rất nhỏ bé phải đo bằng

micromét (chỉ có thể quan sát được bằng kính hiển vi như các loại đơn bào: kí
sinh trùng sốt rét, Toxoplasma, Leishmania...). Có những kí sinh trùng kích thước
dài hơn chục mét (sán dây), khoảng 20 cm (giun đũa), các loại ngoại kí sinh
trùng chỉ cần quan sát bằng mắt thường như ruồi, muỗi, ve, mị…
+ Cấu tạo bên trong của kí sinh trùng cũng rất khác nhau: có lồi kí sinh
trùng thân chỉ là một tế bào (lớp đơn bào), có những kí sinh trùng phát triển
tương đối hoàn thiện với đầy đủ các hệ thần kinh, tiêu hoá, sinh dục (giun,
sán…).
Do vậy, nghiên cứu đầy đủ về hình thể các lồi kí sinh trùng sẽ giúp cho việc
chẩn đốn và phân loại kí sinh trùng được dễ dàng hơn.
20


1.2. Phân loại kí sinh trùng y học:

Mỗi lồi kí sinh trùng y học đều có vị trí của chúng trong giới động vật hoặc
thực vật. Trong mỗi giới chúng được xếp theo ngành, lớp, bộ, họ, chi và loài.
Ngoài ra chúng còn được phân chia thành ngành phụ, lớp phụ, bộ phụ, họ phụ,
chi phụ, lồi phụ.
Ví dụ: Muỗi Anopheles minimus là ngoại kí sinh trùng thuộc ngành động vật
chân đốt (Arthropoda), lớp côn trùng (Insecta), bộ hai cánh (Diptera), họ muỗi
(Culicidae), họ phụ (Anophelinae), chi (Anopheles), loài (minimus).
Trong kí sinh trùng y học người ta phân loại như sau:
1.21. Ngành động vật đơn bào - Protozoa có các lớp:

+ Lớp chân giả - Rhizopoda.
+ Lớp trùng roi - Flagellata.
+ Lớp trùng lông - Ciliata.
+ Lớp trùng bào tử - Sporozoa.
1.2.2. Ngành giun (vermes):


+ Ngành phụ giun tròn - Nematodes:
- Lớp giun tròn - Nematoda.
+ Ngành phụ giun dẹt - Platodes có các lớp:
- Lớp sán lá - Trematoda.
- Lớp sán dây - Cestoda.
+ Ngành phụ giun đốt - Annelida:
- Đỉa vắt - Hirudinae.
1.2.3. Ngành động vật chân đốt (Arthropoda) có các lớp:

+ Lớp nhện (Arachnida) có các họ:
- Họ ve - Ixodidae.
- Họ mạt - Gamasidae.
- Họ mò - Trombidoidae.
- Họ cái ghẻ - Sarcoptoidae.
+ Lớp côn trùng (Insecta) có các họ:
- Họ muỗi - Culicidae.
- Họ ruồi vàng - Simulidae.
- Họ dĩn - Ceratopogonidae.
- Họ muỗi cát - Phlebotomidae.
21


- Họ ruồi trâu - Tabanidae.
- Họ ruồi - Muscidae.
- Họ bọ chét - Pulicidae.
- Họ chấy rận - Pediculidae.
- Họ rệp - Cimicidae.
- Họ gián - Blattidae.
1.2.4. Ngành nấm (Fungi):


+ Lớp nấm Tiếp hợp - Zygomycetes.
+ Lớp nấm Túi - Ascomycetes.
+ Lớp nấm Đảm - Basidiomycetes.
+ Lớp nấm Bất tồn - Deuteromycetes.
2. Đặc điểm sinh học của kí sinh trùng.
Đặc điểm sinh học của kí sinh trùng bao gồm các đặc điểm về sinh lí, sinh
thái và vịng đời phát triển của chúng.
2.1. Sinh lí của kí sinh trùng:

Sinh lí của kí sinh trùng bao gồm những chức năng đảm bảo cho kí sinh trùng
tồn tại, phát triển và bảo tồn giống lồi.
2.1.1. Dinh dưỡng và chuyển hố của kí sinh trùng:

Phải có nguồn dinh dưỡng kí sinh trùng mới tồn tại, phát triển. Nguồn dinh
dưỡng của kí sinh trùng chủ yếu dựa vào sự chiếm đoạt những chất dinh dưỡng
của vật chủ như gluxit, protit, lipit, vitamin…
Những chất này có trong vật chủ dưới dạng thức ăn đã được tiêu hoá như
dưỡng chấp, hoặc thức ăn đã được chuyển hố thành máu, dịch mơ, tế bào… Tùy
theo từng lồi kí sinh trùng mà thức ăn của chúng có thể là những nguồn dinh
dưỡng khác nhau.
Ví dụ: giun đũa ăn dưỡng chấp; giun móc ăn máu, protein huyết thanh, sắt
huyết thanh, axit folic… Muỗi, dĩn ăn máu; mò ăn dịch mơ; kí sinh trùng sốt rét
ăn huyết cầu tố…
Hình thức chiếm đoạt chất dinh dưỡng phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo hình
thể và vị trí kí sinh của từng lồi kí sinh trùng. Chúng có thể chiếm đoạt chất
dinh dưỡng bằng: thẩm thấu, ẩm bào, hoặc hút chất dinh dưỡng qua bộ phận tiêu
hoá…
Để đồng hoá thức ăn chiếm được, kí sinh trùng phải chuyển hố thức ăn đó
bằng những hệ thống men phức tạp và theo cách riêng của từng loài.

22


Hiểu biết đầy đủ về dinh dưỡng chuyển hoá của kí sinh trùng sẽ hiểu được
tác hại của chúng đối với cơ thể vật chủ, giúp cho việc tìm kiếm những phương
tiện, thuốc men và biện pháp phịng chống kí sinh trùng có hiệu quả.
Cho tới nay sự hiểu biết về dinh dưỡng chuyển hố của nhiều lồi kí sinh
trùng còn chưa đầy đủ, cần tiếp tục nghiên cứu.
2.1.2. Sinh sản của kí s inh trùng:

