Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

4 bài văn mẫu phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.73 KB, 15 trang )

VĂN MẪU LỚP 12
4 BÀI VĂN MẪU PHÂN TÍCH TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐỊ
SƠNG ĐÀ CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN TN
BÀI MẪU SỐ 1:
Một trong những nhà văn tùy bút nổi tiếng của Việt Nam là Nguyễn Tuân. Với nhiều
tác phẩm văn xuôi hiện đại nổi tiếng, ông được coi là cây bút xuất sắc. Và tác phẩm thể hiện
rõ trình độ nghệ thuật bậc thầy của ông là tùy bút "Sông Đà".
"Sông Đà" được viết ở thể tùy bút. Tùy bút là bút kí ghi chép về người thật việc thật,
in đậm cảm xúc chủ quan của người viết và đậm chất trữ tình. Cách phóng bút bộc lộ cảm
xúc một cách tự do, phóng túng, biến hóa linh hoạt, ngơn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu,
nhiều cách so sánh liên tưởng. Tùy bút "Sông Đà" được viết năm 1958 trong thời kỳ miền
Bắc đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với mục đích kiếm tìm chất vàng trong thiên
nhiên và chất vàng mười qua thử lửa trong tâm hồn con người lao động, tùy bút là sự kết
tinh của nhiều truyện ngắn độc đáo. Và "người lái đị sơng Đà" là một trong số ấy.
"Người lái đị Sông Đà" được viết năm 1960. Với nội dung miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên
Tây Bắc và vẻ đẹp của người lao động Tây Bắc, hình ảnh con sơng Đà và người lái đị trên
sơng được tác giả tập trung khai thác.
Nội dung chính của tác phẩm "người lái đị sơng Đà" là hình tượng sơng Đà và hình
tượng người lái đị. Hình tượng sơng Đà nổi bật và xun suốt tác phẩm. Được miêu tả như
một nhân vật thực thụ trong trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo,
vừa trữ tình, có lai lịch rõ ràng. Ngay từ hai câu thơ đề từ, tác giả đã cho người đọc thấy
được điều đó. Tác giqr miêu tả sông Đà rất kĩ càng. Từ vách đá bờ sơng, đoạn ghềnh Hát
Lóng, hút nước sơng Đà, đá sơng Đà rồi đến cảnh sắc sông Đà ở nhiều phương diện cùng
với quang cảnh hai bên bờ sông. Tất cả những chi tiết liên tưởng ấy đã tạo nên nhân vật
Sơng Đà hung hãn nhưng trữ tình, hoang sơ lại thơ mộng. Một dịng sơng nham hiểm như
kẻ thù số một của con người nhưng lại đẹp như một bức tranh thủy mặc. Ngoài sự dữ dội
hung ác của cửa sông là cảnh đi thuyền hoang sơ thơ mộng mang nét cổ kính thiêng liêng.
Sơng Đà mang một vẻ đẹp của hồn thiêng sông núi mà thiên nhiên ban tặng.
Bên nền của hình tượng Sơng Đà là ơng lái đị Lai Châu. Ơng hiện lên là một con
người được tơi luyện qua lao động, đúng chất "vàng mười qua thử lửa". Là người từng trải,
hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đị, ơng hiện lên như một ngưịi anh hùng bản lĩnh cao


cường. Điều này được thể hiện rõ qua những đoạn văn miêu tả cuộc vượt thác của ông. Với


ba thạch trận của đá, của thác, của thiên nhiên sơng Đà hung hãn dữ tợn, ơng lái đị Lai
Châu vẫn bình tĩnh vượt qua và thành thục bẻ lái.
Cả hai hình tượng nổi bật của tác phẩm đều được miêu tả một cách cụ thể và chi tiết.
Nghệ thuật của tác phẩm này cũng đạt tới trình độ đỉnh cao. Không chỉ miêu tả, so sánh đơn
thuần, Nguyễn Tuân cịn sử dụng ngơn ngữ tạo hình, động từ mạnh, vận dụng tri thức điện
ảnh của mình để kể và tả hình tượng Sơng Đà. Cách sử dụng ngơn ngữ cũng chọn lọc mà
không đơn thuần chỉ là cảm hứng. Sự tinh tế và tài hoa trong miêu tả cũng là một lợi thế
trong các trang văn này. Đặc biệt là khi miêu tả những hòn đá, Nguyễn Tuân đã có sự liên
tưởng tưởng tượng phong phú khiến những hịn đá mang sinh khí, tư thế, dáng vẻ của con
người. Cách viết phóng túng, vốn ngơn ngữ giàu có, tài quan sát và trí tưởng tượng độc đáo
đã giúp tác giả thành cơng trong xây dựng hình tượng người lái đị trên sơng. Mang đến một
hơi thở mới cho văn học Việt.
Tóm lại, tác phẩm "Người lái đị Sơng Đà" là một tác phẩm hết sức độc đáo. Thiên tùy
bút này đã khẳng định phong cách và tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tn. Ơng
viết văn khơng chỉ bằng con mắt mà còn là trái tim và tâm hồn của người nghệ sĩ.


