Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Dien Tich trong Truyen Kieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.77 KB, 27 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Điển Tích trong Truyện Kiều </b>


<b>Ả Lý - Nàng Oanh. </b>


<b>Trích từ câu :</b>


<b>Dâng thư đã thẹn nàng Oanh </b>
<b>Lại thua ả Lý bán mình hay sao ? </b>
<b>Nàng oanh </b>


<b>Đời nhà Hán có Thuần Vu Ý làm quan đất tề ; nhà khơng có con trai, chỉ sinh được 5 con gái, Đề Oanh là gái út. </b>
<b>Thuần Vu Ý mắc tội lớn phải thọ hình. Khi bắt giải tử tội về kinh , Đề Oanh đi theo cha. Đến kinh thành, nàng dâng thư </b>
<b>lên Hán Văn Đế tâu rằng, nếu cha chết đi, cũng không mảy may đền được chút tội; nay thân gái này khẩn thiết xin vua </b>
<b>được cho vào cung làm cung nhân thô (người làm sạch sẽ cho vua sau mỗi lần vua đi vệ sinh), để chuộc tội một phần nào </b>


<b>cho cha. Hán Văn Đế đọc thư của nàng Oanh, cảm động vì lịng hiếu hạnh của nàng nên tha tội cho Thuần Vu Ý.</b>
<b>Ả Lý</b>


<b>Thời Hán Vũ Đế, ở quận Mân Trung đất Đông Việt., trong một cái hang sâu có con rắn khổng lồ; dân chúng trong vùng </b>
<b>rất kinh hãi, gọi là thần rắn. Hàng năm phải cung cho thần rắn một người con gái đồng trinh thì dân mới yên ổn làm ăn. </b>
<b>Nhưng dần cũng hết, tìm đâu ra con gái\. </b>


<b>Bấy giờ ở huyện Tương Lạc, có nàng Lý Ký, nhà nghèo xơ xác, cả cha mẹ đều bệnh năng không tiền thuốc thang. Nàng </b>


<b>Lý đã trốn cha mẹ, đến cửa quan tự nguyện bán mình nộp mạng cho rắn, rồi nhờ chuyển tiền về cho cha mẹ.</b>


<b>Nàng xin quan lệnh ban cho một cây gươm bén và một con chó dữ. Vào bên trong hang, nàng thả chó dữ ra chiến đấu với </b>


<b>rắn, và dùng gươm chém rắn từng khúc.</b>


<b>Dư Thiện là cháu lâu đời của Việt Câu Tiễn được Hán Vũ Đế phong vương ở đất Đông Việt. Biết được chuyện người con </b>



<b>gái hiếu thảo, can trường, Đơng Việt vương đã đón ả Lý về làm vợ.</b>


<b>Ả Tạ- Nàng Ban </b>


<b>Khen tài nhả ngọc phun châu</b>


<b>Nàng Ban, Ả Tạ cũng đâu thế này </b>
<b>Nàng Ban </b>


<b>Ban Chiêu tự là Huê Cơ là người đàn bà hay chữ đời Đông Hán. Năm mười lăm tuổi Ban Chiêu đã biết làm thơ và làu </b>


<b>thông Tứ Thư, Ngũ kinh. Lấy chồng là Tào Thế Thức, một danh nho của Đơng Hán. Sống chung được mười năm thì Tào </b>
<b>Thế Thức qua đời vì bệnh; Ban Chiêu thủ tiết thờ chồng.</b>


<b>Đời vua Hoà Đế, Ban Chiêu được triệu vào cung để dạy học cho các hoàng tử và các phi tần. Lúc bấy giờ cha của bà là </b>


<b>Ban Bưu đang tại chức Đông các đại học sĩ, chịu trách nhiệm soạn thảo bộ Hán Thư. Cơng việc đang cịn dang dở thì ơng </b>


<b>qua đời. Anh của ban Chiêu là Ban Cố được nhà vua chỉ định tiếp tục cơng trình của cha. Nhưng chẳng bao lâu, Ban Cố </b>


<b>cũng qua đời vì bạo bệnh, trong khi bộ Hán thư vẫn chưa xong. Ban Chiêu tâu với vua cho bà được tiếp nối cơng trình. </b>
<b>Vua Hịa đế chấp thuận và bà được sung vào Đông các tàng thư tiếp tục soạn bộ Hán thư cho đến hoàn tất.</b>


<b>Trong thời gian ở Đông các tàng thư, Ban Chiêu đã trước tác tập Nữ Giới, gồm bảy thiên. Từ đó lẫy lững tài danh Ban </b>
<b>Chiêu. </b>


<b>Ả Tạ</b>


<b>Ả Tạ là Tạ Đào Uẩn, con gái quan Thái úy Tạ Công đời nhà Tấn, có nhan sắc tuyệt trần lại thơng minh nhất mực. thơ </b>



<b>phú hay lừng tiếng.</b>


<b>Trong cùng một vùng, có họ Vương cũng dịng giỏi gia phong, con cháu cũng thuộc vào bậc vọng tộc. Họ Tạ và họ Vương </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Tạ Đạo Uẩn lúc nhỏ đã thơng minh, học rộng lại có tài biện luận. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ </b>
<b>Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết, hỏi: - </b>
<b>Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?</b>


<b>Tạ Lãng đáp: - Muối trắng ném giữa trời.</b>


<b>Tạ Đạo Uẩn bảo: - Thế mà chưa bằng "Gió thổi tung tơ liễu</b>


<b>Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu </b>


<b>rằng: - Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bực công khanh.</b>


<b>Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên với Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.</b>


<b>Làm vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt </b>


<b>bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.</b>


<b>Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện </b>


<b>luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm một cái màn che </b>
<b>lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện luận với khách.</b>


<b>Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.</b>


<b>Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ có tài danh về thi phú văn chương. Về sau, các nhà văn học thường dùng tiếng "nàng </b>


<b>Ban, ả Tạ" để chỉ người phụ nữ tài giỏi, có danh tiếng về văn chương thi phú. </b>


<b>Gặp cơn bình địa ba đào </b>


<b>Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em. </b>
<b>Tích truyện :</b>


<b>Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hố Chiêu, Lương Tiểu Ngạ Tiểu </b>


<b>Nga là con một gia đình thúc nho lễ giáo, nổi tiếng là một trang quốc sắc thiên hương; thuở nhỏ được cha mẹ cho theo đòi </b>


<b>bút nghiên, mười hai tuổi đã biết làm thơ phú, đọc thơng các sách thánh hiền. Hố Chiêu là học trị của cha Tiểu Nga; </b>


<b>cậu học trị nghèo, mồ cơi cha, thông minh, ham học, mặt mày khôi ngô, được thầy thương, gả con gái và cho ở rể. Sống </b>


<b>chung với nhau được ba năm, thì bố mẹ vơ, lần lượt qua đời, để lại cho vợ chồng một căn phố và ít vốn liéng để mở một </b>


<b>tiệm tạp hóa.</b>


<b>Đời sống cũng được êm đềm. Trong vùng, các văn nhân thỉnh thoảng đến mua hàng và cùng vợ chồng Trần Hóa Chiêu </b>


<b>xướng họa ngâm thơ. Cũng khơng ít khách lai vãng thường xuyên đến đó vờ vĩnh mua hàng, để được dịp chiêm ngưỡng </b>


<b>dung nhan Tiểu Nga; có phú hộ Trát Hiếu Sắc cũng thuộc loại khách này. </b>


<b>Nhưng khơng như những mối tình câm kia, đến nhìn để rồi thầm yêu trộm nhớ, Hiiếu Sắc đã manh tâm chiếm hữu người </b>
<b>đàn ba này cho được. Phú hộ tìm hiểu, biết vợ chồng vì ham thích thơ văn , nên bng lỏng chuyện mua bán, vốn liếng </b>


<b>cụt dần. Phú hộ ra tay hào hiệp, cho mượn vàng bạc để gầy dựng lại. Ngại ngùng lần đầu, nhưng rồi tiếp những lần sau, </b>



<b>Hoá Chiêu cầm vàng bạc mượn đi buôn bán xa, chuyến nào cũng lời khẫm. Lần nào, vợ chồng cũng nài nỉ hoàn lại vốn </b>


<b>và trả lời, nhưng Hiếu Săc đều từ chối lấy lãi. </b>


<b>Cứ vậy, hai năm họ trở thành bạn thâm giao. Hiếu Sắc ln tỏ ra mình là người đàng hồng, nghiêm túc, khơng bao giờ </b>
<b>đến nhà bạn trong lúc vắng mặt Hoá Chiêu; những lúc tiếp chuyện với Lương Tiểu Nga, luôn luôn giữ thái độ đứng đắn. </b>


<b>Vợ chồng Hố Chiêu vui mừng có được người bạn hiền, hào phóng. Khi tự xét lý lịch "nằm vùng" của mình đã đến lúc </b>


<b>kết nạp được, Hiếu Sắc đề nghị chung vốn làm ăn lớn. Vợ chồng Hóa Chiêu hồn tồn tin tưởng, hớn hở nhận lời ngay.</b>


<b>Việc buôn bán phất lên nhanh, nhưng Hiếu Sắc vẫn cương quyết không bao giờ nhận chia lãi, nại lý do để giúp vợ chồng </b>


<b>bạn.</b>


<b>Một lần, Hiếu Sắc bàn với Hóa Chiêu phải đi bn một chuyến lớn ở Hàng Châu xa xôi và thuê thuyền xong, cả hai cùng </b>


<b>lên đường. Ròng rã cả tháng trời thuyền mới đến Hàng Châu vào một đêm trăng thanh gió mát. Hai người đem rượu ra </b>


<b>mũi thuyền đối ẩm tâm sự Hố Chiêu, tình thật, ngâm một câu thơ, lại ngậm một chén rượu ; Hiếu Sắc thì cứ làm động </b>


<b>tác giả, hắt rượu qua vai. Quá nửa đêm, Hoá Chiêu rụng, người mềm nhũn. Lúc bấy giờđám gia nhân dưới thuyền cũng </b>
<b>đã ngủ saỵ Hiếu Sắc lơi Hóa Chiêu, xơ xuống sơng. Đơi ba lần Hố Chiêu ngoai ngóp trồi đầu lên, Hiếu Sắc lại dùng sào </b>
<b>dìm xuống cho đến khi mặt nước khơng cịn sủi bọt nữa.</b>


<b>Khơng cần phải bn bán chi, Hiếu Sắc cho thuyền quay về Tề Hàng ngay. Mẹ Hoá Chiêu và Tiểu Nga đau lòng với nỗi </b>


<b>bất hạnh, nhưng vần cảm kích Hiếu Sắc đã bỏ cả chuyến hàng lớn để vội vàng trở về báo hung tin.</b>


<b>Rồi sau đó, đều đều, Hiếu Sắc lui tới thăm viếng và cấp dưỡng cho mẹ Hố Chiêu và cơ vợ góa trẻ. Và lần nào nước mắt </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Người đời càng nể trọng hơn khi thấy Hiếu Sắc ân cần chăm sóc mẹ của Hố Chiêu chu đáo hơn vợ bạn, khiến mẹ già </b>
<b>cũng có phần đăm chiêu </b>


<b>Ba năm sau, mãn tang. Hiếu Sắc cho người đến thưa chuyện với mẹ Hóa Chiêu xin cưới Tiểu Nga lam vợ. Bà mẹ đã đăm </b>


<b>chiêu nhiều, nên thuận tình ngay, khuyên nhủ con dâu nên bước thêm bước nữa.</b>


<b>Lương Tiểu Nga vốn là gái hiền thục, vẫn còn thương yêu người chồng vắn số, nhưng vẫn phải vâng lời mẹ chồng, tái giá.</b>
<b>Cưới được Lương Tiểu Nga rồi, Hiếu Sắc vẫn một mực chăm sóc mẹ Hố Chiêu; bà cũng an lịng nghĩ rằng con dâu mình </b>


<b>có được bóng mát cho cuộc đời cịn lại.</b>


<b>Vợ chồng ăn ở vơi nhau được mười năm, sinh được hai mụn con. Đời sống an nhàn. Một đêm trăng vào hạ, vợ chồng ra </b>


<b>ngồi hóng mát bên ao sen. Hiếu Sắc nhấm rượu, và ngấm rượu; Đương lúc đó, có con ếch nhảy lên một lá sen. Tiểu Nga </b>
<b>đưa cây sào thọc cho con ếch nhảy đi. Sào thọc xuống thì con ếch lặn, cất sào lên, nó lại trồi lên. Tiểu Nga phải thọc vào </b>
<b>con ếch mấy lần nữa, nó mới chịu lặn chìm mất.</b>


<b>Bất giác, Hiếu Sắc buột miệng ngâm:</b>


<b>"Hồiức thập tam niên tiền sự</b>


<b>Huyên tợ hà mô lục thủy thờị.</b>


<b>Nhớ chuyện mươi ba năm trước đây</b>
<b>Mường tượng ngày nay ếch ngóp ngoai</b>


<b>Nghe lời thơ lạ, Tiểu Nga bảo chồng lập lại để mình họa theo. Hiếu Sắc lè nhè đọc lại rồi cao hứng nói vợ lấy giấy bút cho </b>



<b>mình chép lại làm thủ bút. Thôi rồi, kẻ hào hiệp chung chăn gối với mình mười năm nay, thì ra là một kẻ nham hiểm </b>
<b>thâm độc.</b>


<b>Khơng thể để cho Hố Chiêu chết oan, Tiểu Nga đã nắ lấy vật chứng là hai câu thơ thủ bút của Hiều Sắc, đem đi trình </b>
<b>quan. </b>


<b>Bị bắt tra vấn, Hiếu Sắc khai hết sự thật câu chuyện hơn mười ba năm trước, vì đã cuồng si nhan sắc của Lương Tiểu </b>
<b>Nga nên đóng trò đạo đức, rồi bày mưu giết chồng đoạt vợ Trát Hiếu Sắc bị xử tội tử hình. </b>


<b>Đúng là sắc bất ba đào dị nịch nhân, nhan sắc đâu phải là sóng lớn mà cũng dìm chết người, hai người chồng đều phải </b>


<b>tức tưởi lìa đời.</b>


<b>Sắc đẹp là tội lỗi, nàng đã đến công đường, xin xử tội cái nhan săc nàỵ Nhưng luật pháp có bao giờ lại tử hình một hồng </b>
<b>nhan. Có chăng thì lạ gì bỉ sắc tư phong, hồng nhan phải tự mang lấy cái nghiệp chướng đa truân.</b>


<b>__________________ </b>
<b>Bảy chữ - Tám nghề</b>


<b>Này con thuộc lấy làm lịng </b>


<b>Vành ngồi bảy chữ, vành trong tám nghề</b>
<b>Chơi cho liễu chán hoa chê </b>


<b>Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời</b>


<b>Khi khóe hạnh, lúc nét ngài </b>


<b>Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa </b>
<b>Tích truyện :</b>