Kí sinh trùng có nhiều hình thức sinh sản phong phú. Có lồi sinh sản rất đơn
giản, có lồi rất phức tạp. Nhìn chung kí sinh trùng sinh sản nhanh, nhiều và dễ
dàng để đảm bảo duy trì nịi giống.
+ Hình thức sinh sản vơ giới:
Là hình thức sinh sản đơn giản nhất và thường gặp ở đơn bào kí sinh như
amip, trùng roi… Bằng hình thức này, một cá thể kí sinh trùng tự phân đôi thành
hai cá thể mới (nhân phân chia trước, bào tương phân chia sau, khơng có sự giao
phối giữa đực và cái).
Cũng là sinh sản vơ giới, cịn có kiểu sinh sản phân liệt (schizogonie), tức là
không phân chia nhân một lần, mà phân chia nhân nhiều lần thành nhiều mảnh,
sau đó bào tương mới phân chia theo số mảnh nhân, kết quả là tạo thành nhiều cá
thể mới. Ví dụ như sự sinh sản vơ giới của kí sinh trùng sốt rét.
+ Hình thức sinh sản hữu giới:
Là hình thức sinh sản thực hiện bằng sự kết hợp giữa con đực và con cái như
giun đũa, giun móc, giun kim… hoặc giữa hai giao bào đực và cái như kí sinh trùng
trong dạ dày muỗi. Ngồi ra cịn có những lồi kí sinh trùng lưỡng giới (một cá
thể có cả bộ phận sinh dục đực và sinh dục cái) như nhiều loại sán lá, sán dây…
+ Hình thức sinh sản đa phơi:
Là hình thức sinh sản đặc biệt cũng thường thấy ở các loài sán lá và một số
loài sán dây. Từ kết quả của sinh sản hữu giới: một trứng nở ra một ấu trùng, ấu

trùng này phát triển thành nang ấu trùng.
Kết quả sinh sản vô giới: trong nang ấu trùng có rất nhiều mầm sinh ra nhiều
ấu trùng thế hệ hai. ấu trùng thế hệ hai lại sinh ra nhiều ấu trùng thế hệ ba.
Những ấu trùng thế hệ ba này sẽ phát triển thành sán trưởng thành khi gặp vật
chủ. Kết quả từ một trứng ban đầu sẽ thành vô số sán trưởng thành.
Như vậy là có sự luân phiên sinh sản: hữu giới (một trứng thụ tinh) và sinh
sản vô giới (sinh sản đa phôi). Sự luân phiên sinh sản hữu giới và vơ giới cịn gặp
ở nhiều lồi kí sinh trùng khác như kí sinh trùng sốt rét, Toxoplasma sp….

23


2.1.3. Các chức năng sinh lí khác:

+ Chức năng hơ hấp của các lồi kí sinh trùng khác nhau:
Đối với các lồi nội kí sinh trùng hơ hấp được thực hiện trong điều kiện yếm
khí. Oxy cần thiết cho chúng được cung cấp nhờ các men chuyển hoá thức ăn,
hoặc nhờ các vi khuẩn cộng sinh.
+ Chức năng bài tiết của các lồi kí sinh trùng cũng khác nhau:
Đặc biệt lưu ý tới các lồi nội kí sinh trùng, những chất chuyển hoá thừa sau
khi chiếm thức ăn từ vật chủ được thải ra đều là những chất độc. Vật chủ sẽ bị
nhiễm độc do hấp thu phải những chất chuyển hố thừa của kí sinh trùng.
2.1.4. Hạn định đời sống của kí sinh trùng:

Đời sống của các lồi sinh vật cũng như các lồi kí sinh trùng đều có hạn
định. Mỗi lồi đều có tuổi thọ riêng ngay cả với những loài động vật hạ đẳng mà
phương thức sinh sản vơ giới tưởng chừng như vơ hạn. Vì thế một số bệnh kí
sinh trùng sẽ tự hết nếu khơng bị tái nhiễm.
Ví dụ: giun kim có hạn định đời sống khoảng một tháng, giun đũa khoảng
một năm. Trong thời gian này nếu giữ vệ sinh, không bị tái nhiễm (nghĩa là cắt

đứt được vòng đời phát triển của chúng) thì cơ thể người sẽ tự sạch giun.
2.2. Sinh thái của kí sinh trùng:

Nghiên cứu sinh thái kí sinh trùng là nghiên cứu các mối quan hệ giữa chúng
với các yếu tố của môi trường ngoại cảnh hoặc của môi trường sinh vật (nhiệt độ,
ánh sáng, độ ẩm, độ pH, độ mặn, tốc độ gió, tốc độ dịng chảy của nguồn nước,
các yếu tố thổ nhưỡng, các thành phần hoá - lí, các quần thể sinh vật…) để xem
các yếu tố đó ảnh hưởng tới sự hoạt động, sinh sản, phát triển của kí sinh trùng
như thế nào.
Qua đó đề ra biện pháp cải tạo hồn cảnh, nhằm mục đích khơng cho hoặc
ngăn cản kí sinh trùng tồn tại, phát triển, sinh sản và có thể diệt được kí sinh
trùng có hiệu quả, kinh tế nhất.
Muốn duy trì nịi giống, đa số kí sinh trùng phải chuyển từ vật chủ này sang
vật chủ khác. Đây là vấn đề phức tạp, khó khăn vì kí sinh trùng phải trải qua
nhiều giai đoạn, nhiều thời kì khác nhau, ở các mơi trường khác nhau.
Khi sống tự do, kí sinh trùng phụ thuộc vào mơi trường ngoại cảnh (đó là các
yếu tố tự nhiên - những yếu tố này có khi thuận lợi, tối ưu, có khi khó khăn, khắc
nghiệt đối với chúng). Các giai đoạn phát triển của vòng đời: trứng hoặc kén, ấu
trùng, thanh trùng, trưởng thành, đều phải thích nghi với môi trường để tồn tại và
phát triển, nếu không thích nghi được chúng sẽ bị chết.
24


Khi sống trong môi trường là cơ thể vật chủ, kí sinh trùng cũng phải thích
nghi với mơi trường mới để sống kí sinh.
Ví dụ: kí sinh trùng sốt rét khi kí sinh ở muỗi, chúng phải thích nghi được với
các yếu tố sinh học của muỗi mới phát triển được. Nếu kí sinh ở những lồi muỗi
khơng thích nghi được thì sẽ chết. Bên cạnh đó khi ở trong cơ thể muỗi (sinh vật
có thân nhiệt khơng ổn định), kí sinh trùng sốt rét phát triển được phải phụ thuộc
vào yếu tố nhiệt độ của môi trường. Tiếp đến khi kí sinh ở cơ thể người (sinh vật

có thân nhiệt hằng định 37 0 C), kí sinh trùng lại phải thích nghi ngay.
Ngồi những nghiên cứu trên, cần phải nghiên cứu về tập tính sinh sản, hoạt
động chiếm thức ăn, hoạt động trú ẩn… trong một điều kiện hoàn cảnh thích nghi
khác nhau.
Ví dụ: muỗi truyền bệnh sốt rét Anopheles minimus có tập tính hút máu người
trong nhà, trú ẩn và đậu tiêu máu trong nhà ở những nơi tối, ẩm, kín, khơng cao
q 2 mét. Do vậy để diệt muỗi Anopheles minimus người ta phải phun hoá chất
diệt muỗi ở trong nhà, phun vào tường từ 2 m trở xuống và phun vào tất cả
những nơi ẩm, tối, kín…
Tuy nhiên hiện nay ở một số vùng muỗi Anopheles minimus đã thay đổi tập
tính khơng đậu ở trong nhà tiêu máu, mà bay ra rừng để đậu tiêu máu. Do vậy
không thể phun thuốc diệt được mà phải tẩm hố chất vào màn để xua muỗi.
2.3. Vịng đời của kí sinh trùng:

