Ư
VĂN MẪU LỚP 12: VỢ NHẶT - KIM LÂN
TỔNG HỢP CÁC BÀI PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO CỦA TÁC
PHẨM VỢ NHẶT- KIM LÂN
BÀI MẪU SỐ 1:
Năm 1945 đã trở thành dấu ấn lịch sử không thể phai mờ đối với mỗi con người Việt Nam,
thời điểm đó khơng chỉ đánh dấu sự huy hoàng của thắng lợi Việt Nam đánh đổ phát xít,
thực dân và lật đổ chế độ phong kiến 1000 năm. Đưa nước ta trở thành một nước tự do dân
chủ. Đó cịn là giai đoạn ghi nhận những đau thương mất mát của dân tộc ta dưới họa xâm
lăng. Sự bóc lột dã man tàn bạo của bọn phát xít thực dân và bọn phong kiến tay sai đã đẩy
hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trong hồn cảnh ấy nhà văn Kim Lân đã dựng lên một
tình huống nhặt được vợ. Tình huống ấy vừa để tố cáo tội ác của bọn bóc lột, vừa thể hiện
niềm cảm thông với nỗi đau khổ của con người, vừa bày tỏ niềm tin vào con người:” dù
cuộc sống có đau khổ đến đâu, nhưng con người vẫn thể hiện niềm yêu thương đùm bọc lẫn
nhau vẫn không nguôi về khát vọng hạnh phúc, vẫn hướng đến một tương lai tươi sáng”. Đó
chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Trước hết ta phải hiểu giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản trong tác phẩm văn học trân
chính, nó được tạo nên bởi tình u thương của con người, niềm cảm thơng sâu sắc với nỗi
khổ của con người, sự nâng niu trân trọng những nét đẹp của con người hơn thế còn là lịng
tin khả năng vươn dậy của nó.
Tác phẩm “ vợ nhặt” đã bộ lộ được niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi đát cú
người dân nghèo trong nạn đói. Nạn đói được vi như một trận đại hồng thủy có sức tàn phá
dữ dội. Những dãy phố úp sụp tối om :” những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”,
“ khơng khí vẩn lên mùi ẩm mốc thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người” và đặc
biệt hơn là âm thanh của tiếng quạ gào thê thiết. Bằng những hình ảnh đau thương của nạn
đói, tác giả đã tố cáo được tội ác của bọn thực dân phát xít cùng bọn phong khiến tay sai.
Chúng đã dồn người dân đến mức đường cùng của cuộc sống, làm cho bao người chết trong
cảnh đói rách..
Tác phẩm cịn đi sâu khám phá nâng niu trân trọng khát vọng sống và khát vọng hạnh
phúc của con người. Tràng luôn khao khát hanh phúc, ẩn sau hình ảnh người đàn ơng thơ
kệch chỉ biết làm lụng kia là con người cũng khao khát yêu thương. Trong hồn cảnh kéo xe
thóc mà anh vẫn bng lời trêu đùa để làm cho cuộc sống thêm tươi vui, anh đùa có ai đẩy
xe cùng thì mời bữa cơm xơi giị. Tưởng chỉ là lời trêu đùa vui vơ mà có cơ ra đẩy cùng, sau
một hồi ăn 2 chập bánh đúc thì người đàn bà ấy theo về làm vợ. Anh cũng nghĩ đến cái đói
đang khủng khiếp kia liệu mình có vượt qua được khơng mà cịn thêm cơ vợ, nhưng anh
“chậc kệ”. Niềm khao khát hạnh phúc khiến anh vượt qua cái đói cái chết sắp tới. Trên
đường về nhà khn mặt anh vui lạ thường.Thậm chí Kim Lân cịn đẩy tình huống truyện
đến đỉnh điểm khi miêu tả sự ngạc nhiên của Tràng. Bản thân anh cũng khơng ngờ rằng việc
lên vợ lên chồng của mình lại dễ dàng đến thế, chỉ có bốn bát bánh đúc mà thành vợ thành
chồng. Cho nên khi dẫn vợ về nhà, nhìn thất vợ giữa nhà Tràng vẫn khơng khỏi ngỡ ngàng.
Đến bây giờ hắn cịn ngờ ngợ khơng phải” ra hắn đã có vợ rồi đấy ư…”. Đến sáng hơm sau
nhìn thấy ngơi nhà đã lâu nay đã được thu dọn sạch sẽ bởi bàn tay người vợ. Hắn khơng hết
bàng hồng ngạc nhiên việc hắn đã có vợ đến hôm nay hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải.
Điều đó cịn được thể hiện ở ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ thể hiện ngay ở nhân vật
người vợ nhặt. Chỉ có một câu tầm phơ tầm phào mà cô chấp nhận theo không người đàn
ông xa lạ ấy để làm vợ, cô bỏ qua cả ý thức về danh dự và nhân phẩm của bản thân mình.