<b>Theo truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc):</b>


<b>Tú bà hỏi Kiều: Tiếp khách thế nào mới lưu được khách?.</b>


<b>Kiều trả lời: ngủ với ngươì ta chớ gì?; </b>


<b>Tú bà giẫy nẫy: con này mới ngu làm sao ! Nếu con gái nhà thổ cũng như con gái nhà lương gia thì ai buồn chơi. Nghề </b>
<b>chơi ở trong còn lắm điều hay, khi khách lên giường, thì mày nhường khách nằm trong, mày nằm ngoài, ngoảnh mặt lại </b>


<b>chầu khách; tay khách tất sờ vào mình mày, mày phải sờ hạ thể khách..</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>1. Khốc: khóc lóc giả bộ thương yêu, khách quyến luyến khơng rời được</b>


<b>2. Tiễn: cắt tóc mày và tóc khách, se vào nhau; mỗi người buộc vào cánh tay như thề nguyện kết tóc se tơ.</b>


<b>3. Thích : khi đã thỏa thê tình dục rồi, lấy kim chích tên của khách lên cánh tay hay đùi mày, lấy mực xoa vàọ Khách sẽ </b>


<b>trút hết tiền vì nghĩ rằng mày đã chết mê chết mệt nó, mới xăm tên nó lên thân thể mày như vậỵ Khách sau đến, trông </b>


<b>thấy ắt phải nghĩ rằng: không biết người đi trước đãi mày thế nào mà mày yêu đến thế. Tất nhiên sau đó sẽ hậu đãi mày </b>


<b>để được lòng mày, yêu hơn người trước. Nhân thể phải biết chau mày, nói: khách đi trước đã tiêu phí không biết bao </b>


<b>nhiêu tiền mới được lạc thú tuyệt đỉnh, do đó mới xăm tên, nay muốn được thích thú hơn, tất nhiên phải quăng tiền cho </b>


<b>mày. </b>


<b>4. Thiêu: là khổ nhục kế, hai đứa đều chích máu trong người ra để thề, phỏng gặp thằng ngu, mày cùng nó đốt huơng thề, </b>
<b>như thế thì nó táng gia bại sản cũng đáng đời.</b>



<b>5. Giá: dùng mẹo để lừa, cứ như mong được làm vợ, suốt ngày chỉ nói chuyện mơ ước về nhà chồng và các điều thề thốt. </b>


<b>Hễ nó đã mê, tự nhiên bỏ của ra; tiền đã hết rồi, nó muốn cưới, mày giả đau khơng dậy, thế thì chẳng phải đợi mày đuổi, </b>


<b>nó tự động cũng cút xéo.</b>


<b>6. Tẩu: khách chơi đã hết của, mày phải đuổi nó ra khỏi cửạ Nếu nó vẫn đeo, thì vờ hẹn nó đến một nơi nào đó, rồi nắm </b>


<b>áo lại, dọa sẽ tri hơ lên cho quan đến bắt kẻ lưu manh có ý cưỡng bức màỵ Tự khắc nó phải bỏ mày. </b>


<b>7. Tử: dẫu biết nó có vợ có hầu, mày vẫn thế thốt sống chết nếu khơng được sống chung thì tự vẫn; vậy nó có tiêu pha hết </b>


<b>của cho mày thì cũng phải.</b>


<b>Bảy chữ mới chỉ là mánh khóe bên ngồi để dụ dỗ khách. Cịn khi hành lạc, thì vành trong phải đủ tám nghề:</b>


<b>1. Với khách có hạ thân nhỏ thì dùng phép "đánh trống giục hoa" (kích cổ thơi hoa).</b>


<b>2. Với khách có hạ thân lớn thì dùng phép "sen vàng khóa xiết" (kim liên song tỏa).</b>


<b>3. Nếu khách hối hả, lụp chụp thì dùng phép "mở cờ đánh trống" (đại chiến kỳ cổ)</b>


<b>4. Nếu khách khoan thai thì dùng phép "đánh chậm gõ sẽ" (mạn đả khinh sao)</b>


<b>5. Với người mới " vỡ lịng "thì dùng phép "ba bậc đổi thế" (khẩn thuyên tam trật).</b>


<b>6. Gặp khách sành sỏi thì dùng phép "tỏa tâm truy hồn"</b>


<b>7. Gặp khách tay ngang tì dùng phép "tả chi hữu chì" </b>



<b>8. Đối với khách đam mê nhan sắc thì dùng phép "dềnh dàng hớp vía" (nhiếp thần phiến tỏa).</b>
<b>Băng nhân</b>


<b>Sự lòng ngỏ với băng nhân</b>
<b>Tin sương đồn đại, xa gần xơn xao</b>


<b>Tích truyện :</b>


<b>Văn nhân Linh Hồ Sách nằm mơ thấy mình đứng trên băng tuyết nói chuyện với một người lạ nằm dưới băng tuyết. </b>


<b>Linh Hồ Sách đem chuyện năm mơ của mình thuật lại cho Sách Thẩm, một người rất giỏi về thuật số. Sách Thẩm giải </b>


<b>mộng:</b>


<b>- Băng thượng nhân ngữ băng hạ nhân, tức là dương nói chuyện với âm. Điềm này tất có chuyện mai mối đây. Vậy nếu có </b>


<b>ai nhờ tiên sinh se duyên, thì cứ nhận lời. Đến khi băng tan, thì lương dun thành.</b>


<b>Mấy hơm saụ Linh Hồ Sách đưọc Điền Báo nhờ làm mối lái xin hỏi cưới con gái của Trương Công Vị. Linh Hồ Sách </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Bố Kinh</b>


<b>Đã cho vào bậc Bố kinh</b>


<b>Đạo tịng phu lấy chữ trinh làm đầu</b>


<b>Tích truyện :</b>


<b>ố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gaị Bố kinh lấy từ chuyện </b>


<b>Lương Hồng Mạnh Quang trong sách Di Uyển của Trung Quốc:</b>


<b>Lương Hồng là một hàn sĩ ơ Giang Nam, nhà nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩạ Nhiều người rất cảm </b>


<b>phục nhân cách của chàng , trong đó có một phú hộ thật tâm muốn tìm cách giúp đỡ . Lần đầu tiên tìm đến gặp Lương </b>


<b>Hồng, phú hộ muốn tặng chàng hai gói chè q ngọn hái từ đỉnh núi Vũ Di . Lương Hồng nhẹ nhàng thưa:</b>


<b>- Nếu có gì cần dạy bảo xin ngài vui lịng chỉ giáo, cịn lễ vật ngài cho tơi xin được phép từ chối.</b>


<b>Phú hộ đành cầm lễ vật ra về, trong lịng nghĩ hay là chàng nho sĩ kia vì nghĩ phận mình nghèo hèn khơng dám giao tiếp </b>


<b>với người giàu sang như ta. Nghĩ vậy nên ít ngày sau, phú hộ lại tìm đến, chân đi giày cỏ, cẩn thận buộc ngưa từ ngoài xa. </b>
<b>Trong lều tranh, Lương Hồng vẫn mải mê đọc sách; phú hộ kiên nhẫn chắp tay đứng đợi ngoài sân. Sau mấy canh giờ, </b>
<b>Lương Hồng chợt gấp sách, nhìn ra ngồi, trơng thấy vị khách đang đứng chờ. Chàng cung kính mời vào. Lần này phú </b>
<b>hộ chỉ xin tặng một gói trà ngang, nhưng bên trong lại có mấy nén vàng, gọi là chút tiền độ nhật cho hàn sĩ. Lương Hồng </b>


<b>nhất mực từ chối:</b>


<b>- Nếu ngài có ý coi trọng kẻ hèn nay thìhãy cư xử nhau bằng tình nghĩa; xin bảo trọng tình nghĩa trong sáng này, đừng để </b>


<b>lễ vật làm hoen ố đi.</b>


<b>Phú hộ lại phải đem lễ vật về và vẫn không nghĩ ra cách gì để giúp đỡ con ngươì liêm khiết này. Và khơng những chỉ có </b>


<b>phú hộ này, nhiều danh gia khác cũng nghe tiếng thơm Lương Hồng, muốn muốn đem gả ái nữ chọ Trong số này, có nhà </b>
<b>họ Mạnh, giịng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa </b>
<b>đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họMạnh </b>
<b>tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.</b>



<b>Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngờị </b>


<b>Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê khơng buồn động phịng hoa </b>
<b>chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã q lo âu, khơng hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối </b>


<b>cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai </b>


<b>đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mơi bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:</b>


<b>- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quý', giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩạ Ta chỉ </b>


<b>muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng ln có nhau, </b>
<b>tương kính nhau.</b>


<b>Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục.</b>


<b>__________________ </b>
<b>Tố Nga</b>


<b>Đầu lòng hai ả TỐ NGA</b>


<b>Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. </b>
<b>(Câu 15,16. Giới thiệu chị em Kiều)</b>


<b>Tố NGA:Tố là trắng. Nga là đẹp. Bài Nguyệt phú của Tạ Trang có lời chú: "Thường Nga thiết dược bơn nguyệt; nguyệt </b>


<b>sắc bạch, cố vân Tố Nga" (Thường Nga lây trộm thuốc tiên, thoát lên cung trăng; mặt trăng sắc trắng cho nên nói là Tố </b>


<b>Nga). "Thần Tiên truyện" chép rằng: Thường Nga là vợ Hậu Nghê.. Hậu Nghệ xin thuốc trường sanh của bà Tây Vương </b>



<b>Mẫụ Hậu Nghệ là người tính tình khơng tốt, hay làm việc phản bạn, Thường Nga khuyên chồng mãi mà không được. </b>


<b>Nàng giận thừa cơ uống trộm thuốc tiên và bay lên cung trăng.</b>


<b>Lại có truyền thuyết nói rằng vua Đường Minh Hồng (tức Đường Huyền Tơng) lên chơi nguyệt điện thấy có mười người </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>Mai cốt cách</b>


<b>Mai cốt cách, tuyết tinh thần.</b>


<b>Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười</b>


<b>(Câu 17 và 18. Phẩm chất chị em Kiều)</b>


<b>MAI CỐT CÁCH là thân hình mảnh mai, yếu đuối như cây maị Đây là quan niệm của người xưa, người con gái được coi </b>
<b>là đẹp phải có thân mình ẻo lả mảnh mai như thế.</b>


<b>Điển hình cho người đẹp "mai cốt cách" là nàng Mai Phi, một người phi sủng ái của vua Đường Huyền Tông khi ông </b>
<b>chưa có nàng Dương Quý Phị</b>


<b>Mai Phi tên thận là Giang Thái Tần, chào đời và lớn lên ở Mai Hoa thơn. Nàng được Thái gíam Cao Lực Sĩ tuyển chọn </b>
<b>vào cung dâng cho vua Đường Huyền Tơng. Nàn có nhan sắc diễm lệ và thân hình mảnh dẻ gió thổi cũng baỵ Hơn nữa, </b>


<b>nàng rất yêu thích hoa mai nên được nhà vua đặt là Mai Phị</b>


<b>Vào cung, Mai Phi đã được vua Đường Huyền Tông sủng ái rất mực một thờị Đến khi nhà vua có được Dương Quý Phi </b>
<b>thì Mai Phi bị thất sủng. Nàng sầu khổ lâm bệnh và cuối cùng chết đi như một cành hoa mai héo hắt.</b>


<b>Cùng mẫu người "mai cốt cách" như Mai Phi cịn có Đào Hoa Nữ trong bài thơ của Thôi Hộ, nàng Thôi Oanh Oanh </b>



<b>trong Tây Sương Ký và nàng Lâm Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mộng</b>


<b>Loại phụ nữ như thế chỉ là một loại hoa quý để cấm trong bình cho người khác thưởng thức chứ không thể là mẫu người </b>


<b>làm vợ lý tưởng được. Tại sao Vì thân thể họ nhuyển nhược, mềm yếu q có làm nên chuyện gì đâủ Nhất nhất chuyện gì </b>
<b>họ cũng đều trơng cậy vào người khác mà thôị Và mẫu người như thế thường là "hồng nhan bạc phận", sớm bị yểu vọng </b>


<b>chứ không thể trường thọ được.</b>
<b>Khuôn trăng đầy đặn</b>


<b>Vân xem trang trọng khác vời</b>


<b>KHUÔN TRĂNG ĐẦY ĐẶN NÉT NGÀI NỞ NANG</b>


<b>Cổ tướng thư nói: "Diện như mãn nguyệt, mi nhược ngoạ tàm"; nghĩa là mặt như trăng trịn, lơng mày như con tằm nằm </b>
<b>ngang. Đây là một cách tả ước lệ của người xưa về đoan trang của người phụ nữ.</b>


<b>Cũng sách Cổ tướng thi còn ghi: "Diện như mãn nguyệt, thanh tú nhi thần thái xạ nhân gia vi chi chiêu hà chí diện, nam </b>


<b>chủ cơng hầu tướng, nữ chủ hậu phi phu nhân". (Mặt như trăng rằm thanh tú, tinh thần rực rỡ sáng sủa gọi là cái mặt </b>


<b>của ráng trời buổi sớm, con trai công hầu, con gái hậu phi, phu nhân).</b>


<b>Người phụ nữ được cái tướng như thết là tốt, đoan trang hiền thục mà lại phúc hậu; có thể yên tâm là có một cuộc đời an </b>


<b>nhàn. Vạn nhất, nếu sống trong một xã hội tao loạn, có vì gia biến hay một hồn cảnh đặc biệt nào đó mà phải lưu lạc bèo </b>
<b>dạt hoa trơi thì cũng chỉ là nhất thời mà thôị Và cuộc sống cũng không quá lao đao lận đận như phần đông ca nhi, kỹ nữ </b>


<b>khác. </b>



<b>Câu chuyện sau đây có thể chứng minh được cho điều đó:</b>


<b>Lý Sư Sư là một kỹ nữ danh tiếng ở kinh đô Khai Phong đời vua Tống Huy Tông. Mặt mày đầy đặn phương phi, tánh </b>


<b>tình ơn nhu hoài thuận. Tuy là kỹ nữ nhưng rất chững chạc đoan trang. </b>


<b>Khách hàng chơi vặn mặc thảy đều tỏ ý tiếc cho nàng. Ai ai cũng nghĩ có lẽ nàng xuất thân con nhà đường hồng nhưng </b>


<b>vì một hồn cảnh gì đó mà phải đem thân vào chốn kỹ viện. Do đó, tuy là kỹ nữ nhưng Lý Sư Sư rất được khách hào hoa </b>
<b>tôn trọng.</b>