Tồn bộ q trình phát triển từ khi là mầm bệnh sinh vật đầu tiên (trứng, ấu
trùng) cho tới khi sinh ra những mầm bệnh mới tạo ra thế hệ sau được gọi là
vịng đời kí sinh trùng.
Nghiên cứu vịng đời của kí sinh trùng bao gồm nghiên cứu sinh lí kí sinh
trùng (kí sinh trùng sinh sản, trứng nở ra ấu trùng, ấu trùng phát triển thành thanh
trùng, thành con trưởng thành) và cả sinh thái kí sinh trùng vì sự phát triển của kí
sinh trùng phụ thuộc vào các yếu tố của môi trường ngoại cảnh và mơi trường
sinh học (vật chủ)…
Biết được vịng đời của từng lồi kí sinh trùng mới có thể đặt kế hoạch phịng
chống có hiệu quả.
Ví dụ: xác định được giai đoạn nào trong vịng đời là mắt xích yếu nhất có
thể tác động để phá vỡ vịng đời của chúng. Có thể cắt đứt giai đoạn từ vật chủ ra
ngoại cảnh, từ ngoại cảnh vào vật chủ mới hoặc diệt kí sinh trùng ở ngay trong
vật chủ bằng cách điều trị đối với người, đối với vật chủ có ích như trâu, bò,

25



lợn… hoặc nếu vật chủ khơng có ích thì tìm cách tiêu diệt ngay vật chủ như
chuột, muỗi…
Có thể khái qt một số kiểu vịng đời:
2.3.1. Vịng đời chỉ có một vật chủ và có giai đoạn phát triển ở ngoại cảnh:

Ví dụ: giun đũa (Ascaris lumbricoides) kí sinh trong cơ thể người, đẻ ra
trứng, trứng được bài tiết ra ngoại cảnh, phát triển ở ngoại cảnh, sau một thời
gian, trứng đã phát triển lại nhiễm vào người theo thức ăn.
Trong cơ thể người, trứng nở ấu trùng và sau một thời gian ấu trùng phát
triển thành giun trưởng thành. Giun lại đẻ trứng, hồn thành một vịng đời của
giun đũa.
2.3.2. Vịng đời có hai vật chủ:

Ví dụ: sán dây lợn (Taenia solium) sống kí sinh ở người. Người là vật chủ
chính. Khi các đốt sán già chứa đầy trứng được thải ra ngoại cảnh, nếu lợn ăn
phải thì các trứng đó sẽ phát triển thành các nang ấu trùng ở tổ chức cơ của lợn.
Lợn là vật chủ phụ của sán dây lợn.
Người ăn thịt lợn sống, hoặc chưa được nấu chín, có nang ấu trùng Taenia
solium thì ấu trùng sẽ phát triển thành sán trưởng thành ở ruột người, hồn thành
vịng đời của sán dây lợn.
2.3.3. Vịng đời có nhiều vật chủ:

Ví dụ: sán lá gan bé (Clonorchis sinensis) trưởng thành kí sinh ở người.
Người là vật chủ chính.
Trứng sán lá gan bé theo phân ra ngoại cảnh rồi vào ốc (vật chủ phụ 1), phát
triển ở ốc. Sau khi phát triển ở ốc, ấu trùng lại vào cá (vật chủ phụ 2) phát triển
thành nang ấu trùng.
Người ăn cá sống hoặc chưa được nấu chín có nang ấu trùng sán Clonorchis

sinensis sẽ phát triển thành sán trưởng thành. Như vậy vòng đời của Clonorchis
sinensis phải trải qua ba vật chủ là người, ốc và cá.
2.3.4. Vòng đời qua nhiều sinh vật, khơng có giai đoạn phát triển ở ngoại cảnh:

Ở mỗi sinh vật kí sinh trùng đều tồn tại dưới dạng cả trưởng thành, cả trước
trưởng thành.
Ví dụ: giun soắn (Trichinella spiralis) kí sinh ở chuột, lợn, chó, mèo, cầy,
cáo, hổ, báo, gấu… và cả ở người. Tất cả các sinh vật kể trên đều vừa là vật chủ
chính, vừa là vật chủ phụ của giun soắn.

26


3. Quan hệ giữa kí sinh trùng và vật chủ.
Kí sinh trùng và vật chủ cùng chung sống, có mối quan hệ mật thiết với nhau,
nhất định có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Nếu kí sinh trùng tác động nhiều mặt đến vật chủ thì vật chủ cũng phản ứng
lại một cách đa dạng với sự có mặt và những tác động có hại của kí sinh trùng.
3.1. Tác động của kí sinh trùng đến vật chủ:

Kí sinh trùng lợi dụng vật chủ để lấy nguồn dinh dưỡng và là nơi cư trú tạm
thời hoặc vĩnh viễn.
Chúng không chỉ chiếm đoạt chất dinh dưỡng mà còn tác động gây độc, gây
tổn thương, làm cơ thể vật chủ dễ bị nhiễm trùng hoặc nhiễm thêm một số mầm
bệnh khác.
3.3.1. Kí sinh trùng chiếm đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ:

Chất dinh dưỡng của vật chủ mà kí sinh trùng chiếm đoạt có thể là chất đã
được tiêu hố như dưỡng chấp, hoặc là chất đã chuyển hoá như máu, dịch tế bào,
dịch mơ… Mức độ tác hại của kí sinh trùng chiếm đoạt chất dinh dưỡng tùy thuộc:

