Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.77 KB, 27 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Trích từ câu :</b>
<b>Dâng thư đã thẹn nàng Oanh </b>
<b>Lại thua ả Lý bán mình hay sao ? </b>
<b>Nàng oanh </b>
<b>Đời nhà Hán có Thuần Vu Ý làm quan đất tề ; nhà khơng có con trai, chỉ sinh được 5 con gái, Đề Oanh là gái út. </b>
<b>Thuần Vu Ý mắc tội lớn phải thọ hình. Khi bắt giải tử tội về kinh , Đề Oanh đi theo cha. Đến kinh thành, nàng dâng thư </b>
<b>lên Hán Văn Đế tâu rằng, nếu cha chết đi, cũng không mảy may đền được chút tội; nay thân gái này khẩn thiết xin vua </b>
<b>được cho vào cung làm cung nhân thô (người làm sạch sẽ cho vua sau mỗi lần vua đi vệ sinh), để chuộc tội một phần nào </b>
<b>cho cha. Hán Văn Đế đọc thư của nàng Oanh, cảm động vì lịng hiếu hạnh của nàng nên tha tội cho Thuần Vu Ý.</b>
<b>Ả Lý</b>
<b>Thời Hán Vũ Đế, ở quận Mân Trung đất Đông Việt., trong một cái hang sâu có con rắn khổng lồ; dân chúng trong vùng </b>
<b>rất kinh hãi, gọi là thần rắn. Hàng năm phải cung cho thần rắn một người con gái đồng trinh thì dân mới yên ổn làm ăn. </b>
<b>Nhưng dần cũng hết, tìm đâu ra con gái\. </b>
<b>Bấy giờ ở huyện Tương Lạc, có nàng Lý Ký, nhà nghèo xơ xác, cả cha mẹ đều bệnh năng không tiền thuốc thang. Nàng </b>
<b>Lý đã trốn cha mẹ, đến cửa quan tự nguyện bán mình nộp mạng cho rắn, rồi nhờ chuyển tiền về cho cha mẹ.</b>
<b>Nàng xin quan lệnh ban cho một cây gươm bén và một con chó dữ. Vào bên trong hang, nàng thả chó dữ ra chiến đấu với </b>
<b>rắn, và dùng gươm chém rắn từng khúc.</b>
<b>Dư Thiện là cháu lâu đời của Việt Câu Tiễn được Hán Vũ Đế phong vương ở đất Đông Việt. Biết được chuyện người con </b>
<b>gái hiếu thảo, can trường, Đơng Việt vương đã đón ả Lý về làm vợ.</b>
<b>Ả Tạ- Nàng Ban </b>
<b>Khen tài nhả ngọc phun châu</b>
<b>Nàng Ban, Ả Tạ cũng đâu thế này </b>
<b>Nàng Ban </b>
<b>Ban Chiêu tự là Huê Cơ là người đàn bà hay chữ đời Đông Hán. Năm mười lăm tuổi Ban Chiêu đã biết làm thơ và làu </b>
<b>thông Tứ Thư, Ngũ kinh. Lấy chồng là Tào Thế Thức, một danh nho của Đơng Hán. Sống chung được mười năm thì Tào </b>
<b>Thế Thức qua đời vì bệnh; Ban Chiêu thủ tiết thờ chồng.</b>
<b>Đời vua Hoà Đế, Ban Chiêu được triệu vào cung để dạy học cho các hoàng tử và các phi tần. Lúc bấy giờ cha của bà là </b>
<b>Ban Bưu đang tại chức Đông các đại học sĩ, chịu trách nhiệm soạn thảo bộ Hán Thư. Cơng việc đang cịn dang dở thì ơng </b>
<b>qua đời. Anh của ban Chiêu là Ban Cố được nhà vua chỉ định tiếp tục cơng trình của cha. Nhưng chẳng bao lâu, Ban Cố </b>
<b>cũng qua đời vì bạo bệnh, trong khi bộ Hán thư vẫn chưa xong. Ban Chiêu tâu với vua cho bà được tiếp nối cơng trình. </b>
<b>Vua Hịa đế chấp thuận và bà được sung vào Đông các tàng thư tiếp tục soạn bộ Hán thư cho đến hoàn tất.</b>
<b>Trong thời gian ở Đông các tàng thư, Ban Chiêu đã trước tác tập Nữ Giới, gồm bảy thiên. Từ đó lẫy lững tài danh Ban </b>
<b>Chiêu. </b>
<b>Ả Tạ</b>
<b>Ả Tạ là Tạ Đào Uẩn, con gái quan Thái úy Tạ Công đời nhà Tấn, có nhan sắc tuyệt trần lại thơng minh nhất mực. thơ </b>
<b>phú hay lừng tiếng.</b>
<b>Trong cùng một vùng, có họ Vương cũng dịng giỏi gia phong, con cháu cũng thuộc vào bậc vọng tộc. Họ Tạ và họ Vương </b>
<b>Tạ Đạo Uẩn lúc nhỏ đã thơng minh, học rộng lại có tài biện luận. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ </b>
<b>Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết, hỏi: - </b>
<b>Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?</b>
<b>Tạ Lãng đáp: - Muối trắng ném giữa trời.</b>
<b>Tạ Đạo Uẩn bảo: - Thế mà chưa bằng "Gió thổi tung tơ liễu</b>
<b>Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu </b>
<b>rằng: - Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bực công khanh.</b>
<b>Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên với Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.</b>
<b>Làm vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt </b>
<b>bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.</b>
<b>Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện </b>
<b>luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm một cái màn che </b>
<b>lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện luận với khách.</b>
<b>Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.</b>
<b>Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ có tài danh về thi phú văn chương. Về sau, các nhà văn học thường dùng tiếng "nàng </b>
<b>Gặp cơn bình địa ba đào </b>
<b>Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em. </b>
<b>Tích truyện :</b>
<b>Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hố Chiêu, Lương Tiểu Ngạ Tiểu </b>
<b>Nga là con một gia đình thúc nho lễ giáo, nổi tiếng là một trang quốc sắc thiên hương; thuở nhỏ được cha mẹ cho theo đòi </b>
<b>bút nghiên, mười hai tuổi đã biết làm thơ phú, đọc thơng các sách thánh hiền. Hố Chiêu là học trị của cha Tiểu Nga; </b>
<b>cậu học trị nghèo, mồ cơi cha, thông minh, ham học, mặt mày khôi ngô, được thầy thương, gả con gái và cho ở rể. Sống </b>
<b>chung với nhau được ba năm, thì bố mẹ vơ, lần lượt qua đời, để lại cho vợ chồng một căn phố và ít vốn liéng để mở một </b>
<b>tiệm tạp hóa.</b>
<b>Đời sống cũng được êm đềm. Trong vùng, các văn nhân thỉnh thoảng đến mua hàng và cùng vợ chồng Trần Hóa Chiêu </b>
<b>xướng họa ngâm thơ. Cũng khơng ít khách lai vãng thường xuyên đến đó vờ vĩnh mua hàng, để được dịp chiêm ngưỡng </b>
<b>dung nhan Tiểu Nga; có phú hộ Trát Hiếu Sắc cũng thuộc loại khách này. </b>
<b>Nhưng khơng như những mối tình câm kia, đến nhìn để rồi thầm yêu trộm nhớ, Hiiếu Sắc đã manh tâm chiếm hữu người </b>
<b>đàn ba này cho được. Phú hộ tìm hiểu, biết vợ chồng vì ham thích thơ văn , nên bng lỏng chuyện mua bán, vốn liếng </b>
<b>cụt dần. Phú hộ ra tay hào hiệp, cho mượn vàng bạc để gầy dựng lại. Ngại ngùng lần đầu, nhưng rồi tiếp những lần sau, </b>
<b>Hoá Chiêu cầm vàng bạc mượn đi buôn bán xa, chuyến nào cũng lời khẫm. Lần nào, vợ chồng cũng nài nỉ hoàn lại vốn </b>
<b>và trả lời, nhưng Hiếu Săc đều từ chối lấy lãi. </b>
<b>Cứ vậy, hai năm họ trở thành bạn thâm giao. Hiếu Sắc ln tỏ ra mình là người đàng hồng, nghiêm túc, khơng bao giờ </b>
<b>đến nhà bạn trong lúc vắng mặt Hoá Chiêu; những lúc tiếp chuyện với Lương Tiểu Nga, luôn luôn giữ thái độ đứng đắn. </b>
<b>Vợ chồng Hố Chiêu vui mừng có được người bạn hiền, hào phóng. Khi tự xét lý lịch "nằm vùng" của mình đã đến lúc </b>
<b>kết nạp được, Hiếu Sắc đề nghị chung vốn làm ăn lớn. Vợ chồng Hóa Chiêu hồn tồn tin tưởng, hớn hở nhận lời ngay.</b>
<b>Việc buôn bán phất lên nhanh, nhưng Hiếu Sắc vẫn cương quyết không bao giờ nhận chia lãi, nại lý do để giúp vợ chồng </b>
<b>bạn.</b>
<b>Một lần, Hiếu Sắc bàn với Hóa Chiêu phải đi bn một chuyến lớn ở Hàng Châu xa xôi và thuê thuyền xong, cả hai cùng </b>
<b>lên đường. Ròng rã cả tháng trời thuyền mới đến Hàng Châu vào một đêm trăng thanh gió mát. Hai người đem rượu ra </b>
<b>mũi thuyền đối ẩm tâm sự Hố Chiêu, tình thật, ngâm một câu thơ, lại ngậm một chén rượu ; Hiếu Sắc thì cứ làm động </b>
<b>tác giả, hắt rượu qua vai. Quá nửa đêm, Hoá Chiêu rụng, người mềm nhũn. Lúc bấy giờđám gia nhân dưới thuyền cũng </b>
<b>đã ngủ saỵ Hiếu Sắc lơi Hóa Chiêu, xơ xuống sơng. Đơi ba lần Hố Chiêu ngoai ngóp trồi đầu lên, Hiếu Sắc lại dùng sào </b>
<b>dìm xuống cho đến khi mặt nước khơng cịn sủi bọt nữa.</b>
<b>Khơng cần phải bn bán chi, Hiếu Sắc cho thuyền quay về Tề Hàng ngay. Mẹ Hoá Chiêu và Tiểu Nga đau lòng với nỗi </b>
<b>bất hạnh, nhưng vần cảm kích Hiếu Sắc đã bỏ cả chuyến hàng lớn để vội vàng trở về báo hung tin.</b>
<b>Rồi sau đó, đều đều, Hiếu Sắc lui tới thăm viếng và cấp dưỡng cho mẹ Hố Chiêu và cơ vợ góa trẻ. Và lần nào nước mắt </b>