<b>Tiếng tăm nàng đến tai Huy Tơng hồng đế khiến nhà vua trẻ tuổi, đa tình này cũng háo hức muốn gặp nàng. Một hơm </b>
<b>Huy Tơng Hồng đế cải dạng thường dân đến kỹ viện tìm nàng. </b>


<b>Lần đầu tiên gặp gỡ, Huy Tông cứ nghĩ rằng Lý Sư Sư cũng chỉ là một kỹ nữ như bao nhiêu kỹ nữ khác nên Hoàng Đế tỏ </b>


<b>ra suồng sã với nàng. Lý Sư Sư liền bỏ đi, không tiếp. Nhà vua cho thị vệ chạy theo rỉ tai nàng, bảo cho nàng biết ơng </b>
<b>chính là đương kim Hồng Đế. Dù biết là Hoàng Đế nhưng Lý Sư Sư cũng mặc, nhất định không thèm tiếp một người thô</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>Về sau nhà vua phải mất một thời gian khá lâu dài mới chinh phục lại được cảm tình của nàng kỹ nữ họ Lý ấỵ Rồi nhà </b>
<b>vua cho triệu nàng vào cung. </b>


<b>Khi nhà Tống bị Mông Cổ xâm lăng, tướng Mơng Cổ cho địi Lý Sư Sư đến hầu rượu, nàng cũng nhất định không nghẹ </b>
<b>Để tránh bị ô nhục, Lý Sư Sư bẻ cây trâm cài đầu nuốt vào cổ để tự tận...</b>


<b>Nghiêng Nước, Nghiêng Thành </b>


<b>Một hai NGHIÊNG NƯỚC, NGHIÊNG THÀNH </b>
<b>Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.</b>



<b>(Câu 27, 28. Tài sắc Thúy Kiều)</b>
<b>"Ví chăng dun nợ ba sinh</b>


<b>Làm chi những thói KHUYNH THÀNH trêu ngươi!".</b>


<b>(Câu 257, 258. Kim Trọng than thở)</b>


<b>"Lạ cho cái sống KHUYNH THÀNH </b>


<b>Làm cho đổ quán, xiêu đình như chơị"</b>
<b>(Câu 1301, 1302. Thúc Sinh đam mê Kiều)</b>


<b>Nhìn một cái xiêu thành người, nhìn một cái đổ nước ngườị Ý là muốn nói đến cái nhan sắc cực kỳ đẹp khiến người ta say </b>
<b>mê đến mất thành mất nước mà cũng không haỵ</b>


<b>Câu này Nguyễn Du dịch lời ca của Lý Diên Niên trong tích Hán Vũ Đế tuyển người đẹp.</b>


<b>Năm Nguyên Sóc, Hán Vũ Đế cho xây dựng đền Minh Quang và kén chọn hai ngàn gái đẹp ở vùng Yên, Triệu đưa vào ở </b>
<b>trong đó. Những người đẹp được tuyển chọn này chỉ tuổi từ mười lăm trở lên, nhưng quá ba mươi thì bị thải hồị</b>


<b>Ngồi Đền Minh Quang, Hán Vũ Đế cịn nhiều nơi khác để chứa gái đẹp. Tổng cộng số gái đẹp của nhà vua này lên đến </b>


<b>một vạn tám ngàn. Ấy mà Hán Vũ Đế vẫn còn cho là thiếu.</b>


<b>Một hôm ca nhân Lý Diên Niên hát cho Hán Vũ Đế nghe rằng:</b>


<b>"Bắc phương hữu giai nhân</b>


<b>Tuyệt thế nhi độc lập.</b>



<b>Nhất cố khuynh nhân thành, </b>
<b>Tái cố khuynh nhân quốc.</b>


<b>Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc,</b>
<b>Giai nhân nan tái đắc".</b>


<b>(Phương Bắc có người đẹp</b>


<b>Tuyệt vời đứng riêng bậc</b>


<b>Một nhìn, người nghiêng thành </b>
<b>Hai nhìn, người nghiêng nước.</b>


<b>Há rằng chẳng biết nước thành nghiêng, </b>
<b>Chỉ vì người đẹp khó tìm được.)</b>


<b>Hán Vũ Đế bèn hỏi:</b>


<b>- Thế gian có người đẹp đến thế sao ?</b>


<b>Tả hữu thưa:</b>


<b>- Tâu bệ hạ, người đẹp trong bài ca ấy chính là cơ em gái của Lý Diên Niên vậỵ</b>


<b>Hán Vũ Đế bèn ra lên cho Lý Diên Niên đưa em gái vào cung. Nhà vua rất sùng ái nàng và bắt cả triều thần phải gọi </b>


<b>nàng là Lý phu nhân. Vua lại phong cho Lý Diên Niên từ chức Cẩn Giám lên chức Hiệp Đô Uý.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>Một thời gian sau Lý phu nhân bị bệnh nă.ng. Hán Vũ Đế tự đến thăm hỏi nhưng không được nàng tiếp. Nàng trùm chăn </b>



<b>kín mít và nói với nhà vua: </b>


<b>- Thiếp bị đau nặng đã lâu, hình dung tiều tuỵ lắm, không dám đem cái nhan sắc héo úa ra mắt nhà vuạ Chỉ xin gởi lại </b>


<b>nhà một người con trai và mấy người anh em.</b>


<b>Hán Vũ Đế nói:</b>


<b>- Phu nhân bệnh nặng e khó qua, hãy mở chăn nhìn ta mà ký thác con và anh em có phải hơn khơng?</b>


<b>Lý phu nhân vẫn trùm khăn kín mà nói:</b>


<b>- Theo lễ, đàn bà mặt mũi không sạch, không nên được trông thấy đấn quân phụ</b>


<b>Nhà vua cố nài nỉ:</b>


<b>- Phu nhân hãy ra mắt trẫm một lần này thôi, trẫm sẽ ban cho phu nhân nghìn vàng, cho con và anh em của phu nhân </b>


<b>làm quan tọ</b>


<b>Lý phu nhân vẫn một mực khước từ:</b>


<b>- Cho làm quan là quyền ở nhà vua, không do sự ra mắt của thần thiếp.</b>


<b>Nói đoạn, Lý phu nhân quay vào vách, thở dài rồi nín lặng. Hán Vũ Đế cả giận, đứng phắt dậy bước ra ngay, khơng nói </b>


<b>thêm tiếng nàọ</b>


<b>Các người thân thích biết chuyện, đến trách Lý phu nhân rằng:</b>



<b>- Sao quý nhân không mở mặt ra cho đấng quân vương trong thấy, rồi đem con và anh em ký thác có phải hơn khơng ? </b>


<b>Sao làm cho nhà vua tức giận đến thế ?</b>
<b>Lý phu nhân đáp:</b>


<b>- Đàn bà là kẻ lấy nha sắc thờ ngườị Nay nhan sắc đã kém tất nhiên tình yêu phải phai nhạt. Tình u đã phai nhạt thì sẽ </b>


<b>khơng cịn ân huệ gì nữạ Bấy lâu nhà vua sủng ái ta là chỉ vì ta cịn nhan sắc. Nay ta đã ốm nặng, nhan sắc tiều tuỵ, nếu </b>
<b>để nhà vua trong thấy thì thử hỏi ngài cịn u ta như trưỚc nữa khơng. Dĩ nhiên khi tình u khơng cịn thì làm sao ngài </b>
<b>cịn thương đến anh em ta nữạ Nay ta không ra mắt nhà vua là muốn gởi gấm anh em một cách thiết tha vậỵ</b>


<b>Ít hôm sau Lý phu nhân từ trần. Hán Vũ Đế cho chôn cất nàng rất hậụ Nhà vua lại sai hoạ nhân vẽ ảnh nàng treo trong </b>
<b>cung Cam Tuyền để ngày ngày nhìn ngắm. Nhà vua cũng phong cho các anh em của Lý phu nhân làm quan caọ</b>


<b>Hán Vũ Đế ngày đêm thương nhớ Lý phu nhân khôn ngị Nhà vu sai người đào ao Cơn Linh, đóng thuyền hình chim </b>


<b>phượng để ở ao ấỵ Ngài tự chế bài hát, lên thuyền đi chơi bắt các cung nhân hát để giải buồn.</b>


<b>Một hôm, ca nhi hát bài "Lá rụng ve kêu" như sau:</b>


<b>"Xuyên vòng im bặt tiếng kêu </b>
<b>Thềm son mấy đợt bụi rêu lờ mờ</b>


<b>Phịng khơng lạnh ngắt như tờ,</b>
<b>Gió đưa lá rụng phất phơ cửa ngồị</b>


<b>Bấy lâu tướng háo mong hồi, </b>


<b>Trơng ai chẳng thấy, bùi ngùi lòng ta..." </b>



<b>Vũ Đế nghe bài hát càng buồn rầu thêm, sai lấy nến mỡ rồng soi trong khoang thuyền để tìm hình ảnh Lý phu nhân. Rồi </b>


<b>ngài ơm mặt khóc nức nở như một đứa trẻ con ...</b>


Post added at 12:30 PM Previous post was at 12:26 PM


<b>---Tường Đông</b>


<b>Êm đềm trướng rũ, màn che </b>


<b>TƯỜNG ĐÔNG ong bướm đi về mặc ai</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>TƯỜNG ĐƠNG hé mắt, ngày ngày hằng trơng."</b>


<b>(Câu 283, 284. Kim Trọng đi tìm Thúy Kiều)</b>


<b>TƯỜNG ĐƠNG nghĩa đen là bức tường ở phía Đơng, nghĩa bóng là nơi có gian nhân cư ngụ</b>


<b>Sách Mạnh tử có câu: "Du đông lân nhi lâu kỳ xử tử" (Trèo sang nhà láng giềng ở phía Đơng để dụ dỗ con gái nhà người </b>
<b>ta). Đường thi cũng có câu: "Đơng lân Tống Ngọc tường" là để ám chỉ nơi trai gái giao tình với nhau vì chàng Tống Ngọc </b>
<b>(1) người nước Sở thời Chiến quốc là một thanh niên đẹp trai, thơ hay phú giỏi và tánh tình trăng hoa, ong bướm, đã làm </b>


<b>cho bao nhiêu người đẹp phải ôm mối hận tình với chàng tạ</b>


<b>Trong một bài phú tự tình gởi lên vua nước Sở, Tống Ngọc có viết:</b>


<b>"Thiên hạ chi giai nhân, mạc nhược Sở quốc</b>


<b>Sở quốc chi lệ giá, mạc nhược thần lý</b>



<b>Thần lý chi mỹ giá, mạc nhược thần đông gia chi tứ"</b>
<b>(Người đẹp trong thiên hạ không đâu bằng nước Sở.</b>
<b>Người đẹp trong nước Sở khơng đâu bằng ở xóm hạ thần.</b>


<b>Người đẹp trong xóm hạ thần khơng ai bằng nàng con gái láng giềng ở phía tường đơng nhà hạ thần).</b>
<b>Nhà thơ Lý Bạch thời Đường cũng có câu:</b>


<b>"Tự cố hữu tự sắc</b>
<b>Tây Thi do đơng lân".</b>


<b>(Từ xưa có nhan sắc</b>


<b>Tây Thi ở xóm đơng).</b>


<b>Hai chữ Tường Đơng đã có một trang tình sử lâm ly như sau:</b>


<b>Nước Sơ/ có loạn, nhà vua sai đại thần Vương Trung đem binh dẹp loạn. Vì chậm trễ việc quân, Vương Trung không cứu </b>


<b>vãn được tình thế nên bị vua giáng chức, làm Thiên hộ vệ quân tại Nam Dương. Vương Trung đem cả gia quyến theo </b>


<b>mình đến nhiệm sở mớị</b>


<b>Bấy giờ Vương Trung có người con gái rất đẹp, tên Vương Kiều Loan, chẳng những đẹp mà cịn thơng mình và rất giỏi </b>
<b>văn mặc, cho nên đã tới tuổi cặp kê mà mắt xanh vẫn chưa để ai vàọ Vương Trung có người em gái tên Tào Di sớm bị goá </b>


<b>bụa, nên đem về ở chung trong gia đình để sớm hôm bầu bạn với Kiều Loan.</b>


<b>Năm họ vào tiết Thanh Minh, Kiều Loan cùng Tào Di và thi nữ đi ngoạn cảnh bên ngồị, Khi ra khỏi nhà thì Kiều Loan </b>


<b>phát hiện ở phía tường đơng có một chàng trai đang nhìn mình đăm đăm khơng chớp mắt. Đơi mắt của ai kia sao đầy vẻ </b>



<b>tình tứ khiến tiểu thư họ</b>


<b>Vương khơng kihỏi bối rối trong lịng, đơi má ửng hồng e thẹn. Kiều Loan vội núp sau lưng người cô và giục Tào Di trở </b>


<b>vào, không muốn đi chơi nữạ</b>


<b>Khi Vương Kiều Loan đã trở về nhà, chàng trai kia thở dài ngẩn ngơ tiếc rẻ. Chợt chàng trơng thấy dưới một gốc hoa kia </b>


<b>có chiếc khăn the của người đẹp đánh rơi lạị Chàng vội bước đến nhặt chiếc khăn lên, mùi hương còn thoang thoảng. </b>


<b>Bỗng chàng nghe bên trong tường vào Vương phủ có tiếng động, rồi có bóng một thiếu nữ hiện rạ Chàng trai vội vàng </b>
<b>núp vào một khóm hoa theo dõi bóng người con gáị Thì ra cơ gái ấy là một cô hầu của tiểu thư Vương Kiều Loan, đi ra </b>


<b>ngồi tìm chiếc khăn của tiểu chủ đánh rơi lúc nãỵ Chàng trai đứng lên và mạnh dạn đánh tiếng:</b>


<b>- Cơ nương ơi, đừng tìm kiếm cho mất công., Chiếc khăn của tiểu thư đã vào tay kẻ khác rồị</b>


<b>Cơ gái nhìn chàng trai lạ từ đầu đến chân và nhận thấy hàng có vẻ phong lưu tuấn tú, bèn đến gần kính cẩn hỏi:</b>


<b>- Thưa công tử, nếu quả thật công tử đã nhặt được chiếc khăn của tiểu thư tơi, thì dám xin cơng tử vui lòng cho xin lại Ơn </b>
<b>ấy tiểu thư tôi chắc không quên. </b>


<b>Chàng trai không đáp. Cô gái nói tiếp:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>Chàng trai đáp:</b>


<b>- Tơi họ Tống tên Ngọc, người quận Ngô Châu, hiện cư ngụ ngay phía sau tơn phủ. Cịn tiểu thư của nàng là ai vậy</b>


<b>- Dạ tiểu thư tôi tên Vương Kiều Loan, con gái của quan Thiên Hộ</b>



<b>Tống Ngọc cười:</b>


<b>- Tên của tiểu thư nàng thật đẹp, thế cịn nàng tên gì? </b>
<b>Cô gái e thẹn đáp:</b>