+ Chất lượng thức ăn (chất tiêu hoá hay chất chuyển hoá): nếu thức ăn là chất
đã chuyển hố thì mức độ tác hại nặng hơn.
+ Số lượng kí sinh trùng: liên quan đến số lượng thức ăn mà kí sinh trùng
chiếm đoạt. Thức ăn bị chiếm đoạt phải đạt đến một ngưỡng nào đó thì có biểu
hiện bệnh lí.
Ví dụ: bị trên 50 giun móc kí sinh thì người bệnh mới có biểu hiện triệu
chứng thiếu máu.
+ Kích thước kí sinh trùng: càng lớn thì chiếm đoạt thức ăn càng nhiều.
Ví dụ: sán dây bò (Taenia saginata) dài từ 4 - 12 m, mỗi ngày sán dài ra thêm
7 - 10 cm. Do vậy chúng phải chiếm một lượng dưỡng chấp rất lớn.
+ Chế độ ăn uống, tình trạng sức khoẻ của vật chủ có ảnh hưởng đến khả
năng bù đắp chất dinh dưỡng của cơ thể khi bị kí sinh trùng kí sinh làm tăng
thêm tác hại gây ra của kí sinh trùng.
Ví dụ: nếu người bị nhiễm giun móc có chế độ ăn kham khổ, hoặc những
người ăn uống không đủ chất, thiếu các vitamin trong rau xanh, thiếu sắt (người
dân, chiến sĩ ngoài đảo xa, thủy thủ đi tàu dài ngày trên biển...) hoặc mặc dù dư
thừa protit nhưng chỉ cần nhiễm dưới 50 giun móc cũng có thể có triệu chứng
thiếu máu nhẹ hoặc nặng.

27


3.1.2. Kí sinh trùng gây độc cho vật chủ:

Hầu hết kí sinh trùng đều gây độc cho vật chủ bằng những chất đã chuyển
hoá do chúng tiết ra hoặc những chất thải của chúng.
Ví dụ: khi muỗi đốt người bao giờ chúng cũng tiết ra nước bọt, chất chống
đông máu và chất gây ngứa hoặc giun sán trong cơ thể bao giờ cũng có những
chất chuyển hố là những chất độc được chứng minh trên lâm sàng gây ra những
triệu chứng nhiễm độc thần kinh trong các bệnh giun đũa, giun kim, sán dây…

3.1.3. Kí sinh trùng gây hại do tác động cơ học:

Một vài lồi kí sinh trùng gây ra những tác hại đáng kể về mặt cơ học như
giun đũa gây tắc ruột, tắc ống mật…, ấu trùng sán dây lợn chèn ép não gây động
kinh, đột tử... hoặc che lấp đồng tử mắt gây giảm thị lực, mù…
3.1.4. Kí sinh trùng mở đường cho vi khuẩn gây bệnh:

Kí sinh trùng tạo nên các vết xước, vết loét ở bên ngoài hoặc bên trong cơ thể
vật chủ, tạo điều kiện cho các mầm bệnh khác xâm nhập vào cơ thể vật chủ qua
các vết xước, vết lt đó.
Ví dụ: ấu trùng giun móc, giun lươn khi chui qua da vào cơ thể người tạo
điều kiện cho vi sinh vật gây viêm nhiễm, lở loét ở da. Giun kim chui vào ruột
thừa gây viêm ruột thừa cấp. Giun đũa gây áp xe gan…
3.1.5. Kí sinh trùng làm tăng tính thụ cảm của vật chủ với một số bệnh nhiễm
khuẩn khác:

Do tác động nhiều mặt đến vật chủ, kí sinh trùng làm suy yếu cơ thể và giảm
sức chống đỡ với các mầm bệnh khác. Nguyên nhân có thể do kí sinh trùng ức
chế hệ thống miễn dịch của cơ thể vật chủ hình thành kháng thể chống lại một số
mầm bệnh. Ví dụ: người có nhiễm giun đũa dễ bị nhiễm lị trực khuẩn, thương
hàn, phó thương hàn, bạch hầu, bại liệt. Người nhiễm sán máu (Schistosoma
mansoni) thường dễ bị mắc bệnh phó thương hàn do Salmonella paratyphi A.
Khi điều trị hết kí sinh trùng thì bệnh nhiễm khuẩn dễ điều trị khỏi, có khi tự hết.
Những tác động của kí sinh trùng đến vật chủ mạnh hay yếu tùy thuộc vào
chủng loại kí sinh trùng, đặc điểm sinh lí, sinh thái, giai đoạn phát triển, kích
thước, độc tính, số lượng kí sinh trùng.
3.2. Tác động của vật chủ đến kí sinh trùng:

Để chống lại kí sinh trùng và tác hại của chúng, cơ thể vật chủ có hàng loạt
các phản ứng xảy ra ở tế bào, mô hoặc thể dịch.


28


Có thể khái quát tác động của vật chủ đến kí sinh trùng bằng các hình thái
đáp ứng miễn dịch như sau:
3.2.1. Đáp ứng miễn dịch tự nhiên (miễn dịch bẩm sinh):
3.2.1.1. Miễn dịch tự nhiên tuyệt đối:

Một lồi kí sinh trùng chỉ kí sinh được ở một lồi vật chủ nhất định, khơng
thể kí sinh ở bất cứ động vật nào khác. Như vậy động vật khác có miễn dịch tự
nhiên với lồi kí sinh trùng đó.
Ví dụ: người chỉ nhiễm kí sinh trùng sốt rét của người mà khơng nhiễm kí
sinh trùng sốt rét của chuột, của gà… ngược lại chuột, gà khơng thể bị nhiễm kí
sinh trùng sốt rét của người.
Hiện tượng miễn dịch tự nhiên này khơng liên quan tới sự hình thành kháng
thể chống kí sinh trùng. Nó phụ thuộc vào cá thể, chủng loại động vật, liên quan
đến những yếu tố di truyền. Đặc điểm sinh học của những động vật này không
dung nạp kí sinh trùng trong cơ thể chúng. Kí sinh trùng sau khi xâm nhập vào
động vật có miễn dịch tự nhiên sẽ bị đào thải hoặc bị tiêu diệt.
3.2.1.2. Miễn dịch tự nhiên tương đối:

Miễn dịch tự nhiên tương đối phụ thuộc vào nhiều yếu tố thể chất của vật chủ
và yếu tố của tự nhiên môi trường vật chủ tồn tại:
+ Trong miễn dịch tự nhiên tương đối có vai trị của tế bào, mơ và nhất là vai
trị của lách. Người ta thấy lồi khỉ khơng nhiễm kí sinh trùng sốt rét của người,
nhưng sau khi cắt lách thì khỉ lại có thể bị nhiễm.
+ Miễn dịch tự nhiên tương đối có liên quan đến các yếu tố mơi trường.
Ví dụ: con cóc và con thằn lằn giữ ở nhiệt độ 35 0 C có thể bị nhiễm giun soắn
(Trichinella spiralis), nhưng ở nhiệt độ thấp hơn thì không bao giờ bị nhiễm.