<b>Người đời càng nể trọng hơn khi thấy Hiếu Sắc ân cần chăm sóc mẹ của Hố Chiêu chu đáo hơn vợ bạn, khiến mẹ già </b>
<b>cũng có phần đăm chiêu </b>
<b>Ba năm sau, mãn tang. Hiếu Sắc cho người đến thưa chuyện với mẹ Hóa Chiêu xin cưới Tiểu Nga lam vợ. Bà mẹ đã đăm </b>
<b>chiêu nhiều, nên thuận tình ngay, khuyên nhủ con dâu nên bước thêm bước nữa.</b>
<b>Lương Tiểu Nga vốn là gái hiền thục, vẫn còn thương yêu người chồng vắn số, nhưng vẫn phải vâng lời mẹ chồng, tái giá.</b>
<b>Cưới được Lương Tiểu Nga rồi, Hiếu Sắc vẫn một mực chăm sóc mẹ Hố Chiêu; bà cũng an lịng nghĩ rằng con dâu mình </b>
<b>có được bóng mát cho cuộc đời cịn lại.</b>
<b>Vợ chồng ăn ở vơi nhau được mười năm, sinh được hai mụn con. Đời sống an nhàn. Một đêm trăng vào hạ, vợ chồng ra </b>
<b>ngồi hóng mát bên ao sen. Hiếu Sắc nhấm rượu, và ngấm rượu; Đương lúc đó, có con ếch nhảy lên một lá sen. Tiểu Nga </b>
<b>đưa cây sào thọc cho con ếch nhảy đi. Sào thọc xuống thì con ếch lặn, cất sào lên, nó lại trồi lên. Tiểu Nga phải thọc vào </b>
<b>con ếch mấy lần nữa, nó mới chịu lặn chìm mất.</b>
<b>Bất giác, Hiếu Sắc buột miệng ngâm:</b>
<b>"Hồiức thập tam niên tiền sự</b>
<b>Huyên tợ hà mô lục thủy thờị.</b>
<b>Nhớ chuyện mươi ba năm trước đây</b>
<b>Mường tượng ngày nay ếch ngóp ngoai</b>
<b>Nghe lời thơ lạ, Tiểu Nga bảo chồng lập lại để mình họa theo. Hiếu Sắc lè nhè đọc lại rồi cao hứng nói vợ lấy giấy bút cho </b>
<b>mình chép lại làm thủ bút. Thôi rồi, kẻ hào hiệp chung chăn gối với mình mười năm nay, thì ra là một kẻ nham hiểm </b>
<b>thâm độc.</b>
<b>Khơng thể để cho Hố Chiêu chết oan, Tiểu Nga đã nắ lấy vật chứng là hai câu thơ thủ bút của Hiều Sắc, đem đi trình </b>
<b>quan. </b>
<b>Bị bắt tra vấn, Hiếu Sắc khai hết sự thật câu chuyện hơn mười ba năm trước, vì đã cuồng si nhan sắc của Lương Tiểu </b>
<b>Nga nên đóng trò đạo đức, rồi bày mưu giết chồng đoạt vợ Trát Hiếu Sắc bị xử tội tử hình. </b>
<b>Đúng là sắc bất ba đào dị nịch nhân, nhan sắc đâu phải là sóng lớn mà cũng dìm chết người, hai người chồng đều phải </b>
<b>tức tưởi lìa đời.</b>
<b>Sắc đẹp là tội lỗi, nàng đã đến công đường, xin xử tội cái nhan săc nàỵ Nhưng luật pháp có bao giờ lại tử hình một hồng </b>
<b>nhan. Có chăng thì lạ gì bỉ sắc tư phong, hồng nhan phải tự mang lấy cái nghiệp chướng đa truân.</b>
<b>__________________ </b>
<b>Bảy chữ - Tám nghề</b>
<b>Này con thuộc lấy làm lịng </b>
<b>Vành ngồi bảy chữ, vành trong tám nghề</b>
<b>Chơi cho liễu chán hoa chê </b>
<b>Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời</b>
<b>Khi khóe hạnh, lúc nét ngài </b>
<b>Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa </b>
<b>Tích truyện :</b>
<b>Theo truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc):</b>
<b>Tú bà hỏi Kiều: Tiếp khách thế nào mới lưu được khách?.</b>
<b>Kiều trả lời: ngủ với ngươì ta chớ gì?; </b>
<b>Tú bà giẫy nẫy: con này mới ngu làm sao ! Nếu con gái nhà thổ cũng như con gái nhà lương gia thì ai buồn chơi. Nghề </b>
<b>chơi ở trong còn lắm điều hay, khi khách lên giường, thì mày nhường khách nằm trong, mày nằm ngoài, ngoảnh mặt lại </b>
<b>chầu khách; tay khách tất sờ vào mình mày, mày phải sờ hạ thể khách..</b>
<b>1. Khốc: khóc lóc giả bộ thương yêu, khách quyến luyến khơng rời được</b>
<b>2. Tiễn: cắt tóc mày và tóc khách, se vào nhau; mỗi người buộc vào cánh tay như thề nguyện kết tóc se tơ.</b>
<b>3. Thích : khi đã thỏa thê tình dục rồi, lấy kim chích tên của khách lên cánh tay hay đùi mày, lấy mực xoa vàọ Khách sẽ </b>
<b>trút hết tiền vì nghĩ rằng mày đã chết mê chết mệt nó, mới xăm tên nó lên thân thể mày như vậỵ Khách sau đến, trông </b>
<b>thấy ắt phải nghĩ rằng: không biết người đi trước đãi mày thế nào mà mày yêu đến thế. Tất nhiên sau đó sẽ hậu đãi mày </b>
<b>để được lòng mày, yêu hơn người trước. Nhân thể phải biết chau mày, nói: khách đi trước đã tiêu phí không biết bao </b>
<b>nhiêu tiền mới được lạc thú tuyệt đỉnh, do đó mới xăm tên, nay muốn được thích thú hơn, tất nhiên phải quăng tiền cho </b>
<b>mày. </b>
<b>4. Thiêu: là khổ nhục kế, hai đứa đều chích máu trong người ra để thề, phỏng gặp thằng ngu, mày cùng nó đốt huơng thề, </b>
<b>như thế thì nó táng gia bại sản cũng đáng đời.</b>
<b>5. Giá: dùng mẹo để lừa, cứ như mong được làm vợ, suốt ngày chỉ nói chuyện mơ ước về nhà chồng và các điều thề thốt. </b>
<b>Hễ nó đã mê, tự nhiên bỏ của ra; tiền đã hết rồi, nó muốn cưới, mày giả đau khơng dậy, thế thì chẳng phải đợi mày đuổi, </b>
<b>nó tự động cũng cút xéo.</b>
<b>6. Tẩu: khách chơi đã hết của, mày phải đuổi nó ra khỏi cửạ Nếu nó vẫn đeo, thì vờ hẹn nó đến một nơi nào đó, rồi nắm </b>
<b>áo lại, dọa sẽ tri hơ lên cho quan đến bắt kẻ lưu manh có ý cưỡng bức màỵ Tự khắc nó phải bỏ mày. </b>
<b>7. Tử: dẫu biết nó có vợ có hầu, mày vẫn thế thốt sống chết nếu khơng được sống chung thì tự vẫn; vậy nó có tiêu pha hết </b>
<b>của cho mày thì cũng phải.</b>
<b>Bảy chữ mới chỉ là mánh khóe bên ngồi để dụ dỗ khách. Cịn khi hành lạc, thì vành trong phải đủ tám nghề:</b>
<b>1. Với khách có hạ thân nhỏ thì dùng phép "đánh trống giục hoa" (kích cổ thơi hoa).</b>
<b>2. Với khách có hạ thân lớn thì dùng phép "sen vàng khóa xiết" (kim liên song tỏa).</b>
<b>3. Nếu khách hối hả, lụp chụp thì dùng phép "mở cờ đánh trống" (đại chiến kỳ cổ)</b>
<b>4. Nếu khách khoan thai thì dùng phép "đánh chậm gõ sẽ" (mạn đả khinh sao)</b>
<b>5. Với người mới " vỡ lịng "thì dùng phép "ba bậc đổi thế" (khẩn thuyên tam trật).</b>
<b>6. Gặp khách sành sỏi thì dùng phép "tỏa tâm truy hồn"</b>
<b>7. Gặp khách tay ngang tì dùng phép "tả chi hữu chì" </b>
<b>8. Đối với khách đam mê nhan sắc thì dùng phép "dềnh dàng hớp vía" (nhiếp thần phiến tỏa).</b>
<b>Băng nhân</b>
<b>Sự lòng ngỏ với băng nhân</b>
<b>Tin sương đồn đại, xa gần xơn xao</b>
<b>Tích truyện :</b>
<b>Văn nhân Linh Hồ Sách nằm mơ thấy mình đứng trên băng tuyết nói chuyện với một người lạ nằm dưới băng tuyết. </b>
<b>Linh Hồ Sách đem chuyện năm mơ của mình thuật lại cho Sách Thẩm, một người rất giỏi về thuật số. Sách Thẩm giải </b>
<b>mộng:</b>
<b>- Băng thượng nhân ngữ băng hạ nhân, tức là dương nói chuyện với âm. Điềm này tất có chuyện mai mối đây. Vậy nếu có </b>
<b>ai nhờ tiên sinh se duyên, thì cứ nhận lời. Đến khi băng tan, thì lương dun thành.</b>
<b>Mấy hơm saụ Linh Hồ Sách đưọc Điền Báo nhờ làm mối lái xin hỏi cưới con gái của Trương Công Vị. Linh Hồ Sách </b>
<b>Bố Kinh</b>
<b>Đã cho vào bậc Bố kinh</b>
<b>Đạo tịng phu lấy chữ trinh làm đầu</b>
<b>Tích truyện :</b>
<b>ố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gaị Bố kinh lấy từ chuyện </b>
<b>Lương Hồng là một hàn sĩ ơ Giang Nam, nhà nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩạ Nhiều người rất cảm </b>
<b>phục nhân cách của chàng , trong đó có một phú hộ thật tâm muốn tìm cách giúp đỡ . Lần đầu tiên tìm đến gặp Lương </b>
<b>Hồng, phú hộ muốn tặng chàng hai gói chè q ngọn hái từ đỉnh núi Vũ Di . Lương Hồng nhẹ nhàng thưa:</b>
<b>- Nếu có gì cần dạy bảo xin ngài vui lịng chỉ giáo, cịn lễ vật ngài cho tơi xin được phép từ chối.</b>
<b>Phú hộ đành cầm lễ vật ra về, trong lịng nghĩ hay là chàng nho sĩ kia vì nghĩ phận mình nghèo hèn khơng dám giao tiếp </b>
<b>với người giàu sang như ta. Nghĩ vậy nên ít ngày sau, phú hộ lại tìm đến, chân đi giày cỏ, cẩn thận buộc ngưa từ ngoài xa. </b>
<b>Trong lều tranh, Lương Hồng vẫn mải mê đọc sách; phú hộ kiên nhẫn chắp tay đứng đợi ngoài sân. Sau mấy canh giờ, </b>
<b>Lương Hồng chợt gấp sách, nhìn ra ngồi, trơng thấy vị khách đang đứng chờ. Chàng cung kính mời vào. Lần này phú </b>
<b>hộ chỉ xin tặng một gói trà ngang, nhưng bên trong lại có mấy nén vàng, gọi là chút tiền độ nhật cho hàn sĩ. Lương Hồng </b>