Khơng chỉ vậy mà Kim Lân cịn đi sâu vào ý thức vun đắp cho cuộc sống gia đình của
từng nhân vật. Với Tràng thì anh đã nhận ra được trách nhiệm và bổn phận của mình với hai
người phụ nữ trong gia đình. Cịn nhân vật thị thì thì hơm sau đã hồn tồn thay đổi trở nên
hiền hậu, đúng mực “ nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu gọ sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ địa vẫn vắt khươm, mươi niên ở góc nhà đã thấy đem
ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống
rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Đó là sự thay đổi ngỡ ngàng của thị và quang
cảnh nhà sáng hơm sau. Cịn bà cụ Tứ thì tạo thêm niềm tin cho các con về những dự định
trong tương lai, việc nuôi gà, khuyên dăn con ai giàu ba họ ai khó ba đời, có ăn lên làm ra
thì con cái sau này mới sung sướng. Và cuối cùng có lẽ tình thương bà dành cho đứ con trai
và con dâu được thể hiện rõ nhất ở hình ảnh bát cháo cám. Người mẹ già khơng có gì trong
hồn cảnh này, bà lật đật chạy xuống bếp với khuôn mặt vui tươi bê nồi cháp cám lên ăn.
Kim Lân đã thắp lên cho gia đình bà cụ Tứ niềm tin hy vọng vào sự đổi mới.Trong bóng
tối đau thương tấm lòng cao đẹp của người mẹ vẫn tỏa sáng. Dẫu biết rằng việc lấy vợ lấy
chồng là việc không nên diễn ra vào lúc đói khát như lúc này nhưng bà cụ Tứ vẫn vui vẻ
chấp nhận “ thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lịng”. Kim Lân đã
khéo tìm cho người mẹ già đau khổ ấy một câu nói ẩn chứa sự từng trải của người già, sự
bao dung của người mẹ và quan niệm đẹp đẽ của người Việt Nam :”dù có đắng cay cực khổ
như thế nào vẫn mừng lịng đón nhận con người, ln ln trân trọng con người”. Vì vậy
lúc nhìn lại người vợ nhặt bà khơng thấy cô ta xa lạ nữa mà đã trở thành người thân thuộc:”
bà lão nhìn người đàn bà lịng đầy thương xót nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”. Trái
tim người mẹ mở rộng đón nhận người phụ nữ xa lạ, đón nhận người ấy là con, là người
thân, là con dâu. Bà cịn ni dưỡng niềm tin hy vọng cho những đứa con :” biết thế nào hả
con? Ai giàu ba họ , ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau…”. Bà an ủi con dâu
:”kể có ra làm dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chả ai người ta chấp
chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hịa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy.
Chúng mày lấy nhau lúc này u thương q”. Câu nói tân tình và bao dung của người mẹ đã
làm vơi đi bao tủi cực bẽ bàng của người vợ nhặt. Chỉ một câu nói ấy thơi cũng đủ làm cho
người phụ nữ Tràng nhặt về có thể ngẩng cao đầu bước vào ngôi nhà này với tư cách là một
người vợ, một người con dâu. Kim Lân không đã thắp lên niềm tin bằng hình ảnh lá cờ đỏ
sao vàng trong suy nghĩ của Tràng và hình ảnh người dân đi phá kho thóc của Nhật.
Nếu như trong tác phẩm “Chí phèo”,” Lão hạc” nhân vật chính muốn giữ được nhân phẩm
thì phải chết, cái chết đau đớn nhưng làm lòng họ cảm thấy thanh thản hơn. Hay chị Dậu
trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố cùng quẫn bởi sưu cao thuế nặng phải bán sữa mình cho
ơng cụ già 80 tuổi và cái kết là chị chạy ra ngồi trời tối khơng biết sẽ ra sao…những tác
phẩm viết trước cách mạng tháng 8 thường chưa tìm thấy lối thốt cho nhân vật của mình.
Khơng những vật Kim Lân đã thể hiện được niềm tin sâu sắc vào phẩm giá, lòng nhân hậu
của con người. Nhân vật Tràng chỉ là một thanh niên làm thuê nuôi mẹ,nhưng sẵn sàng bỏ
tiền cho người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Anh độ lượng, bao dung hào phóng và rất chu
đáo với mẹ già. Anh sống ln có tình nghĩa có trách nhiệm. Niềm tin ấy cịn được thể hiện
ở người vợ nhặt, sự biến đổi từ khi bước vào nhà. Nếu lúc trước người đàn bà này chua chát,
chỏm lỏm thì giờ lại hiền hậu cư xử đúng mực lễ phép. Lúc mới gặp bà cụ Tứ thì chào hỏi, e
thẹn. Sáng hơm sau thì đảm đang dọn dẹp nhà cửa. Đặc biệt trong bữa cơm sáng, mặc dù là
bát cháo cám nhưng cô vẫn và vào miệng mặc dù mắt hơi nheo, bởi cô không lỡ làm mất đi
niềm vui của người mẹ già khốn khổ kia. Có lẽ thể hiện sâu sắc niềm tin vào cuộc sống phải
được thơng qua bà cụ Tứ. Bà hết lịng u thương con cháu, hết mực cảm thông với nàng
dâu trong hồn cảnh này. Khơng những thế bà cịn trăn trở những tháng ngày tiếp theo đứa
con trai và con dâu bà sẽ sống ra sao. Những vượt lên hoàn cảnh ở trước mắt bà vẫn luôn
tạo niềm vui trong gia đình bằng những lời khuyên dăn.
Bằng cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người dân sau cách mạng tháng Tám, Kim Lân đã
vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết đầy bi thương của những năm tháng
này. Qua đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc góp phần tạo nên thành cơng trong tác phẩm.