+ Miễn dịch tự nhiên tương đối có liên quan đến điều kiện sống.
Ví dụ: các loài động vật ăn tạp như chuột, lợn, người… đều thấy có bị nhiễm
giun soắn. Các lồi động vật ăn cỏ trong tự nhiên không bị nhiễm bao giờ, nhưng
trong thực nghiệm có thể gây nhiễm giun soắn dễ dàng cho động vật ăn cỏ.
+ Miễn dịch tự nhiên tương đối cịn phụ thuộc vào tuổi sinh lí của động
vật nhiễm.
Ví dụ: chuột cống trắng lớn khơng bị nhiễm amíp lị Entamoeba histolytica,
nhưng chuột cống non mới thôi bú lại có thể nhiễm.
Miễn dịch tự nhiên tương đối của vật chủ khơng đủ hiệu lực đào thải hoặc
tiêu diệt kí sinh trùng nhưng vẫn có tác động đến kí sinh trùng biểu hiện:
29


+ Số lượng kí sinh trùng nhiễm khơng nhiều.
+ Kích thước kí sinh trùng bé đi.
Ví dụ: sán lá gan nhỏ (Clonorchis sinensis) ở chuột lang được gây nhiễm
có kích thước chỉ bằng 1/5 kích thước sán ở mèo, ở người (Vũ Văn Phong,
Trịnh Trọng Phụng và Lê Bách Quang, 1986).
+ Thời gian phát triển của kí sinh trùng kéo dài.
Ví dụ: giun móc chó (Ancylostoma caninum) phát triển trong cơ thể chó từ ấu
trùng đến trưởng thành mất khoảng 14 ngày, nhưng ở mèo (sinh vật có miễn dịch
tự nhiên tương đối) phải mất 17 ngày.
+ Sinh sản hạn chế.
Ví dụ: giun móc chó (Ancylostoma caninum) trung bình một con đẻ 16.000
trứng trong một ngày đêm. Khi kí sinh ở mèo thì giun móc chó chỉ đẻ được 2.300
trứng. Tỉ lệ trứng nở ra ấu trùng và ấu trùng phát triển đến giai đoạn gây lây
nhiễm cũng thấp hơn ở chó.
+ Tuổi thọ trung bình của kí sinh trùng bị rút ngắn.
Ví dụ: giun lươn của người (Strongyloides stercoralis) sống được nhiều năm
ở người, nhưng ở mèo chỉ sống được 2 - 7 tuần, ở chó được 3 - 7 tháng.

Miễn dịch tự nhiên tuyệt đối và miễn dịch tự nhiên tương đối có lẽ liên quan
nhiều đến yếu tố di truyền. Theo thuyết thông tin: miễn dịch tự nhiên đối với lồi
kí sinh trùng nào là hiện tượng kí sinh trùng đó bất lực trong việc tổng hợp
protein giống vật chủ để có thể tồn tại trong vật chủ. Do hồn tồn khác lạ với
vật chủ nên khơng thể hoà hợp được và bị cơ thể vật chủ thải trừ. Người có miễn
dịch tự nhiên tuyệt đối với nhiều lồi kí sinh trùng của động vật, nhưng cũng có
miễn dịch tự nhiên tương đối với một số lồi kí sinh trùng.
Ví dụ: người có thể nhiễm sán lá gan lớn ở trâu, bò; nhiễm sán lá ruột của
lợn; kí sinh trùng sốt rét của khỉ…
3.2.2. Đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu:
3.2.2.1. Yếu tố tế bào không đặc hiệu:

Kí sinh trùng xâm nhập vào nơi nào trên cơ thể vật chủ, lập tức nơi đó có
phản ứng tế bào và mơ. Trong đó đầu tiên là tế bào tại chỗ và tiếp theo là tế bào
lưu động (bạch cầu, lympho…).
Tại chỗ chủ yếu là các tế bào của hệ thống lưới nội mô như tế bào lách, tế
bào Kuffer ở gan. Những tế bào tại chỗ và bạch cầu làm nhiệm vụ tiêu diệt kí
sinh trùng bằng cách vơ nuốt rồi tiêu hủy kí sinh trùng (hiện tượng thực bào).

30


Chúng cịn có nhiệm vụ hút các chất độc, phân giải hoặc trung hoà những chất
độc hại (hiện tượng ẩm bào).
Phản ứng của tế bào tại chỗ và lưu động biểu hiện ở sự to lên và tăng sinh
những tế bào trên. Sự to lên và tăng sinh này có lẽ là do tác động cơ học và hoá
học của kí sinh trùng kích thích chuyển hố tế bào vật chủ. Kết quả là mơ cũng
tăng sinh rồi xơ hố để bao vây, cô lập và cuối cùng tiêu hủy kí sinh trùng.
(Ví dụ: ở bệnh giun chỉ có hiện tượng màng nội mô thành mạch bạch huyết tăng
sinh, các tế bào nội mô tràn vào thành mạch lâu dần thành một bọc giữ chặt lấy

giun). Mạch bạch huyết bị hẹp lại, rồi bị tắc, dẫn đến phù nề, phù chân voi trong
bệnh giun chỉ.
Những phản ứng tế bào, mô thường có biểu hiện viêm tại chỗ, sưng, nóng,
đỏ, đau. Trong trường hợp ấu trùng giun soắn vào các thớ cơ kí sinh cũng tăng
sinh tổ chức xơ quanh ấu trùng. Ấu trùng trong nang nếu cịn sống cũng khơng di
chuyển được. Lâu dần nang được kết vôi, ấu trùng hồn tồn bị cơ lập, chất độc
của ấu trùng khơng thể thải vào máu gây hại được nữa.
Các phản ứng tế bào, mơ chống lại kí sinh trùng cũng như bất cứ mầm bệnh
nào khác hoặc các vật lạ xâm nhập vào cơ thể. Nó khơng có tính đặc hiệu, nên
xếp vào miễn dịch không đặc hiệu.
3.2.2.2. Phản ứng dịch thể:

Ở da, niêm mạc, có các chất tiết: axít béo chưa bão hồ, lysozym, có tác dụng
ngăn cản, loại trừ mầm bệnh.
Độ toan dịch vị ở dạ dày có tác dụng diệt kí sinh trùng, vi khuẩn đường tiêu
hố.
Trong máu có sẵn những chất chống vật lạ xâm nhập vào cơ thể đó là:
aglutinin (ngưng kết tố), immobilizin (bất động tố), bổ thể, interferon… Vai trò
của những chất này đối với kí sinh trùng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Người ta cho rằng: hiện tượng opsonin hố có vai trị tăng cường hoạt động
thực bào, để tiêu diệt mầm bệnh - biểu hiện rõ nhất với kí sinh trùng sốt rét.
Immobilizin có khả năng chống lại amíp lị.
Hiện nay đã có những ứng dụng gây miễn dịch khơng đặc hiệu, dùng các tác
nhân kích thích hệ thống miễn dịch chống lại kí sinh trùng:
+ Dùng vi khuẩn chết (Corynebacterium parvum) chống lê dạng trùng của
gậm nhấm. Bacbesia rodhaini và Babesia microti bảo vệ được chuột sau khi tiêm
liều tấn công 21 - 28 ngày. Tác dụng bảo vệ kéo dài 6 - 12 tháng.