<b>- Dạ, tiện nữ tên gọi Minh Hà. </b>
<b>Tống Ngọc cười, trêu chọc:</b>


<b>- Cả thầy lẫn trị đều đẹp cả. Vậy bây giờ tơi nhờ nàng trao cho tiểu thư Kiều Loan một bức thư có được không ?</b>


<b>Minh Hà ý không muốn nhận, nhưng sợ làm phật lịng Tống Ngọc thì chàng ta khơng trả lại chiếc khăn cho chủ mình, </b>
<b>nên nói: </b>


<b>- Xin vâng, công tử cứ trao thư cho tôị</b>


<b>- Vậy nàng ở đây chờ tôi một chút, tôi sẽ quay trở lại ngaỵ</b>


<b>Tống Ngọc nói xong, quay gót đi liền. Một lúc sau chàng trở lại trao cho Minh Hà một tờ hoa tiên. Minh Hà thấy Tống </b>


<b>Ngọc trao thư mà khơng trả khăn, trong lịng khơng vui nên nói: </b>
<b>- Công tử không trả khăn mà chỉ gởi thư, tơi khơng dám nhận đâu</b>


<b>Tống Ngọc cười nói:</b>


<b>- Nàng đừng lọ Nếu tiểu thư chịu phúc đáp thì tức khắc vật sẽ hoàn cố chủ.</b>


<b>Bất đắc dĩ Minh Hà phải nhận tờ hoa tiên của Tống Ngọc và quay vào phủ.</b>


<b>Vương Kiều Loan đang ngồi đợi Minh Hà trong phòng, cảm thấy lịng bồn chồn khơng n. </b>


<b>Minh Hà vừa vào tới, Kiều Loan vội hỏi ngay:</b>


<b>- Thế nào, có tìm ra chiếc khăn của ta khơng?</b>


<b>Minh Hà ấp úng:</b>


<b>- Thưa tiểu thư, chiếc khăn đà lọt vào tay ... chàng cơng tử nhìn trộm tiểu thư lúc ban chiều rồị</b>


<b>Kiều Loan nghiêm mặt hỏi:</b>


<b>- Tai sao em khơng địi lại cho ta ?</b>


<b>- Em có địi nhưng chàng trai lần khân khơng chịu trả, lại cịn gởi cho tiểu thư tờ hoa tiên này nữạ</b>


<b>Minh Hà vừa nói vừa lấy tờ hoa tiên trao cho Kiều Loan. Vương tiểu thư vừa nhận tờ hoa tiên vừa nói:</b>


<b>- Chàng trai ấy có xưng tên học và nói quê quán ở đâu không?</b>
<b>Minh Hà đáp:</b>


<b>- Chàng ta họ Tống, tên Ngọc, người Ngô quận. Hiện chàng ta cư ngụ sát vách sau phủ đường tạ</b>


<b>Kiều Loan có vẽ xúc động, mở tờ giấy ra xem. Trong tờ hoa tiên có bài thơ sau:</b>


<b>"Phạ xuất qui nhân phận ngoại hương</b>


<b>Thiên công giao phó hữu tình lang. </b>
<b>Ân cần kỳ thú tương tư cú</b>


<b>Nghi xuất hồng ty xuất động phòng". </b>



<b>(Khăn rơi mỹ nữ đượm mùi hương</b>


<b>Tạo hoá xui chi kẻ vấn vương</b>


<b>Gởi khúc tương tư tình tha thiết</b>


<b>Chỉ hồng buộc chặt mối lương duyên).</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>- Từ nay em đừng đòi chiếc khăn ấy nữa mà sinh lôi thôị Nếu chàng có nhờ đưa thư nữa thì em cũng đừng nhận, coi như </b>


<b>khơng có việc gì. </b>


<b>Tuy làm ra vẻ bình thản như thế nhưng thật ra lịng Vương Kiều Loan vô cùng xúc động.</b>


<b>Nàng đi nằm để trấn tĩnh lòng, nhưng chỉ một lúc sau ngồi lên đi quanh quẩn trong phòng. Rồi cuối cùng nàng lấy tờ hoa </b>
<b>tiên ra đề thơ phúc đáp:</b>


<b>"Thiếp thân nhất điểm ngọc vơ hà </b>
<b>Linh thị hầu mơn tướng tướng gia</b>


<b>Tình ly hữu thân đồng đối nguyệt</b>


<b>Nhàn trung vô sự độc khán hoa</b>


<b>Biệt ngô chi hứa lai kỳ phượng</b>


<b>Thúy trúc nan dung nhập lãi hoa </b>
<b>Kỳ dữ dị hương cô lãnh khách </b>
<b>Mặc tương tâm sự loạn như ma"</b>
<b>(Thân em như khối ngọc trong lành </b>


<b>Khuê các sớm chiều với tuổi xanh</b>


<b>Ngày vắng dạo xem hoa dưới mát</b>


<b>Đem thanh thưởng thức nguyệt bên mành </b>


<b>Cành ngơ phượng vĩ chen màu biếc</b>
<b>Khóm trúc ô môn đượm mảnh tình </b>
<b>Nhắn nhủ phượng xe người lữ khách</b>
<b>Đừng trao tâm sự rối ren lòng). </b>


<b>Vương Kiều Loan trao thơ cho Minh Hà, dặn đi ngõ sau trao cho Tống Ngọc và đừng để ai trong thấỵ Minh Hà theo lời </b>


<b>dặn của chủ, ra ngõ sau và gặp Tống Ngọc. Chàng Tống hỏi:</b>


<b>- Vương tiểu thư có phúc đáp thư tơi chứ ?</b>


<b>Minh Hà gật đầu đáp:</b>


<b>- Có, nhưng cơng tử phải trả lại chiếc khăn trước đã. </b>
<b>Tống Ngọc cười nói:</b>


<b>- Tiểu thư cơ đã phúc đáp thư; thì thiết tưởng chiếc khăn kia khơng cịn cần thiết nữạ Cơ hãy đưa thư cho tơi rồi sẽ haỵ</b>
<b>Minh Hà đành trao thư cho Tống Ngọc. Chàng Tống xem bài thơ của Vương Kiều Loan, rất khâm phục tài văn chương </b>


<b>của nàng. Chàng ta nói: </b>


<b>- Cô hãy đợi tôi ở đây một chúc để tôi viết thư phúc đáp cho tiểu thự</b>


<b>Rồi chàng ta vào phòng viết một bài thơ tứ tuyệt đem ra đưa cho Minh Hà nhờ trao lại cho Vương Kiều Loan.</b>



<b>Từ đó, qua sự trung gian của Minh Hà, Vương Kiều Loan và Tống Ngọc thơ qua thơi lại luôn ln. Và mối tình của hai </b>
<b>người ngày càng thêm khắng khít.</b>


<b>Một thời gian sau, Kiều Loan gợi ý Tống Ngọc nên tính chuyện mai mối hỏi cưới nàng, nhưng Tống Ngọc cứ lần khân </b>


<b>mãi, viện cớ song đường bận làm việc không rảnh rang.</b>


<b>Mặt khác, chàng ta lại tỏ ý muốn gần gũi Kiều Loan về thể xác.</b>


<b>Một hôm Tống Ngọc trèo tường vào vườn hoa trong phủ của Kiều Loan gặp nàng và tỏ ý muốn vào phòng nàng. Kiều </b>


<b>Loan từ chối, Tống Ngọc đành ra về. Nhưng sau đó Kiều Loan lại sai Minh Hà đem cho Tống Ngọc một tờ hoa tiên. </b>


<b>Chàng mở ra xem:</b>


<b>"Ám tương tế ngữ ký anh tài </b>


<b>Tháng hướng nhân tiên mạc loạn khai</b>


<b>Kim dạ hương khuê xuân bất tố</b>


<b>Nguyệt di hoạ ánh, ngọc nhân lai".</b>
<b>(Đơi lời xin ngõ cùng ai </b>


<b>Nỗi riêng chớ để người ngồi thị phi</b>


<b>Phịng xuân mở rộng đêm nay </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>Tống Ngọc xem xong lịng mừng vui như mở cờ. Đêm hơm ấy trời vừa sụp tối Tống Ngọc đã treo qua tường đông để đến </b>



<b>với Kiều Loan. Lúc ấy Vương Kiều Loan đang đi đi lại lại trong phòng. Khi Minh Hà dẫn Tống Ngọc vào thì Kiều Loan </b>


<b>nghiêm nét mặt sai Minh</b>


<b>Hà đi mời cô Tào Di đến để hội kiến. Tống Ngọc lòng đang rạo rực tưởng nghĩ đến chuyện vu sơn cùng người ngọc, bỗng </b>


<b>thấy thái độ Kiều Loan nên đâu ra lo lắng, mặt mày xám ngắt.</b>


<b>Kiều Loan tỏ ý thương hại, mỉm cười nói:</b>


<b>- Thiếp vốn là người đoan chính, mong chàng cũng không phải là kẻ phàm phụ Sở dĩ ngày nay chúng ta yêu nhau là do </b>
<b>sắc tài gắn bó. Đã u chàng thì thiếp cịn tiếc chi nữa, song vườn xn cánh bướm, biết lịng kia có giữ được lời nguyện </b>
<b>ước cho chăng ?</b>


<b>Vậy chúng ta hãy cùng thề chung thủy với nhau đến đầu bạc răng long. Nếu khơng thề thì chàng chỉ là kẻ muốn ân mà </b>
<b>khơng nghĩ đến nghĩ đá vàng. </b>


<b>Tào Di vào phòng, chứng kiến lời thề nguyện của Tống Ngọc và Kiều Loan. Sau đó, rượu và quả được dọn ra, Tào Di, </b>
<b>Kiều Loan và Tống Ngọc ăn uống vui vầy say sưa đến khuyạ Tào Di cáo biệt. Kiều Loan và Tống Ngọc đưa nhau vào </b>


<b>phòng bày cuộc ái ân.</b>


<b>Trời vừa tảng sáng, Kiều Loan thẹn thùng với tình lang. </b>


<b>- Cuộc đời và tấm thân thiếp đã trao cho chàng rồi, chỉ mong chàng giữ lấy lời thề để cành hoa khơng vì gió đơng mà phai </b>


<b>sắc nhạt hương. Từ nay về sau nếu có dịp thiếp sẽ sai Minh Hà đến đón chàng, chúng ta chớ nên phóng túng quá mà sinh </b>


<b>ra điều dị nghị</b>



<b>Rồi Kiều Loan sai Minh Hà đưa Tống Ngọc ra về. Đôi mắt của người tỳ nữ đượm vẻ buồn u ẩn nào ai hiểu được nguyên </b>
<b>do </b>


<b>Từ đó, đơi trai tài gái sắc khơng cịn xướng hoạ thi thơ với nhau nữa; mà chỉ trao nhau tình yêu xác thịt Cứ vài bốn hôm </b>


<b>Kiều Loan lại sai Minh Hà đi đón Tống Ngọc đến để ái ân.</b>


<b>Khổ thay, Minh Hà là một cô gái cũng đang độ phơi phới xuân tình, làm sao chịu đựng nổi cảnh u đương, ân ái của cơ </b>


<b>chủ mình và chàng trai hào hoa phong nhả kiạ Một ngày kia khơng cầm lịng được, Minh Hà đàn thố lộ lịng mình với </b>


<b>Tống Ngọc. Thế là chàng trai phóng đãng ấy "cuỗm" ln cơ tớ gái của người tình. Cuộc tình tay ba vẫn âm thầm diễn </b>


<b>ra theo thời gian, không ai hay biết trừ Tao Dị</b>


<b>Rồi một ngày kia, Tống Ngọc ngỏ ý cầu hôn Kiều Loan. Vương Thiên Hộ lâu nay đã từng nghe tiếng Tống Ngọc là một </b>
<b>tay trăng hoa ong bướm, một tay đã bẻ biết bao cành thiên hương, nên nhất định không chịu gả Kiều Loan cho chàng. </b>


<b>Nhưng Vương Trung có biết đâu rằng trong ba năm qua, tường đông nhà ông đã bị ong bướm quậy tưng bừng. Và chính </b>
<b>con gái của ơng là Kiều Loan cũng đã góp phần mua vui cho chàng trai đàng điếm Tống Ngọc.</b>


<b>Bị Vương Trung từ hôn, Tống Ngọc cũng buồn nên chàng cất bước giang hồ từ đó, mặc cho Vương Kiều Loan ôm mối </b>
<b>tương tự Rồi Vương Kiều Loan ngã bệnh, ngày càng nặng thêm. Hình dáng gầy gị và sức lực ngày một kiệt dần đến mỗi </b>
<b>người con gái đáng thương ấy phải lìa bỏ cõi đời ...</b>


<b>====================== </b>


<b>(1) Tống Ngọc, người nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc, học trò của Khuất Nguyên; lại là học trò giỏi nhất.</b>



<b>Tiểu sử của Tống Ngọc rất mơ hồ. Người ta chỉ biết rằng từ khi Khuất Nguyên chết, nước Sở cịn lại có ba người rất giỏi </b>


<b>về Sở từ, đó là Tống Ngọc, Cảnh Sai và Đường Lặc.</b>


<b>Tác phẩm của Tống Ngọc để lại gồm có các thiên Chiêu hồn, Đại Chiêu và Cửu biện cùng nhiều bài phú. Tống Ngọc có </b>


<b>tài miêu tả, văn điêu luyện; mở đầu cho thế phú đời Hán về saụ</b>
<b>Sâm Thương</b>


<b>Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>Sâm Thương, tên gọi trong dân gian là sao Hôm, sao Mai, là hai vì sao chẳng bao giờ trơng thấy nhau, một đằng Đơng </b>


<b>buổi tối, một phía Tây ban sáng.. Truyện Thần tiên kể rằng:</b>


<b>Hàng năm, tại Thiên đình có hội Bàn Đào, tiên ông tiên nữ tề tựu dâng lễ vật, hái đào tiên chúc tụng Ngọc Hoàng. Tiên </b>


<b>đồng Bảo Sâm theo hầu một tiên ông, ngọc nữ Thanh Thương theo hầu một tiên cơ. Hai trẻ tình cờ, gặp gỡ , quen biết </b>


<b>nhau rồi sinh tình. Trước ngày mở hội, đơi trẻ có chút thời gian bên nhau tình tư..</b>


<b>Một nhân vật thứ ba, tiểu đồng Trường Quang, cũng tình cờ gặp gỡ Thanh Thương, nhưng tình chỉ sinh một hướng, </b>
<b>Thanh Thương đã yêu đậm Bảo Sâm mất rồi. Bị tình lờ, Trường Quang sầu thảm.</b>