Từ đó ta thấy được chiều sâu so với các tác phẩm văn học hiện thực trước đó
BÀI MẪU SỐ 2:
“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt Nam
sau năm 1975. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện “Vợ nhặt” có giá
trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Thông qua tình huống “nhặt vợ” tác giả đã cho ta
thấy nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói năm 1945
cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm rất cao ở họ.
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên
bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những
nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng trỗi dậy ở họ.
Trước hết tác phẩm bộc lộ niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo
trong nạn đói năm 1945. Qua đó tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã
gây ra nạn đói. Bối cảnh chính của truyện “vợ nhặt” diễn ra ở một xóm ngụ cư, ở đó cái đói
đang hành hạ mọi người, cái đói thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật. Con đường từ trong
xóm chợ vào trong bến thì “khẳng khiu”, cái thứ ánh sáng đầu tiên hắt vào truyện là thứ ánh
sáng nhập nhoạng mù mờ, không ra ánh sáng mà cũng không ra tối hẳn của buổi chiều tà
“chạng vạng”. Trên con đường và thứ ánh sáng leo lét ấy hiện lên vật vờ ủ rũ những bóng
người đói “xanh xám như những bóng ma”. Người sống nằm ngổn ngang khắp lều chợ,
ngay cạnh là những “cái thây nằm cịng queo bên đường”. Trên ngọn cây là hình ảnh bầy
quạ “cứ gào lên từng hồi thê thiết”, văng vẳng bên tai là tiếng trống thúc thuế dồn dập,
những đứa trẻ thì ngồi ở xó đường, khơng buồn nhúc nhích…một cuộc sống mấp mé bên bờ
cái chết với cái khơng khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
Thứ hai, tác phẩm đi sâu khám phá và trân trọng nâng niu khát vọng hạnh phúc, khát vọng
sống của con người, trước hết là Tràng. Khi nhặt được vợ về Tràng không phải không biết
“chợn”, “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng lại cịn đèo bong”.
Nhưng rồi anh ta “tặc lưỡi”: “Chậc, Kệ!”. Sau tiếng đó mọi sự đùa cợt lập tức khép lại
nhường chỗ cho sự nghiêm trang và anh ta đã được đền bù: “Trong một lúc Tràng hình như
quên hết những cảnh sống ê chề […], một cái gì đó mới mẻ, lạ lẫm chưa từng thấy ở người
đàn ơng nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt
nhẹ trên sống lưng”. Cuộc đời cùng khốn đến mức việc mua có hai hào dầu cũng là cái gì đó
hoang phí lắm “hai hào đấy, đắt quá”, “vợ mới vợ miếc thì cũng phải cho nó sáng sủa một tí
chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã súc ngay vào”. Hôm nay là một ngày khác hẳn, một sự kiện của
đời Tràng, ngày Tràng có vợ và nhà cần phải sáng.
Tiếp đó là ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật người vợ nhặt. Thị chấp nhận bỏ
qua ý thức về danh dự để theo khơng Tràng. Như vậy hồn cảnh bi đát một mặt đẩy con
người vào chỗ quên cả danh dự để tồn tại, mặt khác nó lại làm bộc lộ lòng ham sống mãnh
liệt của những con người ở dưới đáy xã hội như thị. Tất cả mọi người đều có ý thức vun đắp
cho cuộc sống mới. Ngẫm nghĩ về nhân vật bà cụ Tứ ta cịn thấy hóa ra chính bà lão gần đất
xa trời này lại là người nói đến hy vọng đến ngày mai nhiều hơn tất cả: từ việc đan cái phên
ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con cho kín đáo, truyện “khi nào có tiền ta mua lấy đôi
gà”… “Mẹ chồng nàng dâu thu dọn cửa nhà, sáng hôm sau thị dậy từ sớm quét dọn nhà cửa
cho ngăn nắp, gọn gàng” hình như ai nấy đều nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà cho quang quẻ,
nền nếp thì cuộc đời họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Qua tác phẩm ta còn
thấy niềm hy vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật được thể hiện qua hình ảnh lá cờ
đỏ bay phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng.
Giá trị nhân đạo của truyện còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào lòng
nhân hậu của con người. Tràng tuy có vẻ bề ngồi xấu xí nhưng cái đẹp tiềm ẩn bên trong
của Tràng đó là sự cảm thơng, lịng thương người, sự hào phóng chu đáo, Tràng đãi thị bốn
bát bánh đúc, mua một chai dầu và mua cho thị một cái thúng con, đó là hành động rất bình
thường nhưng nó thể hiện tình nghĩa và thái độ trách nhiệm của Tràng. Cịn về người “vợ
nhặt” thì đã có sự biến đổi về tính cách, trước khi về làm vợ Tràng, thi hiện lên với một vẻ
chao chat, chỏng lỏn. Trước câu hị của Tràng thị cong cớn nói “có khối cơm trắng mấy giò
đấy”, lần thứ hai gặp Tràng thị sưng sỉa nói: “Điêu! Người thế mà điêu”…Nhưng người đàn
bà ấy sau khi về làm vợ Tràng đã thay đổi, vẻ chao chat chỏng lỏn ban đầu biến mất, thay
vào đó là sự hiền hậu đúng mực, sự ý tứ trong cách cư xử: Thị đi theo Tràng với dáng điệu
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, khi về đến nhà
thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Sáng hôm sau dậy từ sớm quét dọn nhà cửa…. Còn về
bà cụ Tứ, bà thương con hết mực, cảm thơng cho tình cảnh của nàng dâu mới “có gặp bước
khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”, bà ân
cần trong cách hành động với con dâu “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân”. Bà luôn trăn trở về nghĩa vụ làm mẹ của mình “chao ơi, người ta dựng vợ gả chồng
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi…cịn mình thì”, trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ
xuống hai dịng nước mắt. Bà ln cố tạo niềm vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm.
