<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Thuy t minh
<b>ế</b>
Thuy t minh
<b>ế</b>
</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>
<i><b>Hồ Hồn Kiếm –Lẵng hoa giữa lịng thành phố- </b></i>
<i><b>Hồ Hồn Kiếm –Lẵng hoa giữa lịng thành phố- </b></i>
<i><b>Niềm tự hào của người Hà Nội</b></i>
</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>
<i><b>Lịch Sử</b></i>
<i><b>Lịch Sử</b></i>
<i><b>Cách đây khoảng 6 thế kỷ, hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ </b></i>
<i><b>phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố </b></i>
<i><b>Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh </b></i>
<i><b>biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ.</b></i>
<i><b>Tương truyền vào thế kỷ 15 hồ được đổi tên thành hồ Hoàn </b></i>
<i><b>Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, </b></i>
<i><b>ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu 10 năm của nhân dân Việt </b></i>
<i><b>Nam chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh đạo của Lê </b></i>
<i><b>Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn </b></i>
<i><b>(Thanh Há) có mị được một lưỡi gươm, sau đó lại nhặt được </b></i>
<i><b>một cái chuôi ở ruộng cày. Gươm báu này đã theo Lê Lợi </b></i>
</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>
<i><b>Truyền thuyết</b></i>
<i><b>Truyền thuyết</b></i>
<b>Khi ấy Nhà vua cùng người ở trại Mục-sơn là Lê Thận </b>
<b>cùng làm bạn keo sơn. Thận thường làm nghề quăng </b>
<b>chài. Ở xứ vực Ma-viện, đêm thấy đáy nước sáng như </b>
<b>bó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng được gì </b>
<b>cả. Chỉ được một mảnh sắt dài hơn một thước, đem về </b>
<b>để vào chỗ tối. Một hôm Thận cúng giỗ (ngày chết của </b>
<b>cha mẹ), nhà vua tới chơi nhà. Thấy chỗ tối có ánh </b>
<b>sáng, nhận ra mảnh sắt, nhà vua bèn hỏi: </b>
<b>- Sắt nào đây? </b>
<b>Thận nói: </b>
<b>- Đêm trước quăng chài bắt được. </b>
<b>Nhà vua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay. Nhà vua đem về </b>
<b>đánh sạch rỉ, mài cho sáng, thấy nó có chữ "Thuận </b>
</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>
<i><b>Lại một hơm, nhà vua ra ngồi cửa, thấy một cái chi gươm đã </b></i>
<i><b>mài-dũa thành hình, nhà vua lạy trời khấn rằng:</b></i>
<b>- </b>
<i><b>Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chuôi và lưỡi liền nhau!</b></i>
<i><b>Bèn lấy mảnh sắt lắp vào trong chuôi, bèn thành ra chuôi gươm.</b></i>
<i><b>Tới hôm sau, lúc đêm, trời gió mưa, sớm ngày mai, hồng hậu ra </b></i>
<i><b>trông vười cải, bỗng thấy bốn vết chân của người lớn, rất rộng, </b></i>
<i><b>rất to. Hoàng hậu cả kinh, vào gọi nhà vua ra vườn, được quả ấn </b></i>
<i><b>báu, lại có chữ Thuận Thiên (sau lấy chữ này làm niên hiệu) </b></i>
<i><b>cùng chữ Lợi. Nhà vua thầm biết ấy là của trời cho, lòng lấy làm </b></i>
<i><b>mừng, giấu giếm khơng nói ra.</b></i>
<i><b>Truyền thuyết kể tiếp rằng, sau Lê Lợi dùng thanh gươm báu đó </b></i>
<i><b>làm gươm chiến đấu, xơng pha chém địch nhiều trận, cuối cùng </b></i>
<i><b>đuổi được quân Minh làm vua</b></i>
<i><b>Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền ra hồ Thủy </b></i>