<b>nhất mực từ chối:</b>
<b>- Nếu ngài có ý coi trọng kẻ hèn nay thìhãy cư xử nhau bằng tình nghĩa; xin bảo trọng tình nghĩa trong sáng này, đừng để </b>
<b>lễ vật làm hoen ố đi.</b>
<b>Phú hộ lại phải đem lễ vật về và vẫn không nghĩ ra cách gì để giúp đỡ con ngươì liêm khiết này. Và khơng những chỉ có </b>
<b>phú hộ này, nhiều danh gia khác cũng nghe tiếng thơm Lương Hồng, muốn muốn đem gả ái nữ chọ Trong số này, có nhà </b>
<b>họ Mạnh, giịng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa </b>
<b>đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họMạnh </b>
<b>tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.</b>
<b>Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngờị </b>
<b>Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê khơng buồn động phịng hoa </b>
<b>chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã q lo âu, khơng hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối </b>
<b>cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai </b>
<b>đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mơi bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:</b>
<b>- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quý', giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩạ Ta chỉ </b>
<b>muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng ln có nhau, </b>
<b>tương kính nhau.</b>
<b>Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục.</b>
<b>__________________ </b>
<b>Tố Nga</b>
<b>Đầu lòng hai ả TỐ NGA</b>
<b>Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. </b>
<b>(Câu 15,16. Giới thiệu chị em Kiều)</b>
<b>Tố NGA:Tố là trắng. Nga là đẹp. Bài Nguyệt phú của Tạ Trang có lời chú: "Thường Nga thiết dược bơn nguyệt; nguyệt </b>
<b>sắc bạch, cố vân Tố Nga" (Thường Nga lây trộm thuốc tiên, thoát lên cung trăng; mặt trăng sắc trắng cho nên nói là Tố </b>
<b>Nga). "Thần Tiên truyện" chép rằng: Thường Nga là vợ Hậu Nghê.. Hậu Nghệ xin thuốc trường sanh của bà Tây Vương </b>
<b>Mẫụ Hậu Nghệ là người tính tình khơng tốt, hay làm việc phản bạn, Thường Nga khuyên chồng mãi mà không được. </b>
<b>Nàng giận thừa cơ uống trộm thuốc tiên và bay lên cung trăng.</b>
<b>Lại có truyền thuyết nói rằng vua Đường Minh Hồng (tức Đường Huyền Tơng) lên chơi nguyệt điện thấy có mười người </b>
<b>Mai cốt cách</b>
<b>Mai cốt cách, tuyết tinh thần.</b>
<b>Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười</b>
<b>(Câu 17 và 18. Phẩm chất chị em Kiều)</b>
<b>MAI CỐT CÁCH là thân hình mảnh mai, yếu đuối như cây maị Đây là quan niệm của người xưa, người con gái được coi </b>
<b>là đẹp phải có thân mình ẻo lả mảnh mai như thế.</b>
<b>Điển hình cho người đẹp "mai cốt cách" là nàng Mai Phi, một người phi sủng ái của vua Đường Huyền Tông khi ông </b>
<b>chưa có nàng Dương Quý Phị</b>
<b>Mai Phi tên thận là Giang Thái Tần, chào đời và lớn lên ở Mai Hoa thơn. Nàng được Thái gíam Cao Lực Sĩ tuyển chọn </b>
<b>vào cung dâng cho vua Đường Huyền Tơng. Nàn có nhan sắc diễm lệ và thân hình mảnh dẻ gió thổi cũng baỵ Hơn nữa, </b>
<b>nàng rất yêu thích hoa mai nên được nhà vua đặt là Mai Phị</b>
<b>Vào cung, Mai Phi đã được vua Đường Huyền Tông sủng ái rất mực một thờị Đến khi nhà vua có được Dương Quý Phi </b>
<b>thì Mai Phi bị thất sủng. Nàng sầu khổ lâm bệnh và cuối cùng chết đi như một cành hoa mai héo hắt.</b>
<b>Cùng mẫu người "mai cốt cách" như Mai Phi cịn có Đào Hoa Nữ trong bài thơ của Thôi Hộ, nàng Thôi Oanh Oanh </b>
<b>trong Tây Sương Ký và nàng Lâm Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mộng</b>
<b>Loại phụ nữ như thế chỉ là một loại hoa quý để cấm trong bình cho người khác thưởng thức chứ không thể là mẫu người </b>
<b>làm vợ lý tưởng được. Tại sao Vì thân thể họ nhuyển nhược, mềm yếu q có làm nên chuyện gì đâủ Nhất nhất chuyện gì </b>
<b>họ cũng đều trơng cậy vào người khác mà thôị Và mẫu người như thế thường là "hồng nhan bạc phận", sớm bị yểu vọng </b>
<b>chứ không thể trường thọ được.</b>
<b>Khuôn trăng đầy đặn</b>
<b>Vân xem trang trọng khác vời</b>
<b>KHUÔN TRĂNG ĐẦY ĐẶN NÉT NGÀI NỞ NANG</b>
<b>Cổ tướng thư nói: "Diện như mãn nguyệt, mi nhược ngoạ tàm"; nghĩa là mặt như trăng trịn, lơng mày như con tằm nằm </b>
<b>ngang. Đây là một cách tả ước lệ của người xưa về đoan trang của người phụ nữ.</b>
<b>Cũng sách Cổ tướng thi còn ghi: "Diện như mãn nguyệt, thanh tú nhi thần thái xạ nhân gia vi chi chiêu hà chí diện, nam </b>
<b>chủ cơng hầu tướng, nữ chủ hậu phi phu nhân". (Mặt như trăng rằm thanh tú, tinh thần rực rỡ sáng sủa gọi là cái mặt </b>
<b>của ráng trời buổi sớm, con trai công hầu, con gái hậu phi, phu nhân).</b>
<b>Người phụ nữ được cái tướng như thết là tốt, đoan trang hiền thục mà lại phúc hậu; có thể yên tâm là có một cuộc đời an </b>
<b>nhàn. Vạn nhất, nếu sống trong một xã hội tao loạn, có vì gia biến hay một hồn cảnh đặc biệt nào đó mà phải lưu lạc bèo </b>
<b>dạt hoa trơi thì cũng chỉ là nhất thời mà thôị Và cuộc sống cũng không quá lao đao lận đận như phần đông ca nhi, kỹ nữ </b>
<b>khác. </b>
<b>Câu chuyện sau đây có thể chứng minh được cho điều đó:</b>
<b>Lý Sư Sư là một kỹ nữ danh tiếng ở kinh đô Khai Phong đời vua Tống Huy Tông. Mặt mày đầy đặn phương phi, tánh </b>
<b>tình ơn nhu hoài thuận. Tuy là kỹ nữ nhưng rất chững chạc đoan trang. </b>
<b>Khách hàng chơi vặn mặc thảy đều tỏ ý tiếc cho nàng. Ai ai cũng nghĩ có lẽ nàng xuất thân con nhà đường hồng nhưng </b>
<b>vì một hồn cảnh gì đó mà phải đem thân vào chốn kỹ viện. Do đó, tuy là kỹ nữ nhưng Lý Sư Sư rất được khách hào hoa </b>
<b>tôn trọng.</b>
<b>Tiếng tăm nàng đến tai Huy Tơng hồng đế khiến nhà vua trẻ tuổi, đa tình này cũng háo hức muốn gặp nàng. Một hơm </b>
<b>Huy Tơng Hồng đế cải dạng thường dân đến kỹ viện tìm nàng. </b>
<b>Lần đầu tiên gặp gỡ, Huy Tông cứ nghĩ rằng Lý Sư Sư cũng chỉ là một kỹ nữ như bao nhiêu kỹ nữ khác nên Hoàng Đế tỏ </b>
<b>ra suồng sã với nàng. Lý Sư Sư liền bỏ đi, không tiếp. Nhà vua cho thị vệ chạy theo rỉ tai nàng, bảo cho nàng biết ơng </b>
<b>chính là đương kim Hồng Đế. Dù biết là Hoàng Đế nhưng Lý Sư Sư cũng mặc, nhất định không thèm tiếp một người thô</b>
<b>Về sau nhà vua phải mất một thời gian khá lâu dài mới chinh phục lại được cảm tình của nàng kỹ nữ họ Lý ấỵ Rồi nhà </b>
<b>vua cho triệu nàng vào cung. </b>
<b>Khi nhà Tống bị Mông Cổ xâm lăng, tướng Mơng Cổ cho địi Lý Sư Sư đến hầu rượu, nàng cũng nhất định không nghẹ </b>
<b>Để tránh bị ô nhục, Lý Sư Sư bẻ cây trâm cài đầu nuốt vào cổ để tự tận...</b>
<b>Nghiêng Nước, Nghiêng Thành </b>
<b>Một hai NGHIÊNG NƯỚC, NGHIÊNG THÀNH </b>
<b>Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.</b>
<b>(Câu 27, 28. Tài sắc Thúy Kiều)</b>
<b>"Ví chăng dun nợ ba sinh</b>
<b>Làm chi những thói KHUYNH THÀNH trêu ngươi!".</b>
<b>(Câu 257, 258. Kim Trọng than thở)</b>
<b>"Lạ cho cái sống KHUYNH THÀNH </b>
<b>Làm cho đổ quán, xiêu đình như chơị"</b>
<b>(Câu 1301, 1302. Thúc Sinh đam mê Kiều)</b>
<b>Nhìn một cái xiêu thành người, nhìn một cái đổ nước ngườị Ý là muốn nói đến cái nhan sắc cực kỳ đẹp khiến người ta say </b>
<b>mê đến mất thành mất nước mà cũng không haỵ</b>
<b>Câu này Nguyễn Du dịch lời ca của Lý Diên Niên trong tích Hán Vũ Đế tuyển người đẹp.</b>
<b>Năm Nguyên Sóc, Hán Vũ Đế cho xây dựng đền Minh Quang và kén chọn hai ngàn gái đẹp ở vùng Yên, Triệu đưa vào ở </b>
<b>trong đó. Những người đẹp được tuyển chọn này chỉ tuổi từ mười lăm trở lên, nhưng quá ba mươi thì bị thải hồị</b>
<b>Ngồi Đền Minh Quang, Hán Vũ Đế cịn nhiều nơi khác để chứa gái đẹp. Tổng cộng số gái đẹp của nhà vua này lên đến </b>
<b>một vạn tám ngàn. Ấy mà Hán Vũ Đế vẫn còn cho là thiếu.</b>
<b>Một hôm ca nhân Lý Diên Niên hát cho Hán Vũ Đế nghe rằng:</b>