Người mẹ ấy sống vì con và tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong sự chăm lo vun vén cho
con.
Nổi bật nhất trong giá trị nhân đạo của tác phẩm đó là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người
lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo của tác
phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn
học hiện thực trước cách mạng.
BÀI MẪU SỐ 3:
Nạn đói năm 1945 đã trở thành những ngày tháng tăm tối nhất của lịch sử Việt Nam. Từ
Trung Kì đến Bắc Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Giữa những ngày tăm tối ấy, "vợ
nhặt" của Kim Lân như thổi làn gió mát, đem hi vọng vào tương lai tươi sáng cho người đọc
bằng giá trị nhân đạo sâu sắc.
Giá trị nhân đạo nổi bật nhất chính là sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa người với người
trong hoàn cảnh tăm tối bên bờ vực của cái chết. Hoàn cảnh tang thương lúc bấy giờ được
Kim Lân miêu tả rất chi tiết. Người "xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp
lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng
không gặp ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của
rác rưởi và mùi gây của xác người".
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, anh cu Tràng có vợ. Đây cũng là một giá trị nhân
đạo của tác phẩm. Anh cu Tràng là một người nghèo, xấu trai lại có tật vừa đi vừa lẩm bẩm.
Anh là người hội tụ đầy đủ yếu tố ế vợ. Nhưng ngòi bút nhân đạo của Kim Lân đã khơng để
cho anh một mình. Nhà văn đã cho anh có một người vợ một cách dễ dàng. Chỉ bằng bốn
bát bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào, anh có vợ. Tràng và Thị đã làm cho người dân
xóm ngụ cư dường như tươi mới thêm. "Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng
rạng rỡ hẳn lên". Tràng và Thị như chiếc đèn le lói hi vọng cho mọi người vào tương lai.
Điểm nhấn giữa Tràng và Thị chính là khoảnh khắc Thị nhìn thấy ngơi nhà"vắng teo, đứng
rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Thị đã biết tình cảnh khơng khác
gì mình của Tràng. Nhưng Thị khơng chạy trốn. Nếu lúc trước, Thị trốn cái đói cái khát để
theo khơng Tràng về làm vợ thì giờ đây Thị đã không chạy trốn. Hay Tràng dù lúc đầu cũng
"chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng lại cịn đèo
bịng" . Nhưng sau cái chậc kệ, anh đã đưa Thị về nhà. Chính cái khát vọng hạnh phúc, khát
vọng có một tổ ấm đã làm tăng tính nhân đạo cho tác phẩm. Mặc dù đang sống liền kề bên
bờ vực của cái chết nhưng họ vẫn không muốn chết mà vẫn muốn sống hạnh phúc.
Câu chuyện gợi ý tương lai của bà cụ Tứ cũng thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm. Trong
lúc dặn dò con chuyện làm ăn. Bà vẽ ra khung cảnh tương lai tươi đẹp trước mắt các con.
"Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời
cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày
về sau". Rồi trong bữa cơm đầu có dâu, bà lại vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với
con dâu. Bà nói tồn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này". "Khi nào có tiền ta
mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này
ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…". Những hi vọng đẹp đẽ về
tương lai đã chút nào đó làm bừng sáng cả căn nhà của Tràng. "Chưa bao giờ trong nhà này
mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế". Bà cụ Tứ còn đối xử với con dâu rất tốt. Bà thương
con dâu: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Bà hạ giọng xuống thân
mật: "chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…"
Vốn sinh ra từ một miền quê, Kim Lân rất hiểu đời sống của người dân. Viết "Vợ nhặt", tác
giả đã đặt nhân vật của mình vào tình huống độc đáo, ối oăm, bi hài, nhân vật đã cảm
thông, chia sẻ đồng điệu cùng nhân vật để cất lên bài ca nhân bản mạnh mẽ thiết tha về khát
vọng cuộc đời. Con người dù có nghèo khổ đến đâu họ vẫn có quyền mơ ước một mái ấm
gia đình hạnh phúc. Có lẽ truyện hấp dẫn người đọc qua nhiều thế hệ nhờ vào giá trị nhân
đạo sâu sắc ấy.
BÀI MẪU SỐ 4:
1. Giới thiệu ngắn về tác giả, tác phẩm:
– Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt Nam
sau 1945. Truyện được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
– Vợ nhặt có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Thơng qua tình huống “nhặt vợ”
ngồ ngộ mà đầy thương tâm, tác giả đã cho ta thấy được nhiều điều về cuộc sống tối tăm
của những người lao động trong nạn đói 1945 cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức
về nhân phẩm rất cao của họ.
2. Giải thích khái niệm:
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên
bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những
nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của nó.
3. Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm với các biểu hiện chính:
a) Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa, thương cảm đối với cuộc sống bi đát của người dân nghèo
trong nạn đói, qua đó tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phát xít đối với nhân dân ta
(điểm qua các chi tiết miêu tả xóm ngụ cư trong nạn đói: những xác người cịng queo, tiếng
quạ gào thê thiết, tiếng hờ khóc trong đêm, mùi xác chết gây gây, những khuôn mặt u ám,
những dáng ngồi ủ rũ, những nỗi lo âu…).
b) Tác phẩm đi sâu khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống
của con người. Cần làm rõ:
– Những khao khát hạnh phúc của Tràng (cái “tặc lưỡi” có phần liều lĩnh, cảm giác mới mẻ
“mơn man khắp da thịt”, những sắc thái khác nhau của tiếng cười, sự “tiêu hoang” (mua hai
hào dầu thắp), cảm giác êm ái lửng lơ sau đêm tân hôn…).
– ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật “vợ nhặt” (chấp nhận “theo không” Tràng,
bỏ qua ý thức về danh dự).
– ý thức vun đắp cho cuộc sống ở các nhân vật (bà cụ Tứ bàn về việc đan phên ngăn phịng,
việc ni gà; mẹ chồng, nàng dâu thu dọn cửa nhà quang quẻ…).
– Niềm hy vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật (hình ảnh lá cờ đỏ vấn vương trong
tâm trí Tràng…).
c) Tác phẩm thể hiện lòng tin sâu sắc vào phẩm giá, vào lòng nhân hậu của con người. Cần
làm rõ:
– Cái đẹp tiềm ẩn của Tràng: sự thông cảm, lịng thương người, sự hào phóng, chu đáo (đãi
người đàn bà bốn bát bánh đúc, mua cho chị ta cái thúng con, cùng chị đánh một bữa thật no
nê), tình nghĩa và thái độ trách nhiệm…
– Sự biến đổi của người “vợ nhặt” sau khi theo Tràng về nhà: vẻ chao chát, chỏng lỏn ban
đầu biến mất, thay vào đó là sự hiền hậu, đúng mực, sự mau mắn trong việc làm, sự ý tứ
trong cách cư xử…
– Tấm lòng nhân hậu của bà cụ Tứ: thương con rất mực, cảm thơng với tình cảnh của nàng
dâu, trăn trở về bổn phận làm mẹ, cố tạo niềm vui trong gia đình giữa cảnh sống thê thảm….
4. Đánh giá chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm:
Điểm đáng nói nhất về giá trị nhân đạo của tác phẩm này là niềm tin tưởng sâu sắc vào con
người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo ở
đây rõ ràng có nét mới mẻ so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm của
văn học hiện thực trước cách mạng.
BÀI MẪU SỐ 5:
I. MỞ BÀI
Giới thiệu chung về truyện ngắn Vợ nhặt và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm
II. THÂN BÀI
1. Nạn đói khủng khiếp năm 1945
Trong truyện đã diễn tả với tất cả niềm xót thương thông cảm của tác giả về cảnh bi thảm
của quần chúng lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
a) Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư
Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau lên, xám
lại như những bóng ma. Buổi sáng nào cũng có vài người chết cịng queo bên đường, toả
mùi gây gây của xác chết.
Toàn bộ câu truyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy: Cảnh xóm ngụ
cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm.
b) Tình cảnh của gia đình Tràng
- Tràng: nghèo, khơng lấy nổi vợ.
- Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo khơng về làm vợ, khơng có cưới cheo gì.
- Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám).
2. Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ
Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng : mái ấm gia
đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ, sáng lên
niềm tin hy vọng của họ.
a) Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ và ý nghĩa
- Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện tầm phào đến lúc xem đó là truyện nghiêm
chỉnh của đời mình (Dẫn và phân lích những lời nói, hàng động của Tràng khi mới gặp
người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà).
b) Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hồnh hành
- Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mảnh vườn trong buổi sáng hôm sau.
- Sự biến đổi trong tâm trạng của Tràng, của người vợ nhặt.
- Ý nghĩa và thái độ của bà cụ Tứ, nỗi xót xa, thương cảm và niềm hy vọng cùa người mẹ
- Niềm hi vọng của họ về sự đổi thay số phận hướng về cuộc cách mạng
3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm
- Một tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và sức
sống bền bỉ của họ.
- Niềm tin của tác giả đặt vào những khát vọng bình dị mà chân chính những con người
vẫn muốn sống, vẫn khát khao tình thương và sự gắn bó, việc nương tựa vào nhau đã cho họ
niềm tin để sống.
- Chủ nghĩa nhân đạo của tác phẩm dựa trên sự am hiểu sâu sắc, gắn với đời sống người
nông dân của Kim Lân. Tác giả khơng tơ vẽ, lí tưởng các nhân vật của mình.
III. Kết bài
- Tóm tắt các ý chính trong hai đoạn A, B.
- Mở rộng đến thời đại ngày nay
BÀI MẪU SỐ 6:
"Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu
Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng,
người chết đói đầy đường.
Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của
người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách
mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo.
Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói
năm Ất Dậu – 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân. Cảm
hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.