BÀI MẪU SỐ 2:
Nguyễn Tuân sinh năm 1910, trong một gia đình nhà Nho, quê ở làng Nhân Mục (làng
Mọc), huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ông học Trung học ở Nam Định, tham gia bãi khóa chống
thực dân Pháp rồi bỏ học. Nguyễn Tuân viết văn, làm báo sớm, nổi tiếng với loạt truyện
ngắn đăng trên các báo Tao Đàn, Tiểu thuyết thứ bảy và được đánh giá là cây bút tiêu biểu
cho văn xuôi lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 với tập truyện ngắn nổi tiếng
Vang bóng một thời, các tập Tùy bút I (1941), Tóc chị Hoài (1943), Tùy bút II (1943). Sau
Cách mạng tháng Tám, cùng với phẩn lớn văn nghệ sĩ, Nguyễn Tuân tham gia kháng chiến,
theo sát bộ đội trong các chiến dịch lên Tây Bắc, vào Quảng Trị… Nhiều tập tùy bút đã ra
đời, khẳng định sở trường của ông: Đường vui (1949), Tùy bút kháng chiến (1955). Trong

giai đoạn xây dựng xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ – ngụy, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, Nguyễn Tuân sáng tác tùy bút Sông Đà (1960) và Hà Nội ta đánh Mĩ
giỏi (1972).
Nguyễn Tuân có vốn văn hóa uyên bác, có tác phong làm việc rất nghiêm túc, viết gì
cũng nghiên cứu, điều tra kĩ lưỡng. Khi viết, ông thường chú trọng lời văn sao cho thật vừa
ý mình, thật mới, thật hay, có dấu ấn riêng rõ rệt, khơng thể lẫn với bất kì ai.
Người lái đị Sơng Đà trích trong tập tùy bút Sơng Đà, kết quả chuyến đi thực tế của
Nguyễn Tuân ở Tây Bắc năm 1958. Ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân
cầu đường và đồng bào các dân tộc từ Lai Châu về Sơn La. Thực tiễn xây dựng cuộc sống
mới sau 1954 và phong cảnh, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách của ông với một niềm
vui to lớn bao trùm tất cả, xen lẫn những xúc cảm trữ tình trước vẻ đẹp lạ lùng vồ hấp dẫn
của đất nước, con người Tây Bắc.

Tùy bút Người lái đị Sơng Đà lấy ơng lái đị làm nhân vật trung tâm của câu chuyện
về Sông Đà, nhưng thực chất là để biểu lộ cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và


sáng tạo của Nguyễn Tn. Mượn lời ơng lál đị nói về Sơng Đà nhưng chính là tác giả miêu
tả con sơng từ nhiều góc độ khác nhau, qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm mình đổi với con sông
tiêu biểu cho núi non, con người xứ Tây Bắc xa xôi. Với lối viết đặc sắc, độc đáo, Sông Đà
đã trở thành Sơng Đà – Nguyễn Tn. Đó là con sơng của đất nước có lịch sử chống ngoại
xâm, lịch sử cách mạng ; là con sơng trữ tình, anh hùng cà, tạo nên những con người anh
hùng, bình thường mà vĩ đại. Tất cả đều được vẽ nên bằng ngịi bút biến hóa tài tình thể hiện
sự gắn bó thiết tha, sâu đậm với đất nước của tác giả.
Xưa nay, đã có nhiều tác phẩm viết về Sơng Đà. Dân gian có truyện cổ tích về Thác
Bờ, có thành ngữ về ma thiêng nước độc: Nước Sông Đà, ma Tà Bú. Vua Lê Thái Tổ đi
đánh giặc Đèo Cát Hãn từ Lai Châu về qua Sông Đà đã có câu thơ : Đồn đại những ba trăm
thác dữ, Mà nay chỉ thấy một dịng xi, ý lấy Sơng Đà để nói chuyện dẹp giặc thành cơng.
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Quang Bích và các nhà văn trong
cuộc kháng chiến chống Pháp đều đã nói đến Sơng Đà.

Văn chương thế giới cũng có nhiều tác phẩm bất hủ tả vẻ đẹp của các dịng sơng. Văn
chương Trung Quốc đã sớm in vào trí nhớ nhiều thế hệ người Việt hình ảnh sơng Lang
Thương dịng trong dịng đục gắn với Khuất Ngun. Dịng sơng Hồng Hà như từ trời cao
rơi xuống trong thơ Lí Bạch. Bến sơng Trường Giang và cảnh dương liễu rủ bóng làm cho
khách qua sơng sầu đến chết lịng. Bến Tầm Dương với lau lách đìu hiu và cái khí lạnh của
sơng Dịch trước sự hi sinh hào hùng của tráng sĩ Kinh Kha. Trong văn chương Pháp còn
ngân vang giọng thác Niagara kéo dài qua thảo nguyên mênh mông trong đêm trăng thanh
vắng với lời văn đầy chất thơ của Satôbriăng. Sống Hằng hùng vĩ, linh thiêng được miêu tả
trong tác phẩm Mahabharata lại hiện ra hiền hịa, kì diệu ở thơ Tago. Sông Vônga, sông
Đơnhiép êm đềm, mở mộng trong văn Mácxim Gorki, Sơlơkhốp… Mỗi dịng sơng có một
vẻ đẹp riêng nhưng không con sông nào đặc biệt như Sông Đà của Nguyễn Tn.
Sơng Đà có nguồn gốc rõ ràng : Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đơng, tỉnh Vân Nam bên
Trung Quốc lấy tên là Li Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi đến nửa đường thì xin nhập quốc
tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hịa vào sơng Hồng.
Tác giả nói về dịng sơng mà như nói về con người : nào khai sinh, hào xin nhập quốc tịch,
nào trưởng thành… Ngơn ngữ học cho rằng đó là nhân hóa, kì thực nó là nghệ thuật hóa, coi
dịng sơng có đời sống, có tính cách, có cá tính vơ cùng độc đáo.
Ngồi các yếu tố địa lí, Sơng Đà cịn có các yếu tố lịch sử. Thời xưa, triều đình nhà
Trần lấy Sông Đà đặt tên cho một lộ là Đà Giang Lộ. Chính vì vậy trong Truyền kì mạn lục
của Nguyễn Dữ có truyện Đà Giang dạ ẩm mà bối cảnh là cuối đời Trần. Đà Giang Lộ là
vùng đất tính từ Hưng Hóa trở lên, bây giờ gọi là vùng Tây Bắc. Từ Lai Châu xi về Hịa
Bình, nối nhau bằng sợi dây thừng (chữ của Nguyễn Tuân) khổng lồ là Sơng Đà, nếu nhìn từ
trên máy bay xuống.