<b>Đến ngày Bàn Đào khai hội, đàn ca xướng hát rộn ràng. Các tiểu đồng, ngọc nữ nhịp nhàng như vũ điệu, tay bưng khay, </b>


<b>tay nâng chén ngọc hầu rượu các tiên ông tiên bà. </b>


<b>Thanh Thương, là ngọc nữ hát hay múa đẹp nhất, nên được chọn dâng chén cho Ngọc Hoàng. Nhưng tâm hồn nàng để </b>



<b>lạc đâu đâu, đơi mắt cứ dõi tìm Bảo Sâm, nên sẩy tay đánh rơi cả khay ngà chén ngọc. Thanh âm ngọc vỡ tan hoang. Từ </b>
<b>bàn dưới nhìn lên, Bảo Sâm thấy tai hoạ đang giáng xuống cho người yêu cũng sửng hồn, khay chén trên tay cũng đánh </b>


<b>xoảng rơi xuống đất. Đàn ca xướng hát thanh thoát, bỗng nín bặt.,</b>


<b>Ngọc Hồng xử tội ngay đơi trẻ:</b>


<b>- Đơi tiên đồng, ngọc nữ còn non tuổi mà lại dám bày trò yêu đương nơi cõi, tội đáng đày xuống trần gian cho làm một </b>


<b>kiếp thú, sống trong núi thẳm rừng sâu, kiếp sau mới được đầu thai làm người ở luôn dưới cõi trầ.n...</b>


<b>Trường Quang không phạm lỗi chi cũng run lập cập khi Ngọc Hoàng đang xử tội người yêu.. một chiều; khi vưa nghe lơì </b>
<b>kết tội đày xuống trần gian làm thú, không nén được đau thương, Trường Quang đã thét lớn: "Thanh Thương ơi, Thanh </b>
<b>Thương ơi, ta nguyện theo nàng xuống trần gian. Ngọc Hồng thêm giận, ừ thì muốn theo thì ta cho thỏa ước mơ, truyền </b>
<b>cho đày tiểu đồng tình dại này đi chung một chuyến.</b>


<b>Các tiên ông tiên bà, thương cho ba trẻ tình si, chỉ vì thương yêu mà chuốc họạ Họ đồng thanh xin Ngọc Hoàng nương </b>


<b>tay, chớ đày xuống trần gian, mà hãy cho ở lưu lạc đâu đó trên trời.</b>


<b>Lời câu xin của các tiên, Ngọc Hồng ngi ngoai cơn giận, phán lại lần cuối cho chúng làm hai ngôi sao, tuy ở chung </b>


<b>cùng trời, nhưng không bao giờ được gặp nhau.</b>


<b>Nàng Thanh Thương làm sao Thương, là sao hôm, chỉ mọc lên ở hướng đông lúc về đêm; Bảo Sâm trở thành sao Sâm, là </b>
<b>sao mai, mọc ở phía tây lúc trời hửng sáng.</b>


<b>Còn Trường Quang, sẽ được như ý, suốt đời tìm kiếm tình yêu, thì biến thành sao "vượt", bay đi xẹt lại trọn kiêp mà </b>
<b>kiếm tìm. </b>



<b>Ca dao Việt Nam ta có câu:</b>


<b>Sao hơm chờ đợi sao mai</b>


<b>Trách lòng sao vượt nhớ ai băng chừng.</b>


<b>Sao vượt (sao băng) muôn đời vẫn mang theo điều mơ ước.</b>


<b>Ngày nay, có ai mong mỏi điều gì, hãy ngước nhìn lên trời đón ánh sao băng, điều ước mơ sẽ được toại nguyện. Nhưng </b>


<b>còn sao Sâm, sao Thương, theo phán xử của Ngọc Hồng phải ngàn nghìn trùng xa cách, đông tây, đêm ngày đuổi bắt </b>


<b>nhau mà không gặp được</b>


<b>__________________ </b>
<b>So dần dây vũ dây văn,</b>


<b>Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.</b>
<b>Khúc đâu hán sở chiến trường,</b>


<b>Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>Kê khang này khúc Quảng Lăng,</b>


<b>Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân. </b>
<b>Quá quan này khúc Chiêu Quân, </b>
<b>Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.</b>


<b>Ðây là những bản nhạc: Khúc chiến trường giữa Hán và Sở, khúc Tư Mã phượng cầu của Tư Mã Tương Như, khúc </b>



<b>Quảng lăng của Kê Khang, khúc đi cống Hồ của Chiêu Quân. Mỗi khúc có một tính chất đặc biệt.</b>


<b>Khúc "Hán Sở chiến trường"</b>


<b>Tần Thuỷ Hoàng sau khi dẹp tan 6 nước: Yên, Tề, Sở, Nguỵ, Triệu, Hàn chấm dứt thời Chiến quốc (479- 220 trước DL)- </b>
<b>cũng gọi là Thất hùng- thống nhất đất nước, lập nên nhà Tần. Nhưng vì chế độ nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng nổi </b>


<b>dậy chống lại. Trước có Trần Thắng, Ngơ Quảng. Bước đầu dân nghèo chỉ chặt cây làm binh khí và dùng gậy làm cờ. </b>
<b>Nhưng đều bị quân Tần đánh vỡ. Chỉ còn lại lực lượng của Lưu Bang ở đất Bái và hạng Võ ở đất Ngô chống cự được với </b>


<b>quân Tần. Sau Hạng Võ đánh bại được tướng Tần là Chương Hàm ở đất Cự Lộc (tỉnh Hà Bắc), Lưu Bang thừa dịp, đem </b>


<b>binh thẳng đến Hàm Dương (kinh đô nhà Tần) dứt được nhà Tần. Nhưng rồi qua phân làm hai nhà: Hán (Lưu Bang) và </b>


<b>Sở (Hạng Võ) tương tranh. </b>


<b>Sở Hạng Võ có tướng tài, tham mưu giỏi mà không biết dùng. Hán Lưu Bang nhờ biết dùng người nên có nhiều bực hiền </b>
<b>tài đến phị tá, như Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là Tam Kiệt... nên đánh thắng được Sở, lên ngôi Vua, </b>
<b>thống nhất đất nước (206 trước DL)</b>


<b>Cuộc tương tranh giữa Hán, Sở chỉ khoảng 10 năm nhưng cường độ chiến tranh lúc nào cũng khốc liệt. Cuối cùng, Sở </b>


<b>Hạng Võ bị tướng soái của Hán Lưu Bang là Hàn Tín bao vây tại núi Cửu lý ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào </b>
<b>tình thế nguy ngập, thiếu lương thảo nhưng bên cạnh vua Sở còn 8.000 tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ </b>


<b>quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Ðông tức đất cũ, tu chỉnh binh mã, dựng lại thế lực để tiếp tục cuộc </b>


<b>chiến đấu.</b>


<b>Như vậy là một bất lợi cho Hán, dầu có đại thắng bằng binh lực nhưng phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, </b>


<b>Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán 8.000 tử đệ để cơ lập Hạng Võ. Có thế cuộc chiến thắng đỡ bớt hao sinh </b>


<b>mạng. Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, đi qua lại từ trên núi Kê Minh đến </b>


<b>núi Cửu lý, thổi tiêu rồi hát. Trương Lương lại tuyển quân Hán học tiếng nước Sở cho hát bài "Bi ca tán Sở" do Trương </b>


<b>soạn lấy.</b>


<b>Canh khuya đêm vắng, tiết trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát ai ốn gợi lịng thương </b>


<b>nhớ gia đình cha mẹ già, vợ yếu con thơ... vọng vào dinh Sở. Quân Sở , tám ngàn tử đệ vốn người nước Sở, lìa quê nhà </b>
<b>theo Hạng Võ nay gặp phải gian nguy, mạng sống như ngàn cân treo phải chỉ mành... nên trước chỉ buồn bã than thở, </b>


<b>sau cùng càng thấm thía nước mắt đầm đìa, rồi bàn nhau bỏ trốn. Bên ngồi, Hàn Tín khéo léo nới rộng vịng vây để </b>


<b>quân Sở tự do ra đi.</b>


<b>Chỉ trong ba đêm, tám ngàn tử đệ cùng quân sĩ các dinh trại của Sở, mười phần bỏ trốn hết bảy, tám. Cuối cùng, Hạng </b>


<b>Võ phải từ biệt vợ là Ngu Cơ, cùng uống chén rượu buồn, cất tiếng hát một cách tuyệt vọng:</b>


<b>Lực bạt sơn hề khí cái thế</b>


<b>Thời bất lợi hề chuy bất thệ</b>


<b>Chuỳ bất thệ hề khả nại hà? </b>
<b>Ngu hề Ngu hề khả nại hà? </b>
<b>Tạm dịch:</b>


<b>Sức nhổ núi chừ khí hơn đời</b>



<b>Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi</b>


<b>Ngựa chẳng đi chừ biết làm sao? </b>
<b>Ngu chừ, Ngu chừ biết làm sao? </b>


<b>Ngu Cơ càng cảm động, cất giọng hoà lại:</b>


<b>Hán binh dĩ lược địa</b>


<b>Tứ diện Sở ca thinh</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>Tiện thiếp hà biểu sinh</b>


<b>Tạm dịch:</b>


<b>Binh Hán chiếm lấy đất</b>


<b>Bốn mặt tiếng Sở kêu </b>
<b>Ðại vương y khí hết</b>


<b>Mạng sống thiếp phải liều</b>


<b>Ngu Cơ cầm gươm tự tử</b>


<b>Thế rồi Vua Sở Hạng Võ một người một ngựa đánh mở con đường máu, thốt khỏi vịng vây chạy đến bên sơng Ơ, nhưng </b>
<b>khơng qua được sơng, cuối cùng tự tử.</b>


<b>"Khúc Hán Sở chiến trường", "tiếng sắt tiếng vàng" là tiếng những binh khí bằng kim loại va chạm nhau. Tiếng đục </b>



<b>(sắt), tiếng trong (vàng), nghe đàn mà cảm thấy như nghe TIẾNG GƯƠM GIÁO CHẠM MẠNH, SÁT PHẠT GIỮA </b>


<b>CHIẾN TRƯỜNG. Ý nói khúc đàn hùng tráng, rộn rã hoà hợp với tâm hồn rộn rã, tưng bừng của người gảy đàn như </b>


<b>mở màn, chào đón một cuộc hội ngộ của đơi bạn son trẻ đắm đuối yêu nhau. </b>


<b>Khúc "Tư Mã phượng cầu"</b>


<b>tức là khúc "Phượng cầu hồng" (chim phượng trống tìm chim phượng mái) của Tư Mã Tương Như đàn tỏ tình với </b>
<b>nàng Trác Văn Quân.</b>


<b>Tư Mã Tương Như tự Trường Khanh, người ở Thành Ðô đời vua Cảnh Ðế (163- 149 trước DL) nhà Hán. Người đa tài, </b>


<b>văn hay đàn giỏi.</b>


<b>Khi lìa q lên Trường An (kinh đơ nhà Hán) lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: </b>


<b>"Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử Kiều" (không ngồi xe cao bốn ngựa, khơng qua lại cầu này nữa). Vì qun tiền, </b>
<b>Tương Như được làm một chức quan Lang.</b>


<b>Vốn con người hào hoa phong nhã rất mực, làm quan một thời gian sinh chán, cáo bịnh từ quan qua chơi nước Lương, </b>


<b>làm bài "Ngọc như ý" được vua nước Lương ban cho một cây đàn lục ỷ, trên khắc bốn chữ "đồng tử hợp tinh", lại trở về </b>
<b>đất Thục. Ðến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu.</b>


<b>Khi đến đất Lâm cùng, Tương Như vốn sẵn quen thân với quan Lịnh ở huyện là Vương Cát nên đến chơi. Cát lại mời </b>
<b>Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn là viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan </b>


<b>huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu Tương Như cho thưởng thức một bài. </b>



<b>Trác ông vốn có người con gái rất đẹp tên Văn Qn cịn trẻ mà sớm gố chồng, thích nghe đàn. Tương Như được biết, </b>


<b>sinh lịng u mến, nhân đó định trêu nàng nên vừa đàn vừa hát "Khúc Phượng cầu hoàng": </b>


<b>"Phượng hề phượng hề quy cố hương</b>


<b>Ngao du tứ hải cầu kỳ hồng </b>
<b>Thời vị ngơ hề vơ sở tương</b>


<b>Hữu diện thục nữ tại khuê phường</b>


<b>Thất nhĩ ngân hà, sầu ngã trường</b>


<b>Hà duyên giao cảnh vi uyên ương</b>
<b>Tương hiệt ương hề cộng cao tường"</b>


<b>Nghĩa:</b>


<b>"Chim phượng, chim phượng về cố hương</b>


<b>Ngao du bốn biển tìm chim hồng </b>
<b>Thời chưa gặp chừ luống lỡ làng </b>


<b>Hôm nay bước đến chốn thênh thang </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<b>Ước gì giao kết đơi uyên ương</b>


<b>Bay liệng cùng nhau thoả mọi đường"</b>


<b>(Bản dịch của Trúc Khê) </b>



<b>Tiếng đàn lảnh lót, giọng hát thâm trầm, ý đầy tình cảm, con người hào hoa phong nhã, Văn Quân đứng nép bên trong </b>
<b>nghe tiếng nghìn người, biết người gợi ý đến mình nên lịng sinh bồi hồi cảm xúc. Rồi một đêm, nàng bỏ nhà đi theo tiếng </b>


<b>gọi của tình yêu. Tương Như đưa nàng về nhà mình. Nhà q nghèo, gió lộng bốn bề. Ông già họ Trác quyết định từ con.</b>
<b>Tương Như nghèo nàn buồn bã, đem chiếc áo cừu túc sương đi cầm cho người ở chợ, để mua rượu về cùng Văn Qn đối </b>
<b>ẩm. Văn Qn ơm đầu, khóc nói: "Ta xưa này giàu có, nay đến nỗi phải đi cầm áo mua rượu, buồn biết chừng nào!" </b>
<b>Thế rồi, vợ chồng mở một quán nấu rượu. Văn Quân giữ việc nhóm lị nấu rượu, cịn Tương Như thì mặc quần cộc làm </b>
<b>lụng rửa vò hủ ở chợ.</b>


<b>Sau Hán Võ đế đọc bài "Tử hư phú" của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức quan Lang. Vì muốn thơng sứ </b>


<b>các dân tộc miền Tây nam, nhà vua phong chức Trang Lang tướng, cầm cờ tiết mao đi sứ. Tương Như vào đến đất Thục, </b>


<b>quan lại từ dưới đến Thái thú đều ra tận ngoài thành tiếp rước, quan huyện Lịnh thì vác cung nỏ đi tiền khu; người </b>
<b>người đón tiếp long trọng. Trác Vương Tơn bấy giờ khơng cịn dám khinh thường chàng rể nữa. Nhưng Tương Như làm </b>