31



+ Dùng vi khuẩn sống (Mycobacterium bovis BCG) chống lại kí sinh trùng
sốt rét ở động vật gậm nhấm. BCG cũng có tác dụng bảo vệ thỏ chống lại
Toxoplasma gondii, bảo vệ động vật thực nghiệm chống lại Schistosoma
mansoni, Echinococcus multocularis và Trichinella spiralis.
Các yếu tố hoà tan, TNF (Tumorous Necrosis Factor) và interferon ó có tác
dụng ngăn cản chuyển hố và phân chia của kí sinh trùng.
NK (Natural killer cell) thuộc quần thể dạng lympho hoạt động do interferon
ó kích thích gây độc tố tế bào ung thư và tế bào đích khác. NK là thành phần
miễn dịch tế bào tự nhiên.
3.2.3. Đáp ứng miễn dịch đặc hiệu:

Khi có mặt kí sinh trùng trong cơ thể, có phản ứng dịch mơ chống lại chúng
một cách đặc hiệu (do có kháng thể).
Cơ chế sinh kháng thể khi có mặt kí sinh trùng cũng tương tự như khi có vi
sinh vật hoặc bất kì vật lạ nào khác có tính kháng ngun. Nhưng kháng ngun
kí sinh trùng có những đặc điểm về mặt cấu trúc khác với vi sinh vật, nên miễn
dịch đặc hiệu trong các bệnh kí sinh trùng có những đặc điểm riêng.
3.2.3.1. Đặc điểm kháng nguyên kí sinh trùng:

Kí sinh trùng cũng như vi sinh vật là những vật lạ vào cơ thể vật chủ và là
những kháng nguyên kích thích cơ thể sinh ra kháng thể.
Kí sinh trùng so với vi sinh vật có cấu trúc kháng nguyên phức tạp hơn nhiều:
Do kí sinh trùng gồm nhiều thành phần khác nhau. Mỗi loại kí sinh trùng có
khoảng 15 - 30 yếu tố biểu hiện “ dạng kháng ngun”.
Kí sinh trùng có những thay đổi về cấu trúc kháng nguyên tùy theo giai đoạn
phát triển trong cơ thể vật chủ.
Ví dụ: kí sinh trùng sốt rét có giai đoạn phát triển trong gan, có giai đoạn phát
triển trong hồng cầu, có giai đoạn là giao bào. Mỗi giai đoạn có những thành
phần kháng ngun khác nhau.

Nhìn chung mỗi kí sinh trùng đều có những kháng ngun ở thân, kháng
nguyên tổ chức như vỏ, cơ… Có những kháng nguyên là chất độc do chúng tiết
ra hoặc thải ra (kháng ngun chức phận).
Tuy nhiên mỗi lồi kí sinh trùng có những thành phần kháng nguyên phức
tạp nhưng đều có những đặc điểm sau:
+ Có quyết định kháng nguyên (determinant) sinh kháng thể đặc hiệu chống
lại kí sinh trùng. Có thể tách chiết các quyết định kháng nguyên này bằng kĩ thuật
kháng thể đơn clon (monoclonal antibody). Khác với kháng nguyên vi sinh vật,

32


quyết định kháng ngun của kí sinh trùng thường khơng được bộc lộ mà ở trong
tình trạng phức hợp.
+ Kháng ngun kí sinh trùng có những thành phần chung ở nhiều lồi kí
sinh trùng trong cùng một họ. Ví dụ: các lồi giun trịn có khoảng một nửa, các
lồi sán lá có khoảng 1/3, các lồi sán dây có ít nhất 2/3 thành phần kháng
nguyên chung giống nhau. Những kháng nguyên này cũng kích thích cơ thể vật
chủ sinh kháng thể, nhưng thường có miễn dịch chéo giữa các lồi trong cùng
một họ, vì thế kháng thể sinh ra khơng có tác dụng bảo vệ. Nhiều khi có phản
ứng miễn dịch (phản ứng huyết thanh chẩn đoán) với hiệu giá cao, nhưng khơng
có nghĩa là có miễn dịch tốt chống lại kí sinh trùng.
+ Kí sinh trùng có những thành phần kháng nguyên giống kháng nguyên của
vật chủ. Ví dụ: kí sinh trùng sốt rét có trọng lượng phân tử 30.000 - 33.000 giống
như trọng lượng phân tử của huyết cầu tố người (Williamson, 1967) hoặc protein
của kí sinh trùng sốt rét có kích thước trung bình giống như albumin của người
với hệ số li tâm là 4,5 S. Thân sán máu (Schistosoma mansoni) phủ một lớp
protein giống như protein của người (Smithero Terry, 1967). Capron, 1968 đã
nghiên cứu trên 30 loại giun sán khác nhau, thấy cấu trúc kháng ngun của sán
lá, sán dây, giun trịn đều có những thành phần giống kháng nguyên của vật chủ

là động vật khơng xương sống, hoặc động vật có xương sống trong đó có cả
người. Có nhận xét là ở giai đoạn đầu bị nhiễm sán lá, cơ thể người có kháng thể
chống ốc (vật chủ phụ của sán lá).
Để giải thích tính giống kháng ngun vật chủ có giả thuyết cho rằng: kí sinh
trùng có một hệ thống mã tổng hợp protein của vật chủ sau khi xâm nhập vật chủ.
Đó là do nhận được tín hiệu dịch thể của vật chủ, một số mã bị ức chế và số khác
điều khiển sự tổng hợp protein thích ứng. Như vậy có nghĩa là khi cơ thể vật chủ
sinh kháng thể tác động đến kí sinh trùng thì kí sinh trùng tìm cách tránh khỏi tác
động của kháng thể bằng cách thay đổi cấu trúc kháng ngun của mình. Thuyết
thơng tin này có thể giải thích hiện tượng kí sinh là kết quả của những khả năng
cảm ứng đó. Sự kí sinh đặc hiệu (với vật chủ bắt buộc) là giới hạn rất hẹp của
khả năng cảm ứng. Ví dụ: giun đũa ở người (Ascaris lumbricoides) chỉ tổng hợp
được protein giống như của người mà khơng có được khả năng đó đối với lợn.
Do vậy chỉ có người là vật chủ bắt buộc của giun đũa (Ascaris lumbricoides).
Có thuyết cho rằng: sống ở mơi trường nào, kí sinh trùng đều mượn protein
của mơi trường đó để phủ lên bề mặt cơ thể mình, ngay cả ở mơi trường ni cấy
nhân tạo. Có thuyết giải thích là do q trình sống lâu đời với vật chủ, kí sinh
trùng phải thích nghi với điều kiện sống trong cơ thể khác loài để khỏi bị tiêu
33