1. Truyện "Vợ nhặt" đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo
trong trận đói năm Ất Dậu. Đồn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ
lượt bồng bế dắt díu nhau lên "xanh xám như những bóng ma" nằm ngổn ngang khắp các
lều chợ. Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên "như những đám mây đen" trên nền
trời. Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào
cũng ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường !
Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai ! Mẹ con Tràng, cái nhà "vắng teo đứng rúm ró" trên mảnh
vườn đầy cỏ dại. Cửa nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên
giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng "nén một tiếng thở dài".
Bà cụ Tứ "mặt bủng beo u ám". Anh cu Tràng "bước mệt mỏi", cái đầu "trọc nhẵn chúi về
đàng trước" với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ
đây chúng nó "ngồi ủ rũ dưới những xó đường khơng buồn nhúc nhích". Trước nhà kho trên
tỉnh có mấy chị con gái "ngồi vêu ra". Đặc biệt nhân vật "thị", cái đói đã cướp đi tất cả.
Khơng họ tên, tuổi tác, khơng gia đình, anh em. Khơng quê hương bản quán. Hình hài tiều
tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần "tả tơi như tổ đỉa". Thị "gầy sọp hẳn đi", khn mặt lưỡi
cày "xám xịt", chỉ cịn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết
đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chỉ nghe Tràng nói "muốn ăn gì thì ăn", thấy anh ta vỗ
vỗ vào túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hốy" của thị tức thì "sáng lên". Tình tiết
thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trơng có vẻ thơ lỗ, nhưng không đáng chê, trái
lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được
sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.
Cái xóm ngụ cư càng về chiều "càng xơ xác, heo hút", nhà cửa "úp súp, tối om", những
khuôn mặt "hốc hác u tối". Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám.
Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể "nhặt" được. Thị lấy chồng khơng
một quả cau, khơng một lá trầu, chẳng có "quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo
buồng cau". Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới "khép nép", "cúi mặt xuống
tay vân vê tà áo đã rách bợt". Tối tân hồn "tiếng khóc tỉ tê" của những gia đình có người
mới chết đói vọng đến thê thiết não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng
hồi "dồn dập, vội vã". Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện
tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói
đang hồnh hành. Đáng q hơn nữa, ơng đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo
vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp bắt trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến
tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
2. Truyện "Vợ nhặt" đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người.
Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và những tình tiết
xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu "tầm phơ tầm phào", Tràng đãi thị 4 bát bánh
đúc thế mà hắn nhặt được vợ ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: "Chặc, kệ !". Hắn
nghĩ thóc gạo này ni thân cịn khó, lại còn "đèo bòng". Trên đường dẫn vợ mới nhặt được
về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ
cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng
"phởn phơ khác thường". Hắn "tủm tỉm cười nụ". Hai mắt "sáng lên lấp lánh". Có lúc cái
mặt hắn "cứ vênh lên tự đắc với mình".
Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông "hay đáo để". Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì
hì, bị thị "phát đánh đét" vào lưng với câu mắng yêu: "Khỉ gió". Tràng nghển cổ thổi tắt
phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ !". Những tình tiết ấy rất
hay nói lên tình u mạnh hơn cái chết.
Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn
hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và
thương minh, bà nhận nàng dâu mới: "Ừ thơi thì các con đã phải dun phải kiếp với nhau,
u cũng mừng lịng". Tình thương của bà mênh mơng, bà nghĩ "Người ta có gặp bước khó
khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…". Bà dịu
dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: "Năm
nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…". Qua đó, ta càng hiểu sâu
hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai họa, họ đã dựa vào nhau, san sẻ
tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với
niềm tin và hi vọng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…". Người đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng
đục" chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh
phúc ấm no.
Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong
truyện "Vợ nhặt". Bà cụ Tứ gọi là "chè khoán… ngon đáo để". Bà tự hào nói với hai con là
"xóm ta khối nhà cịn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói tồn chuyện vui,
chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vơ cùng "đầm ấm hịa hợp" hạnh
phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành
hơn, nhưng họ khơng bao giờ có thể qn được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo
cám "đắng chát" mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần
gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ơng đã làm cho những thế hệ
mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái
tình thương của lịng mẹ,… mà khơng một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày ?
3. Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân
cay Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: "Chồng vợ
hài". Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy "có một cái gì lạ lùng và tươi mát
thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ". Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà
như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở thành người đàn bà "hiền
hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy "êm ái lửng
lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn "vẫn ngỡ
ngàng như khơng phải".
Sự đổi đời cịn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại
nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống
rác mùn tung hồnh ngay lối đi đã được hót sach. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng
muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ khơng nghĩ đến cái chết mà hướng
về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã "nên người", hắn thấy hắn
có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này !
Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái
Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho
người đói. Cịn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới". Cách mạng sắp
đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện "Vợ nhặt" không chỉ tô đậm giá trị
nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai
ấm no, hạnh phúc.
Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân
trọng biết bao ! Cổ kim đơng tây đã có ai nhặt được vợ ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra
đã cướp đi tất cả, tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm
khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và
tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện "Vợ nhặt" mà ta trân trọng.
Nguồn sưu tầm.
BÀI MẪU SỐ 7:
1/ Nhà văn Kim Lân (sinh năm 1920), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, người làng Phù
Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân viết không nhiều, nhưng được
coi là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông
rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội này cộng với một tấm
lịng thiết tha hiếm có đã tạo nên những trang viết sâu sắc, cảm động nhất của ông.