Sơng Đà cịn cố yếu tố cách mạng. Con sơng trước tiên là một nguồn sống. Miếng
nước, con cá, đường thủy, lưu vực phù sa, cơn gió mát mùa hè, nơi tụ họp đâu tiên để lập
nghiệp thành tộc này tộc nọ là ở ven các bờ sông. Nhiều nền văn minh bắt nguồn từ những
dịng sơng. Con sơng là trời sinh, nhưng con sông cũng do con người tạo nên bằng cơng sức
mình. Lịch sử dù biến thiên, Sơng Đà vẫn là của dân xứ Tây Bắc. Nó dữ, nó hiền là một

chuyện và con người vẫn ăn ở đời đời kiếp kiếp với nó. Khơng nói chuyện ngày xưa, chỉ
nhắc lại hồi Tây mới sang cướp nước ta, người dân xứ này đã cùng nhà yêu nước cần vương
Nguyễn Quang Bích (tuần phủ Hưng Hóa) chiến đấu đến cùng. Trong nhật kí hành qn
bằng thơ của ơng đã ghi lại bao nhiêu tên đất, tên nước thuộc vùng Sơng Đà. Tiếp theo đó là
thời thực dân Pháp cai trị cùng với bọn lang đạo, địa chủ gian tham, độc ác: Con sông bị
chúa đất từng vùng đem cắt ngang ra thành từng khúc nhỏ làm cho con sông ác thêm. Đế
quốc đóng đồn bốt ven sống, tính dữ ác của con sống lại càng tăng thêm mấy lần.
Tuy vậy, người dân Tây Bắc không chịu rời Sông Đà. Dù chưa nghe nói đến cách
mạng mà năm trăm thanh niên chèo đồn thuyền hàng trăm chiếc xi về Hà Nội chở thóc
lên Hịa Bình cho Tây đã khơng chịu được cảnh mưa trên nguồn giội xuống đầu, gió sống
táp vào mặt cùng những lời chửi mắng, roi vọt của bọn quan lính áp tải, nên vào một buổi
chiều Sơng Đà nổi sóng, cá Sơng Đà quẫy mạnh, họ nhất loạt rút cọc chèo, bơi chèo tiêu
diệt gọn cái trung đội áp giải ấy. Người lái đò Quỳnh Nhai kể như vậy, rồi tiếp : Bây giờ
thỉnh thoảng đi chở hàng mậu dịch cho chính phủ, vẫn gặp lại một số anh em cũ của cái đêm
mưa bão đi trốn khỏi bến Tà Bú ấy… Mười lăm năm đã qua đi trên Sông Đà, con Sông Đà
quê hương ngày nay đã khác trước rồi… Đoàn chuyên gia ta và chuyên gia bạn đi nghiên
cứu Sông Đà, để rồi trị con sóng dữ tợn này, bắt nó phải phục vụ cuộc sống Tây Bắc. Từ đó
tới nay đã trên hai mươi năm. Cơng trình thủy điện Hịa Bình đã xong. Con Sông Đà đã
được chặn lại để làm ra điện. Hồ chứa nước dài hàng trăm kilômet là khu du lịch, nơi ni
cá, là đường giao thơng thuận lợi, khơng cịn cảnh lên thác xuống ghềnh nguy hiểm mặc dù
vẫn rất hào hùng như thuở trước.
Năm 1958, nhìn thấy đồn chun gia nước bạn sang khảo sát Sông Đà, Nguyễn Tuân
đã nổi hứng muốn làm một cán bộ thông tin để ghé khắp các bến lớn bến nhỏ ở bờ bên phải,
ở bờ bên trái Sông Đà mà chuyển đi cái tin mới ngồn ngộn sức sống này. Niềm vui ấy
không riêng cho một ai mà cho tất cả nhân dân Tây Bắc, nhân dân cả nước. Nó hết sức lớn
lao vì nó mang rất nhiều ý nghĩa.
Người lái đị Sơng Đà tuyên bố: Chợ Bờ, cái biên giới thủy phận cuối cùng của đá thác
Sông Đà… Từ chợ Bờ xuôi dịng, hết ghềnh hết thác. Sơng Đà hình như hết cả đậm đà với
nhà đị. Như vậy, Sơng Đà đúng với cái danh của nó là từ chợ Bờ trở lên. Phải đúng ba trăm
cái thác đá mới là Sông Đà. Để làm chứng cho lời nói của mình và thêm chút mắm muối

cho câu chuyện đậm đà chất sống, người lái đị già bình thêm : Chạy thuyền trên khúc sông