diệt. Đó là mối quan hệ với vật chủ - kí sinh trùng, trong đó sự chọn lọc tự nhiên
và biến dị của kí sinh trùng dẫn đến giảm bớt sự khác biệt giữa kí sinh trùng và
vật chủ. Tất cả các thuyết đều công nhận sự giống nhau về cấu trúc kháng
nguyên của kí sinh trùng với kháng nguyên của vật chủ, nhất là kháng nguyên bề
mặt của kí sinh trùng, giống như áo ngụy trang. Chính nhờ có áo ngụy trang này
mà kí sinh trùng tồn tại được trong cơ thể vật chủ.
3.2.3.2. Miễn dịch dịch thể đặc hiệu (đáp ứng dịch thể):

Kháng thể chống kí sinh trùng cũng như kháng thể chống vi khuẩn bao gồm

những globulin miễn dịch: IgG, IgM, IgA, IgD, IgE. Do đặc điểm cấu trúc kháng
nguyên của kí sinh trùng, do tính biến đổi kháng nguyên giống kháng nguyên của
vật chủ nên kháng thể khơng mạnh, khơng bền. Vì vậy kháng thể bảo vệ ít có khả
năng tiêu diệt được kí sinh trùng. Tuy nhiên kháng thể vẫn bảo vệ được vật chủ
chống lại các chất độc hại của kí sinh trùng.
* Tác dụng của kháng thể trong bệnh kí sinh trùng:
+ Ngăn cản mầm bệnh kí sinh trùng bám vào niêm mạc ruột, niêm mạc
đường hơ hấp, tiết niệu… Ví dụ: vai trò của kháng thể IgA tiết.
+ Ngăn cản mầm bệnh kí sinh trùng lan tràn. Kháng thể bảo vệ trong bệnh sốt
rét ngăn merozoites xâm nhập vào hồng cầu cũng giống như kháng thể ngăn
virus cúm bám vào màng tế bào.
+ Kháng thể có tác dụng trung hồ độc tố do kí sinh trùng tiết ra hoặc thải ra.
+ Kháng thể tham gia vào q trình opsonin hố, sau khi xuất hiện kháng thể
đặc hiệu tạo ra khả năng opsonin hoá. Kháng thể, bổ thể gắn vào màng tế bào của
mầm bệnh. Đại thực bào, bạch cầu trung tính có thụ thể gắn vào Fc (Crystalzable
fragment) của kháng thể và thụ thể gắn với bổ thể C3 làm cho đại thực bào, bạch
cầu trung tính dễ dàng tóm được mầm bệnh và thực bào chúng.
+ Kháng thể tham gia đáp ứng miễn dịch dịch thể qua cơ chế ADCC
(Antibody Dependent Cell - mediated Citotoxicity) gây độc tế bào phụ thuộc vào
kháng thể chống lại kí sinh trùng: kháng thể IgG kết hợp với bạch cầu ái toan
(Eo) có tác dụng diệt Schistosoma sp., kháng thể IgE kết hợp với mastocyte có
tác dụng diệt Schistosoma sp.
* Vai trị của các globulin miễn dịch trong bệnh kí sinh trùng:
+ IgG có vai trò trong bệnh sốt rét, bệnh Leishmania do ngăn thể
proamastigote xâm nhập vào cơ thể.
+ IgM có vai trị trong bệnh trùng roi đường máu do Trypanosoma sp., trong
bệnh sốt rét do chống lại giao bào (gametocyte) và ức chế sinh sản trên in vitro.
34



+ IgA được ứng dụng để chế ra vaccine khi uống làm tăng tiết IgA ở niêm
mạc đường tiêu hoá. Tế bào lympho B mang IgA từ ruột đến tuyến sữa, từ đó gây
miễn dịch cho động vật sơ sinh chống lại sán dây bò (Taenia saginata). Các IgA
tiết ở niêm mạc đường tiêu hố, hơ hấp có tác dụng ngăn cản kí sinh trùng bám
vào niêm mạc.
+ IgE có hàm lượng thấp trong máu ngoại vi, có vai trị gây phản vệ và tham
gia vào đáp ứng miễn dịch gây độc tế bào phụ thuộc kháng thể (ADCC).
Một hiện tượng đặc biệt đáng chú ý là trong các bệnh giun sán, kháng thể IgE
thường tăng. IgE là globulin miễn dịch có tính chất ưa tế bào. Khi được sản sinh
ra, IgE gắn vào các tế bào mastocyte. Khi có mặt kháng nguyên lần sau, phản
ứng kháng thể, kháng nguyên xảy ra trên bề mặt tế bào mastocyte và kích thích
các hạt của tế bào giải phóng ra các amin như: serotonin, heparin, prostaglandin,
histamin. Histamin có tác dụng làm co thắt cơ trơn, giãn mạch, gây phù nề và là
chất trung gian hoá học gây hiện tượng dị ứng.
Đồng thời các tế bào cũng giải phóng ra những chất hố ứng động làm tăng
sinh bạch cầu ái toan (Eo). Bạch cầu Eo có tác dụng trung hồ histamin chống
phản ứng quá mẫn gây dị ứng và tham gia vào phản ứng kháng nguyên kháng thể
để chống kí sinh trùng.
Ở Việt Nam và các nước chậm phát triển, nguyên nhân hàng đầu gây tăng
cao bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi thường là do nhiễm kí sinh trùng (trừ đa
số đơn bào và vi nấm).
3.2.3.3. Miễn dịch tế bào đặc hiệu:

Các kháng ngun khi vào cơ thể ngồi việc kích thích lympho B biệt hố
thành tế bào plasma để sinh ra kháng thể, cịn kích thích hoạt hố tế bào lympho
T để hình thành một dạng đáp ứng miễn dịch đặc hiệu khác gọi là đáp ứng miễn
dịch qua trung gian tế bào (gọi tắt là đáp ứng miễn dịch tế bào).
Đáp ứng miễn dịch tế bào được thể hiện rõ rệt trong trường hợp các kí sinh
trùng kí sinh trong tế bào. Đặc biệt chú ý trong các bệnh kí sinh trùng sau: bệnh
do đơn bào: Toxoplasma gondii, Plasmodium sp., Leishmania donovani,