<b>quan ít lâu lại chán, cáo bịnh lui về quê. </b>


<b>"Khúc Tư Mã phượng cầu" tức là khúc "Phượng cầu hoàng" mà Tư Mã Tương Như gảy tỏ tình với Trác Văn Quân. </b>
<b>Ðây là một khúc đàn tình tứ lãng mạn khá đẹp.</b>


<b>Trong "Bích Câu Kỳ ngộ" của Vơ Danh, có câu:</b>


<b>Cầu hồng tay lựa nên vần</b>


<b>Tương Như lòng ấy Văn Quân lòng nào </b>


<b>Qua phút từng bừng rộn rã "tiếng sắt tiếng vàng chen nhau" như "Hán Sở chiến trường", thì bây giờ tình cảm chuyển </b>



<b>sang thâm trầm, dịu dàng, đằm thắm, thiết tha, chứa chan mộng đẹp lâng lâng của một mối tình đầu như nụ hoa tình </b>
<b>chớm nở buổi sương mai.</b>


<b>Chú y : T</b>

<b>ất cả chỗ nài đc lấy trong sách !</b>



<b>Khúc "Quảng lăng":</b>


<b>"Kê Khang nầy khúc Quảng lăng</b>


<b>Một rằng Lưu thuỷ hai rằng Hành vân" </b>


<b>(câu 477 đến 478)</b>


<b>Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 cụ già ngồi bên rừng trúc. Kẻ đánh cờ, gảy đàn, thổi tiêu, người uống rượu </b>
<b>ngâm thơ... trông vẻ tiêu diêu tự toại. Ðó là hình ảnh "Trúc lâm thất hiền" (bảy ông hiền trong rừng trúc) đời nhà Nguỵ </b>


<b>(220- 264). Kê Khang là một trong 7 ơng này. </b>


<b>Kê Khang vốn người có tính cao khiết, giàu lịng nghĩa hiệp và cùng là một người có biệt tài về các môn: cầm, kỳ, thi, họa. </b>


<b>Một điều lạ hơn hết là mặc dầu có tài như vậy nhưng ông không học qua một ông thầy nào. Từ nhỏ đến lớn, ơng có cơng </b>


<b>tự học, rèn luyện mà nên. Ông vốn họ Khuê, người đất Thương Ngu, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết </b>


<b>Giang). Vì một sự thù ốn do người gây nên, ông phải dời về ở ẩn huyện Hoa Dương, tỉnh An Huy. Gần chỗ ơng ở có núi </b>
<b>Kê (Kê Sơn) nên ông lấy tên Kê làm họ.</b>


<b>Kê Khang cũng như sáu người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão, có người bảo: "Ba ngày khơng đọc </b>


<b>"Ðạo đức kinh" thì miệng thấy hơi". Ông có ra làm quan đến chức Trung tán Ðại phu, nhưng luôn chê vua Thang, vua </b>



<b>Võ, Khinh Văn Vương và Khổng Tử. Thơ ơng có giọng triết lý:</b>


<b>"Mục tống phi hồng</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>Phủ ngưỡng tự đắc</b>


<b>Du tâm thái huyền"</b>


<b>Nghĩa:</b>


<b>"Mắt tiễn hồng bay</b>


<b>Tay gảy năm dây</b>


<b>Cúi ngửa tự đắc</b>


<b>U huyền thích thay" </b>


<b>(Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê) </b>


<b>Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan, mai danh ẩn tích để hưởng thụ tiêu diêu lúc về già. Nhưng thảm thay, ông </b>


<b>muốn tránh khỏi điều phiền luỵ ở cõi trần thì lại cịn lận đận, khổ luỵ vì trần.</b>


<b>Từ quan, Kê Khang sống một cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thuỷ, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn. Bấy </b>


<b>giờ nhà Nguỵ họ Tào suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn lật đổ nên tìm mọi cách trừ khử những phe phái chống đối. Lúc ấy </b>
<b>ở huyện Ðông Bình có người tên Lữ An vì ngưỡng mộ Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người kết bạn thâm giao. </b>



<b>Khơng ngờ An có một người anh họ tên Lữ Tốn vốn bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, ỷ thế hoành hành, thấy vợ của Lữ </b>
<b>An xinh đẹp, muốn chiếm đoạt nên bắt An hạ ngục.</b>


<b>Vì tình bạn, Kê Khang đứng ra minh oan. Nhưng rồi cũng bị bọn quyền thần bắt giam. Kê Khang vốn thuộc con rể trong </b>


<b>thông thất nhà Nguỵ, nên họ muốn tìm cách trừ tuyệt. Chúng lại dựng chứng Kê Khang dám khinh chê vua Thang, vua </b>
<b>Võ, Văn Vương, Khổng Tử là có ý phản loạn nên kết án tử hình. </b>


<b>Kê Khang vốn có tài đàn. Khúc "Quảng Lăng" do ông sáng tác, đánh lên nghe lưu lốt, thánh thót như nước chảy (lưu </b>


<b>thuỷ), mây bay (hành vân). "Lưu thuỷ" và "hành vân" là giải thích cách điệu lưu loát của khúc Quảng lăng. Cũng như </b>


<b>tiếng đàn thánh thót của Kiều như nước chảy mây bay chẳng khác gì khúc "Quảng lăng" của Kê Khang, một tay đàn kỳ </b>


<b>diệu.</b>


<b>Tình cảm của người gảy đàn cũng chuyển biến, biểu lộ bằng khúc đàn. </b>


<b>"Quá quan này khúc Chiêu Quân" </b>


<b>Qua "khúc Quảng Lăng" thánh thót, man mác như nước chảy mây bay,cuối cùng Kiều chuyển sang:</b>


<b>"Qúa quan nầy khúc Chiêu Quân </b>
<b>Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia"</b>
<b>(câu 479 đến 480)</b>


<b>Chiêu Quân tên Vương Tường, người đất Tỷ Quy thuộc Nam quận, được tiếng là "trầm ngư", một trong "Tứ đại mỹ </b>


<b>nhân" ở cổ Trung Hoa. Nàng bị tuyển vào cung đời Hán Nguyên đế (48- 33 trước DL). Lúc bấy giờ vua Hán có đến 3.000 </b>



<b>mỹ nữ trong cung nên khơng thể nào biết mặt hết được. Vua truyền tên thị vệ Mao Diên Thọ bảo hoạ sĩ vẽ hình tất cả </b>


<b>những cung nữ, để vua xem và chọn làm hậu cung khi cần đến.</b>


<b>Mao Diên Thọ thừa nước đục thả câu để ăn hối lộ cung nữ. Nếu ai đút lót tiền thì truyền thần mặt xinh đẹp càng lộng lẫy </b>
<b>để dâng lên nhà Vua. Cung nữ đành bằng lịng vì nghĩ rằng biết đâu nhờ đó mà được hưởng chút ơn mưa móc của quân </b>
<b>vương, cho cuộc đời tài sắc của mình khơng phải q phủ phàng ghẻ lạnh. Riêng Chiêu Quân đã có một sắc đẹp hơn các </b>


<b>cung phi, lại có tính tự trọng, ghét bọn tham quan nên khơng chịu đút lót tiền mà còn xỉ vả nặng lời Mao Diên Thọ trước </b>


<b>mặt đông người. Mao Diên Thọ xấu hổ càng căm giận, tìm cách ác độc trả thù. Do đó, khi nhận bức ảnh Chiêu Quân do </b>
<b>hoạ sĩ trao cho, hắn lấy viết lén chấm dưới khoé mắt ảnh Chiêu Quân một chấm làm thành nốt ruồi.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>lời nên chẳng nghĩ gì đến Chiêu Quân. </b>
<b>Chiến tranh giữa nhà Hán và Hung Nơ. </b>


<b>Hán đại bại cầu hồ. Thiền Vu, chúa Hung Nô buộc Hán Nguyên đế phải cống phẩm vật và một cung phi tuyệt sắc mới </b>


<b>chịu bãi binh. Trong tình thế nguy của đất nước, Nguyên Ðế phải đồng ý.</b>


<b>Mao Diên Thọ vừa ghét Chiêu Quân vừa sợ việc làm đòi ăn hối lộ và dối vua bị bại lộ, nên mưu với bọn gian thần tâu với </b>
<b>nhà vua, đem Chiêu Quân đi cống. Nguyên Ðế bằng lòng. </b>


<b>Nhưng đến lúc Chiêu Quân vào triều bái yết nhà vua để theo sứ giả Hung Nơ ra đi, thì nhà vua bấy giờ mới trơng rõ mặt. </b>


<b>Nốt ruồi đâu chẳng thấy mà chỉ là một tuyệt thế giai nhân, một trang quốc sắc thiên hương, cịn hơn hình ảnh trong bức </b>


<b>hoạ truyền thần qua nét bút kỹ xảo của một hoạ sĩ. Nhà vua vừa luyến tiếc, vừa tức giận, bấy giờ mới rõ mưu mô gian </b>


<b>xảo, thâm độc của Diên Thọ, định đem trị tội. Thọ hay được, vượt biên trốn sang đầu hàng Hung Nô. </b>



<b>Sự thực chán chường rồi, khơng thể thay người khác được vì sứ giả Hung Nô đã nhận được mặt của Chiêu Quân. </b>
<b>Luyến tiếc người ngọc, xót thương phận liễu bồ bao năm giam mình trong cung lạnh, âm thầm với số kiếp phủ phàng, </b>


<b>nhưng vì thế nước yếu hèn nên Hán Nguyên Ðế đành cắt đứt mối tình, trao người ngọc cho kẻ khác. Nhà vua chỉ còn </b>


<b>bước xuống ngai vàng đến sân chầu, run run cầm lấy tay Chiêu Quân nghẹn ngào nói qua dịng nước mắt trong buổi chia </b>


<b>ly: </b>


<b>- Ta có lỗi với nàng. Ta có tội với nàng! Vơ tình ta trở thành con người tệ bạc.</b>


<b>Chiêu Quân cảm động, hai hột lệ đọng trên khoé mắt, ngậm ngùi: </b>


<b>- Thần thiếp đội ơn Bệ hạ. Hồng nhan bạc phận là một lẽ thường. Kiếp này duyên đã lỡ, kiếp khác nguyện đền bồi. Thần </b>


<b>thiếp bao giờ cũng ghi lịng tạc dạ đối với tình nghĩa của đấng quân vương!</b>


<b>Thế là Chiêu Quân từ biệt nhà vua, xứ sở quê hương, lên xe theo đoàn quân hậu vệ Hung Nô, để vượt qua ải biên thuỳ </b>


<b>Nhạn Môn sang Hồ. Nỗi thương nước nhớ nhà, nỗi giận kẻ gian thần, xót xa thân bồ liễu, có lúc trên đường dài thăm </b>


<b>thẳm, bầu trời man mác khói toả mây trắng chập chùng, nàng truyền dừng xe, quay mặt hướng về cố quốc, gảy một khúc </b>
<b>đàn ly biệt. Tiếng đàn tỳ bà não nuột ai oán. Những kẻ theo đưa ai cũng đau lòng sa nước mắt. Cây cỏ bên đường cũng </b>


<b>héo tàn gục xuống mặt đất như để xớt thảm chia sầu.</b>


<b>Chiêu Quân chẳng những có sắc mà cịn có tài đàn hay thơ giỏi. Nhìn một cánh chim lẻ bạn bạt gió về chiều, nàng xót xa </b>
<b>cảm cho thân thế mình cất giọng ngâm:</b>



<b>Cánh én cô đơn đượm tủi sầu</b>


<b>Ngang trời gió cuốn bạt về đâu?</b>


<b>Quan san ngàn dặm vương thương nhớ</b>


<b>Hồ, Hán từ đây cách biệt nhau</b>


<b>Và: </b>


<b>Mây trắng trời trong gió ngạt ngào </b>
<b>Hồn hoa mờ mịt dưới trăng sao</b>


<b>Ðêm đêm thổn thức đêm đêm mộng</b>


<b>Có phải trời xanh cợt má đào! </b>


<b>Và, khi mùa thu đến. Nhìn trời thu, mây thu, sắc thu nhuộm úa lá vàng, dưới bầu trời ảm đảm, lá vàng rơi lả tả, bài </b>
<b>"Thu phong ốn" của Chiêu Qn cịn truyền tụng do một tình cảm dạt dào sâu đậm của một kỷ nữ ly hương:</b>


<b>Thu mộc thê thê </b>
<b>Kỳ diệp huy hoàng </b>
<b>Hữu điểu xử sơn</b>


<b>Tập ư bào tang</b>
<b>Dưỡng dục mao vũ</b>


<b>Hình dung sinh quang </b>
<b>Kỳ đắc thanh vân</b>
<b>Thượng du khúc phường</b>



<b>Ly cung tuyệt khống</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<b>Chí niệm ức chẫm</b>


<b>Bất đắc hiệt ngoan</b>
<b>Tuy đắc ẩm thực</b>


<b>Tâm hữu hồi hoàng </b>
<b>Y hà ngã độc</b>


<b>Vãng lai biến thường</b>


<b>Thiên phiên chi yếu</b>


<b>Viễn tập Tây Khương</b>
<b>Cao sơn nga nga</b>


<b>Hà thuỷ ương ương</b>


<b>Phụ hề mẫu hề</b>


<b>Ðạo lý du trường</b>


<b>Ơ hơ ai tai </b>


<b>Ưu tâm trắc thương!</b>


<b>Tạm dịch:</b>



<b>Cảnh thu hiu hắt lá thu vàng </b>


<b>Trên đỉnh non cao đó rõ ràng </b>
<b>Có một chim kia hay đáo để</b>
<b>Ở ăn tự lúc mới ra giàng </b>


<b>Ra giàng đã đủ cánh lơng bay</b>


<b>Thấy rõ hình dung q giá thay </b>
<b>Trên nóc lầu cao đà đổ xuống</b>


<b>Chín từng mây thẳm đã tung bay </b>


<b>Tung bay nhưng khốn biết sao rày </b>
<b>Sự thế than ôi nỗi nước này </b>
<b>Nỗi nọ đường kia khôn tả xiết</b>


<b>Gan sầu ruột héo ngỏ ai hay!</b>
<b>Ai hay cho khúc đoạn trường này </b>
<b>Cho nỗi quan hoài ở chốn đây</b>