khơng có thác, nó đến dại tay dại chân và buồn ngủ. Sông Đà đối với ông giống như một
trường thiên anh hùng ca.
Tạo được môi trường anh hùng ca phải là cái gì dữ dội, nguy hiểm cao độ, khắc phục
được phải là thiên tài, tối thiểu là tài ba hiếm có. Phải kiên trì, có khi liều xơng vào chỗ chết
để giành lấy sự sống và tất nhiên cuối cùng phải chiến thắng vẻ vang.
Sông Đà quả là một mơi trường như thế. Bản chất nó đã vậy, tài ba của nhà văn càng
làm cho bản chất ấy sắc nhọn thêm, dữ dội, nguy hiểm thêm bội phần. Cây cối, cỏ hoa hai
bên bờ, ánh sáng nhà cửa, làng bản ven sông là nằm trong cảnh quan của sơng, những cái đó
thường hiền hịa, tươi đẹp… Nhưng trước hết, chúng ta hãy nói đến những nét đặc trưng
nhất của Sơng Đà.
Cát là thứ bình thường nhất. Cát trên sơng có hại chăng là khi nó nổi lên thành bãi,
thành gị làm cho thuyền bị mắc cạn. Có mấy ai nghĩ rằng thứ hạt nham nhám ấy của Sông
Đà lại làm lt cả da, cịn lội nước thì đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà đục
thủng đáy và mạn dưới các thuyền gỗ. Như thế là cát dữ.
Bờ cũng chẳng hiền. Có nơi nó dựng vách thành, mặt sống chỗ ấy đúng ngọ mới thấy
mặt giời. Có chỗ vách đá thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu… Có quãng con nai,
con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa
hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy minh như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện…
Lời văn ở đoạn này gồm những chi tiết chính xác, khoa học xen lẫn cảm quan của tác
giả, tạo nên cảnh Sơng Đà khi thì dữ dội, nguy hiểm trong cái hùng vĩ khơng ngờ, khi thì
pha chút hóm hỉnh trong những nét rất hiện thực như con nai con hổ vọt từ bờ này sang bờ
kia, tưởng như lòng sống chỉ còn là cái dải yếm trong ca dao xưa.
Gió Sơng Đà cũng đáng sợ. Ở quãng ghềnh Hát Loóng là vương quốc của gió phối
hợp với nước, với đá, với sóng thành những chỗ xốy: nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xt, (nợ xt là nợ khơng
có cũng địi), mà khơng địi được thì cố bắt người lái đị và lật ngửa bụng thuyền ra.

Cát, vách đá, gió đều đáng sợ cả, nhưng khơng gì đáng sợ bằng cái hút nước. Chắc tên
gọi này không phải do tác giả đặt ra mà là của đồng bào sở tại, hoặc của những người lái đị
trên Sơng Đà. Nó là chỗ nước xốy, dịng nước đường chảy xi êm ả, bỗng dưng tới đó cứ
xốy trịn thành vịng rất đẹp rồi trũng xuống như cái lúm đồng tiền trên đôi má xinh xinh.
Ai ngờ đó là chỗ nguy hiểm nhất cho thuyền đi trên sông. Ban trưa thanh vắng ra sông, chỗ
bờ hõm thành vực, thấy những vịng xốy ấy, trẻ con người lớn đều sợ hãi bởi đã từng nghe
lời đồn đại mê tín rợn tóc gáy là chỗ đó Hà Bá và các vị thủy thần thường bắt người xuống
hầu hạ hoặc lấy gỗ xây cung điện dưới Thủy cung. Bất cứ vật gì lọt vào đó là chìm mất tăm.
Cái hút nước ở Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả hiện đại hơn : nó như cái giếng bê tông


thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đó ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào.
Tiếng nước ặc ặc ấy có lẽ chỉ Sơng Đà mới có. Cịn những bè gỗ rừng đi ngênh ngang vơ ý
là bị những cái giếng hút ấy nó lơi tuột xuống. Vừa đáng sợ vừa buồn cười là chi tiết thuyền
mà lạc vào đó thì thuyền giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm
dưới lịng sơng đến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỳnh sông dưới.
Cái đáng sợ nhất của Sông Đà chưa phải là những cái hút nước mà là đá và thác. Thác
và đá bày thành Thạch Trận, hay nói đúng hơn là Thạch Thủy Trận. Nguyễn Tuân có dụng ý
trình bày một thứ trận chiến như kiểu Bát trận đồ theo binh pháp Tôn Ngô mà Khổng Minh
sáng tạo lại, cố nhiên có pha chút hiện đại. Khơng có Long Xà Trận nhưng có Thạch Trận.
Thạch Trận cũng đủ cửa tử, cửa sinh. Tuy không đủ Bát Trận nhưng cũng có trận trước trận
sau, trận trên, trận dưới, nhiều lớp nhiều tuyến, có tiên phong, có dự bị… Khơng có các
tướng trấn cửa như Ngụy Diên, Mã Siêu, Quang Hưng, Trương Bào… nhưng có những
tướng đá và quân nước. Đá thì ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng… có chiếc
thuyền nào xuất hiện… là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy… Mặt hòn đá nào trơng
cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm, méo mó… Tưởng chừng như chúng nằm ngồi
rải rác tùy tiện, nhưng hình như sơng đã giao việc cho mỗi hịn, sơng bày Thạch Trận.
Đá được “phân cơng” hẳn hoi, chia làm ba hàng chặn ngang trên sơng. Hai hịn đá
canh một cửa đá giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương vào tận tuyến giữa rồi nước sóng
luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu thuyền không chịu chìm mà cứ tiến lên thì một