Con người có một đời văn hóa khá dài ấy (trên năm mươi năm) khơng hiểu kĩ tính thế nào
mới trình làng vẻn vẹn có hai tập truyện ngắn: Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí
(1962). Nhưng nghệ thuật không quen đo đếm ở số lượng. Chỉ một truyện như Vợ nhặt (rút
từ tập Con chó xấu xí) – vốn được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân – cũng có
thể là niềm mơ ước của nhiều người cầm bút. Thiên truyện có một q trình sáng tác khá
dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì
trước Cách mạng). Hồ bình lập lại, do đơn đặt hàng của báo Văn nghệ, Kim Lân mới viết
lại. Riêng điều đó thơi đã thấy Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu
dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
2/ Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của
mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói
quay quắt, trong bất kì hồn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về
cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai.
Không phải ngẫu nhiên. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói.
Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người xứ Việt về
một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước
này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ.
Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người năm
đói và khơng gian năm đói. Ơng đặc tả chân dung người năm đói “khn mặt hốc hác u tối”,
nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ơng so sánh người với ma: “Những gia đình từ những
vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như
những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu
so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời
mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi âm
nhồ vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế
giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với
“mùi gây của xác người” càng tơ đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết
sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân
đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo. Chao ơi, tồn những chuyện cười ra nước mắt: bốn
bát bánh đúc ngày đói mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn…
Ngịi bút khắc khổ của Kim Lân khơng né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo cho
thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm, tăm tối và phải nói là có phần
nghiệt ngã.
Nhưng quan tâm chính của nhà văn khơng phải là dựng lên một bản cáo trạng trong Vợ nhặt
, mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong bóng tối của hồn cảnh Kim Lân muốn tỏa
sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một
phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ
nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong văn chương người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài khơng
đạt đến một mức nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm
lòng thiết tha của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau
đó là tài dẫn truyện.
Tài dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã
bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả lời phỏng vấn, Kim Lân hào hứng giải
thích:”nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động
dường như khó ai thốt khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hồn
cảnh ấy, giá trị một con người thật vơ cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có
mấy bát bánh đúc ngồi chợ – đúng là “nhặt” được vợ như tơi nói trong truyện”. Như vậy
thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện cịn có một
mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân
ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều
lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và
chính bản thân Tràng nữa: “đến bây giờ hắn vẫn cịn ngờ ngợ như khơng phải thế. Ra hắn đã
có vợ rồi đấy ư?”. Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lịng người: trạng thái
chơng chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có, như khơng. Đây là niềm vui hay
buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện
ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.
Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngịi pháo. Có lửa
tốt, châm đúng ngịi nhưng dây pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên
tài dựng truyện, phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện
của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn
áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được “bứng” ra từ chính cái chất
liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực tâm lí. Phải
nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lí
cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là
hai kiểu phản ứng tâm lí trước một tình thế như nhau, song không ai giống ai.
Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, có ai ngờ lại là một chàng trai thực sự hạnh phúc. Nhưng
hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng. Cơn say hạnh phúc thăng
hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất trọng lượng, lơ lửng trong cõi ảo, cõi mơ. Ngòi bút
thực của Kim Lân từng tỉnh thế, bây giờ ngịi bút trữ tình của ơng cũng sao mà say thế. Nói
đúng hơn, nhà văn phải đứng giữa cái say / tỉnh ấy mới “cảm thụ” tới tận đáy cuộc đời, mới
tạo ra được những áng “thần bút” như văn Kim Lân trong “Vợ nhặt”. Rồi cái ngỡ ngàng
trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui
về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao khơng gì sánh nổi. Chẳng thế
mà một người nổi tiếng như Secnưsepxki từng mơ ước: “Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp
nếu biết rằng trong một căn phịng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi
tơi về bữa ăn tối”. Chàng thanh niên nghèo khó của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm
vui như thế: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn
đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa
che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui
thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân may
mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn trong tay Tràng.Còn Thị Nở mới
chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắc của
Kim Lân: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu
sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm”
này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách
của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.
Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức
bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng
cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
Bình luận truyện Vợ nhặt, khơng hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim Lân mà nhiều
người hay bỏ qua. Đó là câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ
bay phấp phới…”. Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung
cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã
hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là
điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 khơng nhìn thấy được. Số
phận con người trong văn học hiện thực đồng nghĩa với bế tắc. Nền văn học mới sau Cách
mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác,
lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
Q trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui
làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng rễ trẻ tuổi đang tràn
trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc
ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.
Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng trước
một cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu được. Cô gái
xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ
được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở
trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao
lại chào mình bằng u? Khơng phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế
nào nhỉ?”. Trái tim người mẹ có con trai vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân
lại để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút “kịch” trong
ngòi bút Kim Lân chăng? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là
nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy
cảm đó.
Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì bà cụ Tứ, sự vận động tâm lý phức tạp
hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là
nỗi niềm xót xa, lo, thương lẫn lộn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao:
“… chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này khơng?”. Trong chữ “chúng
nó” người mẹ đã đi từ lịng thương con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp
nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng
nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một
nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Tác
giả xốy vào dịng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông
lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con…, để cuối
cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau lúc này,
u thương quá…” Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm
động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe
người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ
“ngon”này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó khơng phải là xúc cảm về vật chất, (xúc
cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con
biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình
cho cái chất người: trong bất kỳ hồn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt,
con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi
vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm
vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.