<b>Uống uống ăn ăn khôn đáp lại</b>


<b>Những hờn những oán những sầu cay!</b>


<b>Sầu cay riêng nghĩ xiết bàng hoàng </b>
<b>Biết đến bao giờ hận mới tan</b>


<b>én nọ tung bay xập xè cánh </b>
<b>Ðường xa mấy mấy dặm quan san</b>


<b>Quan san thăm thẳm nỗi lòng đau</b>


<b>Biển rộng non cao chất tủi sầu</b>


<b>Vịi vọi đường xa mn dặm cách</b>
<b>Mưa nắng sân Lai xót dãi dầu!</b>


<b>Dãi dầu ai hỡi thấu cho chăng?</b>


<b>Lấp đặng cho ai những bất bằng</b>


<b>Những nhớ những thương tầy núi biển</b>


<b>Tình thu chan chứa hận sầu vương</b>


<b>(Bản dịch của Thái Bạch)</b>


<b>Khi đến đài Lạc nhạn, Chiêu Quân bắt được chim nhạn, liền xé lụa cắn móng tay lấy máu viết thư, buộc vào chân nhạn </b>


<b>rồi thả cho bay đi, mong nhờ chim mang tin về cố quốc. Nhìn cánh nhạn bay, nhìn dịng sơng Hắc Thuỷ âm thầm trơi </b>


<b>chảy, nàng tê tái lịng, thở dài: </b>
<b>Thủy hà sóng lạnh gió đìu hiu </b>
<b>Cánh nhạn lê thê giải nắng chiều</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Mơ màng một giấc mộng cơ liêu </b>


<b>Ngâm thơ xong, nàng lao mình xuống sơng Hắc Thuỷ!</b>


<b>Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Ðình Chiểu, có câu:</b>


<b>Chiêu Qn xưa cũng cống Hồ</b>


<b>Bởi người Diên Thọ hoạ đồ cho nên </b>


<b>"Quá quan nầy khúc Chiêu Quân" tức là khúc đàn của Chiêu Quân gảy khi qua cửa ải của biên giới hai nước Trung Hoa </b>


<b>(Hán) và Hồ (Hung Nô) trên đường sang cống Hồ</b>


<b>Một khúc đàn buồn não ruột, ai oán để kết thúc cuộc hội ngộ của đơi bạn tình vừa tưng bừng rộn rã, êm đềm thánh thót </b>


<b>lại chan chứa hận chia ly!</b>


<b>Con tip</b>


Post added at 12:32 PM Previous post was at 12:30 PM


---Chín chữ cù lao



"Nhớ ơn chín chữ cao sâu,



Một ngày một ngả bóng dâu tà tà"



"Duyên hội ngộ, đức cù lao



Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn"



Tất cả chúng ta đều đều hiểu "chín chữ cù lao" về cơng lao của cha mẹ, nhưng có khi nào bạn thắc mắc,


chín chữ cù lao là những chữ gì không ?. Cù nghĩa là to lớn , lao nghĩa là cơng lao khó nhọc, cù lao mang ý


nghĩa là cơng lao to lớn khó nhọc.




1/ Sinh: người Mẹ phải khó nhọc cưu mang hơn chín tháng, chịu sự đau đớn trong lúc đẩy thai nhi ra khỏi


lịng mẹ



2/ Cúc: Ni dưỡng, nâng đỡ, chăm nom, săn sóc hài nhi cả vật chất lẫn tinh thần . Tình cảm rất tự nhiên


nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười


tươi .



3/ Súc: Cho bú mớm, lo sữa nước cháo cơm, chuẩn bị áo xống ấm lạnh theo thời tiết mỗi mùa ; trông cho


con lần hồi biết cử động, điều hịa và nên vóc nên hình cân đối xinh đẹp .



4/ Dục: Dạy dỗ con thơ động chân cất bước linh hoạt tự nhiên ; biết chào kính người lớn, vui với bạn đồng


hàng ; tập con từ câu nói tiếng cười hồn nhiên vui vẻ . Khi trẻ lớn khơn thì khun răng dạy dỗ con chăm


ngoan, để tiến bước trên đường đời .



“Dạy con từ thuở còn thơ,



Mong con lanh lợi, mẹ cha n lịng ”



5/ Vũ (có sách ghi là Phủ): Âu yếm, nâng niu, vuốt ve, bế ẵm … để con trẻ vào đời trong tình cảm trìu mến


thân thương .



6/ Cố: Chăm nom, thương nhớ, đối hồi, cố cập con trẻ từ tấm bé đến khi không lớn, lúc ở gần cũng như


lúc đi xa :



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Cha Mẹ bóng theo hình


Ngày đêm khơng ngơi nghỉ


Sớm tối dạ nào khy”



7/ Phúc: Giữ gìn, đùm bọc, che gió, chắn mưa, nhường khơ, nằm ướt, hay Cha Me qn mình chống đỡ


những bạo lực bất cứ từ đầu đến, để bảo vệ cho con.




8/ Phục: theo khả năng và tâm tính của trẻ mà uốn nắn, dạy dỗ, tìm phương pháp hướng dẫn trẻ vươn lên


hợp tình đời lẽ đạo, tránh cho con bị lôi cuốn bởi tiền tài ảo vọng, vật chất và thị hiếu bên ngồi.



9/ Trưởng: Lo lắng tận tình, đầu tư hợp lý, cho con học tập để chuẩn bị dấn thân với đ ời; cố vấn cho con


nên vợ thành chồng xứng hợp với gia phong, thế đạo. Dù không cố chấp vấn đề “môn đăng hộ đối”, nhưng


vợ chồng so le về tuổi tác, trình độ, sức khỏe và khả năng thu hoạch tiền tài… cũng thiếu đi phần nào hạnh


phúc lứa đôi, mà tuổi trẻ thường vì tiếng sét ái tình, làm lu mờ lý trí, khi tỉnh ngộ xem như chén nước đã


đổ, khó mà lấy lại đủ!



Mắt xanh



"Bấy lâu nghe tiếng má đào,



Mắt xanh chẳng để ai vào có khơng?"



Mắt xanh" do chữ "Thanh nhãn", tức là mắt ở giữa là tròng đen (hoặc xanh) hai bên tròng trắng.



Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưu rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết


bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn, Sơn Đào, Hướng Tú và Vương Nhung, người thường gọi là


"Trúc lâm thất hiền" (bảy người hiền ở rừng trúc).



Có giai thoại về ồng.



Được biết trong bộ Binh có người bếp cất rượu rất ngon, trữ 300 hũ mỹ tửu, ông liền xin vào làm một chức


nhỏ ở đây để được thưởng thức! Có lần ơng say ln 60 ngày, vua Tấn muốn nói chuyện với ông mà không


được. Người ta cho ông là "cuồng túy".



Ơng là người chán đời, thích tiêu diêu trong vũ trụ. Thơ của ơng phần nhiều tả tình, hoặc than cho thói đời


đen bạc, hoặc chán cho thế sự thăng trầm, hoặc ngao ngán cảnh phú quý công danh như phù vân... Tư



tưởng của ơng có lúc lại kỳ dị. Như trong bài văn xuôi "Đại nhân tiên sinh truyện", ơng ví con người trong


vũ trụ như con rận trong quần.



Ông phản đối Nho giáo. Ơng bảo: "Khơng có vua thì vạn vật ổn định; khơng có bề tơi thì mọi việc được trị;


khơng có kẻ sang thì kẻ hèn khơng ốn; khơng có kẻ giàu thì kẻ nghèo khơng tranh của. Ai nấy đều đủ ăn


mà khơng cầu gì nữa". Thật là một tư tưởng "vơ chính phủ" nhưng cũng lạ là vua Tấn vẫn để ông ở yên.



Nguyễn Tịch lại có một thái độ lạ lùng. Khi tiếp khách hễ là hạng qn tử, là hạng người vừa lịng mình thì


Nguyễn Tịch nhìn thẳng bằng trịng mắt xanh; trái lại khách là kẻ tầm thường, người khơng vừa lịng mình


thì ơng nhìn bằng đơi trịng trắng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Liễu Chương Đài



"Khi về hỏi liễu Chương đài



Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay"



Đời vua Đương Huyền Tơng có chàng tú tài Hàn Hủ, nổi tiếng là danh sĩ, lên kinh đô Trường An chuẩn bị


thi tiến Sĩ. Chàng ta thuê phòng trọ ở phố Chương đài, phía Tây kinh thành.



Cạnh bên nhà trọ Hàn Hủ là nhà Liễu thị, một ca kỹ tài sắc đã làm đắm say lắm tao nhân mặc khách, nhưng


khơng ai dám ngỏ tình, vì giai nhân đã có vị tướng quân họ Lý bảo bọc. Mỗi lần tướng Lý đến thăm Liễu


thị, đều có mời Hàn Hủ sang chơị Hai người đối ẩm trong giọng ca tiếng đàn nàng Liễụ Phần Liêũ thi,


những lúc ở nhà một mình, lại thường nhìn qua kẽ vách dòm sang nhà Hàn. Liễu thị thấy Hàn Hủ tuy nghèo


khó, nhưng lại rất phóng khống, hiếu khách. Nhìn trộm lâu ngày, thấy thương, rồi thầm yêu chàng tú tàị


Hơm đó, Lý tướng qn đến, Liễu thị đánh bạo, thưa:



- Hàn Tú tài là người có hồn cảnh khó khăn nhưng lại rất hào sảng. Tương quân đã kết thân với chàng ta,


thì thiếp nghĩ cũng nên tìm cách giúp đỡ.




Tướng Lý gật gù, cười độ lượng, truyền Liễu thị bày tiệc, rồi mời Hàn Hủ sang nói chuyện:



- Hàn Tú tài là bậc danh sĩ ; Liễu thị là kỹ nữ tài sắc. Danh sĩ mà sánh duyên cùng tài sắc chẳng phải là


xứng đôi lắm sao?. Ta đứng chủ hôn cho đôi lứa\.



Cả hai người được gá duyên đều ngây người trước thái độ bao dung của tướng quân. Qua hồi xúc động, đôi


lang nương lạy tạ ơn vị tướng quân " fair play " này. Sau đó, Lý tướng quân từ biệt , hai người sống chung


với nhau như vợ chồng, tình yêu tha thiết.



Tú tài Hàn Hủ tuy là người lỗi lạc, nhưng thi tiến sĩ lại không đỗ. Vợ chồng không lấy thế làm điều khổ


tâm, vẫn thương yêu nhau trong cuộc sống hàn vị Bốn năm sau, có quan Tiết độ sứ Thanh Châu là Hầu Di


Dật, từ lâu ngưỡng mộ tài năng của Hàn Hủ, đã tâu với vua xin chàng về làm tòng sự Hàn Hủ phải về


Thanh Châu nhận chức, hẹn với Liễu thị khi cuộc sống ổn định, sẽ trở về lại kinh đô rước nàng.



Nhưng rồi công việc tất bật, sau ba năm Hàn Hủ không về kinh được, gởi cho nàng lá thư với nỗi phập


phồng nàng kỹ nữ đã ôm cầm sang thuyền khác:



"Chương đài Liễu, Chương đài Liễu


Tích nhật thanh thanh kim tại phủ


Túng sử trường điều tự cửu thùy


Dã ưng phan chiết ta nhân thủ ".


(Liễu Chương đài, Liễu Chương đài


Còn chăng thuở trước dáng xanh tươi


Thướt tha vẫn giống như năm nọ


Vin bẻ đành tay kẻ khác rồi!)



Đọc thơ, Liễu thị hiểu là chồng âu lo mình phụ bạc. Nàng đáp thư:



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Túng sử quân lai khởi kham chiết ".


(Nhành dương liễu, trạc xuân xanh



Đeo nặng bao năm nỗi biệt tình


Chiếc lá gió đưa, thu đà tới



Chàng về chưa chắc được vin cành).



Sau đó, Liễu thị xuống tóc vào nương cửa Phật, tránh lũ bướm ong quấy nhiễu.



Thương cho nàng. đã vào chùa mặc áo nâu sồng mà vẫn không yên câu kinh tiếng mõ. Phiên tướng Sa Tra


Lợi đang tại chức Xạ Kỵ tướng quân của vua Đường Huyền Tông, xông vào thiền môn, bắt Liễu thị về làm


thiếp.



Thời gian cũng qua đị.



Mươì hai năm sau, Tiết độ sứ Hầu Di Dật về kinh công cán, Hàn Hủ tháp tùng. Về đến Tràng An, Hàn Hủ


thăm dị tin tức mới biết vợ mình đã sa vào tay kẻ khác. Thế cô, phận nhỏ đành im tiếng. Một hơm, đang


tảng bộ trên phố thì gặp một cổ xe ngựa thong thả đi quạ Trên xe chợt có giọng đàn bà vọng ra:



- Có phải Hàn viên ngoại ở Thanh Châu đó khơng ?.



Nghe giọng nói, Hàn Hủ rúng động, ấp úng chưa kịp trả lời, thì người trên xe tiếp:



- Ngày mai, thiếp cũng sẽ qua đường này. Xin chàng hãy đến đây cho thiếp trông thấy lần cuối.



Hôm sau, y hẹn, Hàn Hủ đứng chờ đợi tình. Chiếc xe đến, từ trên đó ném xuống chiêc khăn hồng bọc ngoài


một hộp sáp thơm. Giọng đàn bà thổn thức:



- Cảm ơn chàng, em đã trơng thấy tình lần cuốị Vĩnh biệt phu quân.



Xe vụt chạy nhanh mất hút. Đêm đó, Hàn Hủ phải dự tiệc với hàng quan chức ở kinh thành nơi một tửu lầu


sang trọng. Trong tiệc, mọi ngươì đều cười nói vui vẻ chỉ có mình Hàn Hủ mặt ủ mày ệ Có người gạn hỏi



nguyên nhân; Hàn Hủ phải đem chuyện mình kể trong bàn tiệc. Hàn vừa dứt lời, viên tướng trẻ Hứa Tuấn


ném mạnh chén rượu xuống đất, đánh "xoảng", cất giọng oang oang:



- Giữa kinh thành này mà cũng có quan triều đình làm loạn vậy sao ? Tiểu nhân này, tu y tài hèn sức mọn


nhưng cũng xin được ra tay, đưa phu nhân về cho Hàn viên ngoạị Xin Hàn viên ngoại hãy viết ít chữ để


làm tin với phu nhân.



Hàn Hủ chép lại bài thơ Liễu thị đã gởi cho mình mười lăm năm trước khi vào qui y cửa Phật. Hứa Tuấn


nhận thư, phóng ngựa đến tư dinh của Sa Tra Lợị Tướng Phiên này đang vắng nhà. Hưá Tuấn lớn tiếng với


đám gia nhân:



- Tướng qn bị ngã ngưạ, thương tích nặng, e khó qua khỏị Ngài bảo ta về rước phu nhân cho ngài gặp


mặt.



Hứa Tuấn phóng ngựa chạy thẳng vào dinh. May mắn, Liễu thị đang sắp sửa nhờ ba thước lụa kết liễu đời


mình, thì nhận được bài thơ tình của mình đã viết cho tình lang. Hứa Tuấn đỡ bà lên mình ngựa, phóng như


bay trở về tửu lầu.