thế trận khác lại đã bày sẵn. Tướng đá ở đây oai phong lẫm liệt. Một tướng đá như đang hất
hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một tướng đá khác lùi tại một
chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Nhưng các tuyến của Thạch Trận đều
lần lượt bị chọc thủng. Các cửa tử đều chẳng nhử được thuyền. Cuối cùng, cái thằng đá
tướng đứng chắn ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng. Tưởng đâu như sắp bị
khép vào trọng tội trong binh pháp: quân thua chém tướng. Đây là một chi tiết cực kì thú vị.
Hết đá đến nước. Nước vốn êm dịu nhưng khi kết hợp với đá, với gió thì nó trở nên
hung dữ. Nước Sơng Đà là như vậy. Tính từ Chợ Bờ trở ngược, chỉ lắng nghe tiếng kêu đủ
kiểu của nước cũng đã thấy ghê : Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng
nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên… Lúc nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin,
rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi, nó rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa. Tới giữa thác thì một đằng
đá chặn, một đằng sóng luồng thuyền mà đánh vu hồi, đồng thời reo hò làm thanh viện. Có
lúc nó reo như đun sối lên một trăm độ muốn hất cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp
ấm, một ấm nước sôi khổng lồ. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút:
nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào. Tiếng nước đã sợ, sức nước cịn đáng sợ hơn. Mặt
sơng cũng có ổ gà : Đi vào ổ gà sơng là thuyền bị giật xuống, bị dồi lên. Chỗ thác, mặt sơng
chia thành nhiều luồng: Có luồng đi lầm vào thì chết ngay, có luồng đi vào đúng luồng rồi


nhưng mà khơng trúng tim luồng thì vẫn có thể là thập tử nhất sinh như thường, ở những
chỗ khác, nước có thể đội thuyền lên, bám lấy thuyền như đơ vật túm thắt lưng lái đị địi lật
ngửa ơng lái cho phơi bụng giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Dưới ngịi bút tài hoa,
phóng khống của Nguyễn Tuân, nước Sông Đà đã trở thành võ sĩ thực thụ. Nó đánh đến
miếng địn hiểm độc nhất: bóp chặt hạ bộ người lái đị… Bây giờ thì nó là con ngựa bất
kham đang tế mạnh trên sông đá. Ơng lái nắm chặt lấy được cái bờm sóng… ghì cương
lái… phóng nhanh vào cửa sinh. Nước đành chịu thua nhưng đến chỗ cái hút, nó rình sẵn,
thuyền nào lơ mơ là nó rút ln tận đáy, chết khơng kịp ngáp. Chẳng khác gì dân gian đồn
Hà Bá lên lấy gỗ.
Sông Đà dữ quả không sai với tiếng đồn. Cát dữ, bờ dữ, gió dữ, hút nước dữ, tập trung

cái dữ là những Thạch Trận, đá và nước hùa nhau bẫy người lái đò vào chỗ chết. Tác giả đã
dùng ngịi bút trăm màu và cặp mắt thiên lí nhãn của mình để đưa ra hàng loạt những hình
ảnh khác nhau nhưng ln ln đắc địa, vừa có tính trí tuệ vừa có chất tạo hình, vượt xa thủ
pháp mà ta quen gọi là nhân hóa để đi vào bản chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, trở
thành những trang viết biến hóa khơn lường. Đá dưới sông mà được tác giả miêu tả như là
dân quân phục kích, là bộ đội giăng hàng bày trận, là tướng giữ cửa tử cửa sinh trong trận
đồ Khổng Minh, là tướng trên sân khấu tuồng, là tướng thua trận trên chiến trường.,. Nước
mà khi thì là tiếng kêu tâm trạng, khi thì là tiếng reo hị của quần chúng, khi thì là đơ vật,
khi là lực sĩ đội thuyền, khi thì là Hà Bá hút người xuống đáy… Do đó mà cái dữ của Sơng
Đà lại càng dữ, càng trở nên mơi trường anh hùng ca hồn tồn độc đáo.
Cảnh Sông Đà vừa dữ dội vừa hùng vĩ. Cái hút nước rất nguy hiểm và đáng sợ, vậy
mà nhà văn tưởng tượng là cứ chui xuống đáy nước rồi tia máy quay phim ngược lên cái
mặt giếng mà thành giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve một áng thủy tinh khối đúc
dày… thì nó lại trở thành cảnh đẹp và lạ có một khơng hai. Từ trên máy bay nhìn xuống,
Sơng Đà giống như cái dây thừng ngoằn ngo chứ khơng ai nghĩ rằng nó đã bao đời làm
mình làm mẩy với người dân Tây Bắc. Có lúc lại thấy Sơng Đà như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xn. Màu nước Sơng Đà rất đẹp : Mùa xn dịng
xanh ngọc bích, chứ không xanh màu xanh canh hến của Sống Gâm, Sống Lơ. Mùa thu
nước Sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa…
Nguyễn Tuân viết về Sơng Đà bằng ngịi bút dạt dào cảm xúc. Tác giả nhận xét: Con
Sơng Đà gợi cảm. Có lần ơng nhìn nó như một cố nhân lâu ngày mới gặp lại. Sông Đà xuất
hiện đột ngột sau một chỗ ngoặt khỏi núi thành một vệt loang loáng màu nắng tháng ba
Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” (thơ Lí Bạch trong bài Tại lầu Hồng
Hạc, tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng), ơi, cái nắng giịn tan trên sơng lấp lống vừa
khói vừa nước mới đẹp đẽ, ấm áp làm sao ! Bạn thơ của Lí Bạch ra đi vào giữa mùa hoa
khói ấy có thấy rộn lên trong lịng chất men xn hay khơng thì chưa rõ; nhưng ở đoạn văn


này thì Nguyễn Tuân như đang đắm mình vào đám hội xuân của chuồn chuồn, bươm bướm,