<b>"Bắc phương hữu giai nhân</b>
<b>Tuyệt thế nhi độc lập.</b>
<b>Nhất cố khuynh nhân thành, </b>
<b>Tái cố khuynh nhân quốc.</b>
<b>Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc,</b>
<b>Giai nhân nan tái đắc".</b>
<b>(Phương Bắc có người đẹp</b>
<b>Tuyệt vời đứng riêng bậc</b>
<b>Một nhìn, người nghiêng thành </b>
<b>Hai nhìn, người nghiêng nước.</b>
<b>Há rằng chẳng biết nước thành nghiêng, </b>
<b>Chỉ vì người đẹp khó tìm được.)</b>
<b>Hán Vũ Đế bèn hỏi:</b>
<b>- Thế gian có người đẹp đến thế sao ?</b>
<b>Tả hữu thưa:</b>
<b>- Tâu bệ hạ, người đẹp trong bài ca ấy chính là cơ em gái của Lý Diên Niên vậỵ</b>
<b>Hán Vũ Đế bèn ra lên cho Lý Diên Niên đưa em gái vào cung. Nhà vua rất sùng ái nàng và bắt cả triều thần phải gọi </b>
<b>nàng là Lý phu nhân. Vua lại phong cho Lý Diên Niên từ chức Cẩn Giám lên chức Hiệp Đô Uý.</b>
<b>Một thời gian sau Lý phu nhân bị bệnh nă.ng. Hán Vũ Đế tự đến thăm hỏi nhưng không được nàng tiếp. Nàng trùm chăn </b>
<b>kín mít và nói với nhà vua: </b>
<b>- Thiếp bị đau nặng đã lâu, hình dung tiều tuỵ lắm, không dám đem cái nhan sắc héo úa ra mắt nhà vuạ Chỉ xin gởi lại </b>
<b>nhà một người con trai và mấy người anh em.</b>
<b>Hán Vũ Đế nói:</b>
<b>- Phu nhân bệnh nặng e khó qua, hãy mở chăn nhìn ta mà ký thác con và anh em có phải hơn khơng?</b>
<b>Lý phu nhân vẫn trùm khăn kín mà nói:</b>
<b>- Theo lễ, đàn bà mặt mũi không sạch, không nên được trông thấy đấn quân phụ</b>
<b>Nhà vua cố nài nỉ:</b>
<b>- Phu nhân hãy ra mắt trẫm một lần này thôi, trẫm sẽ ban cho phu nhân nghìn vàng, cho con và anh em của phu nhân </b>
<b>làm quan tọ</b>
<b>Lý phu nhân vẫn một mực khước từ:</b>
<b>- Cho làm quan là quyền ở nhà vua, không do sự ra mắt của thần thiếp.</b>
<b>Nói đoạn, Lý phu nhân quay vào vách, thở dài rồi nín lặng. Hán Vũ Đế cả giận, đứng phắt dậy bước ra ngay, khơng nói </b>
<b>thêm tiếng nàọ</b>
<b>Các người thân thích biết chuyện, đến trách Lý phu nhân rằng:</b>
<b>- Sao quý nhân không mở mặt ra cho đấng quân vương trong thấy, rồi đem con và anh em ký thác có phải hơn khơng ? </b>
<b>Sao làm cho nhà vua tức giận đến thế ?</b>
<b>Lý phu nhân đáp:</b>
<b>- Đàn bà là kẻ lấy nha sắc thờ ngườị Nay nhan sắc đã kém tất nhiên tình yêu phải phai nhạt. Tình u đã phai nhạt thì sẽ </b>
<b>khơng cịn ân huệ gì nữạ Bấy lâu nhà vua sủng ái ta là chỉ vì ta cịn nhan sắc. Nay ta đã ốm nặng, nhan sắc tiều tuỵ, nếu </b>
<b>để nhà vua trong thấy thì thử hỏi ngài cịn u ta như trưỚc nữa khơng. Dĩ nhiên khi tình u khơng cịn thì làm sao ngài </b>
<b>cịn thương đến anh em ta nữạ Nay ta không ra mắt nhà vua là muốn gởi gấm anh em một cách thiết tha vậỵ</b>
<b>Ít hôm sau Lý phu nhân từ trần. Hán Vũ Đế cho chôn cất nàng rất hậụ Nhà vua lại sai hoạ nhân vẽ ảnh nàng treo trong </b>
<b>cung Cam Tuyền để ngày ngày nhìn ngắm. Nhà vua cũng phong cho các anh em của Lý phu nhân làm quan caọ</b>
<b>Hán Vũ Đế ngày đêm thương nhớ Lý phu nhân khôn ngị Nhà vu sai người đào ao Cơn Linh, đóng thuyền hình chim </b>
<b>phượng để ở ao ấỵ Ngài tự chế bài hát, lên thuyền đi chơi bắt các cung nhân hát để giải buồn.</b>
<b>Một hôm, ca nhi hát bài "Lá rụng ve kêu" như sau:</b>
<b>"Xuyên vòng im bặt tiếng kêu </b>
<b>Thềm son mấy đợt bụi rêu lờ mờ</b>
<b>Phịng khơng lạnh ngắt như tờ,</b>
<b>Gió đưa lá rụng phất phơ cửa ngồị</b>
<b>Bấy lâu tướng háo mong hồi, </b>
<b>Trơng ai chẳng thấy, bùi ngùi lòng ta..." </b>
<b>Vũ Đế nghe bài hát càng buồn rầu thêm, sai lấy nến mỡ rồng soi trong khoang thuyền để tìm hình ảnh Lý phu nhân. Rồi </b>
<b>ngài ơm mặt khóc nức nở như một đứa trẻ con ...</b>
Post added at 12:30 PM Previous post was at 12:26 PM
<b>---Tường Đông</b>
<b>Êm đềm trướng rũ, màn che </b>
<b>TƯỜNG ĐÔNG ong bướm đi về mặc ai</b>
<b>TƯỜNG ĐƠNG hé mắt, ngày ngày hằng trơng."</b>
<b>(Câu 283, 284. Kim Trọng đi tìm Thúy Kiều)</b>
<b>TƯỜNG ĐƠNG nghĩa đen là bức tường ở phía Đơng, nghĩa bóng là nơi có gian nhân cư ngụ</b>
<b>Sách Mạnh tử có câu: "Du đông lân nhi lâu kỳ xử tử" (Trèo sang nhà láng giềng ở phía Đơng để dụ dỗ con gái nhà người </b>
<b>ta). Đường thi cũng có câu: "Đơng lân Tống Ngọc tường" là để ám chỉ nơi trai gái giao tình với nhau vì chàng Tống Ngọc </b>
<b>(1) người nước Sở thời Chiến quốc là một thanh niên đẹp trai, thơ hay phú giỏi và tánh tình trăng hoa, ong bướm, đã làm </b>
<b>cho bao nhiêu người đẹp phải ôm mối hận tình với chàng tạ</b>
<b>Trong một bài phú tự tình gởi lên vua nước Sở, Tống Ngọc có viết:</b>
<b>"Thiên hạ chi giai nhân, mạc nhược Sở quốc</b>
<b>Sở quốc chi lệ giá, mạc nhược thần lý</b>
<b>Thần lý chi mỹ giá, mạc nhược thần đông gia chi tứ"</b>
<b>(Người đẹp trong thiên hạ không đâu bằng nước Sở.</b>
<b>Người đẹp trong nước Sở khơng đâu bằng ở xóm hạ thần.</b>
<b>Người đẹp trong xóm hạ thần khơng ai bằng nàng con gái láng giềng ở phía tường đơng nhà hạ thần).</b>
<b>Nhà thơ Lý Bạch thời Đường cũng có câu:</b>
<b>"Tự cố hữu tự sắc</b>
<b>Tây Thi do đơng lân".</b>
<b>(Từ xưa có nhan sắc</b>
<b>Tây Thi ở xóm đơng).</b>
<b>Hai chữ Tường Đơng đã có một trang tình sử lâm ly như sau:</b>
<b>Nước Sơ/ có loạn, nhà vua sai đại thần Vương Trung đem binh dẹp loạn. Vì chậm trễ việc quân, Vương Trung không cứu </b>
<b>vãn được tình thế nên bị vua giáng chức, làm Thiên hộ vệ quân tại Nam Dương. Vương Trung đem cả gia quyến theo </b>
<b>mình đến nhiệm sở mớị</b>
<b>Bấy giờ Vương Trung có người con gái rất đẹp, tên Vương Kiều Loan, chẳng những đẹp mà cịn thơng mình và rất giỏi </b>
<b>văn mặc, cho nên đã tới tuổi cặp kê mà mắt xanh vẫn chưa để ai vàọ Vương Trung có người em gái tên Tào Di sớm bị goá </b>
<b>bụa, nên đem về ở chung trong gia đình để sớm hôm bầu bạn với Kiều Loan.</b>
<b>Năm họ vào tiết Thanh Minh, Kiều Loan cùng Tào Di và thi nữ đi ngoạn cảnh bên ngồị, Khi ra khỏi nhà thì Kiều Loan </b>
<b>phát hiện ở phía tường đơng có một chàng trai đang nhìn mình đăm đăm khơng chớp mắt. Đơi mắt của ai kia sao đầy vẻ </b>
<b>tình tứ khiến tiểu thư họ</b>
<b>Vương khơng kihỏi bối rối trong lịng, đơi má ửng hồng e thẹn. Kiều Loan vội núp sau lưng người cô và giục Tào Di trở </b>
<b>vào, không muốn đi chơi nữạ</b>
<b>Khi Vương Kiều Loan đã trở về nhà, chàng trai kia thở dài ngẩn ngơ tiếc rẻ. Chợt chàng trơng thấy dưới một gốc hoa kia </b>
<b>có chiếc khăn the của người đẹp đánh rơi lạị Chàng vội bước đến nhặt chiếc khăn lên, mùi hương còn thoang thoảng. </b>
<b>Bỗng chàng nghe bên trong tường vào Vương phủ có tiếng động, rồi có bóng một thiếu nữ hiện rạ Chàng trai vội vàng </b>
<b>núp vào một khóm hoa theo dõi bóng người con gáị Thì ra cơ gái ấy là một cô hầu của tiểu thư Vương Kiều Loan, đi ra </b>
<b>ngồi tìm chiếc khăn của tiểu chủ đánh rơi lúc nãỵ Chàng trai đứng lên và mạnh dạn đánh tiếng:</b>
<b>- Cơ nương ơi, đừng tìm kiếm cho mất công., Chiếc khăn của tiểu thư đã vào tay kẻ khác rồị</b>
<b>Cơ gái nhìn chàng trai lạ từ đầu đến chân và nhận thấy hàng có vẻ phong lưu tuấn tú, bèn đến gần kính cẩn hỏi:</b>
<b>- Thưa công tử, nếu quả thật công tử đã nhặt được chiếc khăn của tiểu thư tơi, thì dám xin cơng tử vui lòng cho xin lại Ơn </b>
<b>ấy tiểu thư tôi chắc không quên. </b>
<b>Chàng trai không đáp. Cô gái nói tiếp:</b>
<b>Chàng trai đáp:</b>
<b>- Tơi họ Tống tên Ngọc, người quận Ngô Châu, hiện cư ngụ ngay phía sau tơn phủ. Cịn tiểu thư của nàng là ai vậy</b>
<b>- Dạ tiểu thư tôi tên Vương Kiều Loan, con gái của quan Thiên Hộ</b>
<b>Tống Ngọc cười:</b>
<b>- Tên của tiểu thư nàng thật đẹp, thế cịn nàng tên gì? </b>
<b>Cô gái e thẹn đáp:</b>
<b>- Dạ, tiện nữ tên gọi Minh Hà. </b>
<b>Tống Ngọc cười, trêu chọc:</b>
<b>- Cả thầy lẫn trị đều đẹp cả. Vậy bây giờ tơi nhờ nàng trao cho tiểu thư Kiều Loan một bức thư có được không ?</b>
