Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.43 KB, 37 trang )

Mục lục
Lời mở đầu....................................................................................................................1
Phần 1. Cơ sở của đề tài................................................................................................4
I.

Cơ sở lý luận.......................................................................................................4
1. Lý luận triết học.....................................................................................................4
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong
giai đoạn hiện nay..................................................................................................5

II.

Cơ sở thực tế :.....................................................................................................8

1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội nhập.
8
2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển....................................................10
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.........14
4. Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con đường
hội nhập kinh tế quốc tế.......................................................................................16
4.1. Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc
tế 16
4.2. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập................17
5. Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước
ta..........................................................................................................................20
Phần 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu..................................................................21
I.

Các bước đi của ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.............................21

II.



Các kết quả bước đầu đạt được của nước ta trong tiến trình hội nhập..............22

III.

Những yếu kém và hạn chế còn tồn tại cần giải quyết trong thời gian tới
27

IV. Các kiến nghị đề xuất trên phương diện triết học để hạn chế các nhược
điểm và phát huy những mặt tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta.........................................................................................................................31
Lời kết.........................................................................................................................34
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................35


Mục lục..........................................................................................................................1

Lời mở đầu
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 – 1950),
sự phát triển nhanh chóng của khoa học cơng nghệ đã thúc đẩy sự phát triển
nhanh chóng của lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia,
mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất
cả các quốc gia khơng phân biệt trình độ đã và đang hình thành mối quan hệ gắn
bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên mờ nhạt,
các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các
tổ chức lớn như WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự ra đời của các khu vực
đồng tiền chung Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên kỉ mới này, cuộc
cách mạng công nghệ tiếp tục đi sâu, mở rộng ứng dụng cơng nghệ tin học sẽ là
động lực chính thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế, tồn cầu hố.
Trước bối cảnh tồn cầu như vậy, cơng cuộc phát triển kinh tế của nước ta

không thể đứng ngồi xu thế tồn cầu hố. Nhận thấy được tình hình kinh tế của
đất nước đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định
chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề
hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ
chức quốc tế đang là vấn đề được quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ” và “là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới
phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan
trọng. Với việc gia nhập PECC (01/1995), ASEAN (07/1995), ký kết hiệp định
chung về hợp tác kinh tế với EU (7/1995), tham gia APEC (11/1998), và đang
chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Việt Nam từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu


vực và thế giới. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về hội nhập
kinh tế quốc tế nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội lần
thứ IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà em rất tâm huyết, rất quan tâm
và đó cũng là lí do, là sự thơi thúc em chọn đề tài: “Việt Nam trong xu thế hội
nhập và phát triển dưới con mắt triết học”.


Phần 1

Cơ sở của đề tài
I. Cơ sở lý luận


1.

Lý luận triết học

Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình
khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và
cũng đồng thời khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các
mối liên hệ đó.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có
khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế
giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng
khơng thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết
học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng
để chỉ sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa
các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên
hệ đều mang tính khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà cịn mang tính phổ biến.
Bởi lẽ, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác.
Khơng có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay
khơng một quốc gia nào khơng có quan hệ, khơng có liên hệ với các quốc gia
khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế mà hiện nay trên thế giới đã
và đang xuất hiện xu hướng tồn cầu hố, khu vực hố mọi mặt của đời sống xã
hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề tồn cầu như : đói nghèo, bệnh
hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hố gia đình, chiến tranh
và hồ bình…Ngồi ra, mối liên hệ được biểu hiện dưới những hình thức riêng
biệt, cụ thể theo điều kiện nhất định Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng
chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.



Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các
mặt của sự vật hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động khơng
ngừng theo nhiều cách thức khác nhau. Do đó mà mối liên hệ cịn mang tính đa
dạng. Và trong mỗi sự vật hiện tượng có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ,
chứ khơng phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.
2.
nước

Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các
trong giai đoạn hiện nay

“Tồn cầu hố” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại,
mà trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách
đây hơn 150 năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành
hiện thực. Theo ơng, tồn cầu hố kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát
triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất
xã hội mà ở đó, phân cơng lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành
phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ
lực lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao
đổi hàng hố cịn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất
thấp nên chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức
sản xuất TBCN ra đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp,
đời sống kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế
quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước kia được thay thế bằng sự
sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Thế chiến
thứ 2, hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp đặt trực tiếp, tức là các
nước phát triển áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo lực để thống trị các nước

lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài ngun và tiêu thụ hàng hố. Trong đó, mỗi nước đế
quốc có một hệ thống thuộc địa riêng, phân cơng lao động và quốc tế hố cịn
mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu khơng thốt khỏi tình trạng khó
khăn trì trệ.


Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ
thuật, lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh
chóng. Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ
thống phân công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay
thế bằng hệ thống phân cơng mới gọi là tồn cầu hố kinh tế. Tồn cầu hố kinh
tế là q trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra
khỏi biên giới một quốc gia vươn tới qui mô tồn thế giới, đạt trình độ chất
lượng mới.
Như vậy, tồn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của q trình xã hội hố
sản xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự
thúc đẩy của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của
sự phát triển sâu rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi tồn thế giới, sự gia
tăng phân cơng lao động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và thời
gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của lồi người và sự hiện diện nóng
bỏng của những vấn đề tồn cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các
q trình tích luỹ về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để số lượng biến
thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực hố đã chuyển thành xu hướng
tồn cầu hố trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất
yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.
Và trong đó đặc trưng nổi bật của tồn cầu hố kinh tế là nền kinh tế thế
giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ
phận, có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú.
Tham gia tồn cầu hố kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị,
xã hội, vẫn là các chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát

triển của mình. Tồn cầu hố kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc
vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay tồn
cầu hố kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ
chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động [ Thẩm Kỳ Như – Trung
Quốc không làm bất tiên sinh…Viện TTKH, Học viện CTQG HCM, H1999,


tr358-359 ] Đây là sự phát triển mới chưa từng có. Lịch sử đã chứng tỏ khơng
một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể sản xuất được tất cả
các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm về trước
Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành
tựu có được như ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế
này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại khơng thể khác được. Chỉ có những
quốc gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức
mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ tồn cầu hố kinh tế tức là
tự gạt mình ra ngồi lề của sự phát triển.


II. cơ sở thực tế :

1.

Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá

trình hội nhập.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao
vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương
“phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.[Trích

văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX – trang 89] Chủ trương hội nhập
kinh tế quốc tế được đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn ra
nhanh chóng, phức tạp, khó lường trước được, với những đặc điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng
đều. Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc
khủng hoảng kinh tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực
thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều
năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu hiện khơng cịn phát triển
nhanh như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước
thuộc Liên Xơ trước đây và nước Đơng Âu rơi vào tình trạng suy thối kéo dài,
vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển
ngoạn mục; Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong
những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi
phục; Nam á và Châu Phi vẫn chưa thốt khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế
Mỹ latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ
bão. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả
các nước trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả
cực kỳ to lớn cho nhân loại và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ
thông tin đang là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là


thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột phá vào
thế giới đầy bí hiểm của sự sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất
các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng
của con người. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ
hàng không vũ trụ … mở ra một tiềm năng mới cho loài người chinh phục tự
nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hố trong sản xuất ngày càng giải phóng con

người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục
vụ xã hội.
Xu thế tồn cầu hố kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống
của tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia
gắn bó hữu cơ và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh
tế gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính tồn cầu. Phân cơng lao động quốc
tế đạt tới trình độ ngày càng cao. Phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà
máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, qua đó phân cơng lao
động quốc tế có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị
trường của các nước, thúc đẩy q trình quốc tế hố sản xuất phát triển nhanh
chóng. Trong q trình tồn cầu hố, khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết
kinh tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại,
tài chính quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền
tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực
thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)…
Hiện nay, các nước lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo
đuổi chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn
như Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Mỹ…và cả một số nước vốn khép kín, theo mơ
hình tự cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề tồn cầu mà
khơng một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu khơng có sự hợp tác


đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch
bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế…
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước cơng nghiệp phát triển, đứng đầu là
Mỹ, do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- cơng nghệ, có nền
kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt
điều kiện với những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp

thơ bạo như bao vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước
đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển
đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng cường quyền áp
đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, cơng
bằng.
ở khu vực Đông Nam áđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua
cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998,
song vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý kinh tế
của mình, dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào,
được đào tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Tồn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói
chung và q trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2.

Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển

Thế giới ở vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ đang chứng kiến
những đổi thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời
sống tinh thần xã hội. Tồn cầu hố nổi lên như một trong những xu hướng chủ
đạo chi phối hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại. Xét trên phương diện sản xuất
vật chất xã hội, một giai đoạn mới của lịch sử nhân loại đang từng bước quá độ
từ xẫ hội gắn với nền văn minh công nghiệp lên nấc thang phát triển cao hơn.
Nấc thang phát triển này được đặc trưng bởi công nghệ và cơ cấu kinh tế mới –


kinh tế tri thức, trên cơ sở áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học – công nghệ
tiên tiến, các phương tiện truyền tin hiện đại và máy tính.
Nhìn một cách tổng qt, tồn cầu hố kinh tế là q trình phổ biến theo
hướng nhất thể hố trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt

động, những mơ hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học, kỹ thuật.
Trong đó các nước đang phát triển tham gia với động lực cơ bản là nhằm mở
rộng thị trường xuất khẩu, tạo mối liên kết thương mại giữa các quốc gia, các
khu vực với nhiều hình thức phong phú, hoạt động có hiệu quả. Và cho đến nay,
một số các quốc gia đang phát triển đã đạt được những tiến bộ vượt bậc ví như :
ở khu vực Đơng Nam á có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển mạnh sang
kinh tế hướng về xuất khẩu và thu được những thành quả tốt.
Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết thương mại thì chính sách
tỷ giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế
quan đã làm cho hoạt động thương mại tại các nước mở rộng thị trường và tăng
khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là thị
trường vốn có mối liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ
hội hội nhập với thị trường tài chính tồn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm
soát đối với đồng vốn chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong
thanh tốn và giao dịch thơng qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận
thả nổi đồng tiền, đã làm cho đồng vốn đổ vào các nước này tăng nhanh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến
việc ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường
thu hút vốn, một mặt thúc đẩy cơng nghiệp hố, một mặt tăng tích luỹ từ đó cải
thiện mức thâm hụt ngân sách. Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo niềm
tin cho các chương trình phát triển hỗ trợ cho những quốc gia thành công trong
cải cách kinh tế và mở cửa.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao
mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.


Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh
to lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn
vào. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về

vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến q trình tồn
cầu hố nói chung và tồn cầu hố kinh tế nói riêng thành q trình tự do hố
kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các
nước, nhất là các nước đang phát triển, đều phải tìm kiếm các đối sách để thích
ứng với q trình tồn cầu hố đa bình diện và đầy nghịch lý.
Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và
phụ thuộc đã thốt khỏi ách đơ hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành được
độc lập dân tộc và chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế – xã hội của các
nước chậm phát triển và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện
đáng lo ngại về sự tụt hậu so với trình độ của các nước phát triển. Khoảng cách
ấy không những không được khắc phục, rút ngắn mà còn thực sự trở thành nguy
cơ chia cắt thế giới làm hai nửa khác biệt: vài chục quốc gia tiên tiến đã vượt
hơn 100 quốc gia thuộc “thế giới thứ ba” hàng vài thập niên phát triển hoặc gấp
trăm lần chênh lệch về thu nhập bình quân GDP tính theo đầu người.
Các nước này tuy đã giành được độc lập, đó là một thành quả vơ cùng
quan trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho
nên, họ vẫn bị phụ thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản : từ khai
thác – sử dụng tài nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – cơng nghệ đến thị
trường tiêu thụ cũng như phân công lao động quốc tế… Các nước đang phát
triển đang phải đối diện trước thách thức của nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về
kinh tế. Bởi một cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý, trong đó tỷ trọng cơng
nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập quốc dân, cộng thêm với trình độ thấp
kém về năng suất lao động, cho nên tốc độ phát triển kinh tế của đa số các nước
đang phát triển thấp và bấp bênh. Trong thập niên 60, các nước đang phát triển
đạt mức tăng trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3% thì đến thập niên 80 là 2% và


những năm vừa qua của thập niên 90 tuy tình hình có được cải thiện, song cũng
chỉ đạt mức trên 4% trong khi tỉ lệ tăng dân số vẫn còn ở mức trên 2%/năm.
Không những thế vấn đề nợ nước ngoài cũng trở thành gánh nặng đối với

các nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước
ngoài của các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ 6 tỉ năm
1995 lên trên 2000 tỉ đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng số nợ đã
vượt xa so với tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các
nước đang phát triển không chỉ được biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà cịn là
tình trạng nhiều nước khơng có khả năng thanh toán dù chỉ là lãi suất hằng năm,
trong khi dó tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và khơng hề có dấu hiệu
giảm bớt.
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch –
thương mại giữa các nước đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao
đổi khơng ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ
USD.
Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản phẩm
của các nước đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát triển. Qua
con đường đầu tư, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, các cường quốc tư bản
không chỉ thu lợi do bán các thiết bị công nghệ lạc hậu và gây ơ nhiễm mà cịn
khống chế nhiều huyết mạch kinh tế quan trọng của các nước đang phát triển.
Còn các nước đang phát triển, do áp lực bức bách của nhu cầu cải thiện đời sống
kinh tế, đã dễ dàng chấp nhận “chào đón” bất kỳ sự cải tiến kỹ thuật – công
nghệ nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản nào. Sự đơn giản dễ dãi này, mặc dù trước
mắt có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song rất có thể phải trả giá đắt bởi các
hậu quả kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật – công nghệ, cơ
cấu kinh tế, mơ hình kinh tế – xã hội đang đặt ra những tiêu chuẩn phức tạp hơn
để có thể tận dụng mọi cơ hội phát triển cho cả ngày mai, khơng chỉ vì những
cái lợi tức thời trước mắt.


Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển
và các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau
thì sao? Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nước này đều có sự

tương đồng về trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên,
nhân lực và thị trường…trong khi tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật – công nghệ và
tri thức quản lý hiện đại. Hơn nữa, những lợi thế nêu trên dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học – cơng nghệ và tồn cầu hố hiện nay khơng cịn có
vai trị, ý nghĩa nổi bật như các thập niên trước đây. Điều đó cho thấy, các nước
đang phát triển cần thiết phải có cách tiếp cận mới trong hợp tác cùng nhau. Chỉ
có như vậy, khn khổ và cơ chế hợp tác mới thực sự trở nên hữu ích và thiết
thực đối với các nước đang phát triển. Đồng thời, nó đóng góp và việc phối hợp
các nỗ lực chung của các nước đang phát triển nhằm từng bước khắc phục và
hạn chế những hậu quả tiêu cực của tồn cầu hố cũng như trong q trình xúc
tiến quan hệ với các nước phát triển.
Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhưng đó
cũng là một bài tốn hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát
triển, thôi thúc họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực
và kết hợp với chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những
điều kiện tiên quyết – chìa khố hữu hiệu để giải mã bài tốn này trong kỷ
ngun tồn cầu hố hiện nay.
3.

Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế

ở nước ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất
nước không phải là một điều gì hồn tồn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó
là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất
nước, những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch



Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư
bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng
ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây
giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh:
Tồn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ
trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia
Phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản
là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ
với các nước trong cộng đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp
tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế
lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cơ lập về chính trị đối với
nước ta.
Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại
hội lần thứ VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công
cuộc đổi mới nhằm đưa nước tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội.
Việc triển khai Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xơ,
Đơng Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị
xố bỏ tại các nước này, Liên bang Xơ Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế
giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội
nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị,
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc
tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực
của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cơ lập
về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó,
năm 1987 nước ta đã thơng qua Luật đầu tư với nước ngồi với những quy định
khá thơng thống.



Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông
qua Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội
10 năm, đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu:
“Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc
lập phát triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về
chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “giữ vững nguyên tắc
độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng động, linh
hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như
diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta
có quan hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm: bảo đảm lợi
ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy
mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt
hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời
mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng
một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới”. Hội nghị Trung ương 4 khố VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm
nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc
đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế
hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
4.

Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam

trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
4.1.

Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế


quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh
nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập kinh tế


quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho
một trình độ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học,
kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở
rộng thị trường để đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, đưa đất
nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tiếp đó hội nhập kinh tế tạo khả năng
mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết
với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Tạo cơ hội giao lưu các nguồn lực của
nước ta với các nước, bởi chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng nếu khơng
hội nhập thì việc sử dụng trong nước sẽ bị lãng phí, kém hiệu quả. Thơng qua
hội nhập ta có thể xuất khẩu lao động qua hợp đồng gia công hàng xuất khẩu.
Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới,
các phát minh sáng chế mà ta chưa có. Mặt khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ
giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là
những cải cách về phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, về thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong
nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế để tham gia ngày càng nhiều hơn vào
phân cơng lao động quốc tế và mở rộng q trình dân chủ hoá xã hội. Với một
nền kinh tế yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ hội do tồn cầu hố
mang lại – dù là tồn cầu hố đang do chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta
không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ
nghĩa tư bản chứ chưa nói đến tranh thủ những nguồn lực, phương tiện vật chất
cần thiết, đã là một tất yếu khách quan, một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển và đang phát triển nói chung
và ở nước ta nói riêng. Bởi vì như Lênin đã nói : “chúng ta khơng hình dung

một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở những
bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được” ( V.I Lênin, Toàn
tập, NXB Tiến bộ, M, 1977, tr334).
4.2.

Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập


Tuy nhiên, tồn cầu hố là một q trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vơ
cùng phức tạp. Nó khơng chỉ đem đến cho chúng ta những cơ hội thuận lợi mà
cịn có cả những thách thức và khó khăn mới nảy sinh.
Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng thấp kém của nền kinh tế,
khoảng cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên
thế giới còn rất xa. Học thuyết tự do mới về tồn cầu hóa địi hỏi các quốc gia
phải mở toang cửa nền kinh tế đất nước, phải thực hiện triệt để tự do hoá thị
trường bên trong và bên ngoài, phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hố, phải giảm
mạnh vai trị kiểm sốt của Nhà nước theo hướng: “Nhà nước tối thiểu, thị
trường tối đa”. Vì vậy các doanh nghiệp trong nước phải chấp nhận tư cách
thành viên cạnh tranh ngang bằng các nước khác. Mà xu hướng tự do hoá
thương mại quốc tế càng phát triển thì cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt.
Điểm đặc biệt là ta phải cạnh tranh ngay từ đầu, trên tất cả các mặt trận, với
những thế lực mạnh hơn nhiều về thực lực và trình độ. Tại diễn đàn Kỳ họp thứ
6, Quốc hội khoá XI, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhiều lần nhấn mạnh :
“Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua kém nhiều
nước xung quanh là điều bất lợi lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế” Hội nhập
kinh tế quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
đầu tư theo chiều sâu để nền kinh tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, chúng ta đứng trước khó khăn rất lớn trong việc điều chỉnh hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách làm sao vừa bảo đảm cho đổi mới thành
công, nền kinh tế phát triển bền vững; vừa phù hợp với cam kết quốc tế; lại có

khả năng khắc phục những tiêu cực, rủi ro do hội nhập đem lại. Nhìn chung, nếu
khơng vượt qua được những thách thức này, chúng ta không thể có chủ nghĩa xã
hội trong thực tế. Mặt khác, tồn cầu hoá đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối trên
các lĩnh vực : thị trường, khoa học – công nghệ và vốn. Các nước tư bản đang
mưu toan ding những lợi thế này để gây sức ép đối với chúng ta. Thực tế này đe
doạ tấn công vào chủ quyền quốc gia, là xói mịn các giá trị văn hoá truyền
thống của dân tộc, đe doạ sự ổn định về kinh tế và xã hội của đất nước. Hơn bao


giờ hết, chúng ta cần tỉnh táo trong từng bước hội nhập, cần phân tích tính hai
mặt của tồn cầu hoá để nhận thức được những mặt, những xu hướng, những tác
động, những quy luật vận động của nó. Trên cơ sở đó chủ động tìm ra con
đường, cách thức biện pháp phù hợp trong từng bước hội nhập để tiếp tục con
đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới.


5.

Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế ở nước ta :
Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số
quan điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
nước ta như sau :
Thứ nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường” (Trích Văn kiện Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ IX – trang 120)
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá

trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành phần kinh tế
của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo.
Thứ ba, hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa khơng ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng,
vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; đồng thời vừa phải đề phịng tư tưởng trì
trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nơn nóng.
Thứ tư, cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế
hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa
đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh
thủ những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế
chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu
cầu giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phịng; thơng qua hội nhập để tăng
cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất
nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ
“diễn biến hồ bình” với nước ta.
Phần 2


Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
I. Các bước đi của ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế như IMF, WB, ADB. IMF, WB đã hỗ trợ cho ta thông qua Chương trình
tín dụng trung han; Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và chương
trình điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các
tổ chức này gắn bó mật thiết với những yêu cầu của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Trong quan hệ với các tổ chức này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ
trợ tài chính nếu yêu cầu của họ khơng trái với đường lối chính sách của ta; có

năm điều kiện họ đưa ra vi phạm chủ quyền và lợi ích của ta nên ta khơng nhận.
Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham
gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 1/1/1996, chúng ta bắt
đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung (CEFT) của AFTA. Cụ thể, khi tham gia vào AFTA, Việt Nam có
nghĩa vụ giảm thuế suất xuống còn 0 – 5 % vào năm 2006 và sau đó tiếp tục
giảm thuế xuống 0% vào năm 2015. Bên cạnh đó Việt Nam phải thực hiện lộ
trình loại bỏ các hạn chế về định lượng và hàng rào phi thuế quan khác; xây
dựng một danh mục biểu thuế quan chung ASEAN; xây dựng hệ thống luồng
xanh hải quan theo GATT/WTO và xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan
nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thương mại. Ngoài ra chúng ta còn tham gia đàm
phán hiệp định thương mại dịch vụ, tham gia chương trình hợp tác cơng nghiệp
(AICO) và khu vực đầu tư ASEAN (AIA) cũng như các chương trình hợp tác
trong cơng nghiệp, nơng nghiệp, giao thơng vận tải…của ASEAN.
Tháng 3/1996 nước ta tham gia diễn đàn hợp tác á - âu (ASEM) với tư
cách là thành viên sáng lập. Nội dung chủ yếu tập trung vào thuân lợi hoá
thương mại, đầu tư và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp á - âu. Cam kết về tự
do hoá thương mại đầu tư chưa được đặt ra.


Ngày 15/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu á - thái Bình Dương (APEC). Tháng 11/1998 đã được công nhận là
thành viên chính thức của tổ chức này. APEC quyết định thực hiện hội nhập đầy
đủ vào năm 2010 đối với thành viên là các nước phát triển và vào năm 2020 đối
với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
Tháng 12/1994, ta gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Mười năm kể từ khi nộp đơn gia nhập tổ chức này, Viêt Nam đã đạt
được những bước tiến nhất định. Và mới đây, chúng ta vừa mới kết thúc phiên
đàm phán đa phương thứ 10 tại Geneva (Thuỵ Sĩ). Tại phiên họp này chúng ta
đã nhận được sự ủng hộ rất lớn của các nước thành viên, đặc biệt là Trung

Quốc. Việt Nam hiện đang ở ngưỡng cửa chính thức bước vào ngơi nhà chung
của đại gia đình 148 thành viên của Tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này.
Theo các chuyên gia nước ngoài để gia nhập WTO vào cuối năm nay tại Hội
nghị các Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông chúng ta phải cơ bản kết thúc đàm phán
song phương và đa phương vào quãng tháng 6 – 7 trong đó có những đối tác rất
lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Tuy nhiên, việc này thực hiện cịn gặp
nhiều khó khăn bởi vẫn cịn nhiều đối tác nước ngồi muốn gây sức ép cho ta.
Thế nên, đến giờ, thời hạn để ta gia nhập WTO vẫn là một câu hỏi lớn.
III. Các kết quả bước đầu đạt được của nước ta trong tiến trình hội nhập

Trước tình hình kinh tế thế giới đang phát triển một cách mạnh mẽ, xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của quan hệ kinh tế thế
giới hiện đại. Việt Nam không thể tránh khỏi tầm ảnh hưởng của xu thế tất yếu
này và cũng không muốn bị tụt lùi hơn nữa. Kết quả là sự thay đổi cơ chế, buộc
Việt Nam phải bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Một hệ thống chính trị đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa nhưng hoạt động kinh tế thị trường với chính
sách hợp lí, mềm dẻo, mở cửa để hội nhập, các hoạt động đối ngoại mở rộng, đa
phương, song phương từng bước tham gia vào các diễn đàn kinh tế lớn, mở rộng


quan hệ ngoại giao, từ đó thiết lập các mối quan hệ hàng hoá thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế.
Nhờ đó mà chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định mà trước hết
là chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cơ lập, cấm vận của các thế lực
thù địch, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên chính trường và
thương trường thế giới.
Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô
và hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên,
đồng thời mở rộng thị trường xuất nhập khẩu.

Trong gần 20 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu
kinh tế rõ rệt, một nền kinh tế thị trường đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã
dần được hình thành và tiến từng bước tăng trưởng và phát triển.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh và
toàn diện, năm sau cao hơn năm trước.