của nắng giòn tan trên sông, của cá dầm xanh vọt lên mặt nước như bạc rơi thoi, của đàn
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm, của cả những nương ngô mới nhú lên mấy
lá ngô non đầu mùa, của Sông Đà thơ mộng trước con mắt của thi sĩ Tản Đà : Dải Sông Đà
bọt nước lênh đênh, Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình…Sơng nước, bến bờ tịnh khơng một
bóng người : Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bỗng dưng, tác giả thèm nghe một
tiếng cịi síplê (tiếng Pháp: sifflet là còi) của một chuyến xe lửa Yên Bái – Lai Châu để cho
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa trở màu thành hiện đại, cho cảm nghĩ đủ hai chiều kim cổ. Cuối
đoạn văn trữ tình này lại là một khoảng khơng gian khống đạt của dịng nước hiền hòa
đang nhớ các bạn thác ghềnh ; của giọng người miền xi thống nhẹ, êm êm ; của những
cánh buồm mở rộng tha hồ đón gió bốn phương trên những con thuyền mình nở chứ khơng
phải là thuyền then đuôi én, khiến cho cảm xúc của cả người viết lẫn người đọc cứ tràn ra
mênh mang, bất tận. Sông Đà dữ dội nhưng Sông Đà cũng rất trữ tình.
Trở lại với nhân vật chính là người lái đị Sơng Đà. Ơng sinh ra và lớn lên bên bờ Sơng
Đà, uống nước Sơng Đà từ thuở cịn để chỏm, chắc chắn ông cũng đã từng hằng trăm lần
ngụp lặn trong dịng sơng. Sau mười năm lên ngược xuống xi, cầm lái bao phen đi về từ
Lai Châu xuống tận Hà Nội, thử hỏi có bến nào, thác nào, luồng nào mà ông không thuộc ?!
Mà con Sông Đà này sức cải hóa cửa nó là ghê gớm, quyết liệt có một khơng hai. Cái phép
của sơng là sắt đá số một, cho nên ở ơng lái đị này có cái gì mà khơng in đậm dấu ấn của
con sơng, khơng là sản phẩm của Sơng Đà?
Từ hình dáng bên ngồi : Tay ơng lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng
khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng
nước trước mặt ghềnh sơng, nhỡn giới ơng vịi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa
nào đó trong sương mù. Cuộc sống sơng nước đã rèn luyện cho ơng một thân hình to và gọn
qnh như chất sừng chất mun. Cái nghề lái đò đã khiến tất thảy những người lái đị Sơng
Đà chỉ khỏe có đơi tay cịn chân rất yếu, chạy rất kém. Cử chỉ của ơng lái đị này cũng đều
theo dáng lái thuyền, khi ngắt lời người khác, ông nhanh như một tay lái rẽ ngang sống miết
theo luồng thác bắt chéo.
Cái dữ dội của Sơng Đà có các ơng lái đị trị được. Chiến thắng ấy là một nét đẹp : con
người chiến thắng thiên nhiên. Ngay trong khi miêu tả cái dữ dội, tác giả vẫn thỉnh thoảng
pha một chút vui vui, nghịch nghịch để làm cho cái cứng rắn, hiểm trở của thiên nhiên mềm

đi ít nhiều.
Làm nghề lái đị, ơng lái hiểu rõ cấu tạo của thuyền, đị. Tại sao con thuyền Tây Bắc
mình thon chứ khơng nở ? Phải là thuyền then đi én thì mới lách qua được các cửa luồng
đá ép lại còn rất hẹp. Cả chuyện cái buồm cũng vậy. Lái đị Sơng Đà ở thượng nguồn thì cần
sào chống, chèo bơi, cần nữa thì thêm dây kéo, ít khi dùng buồm, về dưới xi, nếu cần
buồm thì can hai cây sào lại thành cột buồm và căng cái mui ra làm buồm mà treo lên. Có


điều chân trời Tây Bắc và Sông Đà thường là vướng núi, cái buồm di động trên lườn núi
vốn không phải là hình ảnh quen mắt của người dân hai bờ sơng Tây Bắc. Ơng lái đị thuộc
Sơng Đà như thuộc lịng bàn tay. Sơng Đà đối với ơng chỉ có ý vị đậm đà từ Chợ Bờ trở
ngược, về xuôi, hết thác, hết đá, lái thuyền dễ dại tay dại chân và buồn ngủ. Sông Đà chỗ
nào vách đá dựng đứng như thành cao vút, khép sông lại chỉ cịn như cái eo; chỗ nào gió,
sóng, đá kết hợp với nhau thành khúc nhạc rợn người; chỗ nào có những hút nước là cạm
bẫy kinh khủng cho thuyền bè. Đặc biệt là luồng lạch, thác đá, bao nhiêu thác, ở đâu thác
liên tiếp giăng hàng, bày trận, luồng nào sinh luồng nào tử, tìm luồng ở đâu, lên thác ra sao,
xuống thác thế nào… ơng lái đị biết hết. Không phải tự nhiên mà ông hiểu biết và thành
thạo như vậy. Phải rèn luyện, rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng
đanh vào lòng. Cái nghề lái đò này thật vất vả, người cứ dựng đứng lên mà luôn tay luôn
chân luôn mắt luôn gân và luôn tim nữa. Lên ngược phải kéo thuyền thì ngực vú, bà vai
người lái đị chống sào hay bầm lên một khoanh củ nâu, nó là vết nghề nghiệp của đầu con
sào gửi lại đời đời cho người lái đị Sơng Đà như một thứ hn chương lao động Sông Đà
ban tặng cho họ. Lên thác vất vả nhưng còn tránh được nguy hiểm chứ chẳng như xuống
thác: Xuống thác, người lái đị Sơng Đà linh hoạt và luôn luôn cơ động mà phối hợp đôi
mắt, đôi tay, đôi chân, thần chết chỉ đến với những tay lái, kém cả tính phối hợp và tính ứng
phó linh hoạt đó.
Đời người lái đị Sơng Đà là một cuộc đời chiến đấu thực thụ. Cứ nghe ơng lái đị thuật
một chuyến xuống thác thì đủ biết. Lúc đó, Sơng Đà là kẻ thù số một. Nhìn nó, có lúc thấy
nó khơng “thơ đời Đường” nhàn hạ mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh… để giành sự
sống từ tay nó về tay mình. Người lái đị khi nào thì đè lên đầu luồng mà tiến, khi nào thì