<b>Minh Hà ý không muốn nhận, nhưng sợ làm phật lịng Tống Ngọc thì chàng ta khơng trả lại chiếc khăn cho chủ mình, </b>
<b>nên nói: </b>
<b>- Xin vâng, công tử cứ trao thư cho tôị</b>
<b>- Vậy nàng ở đây chờ tôi một chút, tôi sẽ quay trở lại ngaỵ</b>
<b>Tống Ngọc nói xong, quay gót đi liền. Một lúc sau chàng trở lại trao cho Minh Hà một tờ hoa tiên. Minh Hà thấy Tống </b>
<b>Ngọc trao thư mà khơng trả khăn, trong lịng khơng vui nên nói: </b>
<b>- Công tử không trả khăn mà chỉ gởi thư, tơi khơng dám nhận đâu</b>
<b>Tống Ngọc cười nói:</b>
<b>- Nàng đừng lọ Nếu tiểu thư chịu phúc đáp thì tức khắc vật sẽ hoàn cố chủ.</b>
<b>Bất đắc dĩ Minh Hà phải nhận tờ hoa tiên của Tống Ngọc và quay vào phủ.</b>
<b>Vương Kiều Loan đang ngồi đợi Minh Hà trong phòng, cảm thấy lịng bồn chồn khơng n. </b>
<b>- Thế nào, có tìm ra chiếc khăn của ta khơng?</b>
<b>Minh Hà ấp úng:</b>
<b>- Thưa tiểu thư, chiếc khăn đà lọt vào tay ... chàng cơng tử nhìn trộm tiểu thư lúc ban chiều rồị</b>
<b>Kiều Loan nghiêm mặt hỏi:</b>
<b>- Tai sao em khơng địi lại cho ta ?</b>
<b>- Em có địi nhưng chàng trai lần khân khơng chịu trả, lại cịn gởi cho tiểu thư tờ hoa tiên này nữạ</b>
<b>Minh Hà vừa nói vừa lấy tờ hoa tiên trao cho Kiều Loan. Vương tiểu thư vừa nhận tờ hoa tiên vừa nói:</b>
<b>- Chàng trai ấy có xưng tên học và nói quê quán ở đâu không?</b>
<b>Minh Hà đáp:</b>
<b>- Chàng ta họ Tống, tên Ngọc, người Ngô quận. Hiện chàng ta cư ngụ sát vách sau phủ đường tạ</b>
<b>Kiều Loan có vẽ xúc động, mở tờ giấy ra xem. Trong tờ hoa tiên có bài thơ sau:</b>
<b>"Phạ xuất qui nhân phận ngoại hương</b>
<b>Thiên công giao phó hữu tình lang. </b>
<b>Ân cần kỳ thú tương tư cú</b>
<b>Nghi xuất hồng ty xuất động phòng". </b>
<b>(Khăn rơi mỹ nữ đượm mùi hương</b>
<b>Tạo hoá xui chi kẻ vấn vương</b>
<b>Gởi khúc tương tư tình tha thiết</b>
<b>Chỉ hồng buộc chặt mối lương duyên).</b>
<b>- Từ nay em đừng đòi chiếc khăn ấy nữa mà sinh lôi thôị Nếu chàng có nhờ đưa thư nữa thì em cũng đừng nhận, coi như </b>
<b>khơng có việc gì. </b>
<b>Tuy làm ra vẻ bình thản như thế nhưng thật ra lịng Vương Kiều Loan vô cùng xúc động.</b>
<b>Nàng đi nằm để trấn tĩnh lòng, nhưng chỉ một lúc sau ngồi lên đi quanh quẩn trong phòng. Rồi cuối cùng nàng lấy tờ hoa </b>
<b>tiên ra đề thơ phúc đáp:</b>
<b>"Thiếp thân nhất điểm ngọc vơ hà </b>
<b>Linh thị hầu mơn tướng tướng gia</b>
<b>Tình ly hữu thân đồng đối nguyệt</b>
<b>Nhàn trung vô sự độc khán hoa</b>
<b>Biệt ngô chi hứa lai kỳ phượng</b>
<b>Thúy trúc nan dung nhập lãi hoa </b>
<b>Kỳ dữ dị hương cô lãnh khách </b>
<b>Mặc tương tâm sự loạn như ma"</b>
<b>(Thân em như khối ngọc trong lành </b>
<b>Ngày vắng dạo xem hoa dưới mát</b>
<b>Đem thanh thưởng thức nguyệt bên mành </b>
<b>Cành ngơ phượng vĩ chen màu biếc</b>
<b>Khóm trúc ô môn đượm mảnh tình </b>
<b>Nhắn nhủ phượng xe người lữ khách</b>
<b>Đừng trao tâm sự rối ren lòng). </b>
<b>Vương Kiều Loan trao thơ cho Minh Hà, dặn đi ngõ sau trao cho Tống Ngọc và đừng để ai trong thấỵ Minh Hà theo lời </b>
<b>dặn của chủ, ra ngõ sau và gặp Tống Ngọc. Chàng Tống hỏi:</b>
<b>- Vương tiểu thư có phúc đáp thư tơi chứ ?</b>
<b>Minh Hà gật đầu đáp:</b>
<b>- Có, nhưng cơng tử phải trả lại chiếc khăn trước đã. </b>
<b>Tống Ngọc cười nói:</b>
<b>- Tiểu thư cơ đã phúc đáp thư; thì thiết tưởng chiếc khăn kia khơng cịn cần thiết nữạ Cơ hãy đưa thư cho tơi rồi sẽ haỵ</b>
<b>Minh Hà đành trao thư cho Tống Ngọc. Chàng Tống xem bài thơ của Vương Kiều Loan, rất khâm phục tài văn chương </b>
<b>của nàng. Chàng ta nói: </b>
<b>- Cô hãy đợi tôi ở đây một chúc để tôi viết thư phúc đáp cho tiểu thự</b>
<b>Rồi chàng ta vào phòng viết một bài thơ tứ tuyệt đem ra đưa cho Minh Hà nhờ trao lại cho Vương Kiều Loan.</b>
<b>Từ đó, qua sự trung gian của Minh Hà, Vương Kiều Loan và Tống Ngọc thơ qua thơi lại luôn ln. Và mối tình của hai </b>
<b>người ngày càng thêm khắng khít.</b>
<b>Một thời gian sau, Kiều Loan gợi ý Tống Ngọc nên tính chuyện mai mối hỏi cưới nàng, nhưng Tống Ngọc cứ lần khân </b>
<b>mãi, viện cớ song đường bận làm việc không rảnh rang.</b>
<b>Mặt khác, chàng ta lại tỏ ý muốn gần gũi Kiều Loan về thể xác.</b>
<b>Một hôm Tống Ngọc trèo tường vào vườn hoa trong phủ của Kiều Loan gặp nàng và tỏ ý muốn vào phòng nàng. Kiều </b>
<b>Loan từ chối, Tống Ngọc đành ra về. Nhưng sau đó Kiều Loan lại sai Minh Hà đem cho Tống Ngọc một tờ hoa tiên. </b>
<b>Chàng mở ra xem:</b>
<b>"Ám tương tế ngữ ký anh tài </b>
<b>Tháng hướng nhân tiên mạc loạn khai</b>
<b>Kim dạ hương khuê xuân bất tố</b>
<b>Nguyệt di hoạ ánh, ngọc nhân lai".</b>
<b>(Đơi lời xin ngõ cùng ai </b>
<b>Nỗi riêng chớ để người ngồi thị phi</b>
<b>Phịng xuân mở rộng đêm nay </b>
<b>Tống Ngọc xem xong lịng mừng vui như mở cờ. Đêm hơm ấy trời vừa sụp tối Tống Ngọc đã treo qua tường đông để đến </b>
<b>với Kiều Loan. Lúc ấy Vương Kiều Loan đang đi đi lại lại trong phòng. Khi Minh Hà dẫn Tống Ngọc vào thì Kiều Loan </b>
<b>nghiêm nét mặt sai Minh</b>
<b>Hà đi mời cô Tào Di đến để hội kiến. Tống Ngọc lòng đang rạo rực tưởng nghĩ đến chuyện vu sơn cùng người ngọc, bỗng </b>
<b>thấy thái độ Kiều Loan nên đâu ra lo lắng, mặt mày xám ngắt.</b>
<b>Kiều Loan tỏ ý thương hại, mỉm cười nói:</b>
<b>- Thiếp vốn là người đoan chính, mong chàng cũng không phải là kẻ phàm phụ Sở dĩ ngày nay chúng ta yêu nhau là do </b>
<b>sắc tài gắn bó. Đã u chàng thì thiếp cịn tiếc chi nữa, song vườn xn cánh bướm, biết lịng kia có giữ được lời nguyện </b>
<b>ước cho chăng ?</b>
<b>Vậy chúng ta hãy cùng thề chung thủy với nhau đến đầu bạc răng long. Nếu khơng thề thì chàng chỉ là kẻ muốn ân mà </b>
<b>khơng nghĩ đến nghĩ đá vàng. </b>
<b>Tào Di vào phòng, chứng kiến lời thề nguyện của Tống Ngọc và Kiều Loan. Sau đó, rượu và quả được dọn ra, Tào Di, </b>
<b>Kiều Loan và Tống Ngọc ăn uống vui vầy say sưa đến khuyạ Tào Di cáo biệt. Kiều Loan và Tống Ngọc đưa nhau vào </b>
<b>phòng bày cuộc ái ân.</b>
<b>Trời vừa tảng sáng, Kiều Loan thẹn thùng với tình lang. </b>
<b>- Cuộc đời và tấm thân thiếp đã trao cho chàng rồi, chỉ mong chàng giữ lấy lời thề để cành hoa khơng vì gió đơng mà phai </b>
<b>sắc nhạt hương. Từ nay về sau nếu có dịp thiếp sẽ sai Minh Hà đến đón chàng, chúng ta chớ nên phóng túng quá mà sinh </b>
<b>ra điều dị nghị</b>
<b>Rồi Kiều Loan sai Minh Hà đưa Tống Ngọc ra về. Đôi mắt của người tỳ nữ đượm vẻ buồn u ẩn nào ai hiểu được nguyên </b>
<b>do </b>
<b>Từ đó, đơi trai tài gái sắc khơng cịn xướng hoạ thi thơ với nhau nữa; mà chỉ trao nhau tình yêu xác thịt Cứ vài bốn hôm </b>
<b>Kiều Loan lại sai Minh Hà đi đón Tống Ngọc đến để ái ân.</b>
<b>Khổ thay, Minh Hà là một cô gái cũng đang độ phơi phới xuân tình, làm sao chịu đựng nổi cảnh u đương, ân ái của cơ </b>
<b>chủ mình và chàng trai hào hoa phong nhả kiạ Một ngày kia khơng cầm lịng được, Minh Hà đàn thố lộ lịng mình với </b>
<b>Tống Ngọc. Thế là chàng trai phóng đãng ấy "cuỗm" ln cơ tớ gái của người tình. Cuộc tình tay ba vẫn âm thầm diễn </b>
<b>ra theo thời gian, không ai hay biết trừ Tao Dị</b>
<b>Rồi một ngày kia, Tống Ngọc ngỏ ý cầu hôn Kiều Loan. Vương Thiên Hộ lâu nay đã từng nghe tiếng Tống Ngọc là một </b>
<b>tay trăng hoa ong bướm, một tay đã bẻ biết bao cành thiên hương, nên nhất định không chịu gả Kiều Loan cho chàng. </b>
<b>Nhưng Vương Trung có biết đâu rằng trong ba năm qua, tường đông nhà ông đã bị ong bướm quậy tưng bừng. Và chính </b>
<b>con gái của ơng là Kiều Loan cũng đã góp phần mua vui cho chàng trai đàng điếm Tống Ngọc.</b>
<b>Bị Vương Trung từ hôn, Tống Ngọc cũng buồn nên chàng cất bước giang hồ từ đó, mặc cho Vương Kiều Loan ôm mối </b>
<b>tương tự Rồi Vương Kiều Loan ngã bệnh, ngày càng nặng thêm. Hình dáng gầy gị và sức lực ngày một kiệt dần đến mỗi </b>