Trypanosoma cruzi. Bệnh do nấm: Candida albicans, Cryptococcus neoformans,
Histoplasma capsulatum…
Những tế bào tham gia trong đáp ứng miễn dịch tế bào là một số tiểu quần
thể thuộc quần thể lympho T và đại thực bào: TDT H (Delayed Type
Hypersensitivity - T lymphocyte) gây quá mẫn muộn. TDT H sản xuất ra các yếu tố

35


hoà tan, gọi là lymphokine (MIP, MAP là các yếu tố hoá ứng động…) khi tế bào
này đã mẫn cảm, tiếp xúc lại với các kháng nguyên đặc hiệu.
Các lymphokine bao gồm:
+ Yếu tố ức chế di tản đại thực bào MIF (migration inhibition factor).
+ Yếu tố hoạt hoá Mệ- MAF (macrophage activating factor).
+ Yếu tố ngưng tập Mệ (macrophage aggregating factor).
+ Yếu tố hoá hướng dành cho Mệ (chemotactic factor for Mệ).
+ Yếu tố hoá hướng dành cho bạch cầu trung tính (chemotactic factor for N).
+ Yếu tố hố hướng dành cho bạch cầu ái toan (chemotactic factor for Eo).
+ Yếu tố hoá hướng dành cho bạch cầu ái kiềm (chemotactic factor for
basophillis).
+ Yếu tố tham gia vào sự tương tác T - B, T - T.
+ Yếu tố sinh nguyên bào (blastogen factor).
+ Yếu tố vận chuyển (transfer facter).
+ Lymphotoxin.
+ Interferon.
Lymphokine hoạt hoá đại thực bào và các bạch cầu trung tính, ái kiềm, ái
toan làm cho chúng diệt được mầm bệnh (kí sinh trùng, vi sinh vật…) và tạo hạt.
Đại thực bào được hoạt hố cịn được gọi là tế bào thực hiện (effector cell).
Ngoài đại thực bào được hoạt hố bởi lymphokine, cịn có một số đại thực
bào tự có khả năng vây bắt và xử lí kháng ngun (kháng ngun phụ thuộc

tuyến ức) sau đó trình diện các quyết định kháng nguyên (antigen presenting
cell), hoặc là tế bào phụ gia (accessory cell). Để giới thiệu các quyết định kháng
nguyên cho các tế bào lympho T.
Tiểu quần thể lympho T gây độc: Tc (cytotoxicity T lymphocyte) mẫn cảm
diệt được tế bào nhiễm virus, nhưng chưa chứng minh được trực tiếp diệt đơn
bào kí sinh. Hiệu quả sự hoạt động của lympho Tc còn chịu ảnh hưởng của kháng
nguyên phù hợp tổ chức.
Bạch cầu ái toan (Eo) đáp ứng với các yếu tố hoá hướng sinh ra từ mơ đang
có phản ứng dị ứng hoặc từ phản ứng miễn dịch của cơ thể chống lại kí sinh
trùng. Tế bào mastocyte cũng tiết ra yếu tố hoá hướng Eo. Eo tham gia phản ứng
viêm, Eo có ít trong máu, nhưng tập trung tại nơi có phản ứng viêm. Trong đáp
ứng miễn dịch cơ chế độc tế bào phụ thuộc kháng thể ADCC, Eo đóng vai trị là
một tế bào thực hiện (effector cell).

36


Trên màng Eo có thụ thể đối với Ig. Đó là hai protein có trọng lượng phân tử
55.000 và 58.000. Hai protein này chỉ có sau khi được kích thích bằng kháng thể
và xuất hiện truớc hiện tượng thoát bọng (degranulation). Eo khi được hoạt hoá
sẽ tiết ra chất ECP (Eosinophil cationic protein). Trong đáp ứng miễn dịch đặc
hiệu với kí sinh trùng chất tiết ECP tác dụng lên kí sinh trùng, đồng thời cũng
gây hại cho vật chủ (tổ chức thần kinh và tim). Eo còn tiết ra chất EMP
(Eosinophil major protein) có tác dụng bất hoạt histamin. Eo trong cùng một
quần thể, khi nhiễm kí sinh trùng dịng Eo có thụ thể Fc.ồ R cao hơn dịng Fc có
thụ thể Fc.ó R (Fc.ồ R thụ thể đối với phần Fc của IgE và Fc.ó R là thụ thể đối
với phần Fc của IgG).
3.2.4. Kí sinh trùng chống lại đáp ứng miễn dịch:
3.2.4.1. Kí sinh trùng né tránh cơ quan miễn dịch:


* Kí sinh trùng chui vào tổ chức, tế bào, bạch cầu đơn nhân, đại thực bào:
Ví dụ: giun soắn (Trichistoma spiralis) chui vào tổ chức cơ thể để tránh đáp
ứng miễn dịch. Leishmania chui vào bạch cầu, đại thực bào. Kí sinh trùng sốt rét
chui vào hồng cầu…
Chúng sống được trong các tế bào do các nguyên nhân sau:
+ Bề mặt hồng cầu có ít kháng ngun phù hợp với tổ chức, yếu tố cần cho
lympho Tc hoạt động.
+ Trong tế bào monocyte, kí sinh trùng sống được do chúng kháng lại độc
tính của lysosome (kí sinh trùng được nhiều ti thể mitochondria bao quanh).
+ Chống lại các enzym trong lysosome: rời khỏi không bào thực bào
(phagocytic vacuole) để đi đến gian bào.
+ Chống lại quá trình oxy hố do q trình thực bào và hoạt hố đại thực bào
gây ra.
* Kí sinh trùng tạo nên sự cô lập cách biệt với vật chủ:
+ Tạo u hạt (granuloma), trong phản ứng viêm các mô sợi phát triển tạo
thành các vách ngăn (tác dụng quan trọng về phía vật chủ - kí sinh trùng khơng
gây hại được). Ví dụ: trong bệnh do Schistosoma mansoni ở động vật có mô sợi
phát triển kém, tổn thương tế bào gan nhiều hơn động vật có mơ sợi phát triển
tốt. Các mơ sợi tạo nên sự ngăn cách giữa vật chủ với kí sinh trùng.
+ Tạo vỏ, tạo bọng: vỏ trứng giun chỉ, còn được giữ lại ở ấu trùng giun chỉ.
Bọng bảo vệ nuôi dưỡng đầu sán trong nang ấu trùng sán dây lợn, sán dây bò.
Vỏ, bọng tạo nên sự cách biệt giữa vật chủ với kí sinh trùng.
* Kí sinh trùng tránh kí sinh ở mơ:

37


×