<i><b>Quân. Ra giữa hồ, có Rùa Vàng nổi lên mặt nước, chắn trước </b></i>
<i><b>thuyền của vua gọi to:</b></i>
<i><b>- Hãy trả gươm thần cho ta!</b></i>
</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6></div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>
<i><b>Đền Ngọc Sơn</b></i>
<i><b>Đền Ngọc Sơn</b></i>
<b>Nằm trên đảo Ngọc Sơn thuộc hồ Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.</b>
<b>Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới xong đền Ngọc Sơn lại là một </b>
<b>điển hình về khơng gian và tạo tác kiến trúc.</b>
</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>
• <b>Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. </b>
<b>Đền mới sửa được đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một </b>
<b>cây cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc Bội cũ, ông cho xây một </b>
<b>tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lơng, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" </b>
<b>(viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là tháp Bút.</b>
<b>Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá </b>
<b>hình nửa quả đào bổ đơi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc </b>
<b>một bài minh nói về cơng dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. </b>
<b>Người đời sau ca ngợi là: Nhất đài Phương Đình bút. Từ cổng ngồi đi vào có hai bức </b>
<b>tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng </b>
<b>cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học </b>
<b>hành.</b>
</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>
<i><b>THÁP BÚT:</b></i>
<i><b>THÁP BÚT:</b></i>
• <b>Tháp bằng đá ở ngơi đền tại Đảo Ngọc (đền Ngọc Sơn) ở Hà Nội. Vào năm </b>
<b>Tự Đức 18 (1865), ngơi đền được sửa sang lại tồn bộ, do án sát Đặng </b>
<b>Văn Tá đứng ra quyên tiền, cựu án sát Nguyễn Văn Siêu (lúc này đang có </b>
<b>ngơi trường dạy học ở giáp Giang Ngun bên bờ Sơng Tơ) góp ý xây </b>
<b>dựng và trang trí ngơi đền từ ngồi vào trong. Ngồi việc tu sửa ngơi đền, </b>
<b>các ơng cịn cho dựng một tháp bằng đá, cao 5 tầng, trên cùng là ngọn </b>
<b>bút lông cũng bằng đá, thân tháp viết ba chữ lớn "Tả Thiên Thanh". Tồn </b>
<b>bộ ngọn tháp được dựng trên mơ đất cao. Khi còn cung Khánh Thuỵ của </b>
<b>chúa Trịnh, mơ đất này được gọi là núi Ngọc Bội. Ngồi TB, trên nóc cổng </b>
<b>đi vào cầu Thê Húc, các ơng cịn cho dựng một Đài Nghiên bằng đá hình </b>
<b>nửa quả đào, đội thân đài là ba con ếch đá, có đơi câu đối trước cổng: </b>
<b>"Bát đảo mặc ngân hồ thuỷ mãn - Kình thiên bút thế thạch phong cao" </b>
<b>(Nước hồ đầy bóng nghiên vượt đảo - Núi đá cao thế bút chống trời). Qua </b>
<b>cầu Thê Húc vào đền, bắt gặp một đôi câu đối: "Kiếm hữu dư linh quang </b>
<b>nhược thuỷ - Văn tòng đại khối thọ như sơn" (Khí thiêng của kiếm sót lại </b>
<b>còn sáng ngời như nước - Văn học cùng khối lớn bền vững như núi).</b>
</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>
<i><b>Cầu Thê Húc</b></i>
<i><b>Cầu Thê Húc</b></i>
• <b>Xưa nay, hiếm du khách nào đến Hà Nội lại không muốn một lần đặt chân </b>
<b>lên cầu Thê Húc, cây cầu được coi là nét chấm phá độc đáo trong không </b>
<b>gian kiến trúc xinh đẹp của Hà Nội. Từ cây cầu này, ngước nhìn lên phía </b>