Có ai đang hồi hợp chờ đợi, lồng ngực thình thịch liên hồi.


Rồi, hai trái tim cùng chung nhịp đập.



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,


Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh


Dám nhờ cốt nhục tử sinh



Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau.



"Kết thảo, hàm hồn" là nói sự đền ơn đáp nghĩa.



Kết thảo - kết cỏ lấy điển tích từ thời Chiến quốc Xuân Thu. Vua Cảnh Nông nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ



làm đại tướng, Ngụy Khỏa là phó tướng đem quân đánh Lộ, là nước nhỏ. Nước Lộ khồng chống cựnổi,


chúa là Anh Nhi bị bắt giải về nước Tấn. Ngụy Khỏa được lệnh ở lại trị vì nước Lộ Cảnh Nơng không giết


Anh Nhi, nhưng lại đối đãi tử tế, xây một lâu đài riêng cho Anh Hi ở.



Chúa nước Tần là Tần Hồng Cơng hay tin Tấn đánh chiếm nước Lộ, bắt Anh Nhi về, cho ở riêng một lâu


đài, còn cho Ngụy Khỏa ở lại giữ thành Lộ, đang thu phục nhân tâm, tính việc dài lâụ Hồng Cơng lo ngại


nếu Tấn thống trị được nước Lộ, dân tình Lơ, quy phục nước Tấn thì uy thế nước Tấn sẽ vượt hẳn nước


Tần. Hoàng Công vội sai đại tướng Đỗ Hồi đem binh cứu Lộ. Đỗ Hồi là một vị tướng có sức mạnh mn


người, chun dùng vũ khí là cái búa lớn năng 120 cân; nước Tần nhờ có Đỗ Hồi mà giữ an được bờ cõi,


khơng nước nào dám dịm ngó cả.



Đỗ Hồi đem quân đến nước Lộ, chỉ một mình một ngưa xơng lên phía trước như thế chẻ tre. Ngụy Khỏa


khơng địch nổi phải đóng cửa thành cố thủ, chờ binh cứu viện. Tấn Cảnh Nông tiếp' được thư cầu cứu của


Ngụy Khỏa, tức tốc sai tướng Ngụy Ý, là em của Ngụy Khỏa đem binh tiếp viện. Hai cánh quân hợp sức,


trong thành đánh ra, viện binh đánh vào những cũng không đẩy lui được quân của Đỗ Hồị Hai anh em lại


phải kéo quân vào thành cố thủ.



Đêm đó, Nguỵ Khỏa nằm mơ thấy một lão ơng râu tóc bạc phơ đến nói nhỏ vào tai: "Thanh thảo pha, thanh


thảo pha...". Ngụy Khỏa giật mình thức giấc, khơng hiểu giấc mơ là điềm gì, đến hỏi em. Ngụ Ý suy nghĩ


hồi lâu chợt nhớ ra:



- Cách đây năm dặm, gần đất Phu Thi có một địa danh tên là Thanh thảo pha. Có lẽ thần linh mách bảo cho


anh em chúng ta phải đánh quân Tần tại đó.



Hai anh em đồng ý. Nửa đêm hơm đó, Ngụy Ý lặng lẽ đem quân đến mai phục vùng Thanh Thảo pha. Sáng


sớm, Ngụy Khỏa ào ạt kéo quân ra khỏi thành khiêu chiến, rồi bỏ chạy cho quân Đỗ Hồi đuổi theo đến chỗ


phục binh. Mặc dù bị rơi vào ổ phục kích, vịng trong, vịng ngoai đều bị vây kín, nhưng Đỗ Hồi vẫn tả


xung hữu đột rất dũng mãnh, giết địch vô số kể. Anh em Ngụy Khẩn kinh hãi, toan thu góp tàn qn chạy


về thành, thì thấy Đỗ Hồi đang mãnh liệt vung búa, bỗng nhiên người ngựa đều té lăn xuống đất. Con ngựa


hí vang, đứng dậy đi ít bước lại ngã xuống. Đỗ Hồi cũng gượng đứng thẳng nhưng rồi cũng lảo đảo quị gốị



Quân lính của Ngụy Khỏa, Ngụy Ý hè nhau bắ t trói được dũng tướng của nước Tần. Sau đó Nguỵ Khỏa


truyền chém đầu Đỗ Hồi , cho đem thủ cấp về dâng cho Tấn vương và đại tướng Tuần Lâm Vũ.



Đêm đó, Ngụy Khỏa lại nằm mợ thấy lão ơng trở lại, nói:



- Lão ơng chúc mừng tướng quân thắng trận.


Ngụy Khỏa vòng tay thưa:



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

- Quả đúng như vậỵ Lão đây đã kết cỏ ở Thanh thảo pha lại, quấn lấy vó ngựa, làm tướng Tần sa chân,


người và ngựa không xoay trở được thì phải thúc thủ.



Ngụy Khỏa bái tạ lão ông:



- Mạc tướng này chưa được biết lão trượng, sao lại được giúp' đỡ hết lòng..



Nguỵ Khỏa chưa nói dứt, thi lão ơng đã cắt lời:



- Lão phu này là người hàm ơn nặng với tương công. Việc kết cỏ vừa rồi, lão phu chỉ mong đền ơn đáp


nghĩa phần nàọ Lão đây chính là cha của Tố Cơ, cảm ơn tướng quân ngày trước đã không chôn sống con


gái lão, mà lại cho kết duyên vớ một người xứng đáng. Ơn ấy, dù nay đã ở suối vàng, lão cũng không quên.



Nói xong, hình ảnh ơng lão tan biến mất.



Tỉnh giấc, Ngụy Khỏa tìm đến em. Hai anh em hồi tưởng lại dĩ vãng...



Cha Ngụy Khỏa là Ngụy Lê, một tướng tài ba của nhà Tấn, có một hầu thiếp trẻ đẹp là Tố Cơ, nhan sắc


mặn mà, nết na đoan chính, thật là một giai nhân quốc sắc. Tướng già, có được hầu thiếp trẻ đẹp, Ngụy Lê


vô cùng thương yêu Tố Cợ Sinh thời, lúc cịn cầm qn xơng pha trận mạc đó đây, Ngụy Lê thường căn


dặn con:




- Nếu chẳng may cha có bỏ thân nơi chiến trường, thì con nên tìm nơi tử tế mà gả Tố Cơ, đừng để nàng bơ


vơ chếch bóng, làm sao cho nàng được hạnh phúc thì cha mới ngậm cười nơi chín suối.



Nhưng về sau, Ngụy Lê khơng da ngựa bọc thây ngồi trận địa, mà lại chết già tại gia. Lúc lâm chung, ơng


lại "trở chứng", dặn dị Ngụy Khỏa:



- Ta sắp ra đi rồị Đến hết đời, cha chỉ có Tố Cơ là người u q nhất. Vậy khi cha chết đi, con hãy chôn


nàng theo ta để chim liền cánh, cây liền cành.



Cha chết rồi, Ngụy Khỏa không làm theo lời trăn trốị Ngụy Ý hỏi:



- Sao anh khơng chơn dì Tố Cơ theo di mệnh của phụ thân?



Ngụy Khỏa đáp:



- Lúc thân phụ còn là một tướng dũng mãnh, đem quân đi chinh phạt đó đây, có dặn nếu có mệnh hệ nào,


thìphải tìm nơi tử tế gả chồng cho dì Tố Cơ, để mong nàng an vui hạnh phúc. Lời dặn dị đó là một "chân


mệnh". Nhưng bây giờ, trước khi mất, tâm thần mê sảng, ý chí khơng cịn minh mẫn thì di mệnh của thân


phụ trong lúc lâm chung là "loạn mệnh", chúng ta phận làm con cho trịn chữ hiếu thì khơng nên theo


những lời đó.



Ba năm sau, khi đã mãn tang cha, Ngụy Khỏa làm chủ hơn, gả dì Tố Cơ cho một nho sĩ danh tiếng; cuộc


đời nàng được an nhàn hạnh phúc.



Thân phụ của Tố Cơ, cho đến chết vẫn ghi lòng tạc dạ người cứu mạng con gái mình, nên đã hiển linh hiện


hồn về, kết cỏ nơi trận địa Thanh thảo pha để



</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Hồng diệp xích thằng



"Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng



Một lời cũng đã tiếng rằng Tương tri


Ðừng điều nguyệt nọ hoa kia



Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai!"



Hồng diệp: Ngày xưa, triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước bị tuyển vào cung làm


cung hầu vua. Họ có đi mà chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn duyên tủi phận gối lẻ chiếc


bóng trong thâm cung. Chỉ có khi nào bị sa thải vì hết đẹp, vì già...



Ðời Ðường (618- 907), triều Hy tơng, có nàng cung nữ tên Hàn Thuý Tần cũng như bao cung nữ khác sống


cô lạnh trong thâm cung. Buồn tủi cho số kiếp của mình, nàng thường nhặt những chiếc lá đỏ rồi đề thơ


trên lá, thả xuống ngịi nước như mong nước trơi xi cuốn đi nỗi tâm sự u uất của mình:



"Lưu thuỷ hà thái cấp


Cung trung tân nhiệt nhân


Ân cần tạ hồng diệp


Hảo khư đảo nhân gian"



Tạm dịch:



"Nước chảy sao mà vội


Cung sâu suốt buổi nhàn


Ân cần nhờ lá thắm


Trôi đến tận nhân gian"



Chiếc lá chở bài thơ theo dịng nước chảy xi ra ngồi vịng cấm luỹ. Lúc bấy giờ có người mơn khách


của quan Tể tướng Hàn Vinh tên Vu Hựu vốn người phong lưu tài tử, thơ hay chữ tốt, chỉ hiềm nỗi vận


chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể tướng họ Hàn. Ðương thơ thẩn ngắm dịng nước chảy, Vu


Hựu bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ liền vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ


lạ mặt, chàng cũng nhặt một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dịng nước xi mới thả lá xuống cho



trôi trở vào cung:



"Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi



Thượng đương cung nữ đoạn trường thì


Tư quân bất cấm đông lưu thuỷ



Diệp thượng đề thi ký giữ thuỳ"



Phan Như Xuyên dịch:



"Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương


Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường


Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước



Gởi cho ai đó nói khơng tường"



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Non mười năm sau, vua mới lên ngôi, sa thải một số cung nữ cũ, trong đó có Hàn Thuý Tần. Nàng đến ở


tạm dinh quan Tể tướng họ Hàn là chú họ của nàng, để chờ chuyến thuyền trở về quê nhà. Gặp Vu Hựu, cả


hai trò chuyện hợp ý tâm đầu. Tể tướng họ Hàn thấy cả hai xứng lứa vừa đôi nên làm mối cho kết thành


duyên giai ngẫu.



Ðêm tân hôn, Hựu chợt mở rương son phấn của vợ, thấy chiếc lá của mình ngày xưa, chàng cũng đem


chiếc lá của mình vớt được, đem cho vợ xem. Cả hai lấy làm lạ, đoạn nhìn nhau âu yếm mĩm cười. Thì ra


cả hai giữ hai chiếc lá của nhau, cho là duyên trời định.



Xích thằng: Ðời nhà Ðường có chàng nho sĩ tên Vi Cố đến Nam Ðiện ở Tống Thành, trọ một ngôi chùa để


học tập, chuẩn bị đi thi. Một đêm nhân trăng thanh gió mát, Vi Cố đi dạo chơi, ngắm xem phong cảnh. Ðến


một quãng vắng, chàng bỗng ngạc nhiên vì thấy một cụ già râu tóc bạc phơ ngồi dưới ánh sáng trăng, mắt


nhìn vào một quyển sổ to, tay xe tơ đỏ. Trông người tiên phong đạo cốt, Vi Cố lấy làm lạ, đến gần hỏi:



-Chẳng hay lão trượng ở đâu đến đây mà ngồi một mình giữa đêm khuya canh vắng? Cịn sách này là sách


gì mà to nặng thế này, và tơ đỏ này cụ xe làm gì lại nhiều thế?



Cụ già đáp:



- Ta là Nguyệt lão, xem sổ định hơn của nhân gian. Cịn chỉ ta đương xe là duyên của vợ chồng do tơ này


buộc lại



Vi Cố mừng rỡ, yêu cầu cụ già cho biết duyên của mình và xe tơ giùm. Cụ già mỉm cười, nói:



- Số duyên của nhà ngươi là con bé hiện mới ba tuổi, con của một mụ ăn mày thường đi xin ăn ở chợ Ðơng


Ðơ.



Vi Cố nghe nói hỡi ơi, buồn tủi khơng nói được tiếng. Cụ già biết ý, bảo:



- Ðó là dun trời định. Gìa này khơng thay đổi được. Mà người muốn tránh cũng chẳng xong.


Vi Cố buồn bã, từ giã lủi thủi đi về



Ðêm nằm băn khoăn khơng ngủ được, nhưng lịng vẫn cịn bán nghi, huyền hoặc hay thực tế?



Sáng hôm sau, Vi Cố ra chợ Ðông Ðô, trông thấy một mụ ăn mày dơ dáy, tay ẵm đứa bé độ ba tuổi, thơ


thẩn xin ăn ở góc chợ. Qủa thực đây rồi. Vi Cố bực tức, liền mướn một gã lưu manh đâm chết đứa bé kia,


sẽ thưởng nhiều tiền. Tên lưu manh ưng chịu, nhận lấy một số tiền trước. Hắn liền cầm dao lén đến chém


một nhát vào đầu đứa bé. Mụ ăn mày hốt hoảng, ôm con chạy. Nhìn thấy máu tn xối xả, tên lưu manh


tưởng đứa bé đã chết nên cũng bỏ chạy.



Mười lăm năm sau, Vi Cố đi thi đỗ Thám hoa. Vào triều bái yết nhà vua xong, Vi Cố ra lễ tạ quan Tể tướng


họ Châu vốn làm chủ khảo khoa thi. Thấy quan tân khoa chưa vợ, quan Tể tướng liền gả con gái cho. Vi Cố


mừng rỡ.




Ðêm động phịng hoa chúc, Vi Cố nhìn thấy vợ mỹ miều, đẹp đẽ lấy làm hớn hở, vừa ý. Chợt nhìn sau ót


có một vết thẹo, làm lạ hỏi. Nàng thành thực kể thân thế mình, vốn con một mụ ăn mày, 15 năm trước bị


tên lưu manh ác độc, khơng biết có thâm thù gì lại chém nàng. May mẹ nàng nhanh chân ẵm nàng chạy


khỏi, nàng chỉ bị thương sau ót. Mẹ chết, nàng chịu cảnh bơ vơ, may Tể tướng đi gặp giữa đường, vì khơng


con nên đem về ni xem như con đẻ. Nghe thuật, Vi Cố thở dài, nghĩ:



- Thật là duyên trời định, tránh không khỏi được



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×