<b>người con gái đáng thương ấy phải lìa bỏ cõi đời ...</b>
<b>====================== </b>
<b>(1) Tống Ngọc, người nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc, học trò của Khuất Nguyên; lại là học trò giỏi nhất.</b>
<b>Tiểu sử của Tống Ngọc rất mơ hồ. Người ta chỉ biết rằng từ khi Khuất Nguyên chết, nước Sở cịn lại có ba người rất giỏi </b>
<b>về Sở từ, đó là Tống Ngọc, Cảnh Sai và Đường Lặc.</b>
<b>Tác phẩm của Tống Ngọc để lại gồm có các thiên Chiêu hồn, Đại Chiêu và Cửu biện cùng nhiều bài phú. Tống Ngọc có </b>
<b>tài miêu tả, văn điêu luyện; mở đầu cho thế phú đời Hán về saụ</b>
<b>Sâm Thương</b>
<b>Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non </b>
<b>Sâm Thương, tên gọi trong dân gian là sao Hôm, sao Mai, là hai vì sao chẳng bao giờ trơng thấy nhau, một đằng Đơng </b>
<b>buổi tối, một phía Tây ban sáng.. Truyện Thần tiên kể rằng:</b>
<b>Hàng năm, tại Thiên đình có hội Bàn Đào, tiên ông tiên nữ tề tựu dâng lễ vật, hái đào tiên chúc tụng Ngọc Hoàng. Tiên </b>
<b>đồng Bảo Sâm theo hầu một tiên ông, ngọc nữ Thanh Thương theo hầu một tiên cơ. Hai trẻ tình cờ, gặp gỡ , quen biết </b>
<b>nhau rồi sinh tình. Trước ngày mở hội, đơi trẻ có chút thời gian bên nhau tình tư..</b>
<b>Một nhân vật thứ ba, tiểu đồng Trường Quang, cũng tình cờ gặp gỡ Thanh Thương, nhưng tình chỉ sinh một hướng, </b>
<b>Thanh Thương đã yêu đậm Bảo Sâm mất rồi. Bị tình lờ, Trường Quang sầu thảm.</b>
<b>Đến ngày Bàn Đào khai hội, đàn ca xướng hát rộn ràng. Các tiểu đồng, ngọc nữ nhịp nhàng như vũ điệu, tay bưng khay, </b>
<b>tay nâng chén ngọc hầu rượu các tiên ông tiên bà. </b>
<b>Thanh Thương, là ngọc nữ hát hay múa đẹp nhất, nên được chọn dâng chén cho Ngọc Hoàng. Nhưng tâm hồn nàng để </b>
<b>lạc đâu đâu, đơi mắt cứ dõi tìm Bảo Sâm, nên sẩy tay đánh rơi cả khay ngà chén ngọc. Thanh âm ngọc vỡ tan hoang. Từ </b>
<b>bàn dưới nhìn lên, Bảo Sâm thấy tai hoạ đang giáng xuống cho người yêu cũng sửng hồn, khay chén trên tay cũng đánh </b>
<b>xoảng rơi xuống đất. Đàn ca xướng hát thanh thoát, bỗng nín bặt.,</b>
<b>Ngọc Hồng xử tội ngay đơi trẻ:</b>
<b>- Đơi tiên đồng, ngọc nữ còn non tuổi mà lại dám bày trò yêu đương nơi cõi, tội đáng đày xuống trần gian cho làm một </b>
<b>kiếp thú, sống trong núi thẳm rừng sâu, kiếp sau mới được đầu thai làm người ở luôn dưới cõi trầ.n...</b>
<b>Trường Quang không phạm lỗi chi cũng run lập cập khi Ngọc Hoàng đang xử tội người yêu.. một chiều; khi vưa nghe lơì </b>
<b>kết tội đày xuống trần gian làm thú, không nén được đau thương, Trường Quang đã thét lớn: "Thanh Thương ơi, Thanh </b>
<b>Thương ơi, ta nguyện theo nàng xuống trần gian. Ngọc Hồng thêm giận, ừ thì muốn theo thì ta cho thỏa ước mơ, truyền </b>
<b>cho đày tiểu đồng tình dại này đi chung một chuyến.</b>
<b>Các tiên ông tiên bà, thương cho ba trẻ tình si, chỉ vì thương yêu mà chuốc họạ Họ đồng thanh xin Ngọc Hoàng nương </b>
<b>tay, chớ đày xuống trần gian, mà hãy cho ở lưu lạc đâu đó trên trời.</b>
<b>Lời câu xin của các tiên, Ngọc Hồng ngi ngoai cơn giận, phán lại lần cuối cho chúng làm hai ngôi sao, tuy ở chung </b>
<b>cùng trời, nhưng không bao giờ được gặp nhau.</b>
<b>Nàng Thanh Thương làm sao Thương, là sao hôm, chỉ mọc lên ở hướng đông lúc về đêm; Bảo Sâm trở thành sao Sâm, là </b>
<b>sao mai, mọc ở phía tây lúc trời hửng sáng.</b>
<b>Còn Trường Quang, sẽ được như ý, suốt đời tìm kiếm tình yêu, thì biến thành sao "vượt", bay đi xẹt lại trọn kiêp mà </b>
<b>kiếm tìm. </b>
<b>Ca dao Việt Nam ta có câu:</b>
<b>Sao hơm chờ đợi sao mai</b>
<b>Trách lòng sao vượt nhớ ai băng chừng.</b>
<b>Sao vượt (sao băng) muôn đời vẫn mang theo điều mơ ước.</b>
<b>Ngày nay, có ai mong mỏi điều gì, hãy ngước nhìn lên trời đón ánh sao băng, điều ước mơ sẽ được toại nguyện. Nhưng </b>
<b>còn sao Sâm, sao Thương, theo phán xử của Ngọc Hồng phải ngàn nghìn trùng xa cách, đông tây, đêm ngày đuổi bắt </b>
<b>nhau mà không gặp được</b>
<b>__________________ </b>
<b>So dần dây vũ dây văn,</b>
<b>Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.</b>
<b>Khúc đâu hán sở chiến trường,</b>
<b>Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. </b>
<b>Kê khang này khúc Quảng Lăng,</b>
<b>Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân. </b>
<b>Quá quan này khúc Chiêu Quân, </b>
<b>Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.</b>
<b>Ðây là những bản nhạc: Khúc chiến trường giữa Hán và Sở, khúc Tư Mã phượng cầu của Tư Mã Tương Như, khúc </b>
<b>Quảng lăng của Kê Khang, khúc đi cống Hồ của Chiêu Quân. Mỗi khúc có một tính chất đặc biệt.</b>
<b>Khúc "Hán Sở chiến trường"</b>
<b>Tần Thuỷ Hoàng sau khi dẹp tan 6 nước: Yên, Tề, Sở, Nguỵ, Triệu, Hàn chấm dứt thời Chiến quốc (479- 220 trước DL)- </b>
<b>cũng gọi là Thất hùng- thống nhất đất nước, lập nên nhà Tần. Nhưng vì chế độ nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng nổi </b>
<b>dậy chống lại. Trước có Trần Thắng, Ngơ Quảng. Bước đầu dân nghèo chỉ chặt cây làm binh khí và dùng gậy làm cờ. </b>
<b>Nhưng đều bị quân Tần đánh vỡ. Chỉ còn lại lực lượng của Lưu Bang ở đất Bái và hạng Võ ở đất Ngô chống cự được với </b>
<b>quân Tần. Sau Hạng Võ đánh bại được tướng Tần là Chương Hàm ở đất Cự Lộc (tỉnh Hà Bắc), Lưu Bang thừa dịp, đem </b>
<b>binh thẳng đến Hàm Dương (kinh đô nhà Tần) dứt được nhà Tần. Nhưng rồi qua phân làm hai nhà: Hán (Lưu Bang) và </b>
<b>Sở (Hạng Võ) tương tranh. </b>
<b>Sở Hạng Võ có tướng tài, tham mưu giỏi mà không biết dùng. Hán Lưu Bang nhờ biết dùng người nên có nhiều bực hiền </b>
<b>tài đến phị tá, như Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là Tam Kiệt... nên đánh thắng được Sở, lên ngôi Vua, </b>
<b>thống nhất đất nước (206 trước DL)</b>
<b>Cuộc tương tranh giữa Hán, Sở chỉ khoảng 10 năm nhưng cường độ chiến tranh lúc nào cũng khốc liệt. Cuối cùng, Sở </b>
<b>Hạng Võ bị tướng soái của Hán Lưu Bang là Hàn Tín bao vây tại núi Cửu lý ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào </b>
<b>tình thế nguy ngập, thiếu lương thảo nhưng bên cạnh vua Sở còn 8.000 tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ </b>
<b>quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Ðông tức đất cũ, tu chỉnh binh mã, dựng lại thế lực để tiếp tục cuộc </b>
<b>chiến đấu.</b>
<b>Như vậy là một bất lợi cho Hán, dầu có đại thắng bằng binh lực nhưng phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, </b>
<b>mạng. Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, đi qua lại từ trên núi Kê Minh đến </b>
<b>núi Cửu lý, thổi tiêu rồi hát. Trương Lương lại tuyển quân Hán học tiếng nước Sở cho hát bài "Bi ca tán Sở" do Trương </b>
<b>soạn lấy.</b>
<b>Canh khuya đêm vắng, tiết trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát ai ốn gợi lịng thương </b>
<b>nhớ gia đình cha mẹ già, vợ yếu con thơ... vọng vào dinh Sở. Quân Sở , tám ngàn tử đệ vốn người nước Sở, lìa quê nhà </b>
<b>theo Hạng Võ nay gặp phải gian nguy, mạng sống như ngàn cân treo phải chỉ mành... nên trước chỉ buồn bã than thở, </b>
<b>sau cùng càng thấm thía nước mắt đầm đìa, rồi bàn nhau bỏ trốn. Bên ngồi, Hàn Tín khéo léo nới rộng vịng vây để </b>
<b>quân Sở tự do ra đi.</b>
<b>Chỉ trong ba đêm, tám ngàn tử đệ cùng quân sĩ các dinh trại của Sở, mười phần bỏ trốn hết bảy, tám. Cuối cùng, Hạng </b>
<b>Võ phải từ biệt vợ là Ngu Cơ, cùng uống chén rượu buồn, cất tiếng hát một cách tuyệt vọng:</b>
<b>Lực bạt sơn hề khí cái thế</b>
<b>Thời bất lợi hề chuy bất thệ</b>
<b>Chuỳ bất thệ hề khả nại hà? </b>
<b>Ngu hề Ngu hề khả nại hà? </b>
<b>Tạm dịch:</b>
<b>Sức nhổ núi chừ khí hơn đời</b>
<b>Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi</b>
<b>Ngựa chẳng đi chừ biết làm sao? </b>