Năm
Tăng
GDP

1

2

2

2

2

2

999

000

001

002


003

004

4,
8%

6,
8%

6,
8%

7,
0%

7,
2%

7,
7%

Bảng thể hiện tỉ lệ tăng trưởng kinh tế qua các năm. Như vậy là vào năm
2004, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao của khu vực, tăng khá cao với thời
gian trước đó và cũng là mức cao nhất so với 6 năm trước đó. Đặc biệt là so với
năm 1990 về giá trị GDP lớn gấp trên 2,74 lần, về công nghiệp gấp gần 6,5 lần,
về xuất khẩu gấp gần 10,8 lần. Thu nhập bình quân đầu người cũng nhờ thế mà
tăng lên đáng kể, nếu năm……. là 100USD/năm thì đến năm 2004 đã đạt
400USD/người/năm. Kết quả nói trên có được là do nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân quan trọng là do việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

mang lại. Trong những năm qua cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển dịch theo


hướng: tỷ trọng của khu vực nông lâm nghiệp – thuỷ sản đã giảm từ 38,74%
năm xuống còn 21,76% năm 2004, tức là giảm trên 1,1% /năm. Trong khi đó tỉ
trọng của khu vực công nghiệp xây dựng đã tăng nhanh từ 22,67% năm 1990
lên 40,09% năm 2004, tức là tăng gần 1,2%/ năm. Tỉ trọng dịch vụ đạt đỉnh cao
nhất vào năm 1999(44,06%) nhưng đã giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ còn
38%, năm 2004 đã tăng lên 38,15% - đã có dấu hiệu chặn được sút giảm tỉ trọng
dịch vụ trong GDP.
Bên cạnh đó, chúng ta từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và
cả nền kinh tế vào mơi trường cạnh tranh, nhờ đó tạo được tư duy làm ăn mới,
thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới
công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng
vươn lên trong cạnh tranh và phát triển, và thực tế sức cạnh tranh của họ cũng
được nâng lên đáng kể. Một tư duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản
xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ các doanh nghiệp năng động
sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
Hơn nữa chúng ta cũng đang từng bước tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ
năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận với những thành quả
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế
giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã
tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Cùng với đó thơng qua
các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã
tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.
Đồng thời, các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao đời sống
của đông đảo quần chúng nhân dân, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế,
thể dục thể thao, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội cho các vùng sâu,

vùng xa, dân tộc thiểu số đã được quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với
phát triển kinh tế. Cụ thể: mỗi năm có hơn 1,2 triệu lao động mới có việc làm.


Tỉ lệ hộ nghèo từ trên 30% giảm xuống còn 10%. Người có cơng với cách
mạng, với đất nước được quan tâm, chăm sóc. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên hàng
năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65,2 tuổi lên 68,3 tuổi.
Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo chúng ta đã đạt được thành tựu to
lớn. Nếu thời Pháp thuộc tỉ lệ dân số đi học mới chỉ đạt 2%, tiểu học là 0,4%, số
người học đại học không quá 1000 người, 95% dân số mù chữ. Thì gần 50 năm
sau, năm 1999, chúng ta có 16.508.452 học sinh, số sinh viên là 401.666 người.
Đặc biệt là năm 2000 Việt Nam đã hồn thành giáo dục phổ cập bậc tiểu học.
Có được kết quả trên là do nhiều nguyên nhân. Trong đó một trong những
ngun nhân có vai trị quyết định đó là việc tăng ngân sách trong lĩnh vực giáo
dục trong cơ cấu chi tiêu của chính phủ. Năm 1997, tỉ lệ ngân sách chi cho giáo
dục chiếm 11,6% tống số chi ngân sách, năm 1998 là 11,86%, năm 1999 là
12,4%. Nhờ thế năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng
nhiều công nghệ tiên tiến. Các hoạt động văn hố thơng tin phát triển rộng rãi và
nâng cao chất lượng, góp phần tích cực động viên tồn dân tham gia xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc sống. Phong trào thể
dục, thể thao rèn luyện sức khỏe phát triển, thành tích thi đấu thể thao trong
nước và quốc tế được nâng lên.
Việc xây dựng luật pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) tiếp tục được chăm lo, dân chủ xã hội được mở rộng. Công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố. Nhiều
Nghị quyết Trung ương đã đề ra những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhà
nước tiếp tục được xây dựng và hồn thiện, nền hành chính được cải cách một
bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được

phát huy, một số chính sách và quy chế đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân,
trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện, lòng tin của nhân dân được củng
cố.


×