tóm lấy bờm sóng mà vượt, vững tay lái ra sao khi chung quanh tiếng sóng nước reo hị
vang lừng để thanh viện… Hỗn chiến với đá với nước đến cật lực, hết hơi, tưởng như rã rời
vậy mà qua xong thác, khi sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ… Cũng chả ai bàn thêm một
lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đã tưởng dơ qn tợn vừa rồi. Hết thác,
sơng nước lại thanh bình thì lịng ơng lái đị cũng bình n. Chiến đấu gay go vô kể nhưng
vẫn là chuyện thường ngày, không có gì đáng hồi hộp đáng nhớ. Sơng Đà đối với ơng lái đị,
quả là một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm câu và những
đoạn xuống dịng. Bản thân ơng cũng sống một đời sống hào hùng, có điều sự hào hùng ấy
là chuyện hằng ngày nên ơng coi chẳng có gì đặc biệt, ông đã ép con người ông vào trong
khuôn khổ của Sông Đà và Sông Đà đã rèn ông theo mẫu của mình. Khơng có cái gì thuộc
về Sơng Đà mà ơng lái đị khơng biết. Ngược lại, khơng có cái gì ở ơng lái đị mà khơng
mang hình ảnh Sông Đà.
Đọc văn Nguyễn Tuân nhất là tùy bút, có người cho rằng như soi trong kính thiên sắc,
chỉ mấy màu mà lắc bên này thì một thế giới màu, lắc bên kia lại là một thế giới màu khác.


Ngịi bút Nguyễn Tn khơng chỉ bảy màu mà trăm màu. Nếu người đọc chịu khó chú ý đến
từng câu từng chữ thì sẽ nhận thấy giá trị cơng sức mà tác giả đã bỏ ra e thường là “đến bạc
tóc” như người xưa từng nói.
Từ ngữ của Nguyễn Tuân phong phú, tìm tịi, sáng tạo, câu cú đơi khi rắc rối nhưng
vẫn rất Việt Nam. Hình ảnh ví von ln bất ngờ, độc đáo mà vẫn chính xác. Các chi tiết của
tùy bút Người lái đị Sơng Đà đã hay, chỉnh thể của bài văn càng cho thấy sự hiểu biết khoa
học đến cặn kẽ, cảm xúc riêng giàu chất sống và bao trùm lên tất cả là một tấm lòng yêu
thương con người, đất nước, yêu cái gian khổ đã vượt qua như một bản hùng ca, nên càng
quý khao khát, ước mong một tương lai tươi sáng, hạnh phúc.


BÀI MẪU SỐ 3:
Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt
được sự cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái

mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù
biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tơi rất Nguyễn Tn : tài hoa,
un bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đị Sơng
Đà rút trong tập tuỳ bút Sông Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn
Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân
ngày càng giàu thêm chất kí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí,
lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngịi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình
tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút
khơng chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật : người lái đò và con sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác,
mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp.
Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình".
Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là "kẻ thù số một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại
đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì
mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến. Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng
nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm
xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về
đèo cao, dốc thẳm, về gió, vể bão, về thác nước dữ dội, nếu khơng phải là về vẻ đẹp tuyệt
vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo,
về hoa thuỷ tiên nở đúng đẻm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành
nghiêng nước của nàng Kiều,...
Về tính cách hung bạo của con sơng Đà thì từ xa xưa ơng cha ta đã diễn tả bằng biểu
tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh : "Núi cao sơng hãy cịn dài - Năm năm báo ốn đời đời đánh
ghen". Nguyễn Tn thì khơng thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những
bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người
đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ
nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo
hố. Chẳng hạn, ơng dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai
vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ

nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điên". Và đây nữa, ông tả cái hút nước
ghê gớm "giống như cái giếng bê tông thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở
đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xốy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ


những cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vơ ý là những cái giếng hút ấy
nó lơi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối
ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác
ở khuỷnh sông dưới".
Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển
sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ
nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia
cả người lẫn máy thu hình : "Cái thuyên xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái
máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây tồn bằng nước
sơng xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả
máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lịng giếng tít
đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như
ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái
gậy đánh phèn". Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức
kì khu, kì quái do cái động lực bướng bỉnh : không chịu lùi bước trước Tạo hố. Dưới ngịi
bút Nguyễn Tn, con sơng Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm
gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ : "tiếng nước réo gần mãi lại réo to
mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại nhừ là van xin, rồi lại như là khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Con thuỷ qi khơng chỉ hung
hãn. Nổ cịn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ơng lái đị, nó đã trổ ra đủ mưu ma
chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẩn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt
sơng thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón
hiểm ác : địn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ

bộ,... Vừa đánh vừa hị la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,... Nhưng vượt
qua được con thác dữ thì sơng nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn Tn gọi thế
là tính cách trữ tình của con sơng Đà.
Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó "tn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao
khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xn bay trên sơng Đà. Nước sông Đà cũng thay
đổi theo mùa : mùa xn là dịng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt
người say rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ồng thấy "lai
láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước". Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khoẻ,
từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyền Tuân chuyển sang những đường nét thanh
thoát, dịu dàng thơ mộng. Ọuả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngơn ngữ
thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xi : ấy là cái mà ông gọi là "màu


nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"" - thống hiện lên trên sóng
nước sơng Đà ; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trơi xi như nhớ
thương những hịn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như
nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi "một người tình nhân chưa quen
biết" - "Dải sơng Đà bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường
đậm đà màu sắc cổ điển : "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình
như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi
trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngơ non đầu mùa. Mà tịnh khơng một bóng người,
cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiên sử. Bờ sơng hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa. Chao ơi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe
lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung
khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tơi lừ lừ trơi trên một mũi đị. Hươu vểnh tai, nhìn tơi
khơng chớp mắt mà như hỏi tơi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành : "Hỡi ơng khách
Sơng Đà, có phải ơng cũng vừa nghe thấy một tiếng cịi sương ?". Có thể gọi đấy là những

dịng thơ văn xi của nhà tuỳ bút. 2. Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ
tình" ấy hiện lên lừng lững hình tượng người lái đị sơng Đà. Thực ra ơng lái này chủ yếu
xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sơng Đà.
Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn
ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối dầu với
con sơng dữ, với một lồi thuỷ qi, ơng lái đị nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên
cường - một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác... Nói đến nhân vật
của Nguyễn Tn, khơng thể không lưu ý đến cách tiếp cận riêng của ông đối với con
người. Ấy là cách tiếp cận từ phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ở Nguyễn Tuân khái niệm này có
một nghĩa rất rộng : khơng chỉ thu hẹp ở những người làm nghệ thuật như thi sĩ, hoạ sĩ hay
đào nương, kép hát,... mà gồm bất cứ ai đã đẩy được cái cơng việc mình thường làm lên đến
độ caọ siêu, trác việt, dù công việc ấy chỉ là uống trà, ăn phở, giã giò, giã cốm, thậm chí
cơng việc của tên đao phủ chém đầu người... Ở đây, ơng lái đị cũng được tiếp cận như vậy.
Đúng là ơng lái đị của Nguyễn Tn. Lái đị như thế thì khơng cịn là chuyện nghề nghiệp
thơng thường nữa mà đã sang hẳn phạm trù của nghệ thuật, nghệ sĩ - nói như tác giả - là "tay
lái ra hoa". Tất cả nghệ thuật của ơng lái đị là nắm chắc "quy luật tất yếu của dịng nước
sơng Đà". Làm chủ được quy luật thì có nghĩa là đạt tới tự do và nghệ thuật. Có điều đây là
một quy luật hết sức khắc nghiệt. Chỉ một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh,
lố mắt lơ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Để làm nổi bật tài nghệ của ơng lái
đị, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông ta như là một viên tướng ngày
xưa tiến vào một trận đồ bát quái được bố trí sẵn với rất nhiều cạm bẫy giăng ra hết vòng


này đến vịng khác, mỗi vịng đều có những "viên tướng đá" nham hiểm, quái ác chờ sần và
quyết tiêu diệt bằng được đối phương của mình. Ở đây Nguyễn Tuân lại phải vận dụng đến
những hiểu biết về khoa học quân sự và về võ thuật để diễn tả : nào là đòn dương, đòn âm,
đá trái, thúc gối, phục kích, vu hồi,... Nào là tuyến một, tuyến hai, cửa sinh, cửa tử,... Chỉ là
chuyện một ơng lái đị và một cái thác nước mà Nguyễn Tuân đã viết được những trang thật
hấp dẫn mà người đọc cứ như được nhìn thẳng vào những thước phim quay cận cảnh, đặc tả
với bao tình huống hồi hộp,... Viết được những trang như thế, phải có một trí tưởng tượng

phong phú lắm, phải có một kho chữ nghĩa giàu có lắm và phải có một vốn tri thức thuộc
nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật khác nhau. Nguyễn Tuân thường đã say một cái gì thì
muốn quan sát, mơ tả nó từ mọi mặt, mọi phía, nói cho đến sơn cùng thuỷ tận, dường như
khơng mn cho ai nói thêm được gì nữa. Con người này chủ trương uống rượu phải uống
cả cấn (dĩ tận vi độ), văn của ông cũng muốn như thế. Và ơng lái đị đã hiện lên như Nguyễn
Tuân mong muốn : một con người tài hoa trí dũng tuyệt vời đã đánh bại được cái thác nước
hung dữ nham hiểm, phá hết vòng vây này đến vòng vây khác "cưỡi lên con thác", "nắm
chặt lấy bờm sóng", "phóng nhanh", "lái xiết", "đè sấn lên" luồng sóng này, "chặt đơi" luồng
sóng khác, tránh cửa tử, lao thẳng vào cửa sinh, vượt qua trùng trùng ải đá "Vút vút cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước"
để cuối cùng thốt hẳn ra ngồi con thác dữ.
Qua bài tuỳ bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ơng lái đị, Nguyễn Tn
muốn nói với người đọc rằng : chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay
trong cuộc sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh
áo. Và trí dũng tài ba khơng phải tìm ở đâu đâu, mà ở ngay những người dân lao động bình
thường kia. Cuộc đời của ổng lái đị vơ danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một
thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời.



×