<b>Ngu chừ, Ngu chừ biết làm sao? </b>
<b>Ngu Cơ càng cảm động, cất giọng hoà lại:</b>
<b>Hán binh dĩ lược địa</b>
<b>Tứ diện Sở ca thinh</b>
<b>Tiện thiếp hà biểu sinh</b>
<b>Tạm dịch:</b>
<b>Binh Hán chiếm lấy đất</b>
<b>Bốn mặt tiếng Sở kêu </b>
<b>Ðại vương y khí hết</b>
<b>Mạng sống thiếp phải liều</b>
<b>Ngu Cơ cầm gươm tự tử</b>
<b>Thế rồi Vua Sở Hạng Võ một người một ngựa đánh mở con đường máu, thốt khỏi vịng vây chạy đến bên sơng Ơ, nhưng </b>
<b>khơng qua được sơng, cuối cùng tự tử.</b>
<b>"Khúc Hán Sở chiến trường", "tiếng sắt tiếng vàng" là tiếng những binh khí bằng kim loại va chạm nhau. Tiếng đục </b>
<b>(sắt), tiếng trong (vàng), nghe đàn mà cảm thấy như nghe TIẾNG GƯƠM GIÁO CHẠM MẠNH, SÁT PHẠT GIỮA </b>
<b>CHIẾN TRƯỜNG. Ý nói khúc đàn hùng tráng, rộn rã hoà hợp với tâm hồn rộn rã, tưng bừng của người gảy đàn như </b>
<b>mở màn, chào đón một cuộc hội ngộ của đơi bạn son trẻ đắm đuối yêu nhau. </b>
<b>Khúc "Tư Mã phượng cầu"</b>
<b>tức là khúc "Phượng cầu hồng" (chim phượng trống tìm chim phượng mái) của Tư Mã Tương Như đàn tỏ tình với </b>
<b>nàng Trác Văn Quân.</b>
<b>Tư Mã Tương Như tự Trường Khanh, người ở Thành Ðô đời vua Cảnh Ðế (163- 149 trước DL) nhà Hán. Người đa tài, </b>
<b>văn hay đàn giỏi.</b>
<b>Khi lìa q lên Trường An (kinh đơ nhà Hán) lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: </b>
<b>"Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử Kiều" (không ngồi xe cao bốn ngựa, khơng qua lại cầu này nữa). Vì qun tiền, </b>
<b>Tương Như được làm một chức quan Lang.</b>
<b>Vốn con người hào hoa phong nhã rất mực, làm quan một thời gian sinh chán, cáo bịnh từ quan qua chơi nước Lương, </b>
<b>làm bài "Ngọc như ý" được vua nước Lương ban cho một cây đàn lục ỷ, trên khắc bốn chữ "đồng tử hợp tinh", lại trở về </b>
<b>đất Thục. Ðến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu.</b>
<b>Khi đến đất Lâm cùng, Tương Như vốn sẵn quen thân với quan Lịnh ở huyện là Vương Cát nên đến chơi. Cát lại mời </b>
<b>Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn là viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan </b>
<b>huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu Tương Như cho thưởng thức một bài. </b>
<b>Trác ông vốn có người con gái rất đẹp tên Văn Qn cịn trẻ mà sớm gố chồng, thích nghe đàn. Tương Như được biết, </b>
<b>sinh lịng u mến, nhân đó định trêu nàng nên vừa đàn vừa hát "Khúc Phượng cầu hoàng": </b>
<b>"Phượng hề phượng hề quy cố hương</b>
<b>Ngao du tứ hải cầu kỳ hồng </b>
<b>Thời vị ngơ hề vơ sở tương</b>
<b>Hữu diện thục nữ tại khuê phường</b>
<b>Thất nhĩ ngân hà, sầu ngã trường</b>
<b>Hà duyên giao cảnh vi uyên ương</b>
<b>Tương hiệt ương hề cộng cao tường"</b>
<b>Nghĩa:</b>
<b>"Chim phượng, chim phượng về cố hương</b>
<b>Ngao du bốn biển tìm chim hồng </b>
<b>Thời chưa gặp chừ luống lỡ làng </b>
<b>Hôm nay bước đến chốn thênh thang </b>
<b>Ước gì giao kết đơi uyên ương</b>
<b>Bay liệng cùng nhau thoả mọi đường"</b>
<b>(Bản dịch của Trúc Khê) </b>
<b>Tiếng đàn lảnh lót, giọng hát thâm trầm, ý đầy tình cảm, con người hào hoa phong nhã, Văn Quân đứng nép bên trong </b>
<b>nghe tiếng nghìn người, biết người gợi ý đến mình nên lịng sinh bồi hồi cảm xúc. Rồi một đêm, nàng bỏ nhà đi theo tiếng </b>
<b>gọi của tình yêu. Tương Như đưa nàng về nhà mình. Nhà q nghèo, gió lộng bốn bề. Ông già họ Trác quyết định từ con.</b>
<b>Tương Như nghèo nàn buồn bã, đem chiếc áo cừu túc sương đi cầm cho người ở chợ, để mua rượu về cùng Văn Qn đối </b>
<b>ẩm. Văn Qn ơm đầu, khóc nói: "Ta xưa này giàu có, nay đến nỗi phải đi cầm áo mua rượu, buồn biết chừng nào!" </b>
<b>Thế rồi, vợ chồng mở một quán nấu rượu. Văn Quân giữ việc nhóm lị nấu rượu, cịn Tương Như thì mặc quần cộc làm </b>
<b>lụng rửa vò hủ ở chợ.</b>
<b>Sau Hán Võ đế đọc bài "Tử hư phú" của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức quan Lang. Vì muốn thơng sứ </b>
<b>các dân tộc miền Tây nam, nhà vua phong chức Trang Lang tướng, cầm cờ tiết mao đi sứ. Tương Như vào đến đất Thục, </b>
<b>quan lại từ dưới đến Thái thú đều ra tận ngoài thành tiếp rước, quan huyện Lịnh thì vác cung nỏ đi tiền khu; người </b>
<b>người đón tiếp long trọng. Trác Vương Tơn bấy giờ khơng cịn dám khinh thường chàng rể nữa. Nhưng Tương Như làm </b>
<b>quan ít lâu lại chán, cáo bịnh lui về quê. </b>
<b>"Khúc Tư Mã phượng cầu" tức là khúc "Phượng cầu hoàng" mà Tư Mã Tương Như gảy tỏ tình với Trác Văn Quân. </b>
<b>Ðây là một khúc đàn tình tứ lãng mạn khá đẹp.</b>
<b>Trong "Bích Câu Kỳ ngộ" của Vơ Danh, có câu:</b>
<b>Cầu hồng tay lựa nên vần</b>
<b>Tương Như lòng ấy Văn Quân lòng nào </b>
<b>Qua phút từng bừng rộn rã "tiếng sắt tiếng vàng chen nhau" như "Hán Sở chiến trường", thì bây giờ tình cảm chuyển </b>
<b>sang thâm trầm, dịu dàng, đằm thắm, thiết tha, chứa chan mộng đẹp lâng lâng của một mối tình đầu như nụ hoa tình </b>
<b>chớm nở buổi sương mai.</b>
<b>Khúc "Quảng lăng":</b>
<b>"Kê Khang nầy khúc Quảng lăng</b>
<b>Một rằng Lưu thuỷ hai rằng Hành vân" </b>
<b>(câu 477 đến 478)</b>
<b>Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 cụ già ngồi bên rừng trúc. Kẻ đánh cờ, gảy đàn, thổi tiêu, người uống rượu </b>
<b>ngâm thơ... trông vẻ tiêu diêu tự toại. Ðó là hình ảnh "Trúc lâm thất hiền" (bảy ông hiền trong rừng trúc) đời nhà Nguỵ </b>
<b>(220- 264). Kê Khang là một trong 7 ơng này. </b>
<b>Kê Khang vốn người có tính cao khiết, giàu lịng nghĩa hiệp và cùng là một người có biệt tài về các môn: cầm, kỳ, thi, họa. </b>
<b>Một điều lạ hơn hết là mặc dầu có tài như vậy nhưng ông không học qua một ông thầy nào. Từ nhỏ đến lớn, ơng có cơng </b>
<b>tự học, rèn luyện mà nên. Ông vốn họ Khuê, người đất Thương Ngu, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết </b>
<b>Giang). Vì một sự thù ốn do người gây nên, ông phải dời về ở ẩn huyện Hoa Dương, tỉnh An Huy. Gần chỗ ơng ở có núi </b>
<b>Kê (Kê Sơn) nên ông lấy tên Kê làm họ.</b>
<b>Kê Khang cũng như sáu người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão, có người bảo: "Ba ngày khơng đọc </b>
<b>"Ðạo đức kinh" thì miệng thấy hơi". Ông có ra làm quan đến chức Trung tán Ðại phu, nhưng luôn chê vua Thang, vua </b>
<b>Võ, Khinh Văn Vương và Khổng Tử. Thơ ơng có giọng triết lý:</b>
<b>"Mục tống phi hồng</b>
<b>Phủ ngưỡng tự đắc</b>
<b>Du tâm thái huyền"</b>
<b>Nghĩa:</b>
<b>"Mắt tiễn hồng bay</b>
<b>Tay gảy năm dây</b>
<b>Cúi ngửa tự đắc</b>
<b>U huyền thích thay" </b>
<b>(Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê) </b>
<b>Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan, mai danh ẩn tích để hưởng thụ tiêu diêu lúc về già. Nhưng thảm thay, ông </b>
<b>muốn tránh khỏi điều phiền luỵ ở cõi trần thì lại cịn lận đận, khổ luỵ vì trần.</b>
<b>Từ quan, Kê Khang sống một cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thuỷ, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn. Bấy </b>
<b>giờ nhà Nguỵ họ Tào suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn lật đổ nên tìm mọi cách trừ khử những phe phái chống đối. Lúc ấy </b>
<b>ở huyện Ðông Bình có người tên Lữ An vì ngưỡng mộ Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người kết bạn thâm giao. </b>
<b>Khơng ngờ An có một người anh họ tên Lữ Tốn vốn bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, ỷ thế hoành hành, thấy vợ của Lữ </b>
<b>An xinh đẹp, muốn chiếm đoạt nên bắt An hạ ngục.</b>
<b>Vì tình bạn, Kê Khang đứng ra minh oan. Nhưng rồi cũng bị bọn quyền thần bắt giam. Kê Khang vốn thuộc con rể trong </b>
<b>thông thất nhà Nguỵ, nên họ muốn tìm cách trừ tuyệt. Chúng lại dựng chứng Kê Khang dám khinh chê vua Thang, vua </b>
<b>Võ, Văn Vương, Khổng Tử là có ý phản loạn nên kết án tử hình. </b>