<b>Bắc là khu phố cổ, ngối nhìn về phía nam là Tháp Rùa cổ kính, trầm mặc </b>
<b>dưới sóng nước lăn tăn thẫm màu xanh cây lá. Ngắm từ xa, cầu dáng cong </b>
<b>cong như hình chiếc lược hồng của nàng cơng chúa kiều diễm đang </b>
<b>nghiêng mình chải tóc, bên cạnh những liễu rủ, phượng sa, cành đa cổ </b>
<b>tích… </b>
• <b>Nhớ lại thuở nào, vị trí cầu Thê Húc hôm nay chỉ là một chiếc cầu tre rung </b>
<b>rung mặt sóng. Cho đến năm 1865, theo ý tưởng của “Thần Siêu”- nhà văn </b>
<b>hóa Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), cầu Thê Húc được dựng lên với ý nghĩa </b>
<b>"nơi hội tụ ánh sáng ban mai", tựa như chiếc cầu vồng đưa du khách từ </b>
<b>Tháp Bút vào đền Ngọc Sơn. Cầu hoàn toàn bằng gỗ, sơn son, với 15 nhịp </b>
<b>uốn cong mềm mại, trở thành một phần không thể thiếu trong khu "linh địa" </b>
<b>Hồ Gươm, gắn với cụm cơng trình văn hóa liên hồn "Đền Ngọc Sơn, Cầu </b>
<b>Thê Húc, Tháp Bút, Đài Nghiên". </b>
•
<i><b>Cây cầu mang ý nghĩa “nơi hội tụ ánh sáng ban mai” cũng là nơi thỏa thích </b></i>
<i><b>ngắm nhìn Hồ Gươm.</b></i><b> Thời gian dẫu có trơi mau, dẫu có phơi phai theo mưa </b>
</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>
<i><b>Quang cảnh</b></i>
<i><b>Quang cảnh</b></i>
•
<i><b>Hồ Hồn Kiếm được du khách cho là một thắng cảnh </b></i>
<i><b>của Hà Nội. Quanh hồ trồng nhiều loại hoa và cây cảnh. </b></i>
<i><b>Giữa hồ có tháp Rùa, cạnh hồ có đền Ngọc Sơn. Xung </b></i>
<i><b>quanh hồ cịn có những di tích lịch sử khác như tượng vua </b></i>
<i><b>Lê Thái Tổ, cầu Thê Húc, tháp Bút, đền Bà Kiệu,... bên cạnh </b></i>
<i><b>những cơng trình kiến trúc hiện đại. Toà nhà Bưu điện với </b></i>
<i><b>tháp đồng hồ cổ kính in bóng hồ Gươm đã đi vào lòng </b></i>
<i><b>nhiều người dân Hà Nội.</b></i>
<i><b>Người dân Hà Nội sống ở khu vực quanh hồ có thói quen ra </b></i>
<i><b>đây tập thể dục vào sáng sớm, đặc biệt là vào mùa hè. Họ </b></i>
<i><b>gọi các khu phố nằm quanh hồ là Bờ Hồ.</b></i>
</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12></div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>
<i><b>Cảm hứng nghệ thuật</b></i>
<i><b>Cảm hứng nghệ thuật</b></i>
•
<i><b>Tuy khơng phải là hồ lớn nhất trong thủ đơ, song </b></i>
<i><b>hồ Hồn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm </b></i>
<i><b>tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một </b></i>
<i><b>quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra </b></i>
<i><b>một khoảng khơng đủ rộng cho những sinh hoạt </b></i>
<i><b>văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn </b></i>
<i><b>thế, hồ gắn với huyền sử, là biểu tượng khát khao </b></i>
<i><b>hịa bình (trả gươm cầm bút), đức văn tài võ trị </b></i>
</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>
<i><b>Thơ văn</b></i>
<i><b>Hà Nội </b></i>
<i><b>...</b></i>
<i><b>Hà Nội có Hồ Gươm </b></i>
<i><b>Nước xanh như pha mực </b></i>
<i><b>Bên hồ ngọn Tháp Bút </b></i>
<i><b>Viết thơ lên trời cao </b></i>
<i><b>Trần Đăng Khoa - 1969</b></i>
<i><b>Âm nhạc</b></i>
<i><b> Hà Nội niềm tin và hy vọng </b></i>
</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15></div>
<!--links-->