<b>Kê Khang vốn có tài đàn. Khúc "Quảng Lăng" do ông sáng tác, đánh lên nghe lưu lốt, thánh thót như nước chảy (lưu </b>
<b>thuỷ), mây bay (hành vân). "Lưu thuỷ" và "hành vân" là giải thích cách điệu lưu loát của khúc Quảng lăng. Cũng như </b>
<b>tiếng đàn thánh thót của Kiều như nước chảy mây bay chẳng khác gì khúc "Quảng lăng" của Kê Khang, một tay đàn kỳ </b>
<b>diệu.</b>
<b>Tình cảm của người gảy đàn cũng chuyển biến, biểu lộ bằng khúc đàn. </b>
<b>"Quá quan này khúc Chiêu Quân" </b>
<b>Qua "khúc Quảng Lăng" thánh thót, man mác như nước chảy mây bay,cuối cùng Kiều chuyển sang:</b>
<b>"Qúa quan nầy khúc Chiêu Quân </b>
<b>Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia"</b>
<b>(câu 479 đến 480)</b>
<b>Chiêu Quân tên Vương Tường, người đất Tỷ Quy thuộc Nam quận, được tiếng là "trầm ngư", một trong "Tứ đại mỹ </b>
<b>nhân" ở cổ Trung Hoa. Nàng bị tuyển vào cung đời Hán Nguyên đế (48- 33 trước DL). Lúc bấy giờ vua Hán có đến 3.000 </b>
<b>mỹ nữ trong cung nên khơng thể nào biết mặt hết được. Vua truyền tên thị vệ Mao Diên Thọ bảo hoạ sĩ vẽ hình tất cả </b>
<b>những cung nữ, để vua xem và chọn làm hậu cung khi cần đến.</b>
<b>Mao Diên Thọ thừa nước đục thả câu để ăn hối lộ cung nữ. Nếu ai đút lót tiền thì truyền thần mặt xinh đẹp càng lộng lẫy </b>
<b>để dâng lên nhà Vua. Cung nữ đành bằng lịng vì nghĩ rằng biết đâu nhờ đó mà được hưởng chút ơn mưa móc của quân </b>
<b>vương, cho cuộc đời tài sắc của mình khơng phải q phủ phàng ghẻ lạnh. Riêng Chiêu Quân đã có một sắc đẹp hơn các </b>
<b>cung phi, lại có tính tự trọng, ghét bọn tham quan nên khơng chịu đút lót tiền mà còn xỉ vả nặng lời Mao Diên Thọ trước </b>
<b>mặt đông người. Mao Diên Thọ xấu hổ càng căm giận, tìm cách ác độc trả thù. Do đó, khi nhận bức ảnh Chiêu Quân do </b>
<b>hoạ sĩ trao cho, hắn lấy viết lén chấm dưới khoé mắt ảnh Chiêu Quân một chấm làm thành nốt ruồi.</b>
<b>lời nên chẳng nghĩ gì đến Chiêu Quân. </b>
<b>Chiến tranh giữa nhà Hán và Hung Nơ. </b>
<b>Hán đại bại cầu hồ. Thiền Vu, chúa Hung Nô buộc Hán Nguyên đế phải cống phẩm vật và một cung phi tuyệt sắc mới </b>
<b>chịu bãi binh. Trong tình thế nguy của đất nước, Nguyên Ðế phải đồng ý.</b>
<b>Mao Diên Thọ vừa ghét Chiêu Quân vừa sợ việc làm đòi ăn hối lộ và dối vua bị bại lộ, nên mưu với bọn gian thần tâu với </b>
<b>nhà vua, đem Chiêu Quân đi cống. Nguyên Ðế bằng lòng. </b>
<b>Nhưng đến lúc Chiêu Quân vào triều bái yết nhà vua để theo sứ giả Hung Nơ ra đi, thì nhà vua bấy giờ mới trơng rõ mặt. </b>
<b>Nốt ruồi đâu chẳng thấy mà chỉ là một tuyệt thế giai nhân, một trang quốc sắc thiên hương, cịn hơn hình ảnh trong bức </b>
<b>hoạ truyền thần qua nét bút kỹ xảo của một hoạ sĩ. Nhà vua vừa luyến tiếc, vừa tức giận, bấy giờ mới rõ mưu mô gian </b>
<b>xảo, thâm độc của Diên Thọ, định đem trị tội. Thọ hay được, vượt biên trốn sang đầu hàng Hung Nô. </b>
<b>Sự thực chán chường rồi, khơng thể thay người khác được vì sứ giả Hung Nô đã nhận được mặt của Chiêu Quân. </b>
<b>Luyến tiếc người ngọc, xót thương phận liễu bồ bao năm giam mình trong cung lạnh, âm thầm với số kiếp phủ phàng, </b>
<b>nhưng vì thế nước yếu hèn nên Hán Nguyên Ðế đành cắt đứt mối tình, trao người ngọc cho kẻ khác. Nhà vua chỉ còn </b>
<b>bước xuống ngai vàng đến sân chầu, run run cầm lấy tay Chiêu Quân nghẹn ngào nói qua dịng nước mắt trong buổi chia </b>
<b>ly: </b>
<b>- Ta có lỗi với nàng. Ta có tội với nàng! Vơ tình ta trở thành con người tệ bạc.</b>
<b>Chiêu Quân cảm động, hai hột lệ đọng trên khoé mắt, ngậm ngùi: </b>
<b>- Thần thiếp đội ơn Bệ hạ. Hồng nhan bạc phận là một lẽ thường. Kiếp này duyên đã lỡ, kiếp khác nguyện đền bồi. Thần </b>
<b>thiếp bao giờ cũng ghi lịng tạc dạ đối với tình nghĩa của đấng quân vương!</b>
<b>Thế là Chiêu Quân từ biệt nhà vua, xứ sở quê hương, lên xe theo đoàn quân hậu vệ Hung Nô, để vượt qua ải biên thuỳ </b>
<b>Nhạn Môn sang Hồ. Nỗi thương nước nhớ nhà, nỗi giận kẻ gian thần, xót xa thân bồ liễu, có lúc trên đường dài thăm </b>
<b>thẳm, bầu trời man mác khói toả mây trắng chập chùng, nàng truyền dừng xe, quay mặt hướng về cố quốc, gảy một khúc </b>
<b>đàn ly biệt. Tiếng đàn tỳ bà não nuột ai oán. Những kẻ theo đưa ai cũng đau lòng sa nước mắt. Cây cỏ bên đường cũng </b>
<b>héo tàn gục xuống mặt đất như để xớt thảm chia sầu.</b>
<b>Chiêu Quân chẳng những có sắc mà cịn có tài đàn hay thơ giỏi. Nhìn một cánh chim lẻ bạn bạt gió về chiều, nàng xót xa </b>
<b>cảm cho thân thế mình cất giọng ngâm:</b>
<b>Cánh én cô đơn đượm tủi sầu</b>
<b>Ngang trời gió cuốn bạt về đâu?</b>
<b>Quan san ngàn dặm vương thương nhớ</b>
<b>Hồ, Hán từ đây cách biệt nhau</b>
<b>Và: </b>
<b>Mây trắng trời trong gió ngạt ngào </b>
<b>Hồn hoa mờ mịt dưới trăng sao</b>
<b>Ðêm đêm thổn thức đêm đêm mộng</b>
<b>Có phải trời xanh cợt má đào! </b>
<b>Và, khi mùa thu đến. Nhìn trời thu, mây thu, sắc thu nhuộm úa lá vàng, dưới bầu trời ảm đảm, lá vàng rơi lả tả, bài </b>
<b>"Thu phong ốn" của Chiêu Qn cịn truyền tụng do một tình cảm dạt dào sâu đậm của một kỷ nữ ly hương:</b>
<b>Thu mộc thê thê </b>
<b>Kỳ diệp huy hoàng </b>
<b>Hữu điểu xử sơn</b>
<b>Tập ư bào tang</b>
<b>Dưỡng dục mao vũ</b>
<b>Hình dung sinh quang </b>
<b>Kỳ đắc thanh vân</b>
<b>Thượng du khúc phường</b>
<b>Ly cung tuyệt khống</b>
<b>Chí niệm ức chẫm</b>
<b>Bất đắc hiệt ngoan</b>
<b>Tuy đắc ẩm thực</b>
<b>Tâm hữu hồi hoàng </b>
<b>Y hà ngã độc</b>
<b>Vãng lai biến thường</b>
<b>Thiên phiên chi yếu</b>
<b>Viễn tập Tây Khương</b>
<b>Cao sơn nga nga</b>
<b>Hà thuỷ ương ương</b>
<b>Phụ hề mẫu hề</b>
<b>Ðạo lý du trường</b>
<b>Ơ hơ ai tai </b>
<b>Ưu tâm trắc thương!</b>
<b>Tạm dịch:</b>
<b>Cảnh thu hiu hắt lá thu vàng </b>
<b>Trên đỉnh non cao đó rõ ràng </b>
<b>Có một chim kia hay đáo để</b>
<b>Ở ăn tự lúc mới ra giàng </b>
<b>Ra giàng đã đủ cánh lơng bay</b>
<b>Thấy rõ hình dung q giá thay </b>
<b>Trên nóc lầu cao đà đổ xuống</b>
<b>Chín từng mây thẳm đã tung bay </b>
<b>Tung bay nhưng khốn biết sao rày </b>
<b>Sự thế than ôi nỗi nước này </b>
<b>Nỗi nọ đường kia khôn tả xiết</b>
<b>Gan sầu ruột héo ngỏ ai hay!</b>
<b>Ai hay cho khúc đoạn trường này </b>
<b>Cho nỗi quan hoài ở chốn đây</b>
<b>Uống uống ăn ăn khôn đáp lại</b>
<b>Những hờn những oán những sầu cay!</b>
<b>Sầu cay riêng nghĩ xiết bàng hoàng </b>
<b>Biết đến bao giờ hận mới tan</b>
<b>én nọ tung bay xập xè cánh </b>
<b>Ðường xa mấy mấy dặm quan san</b>
<b>Biển rộng non cao chất tủi sầu</b>
<b>Vịi vọi đường xa mn dặm cách</b>
<b>Mưa nắng sân Lai xót dãi dầu!</b>
<b>Dãi dầu ai hỡi thấu cho chăng?</b>
<b>Lấp đặng cho ai những bất bằng</b>
<b>Những nhớ những thương tầy núi biển</b>
<b>Tình thu chan chứa hận sầu vương</b>
<b>(Bản dịch của Thái Bạch)</b>
<b>Khi đến đài Lạc nhạn, Chiêu Quân bắt được chim nhạn, liền xé lụa cắn móng tay lấy máu viết thư, buộc vào chân nhạn </b>
<b>rồi thả cho bay đi, mong nhờ chim mang tin về cố quốc. Nhìn cánh nhạn bay, nhìn dịng sơng Hắc Thuỷ âm thầm trơi </b>
<b>chảy, nàng tê tái lịng, thở dài: </b>
<b>Thủy hà sóng lạnh gió đìu hiu </b>
<b>Cánh nhạn lê thê giải nắng chiều</b>
<b>Mơ màng một giấc mộng cơ liêu </b>
<b>Ngâm thơ xong, nàng lao mình xuống sơng Hắc Thuỷ!</b>
<b>Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Ðình Chiểu, có câu:</b>
<b>Bởi người Diên Thọ hoạ đồ cho nên </b>
<b>"Quá quan nầy khúc Chiêu Quân" tức là khúc đàn của Chiêu Quân gảy khi qua cửa ải của biên giới hai nước Trung Hoa </b>
<b>(Hán) và Hồ (Hung Nô) trên đường sang cống Hồ</b>
<b>Một khúc đàn buồn não ruột, ai oán để kết thúc cuộc hội ngộ của đơi bạn tình vừa tưng bừng rộn rã, êm đềm thánh thót </b>
<b>lại chan chứa hận chia ly!</b>
<b>Con tip</b>
Post added at 12:32 PM Previous post was at 12:30 PM