Thành công của nhà văn là thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lí khá tinh tế
của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh
thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc
đáo và cảm động của tác phẩm.
3/ Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi
tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Oxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven
Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được
nữa”. Vợ nhặt là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ đã “biết sống” như con
người ngay giữa thời túng đói quay quắt.
Thơng điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc với cách
dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến
tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
BÀI MẪU SỐ 8:
Văn học bất cứ thời đại nào cũng muốn tồn tại và đứng vững trước thử thách khắc nghiệt
của thời gian, thì đều phải bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cho cuộc sống. Văn học nước
ta thời kì 1930 – 1945 cịn để lại nhiều giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mà lớp lớp các
nhà văn tạo nên chất liệu cuộc sống đầy biến động. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
chính là một tác phẩm trong giai đoạn văn học ấy mang giá trị nhân đạo sâu sắc từ bối cảnh
của một nỗi đau dân tộc – nạn dói khủng khiếp năm Ất Dậu. Giá trị nhân đạo ấy qua ngòi
bút tài hoa, kĩ lưỡng cả đầy tâm huyết của nhà văn Kim Lân được hiện ra thật xúc động và
sâu sắc.
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn thể hiện trong tác phẩm của mình khơng chỉ tốt lên từ sự
cảm thông của nhà văn với nỗi đau khổ của những con người trong cơn khốn khổ mà còn
hiện ra ở tấm lòng, phát hiện những khát khao cao đẹp, những tình cảm đáng quý giữa con
người với con người.
Thực ra khi viết hồn chỉnh truyện ngắn “Vợ nhặt”, thì Kim Lân đã trải qua nạn đói một
thời gian. Tác phẩm được viết ra từ sự rút gọn tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” và hơn thế còn
được nhà văn sửa chữa kĩ lưỡng. Bởi thế đó là tác phẩm được chọn lọc từ sự chiêm nghiệm
của bản thân, sự nghiền ngẫm suy nghĩ trong một quá trình. Do vậy, giá trị của tác phẩm
càng được nâng cao bởi những gì sâu sắc mà nó chứa đựng.
Truyện được viết trong bối cảnh là một thảm họa của dân tộc. Với tư cách là một con
người đã từng trải qua nỗi đau ấy, Kim Lân đã làm hiện lên nỗi đau của bao kiếp người
khổn khổ khác bằng sự cảm thông sâu sắc. Dựng lên một bối cảnh rất thực, thực đến phũ
phàng bằng những nét vẽ ghê rợn, Kim Lân đã ghi ấn tượng sâu sắc trong người đọc nhiều
thế hệ tiếp theo. Khơng khí của nạn đói bao trùm khắp nơi từ con đường dẫn vào xóm chợ
khẳng khiu vơ hồn và cũng dường như kiệt sức vì đói, rồi mùi vẩn lên trong khơng khí là
mùi gây của rác ẩm và xác người, mùi đốt đống rấm của những nhà có người chết. Âm
thanh rùng rợn bao trùm cả thiên truyện là tiếng tỉ tê hờ khóc thật ảm đạm và thật ghê rợn.
Tác giả đã đẩy cái ghê rợn ấy lên tới tột cùng khi mà để cho những hình ảnh về người sống
nằm sát ngay hình ảnh về những cái thây nằm cịng queo ngồi lều chợ, hai bên đường.
Dường như ở nơi đây tử khí đang lan tràn khắp nơi, ranh rới giữa cái chết và sự sống thật
mong manh. Sự sống luôn mấp mé bên bờ cái chết. Bởi thế, tác giả đã hai lần ví người sống
mà lại “xanh xám như những bóng ma”.
Bối cảnh năm đói được Kim Lân làm hiện ra với tất cả cái ghê rợn tột cùng của nó. Những
bối cảnh ấy lại được dựng lên bằng một ngòi bút tài năng không chỉ là một bản cáo trạng về
tội ác của xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, mà còn là nơi để tác giả gửi gắm bao cảm
thông với số phận con người. Và hơn hết, điều này thực sự quan trọng, đó chính là từ bối
cảnh nghiệt ngã ấy, tác giả đã phát hiện và viết nên bài ca khơng ngã lịng của những con
người tưởng chừng như đều tuyệt vọng.
Điều đặc sắc nhất trong nghệ thuật viết truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là tình
huống truyện đặc sắc. Tình huống truyện thể hiện trước tiên ở cách đặt nhan đề của tác
phẩm “nhặt”, theo như chính Kim Lân giải thích đó là một hành động nhặt nhạnh, vu vơ
một cái gì ít giá trị. Đối tượng của hành động nhặt thường là một đồ vật. Vậy mà “Vợ” lại
được đặt vào vị trí một đồ vật ít giá trị đó. Tạo nên cái mâu thuẫn đó, tác giải đã thể hiện nỗi
xót thương cho cái giá trị con người. Chỉ trong một bối cảnh đen tối dường kia thì con người
mới trở nên mỏng manh và đáng thương như vậy. từ nhan đề của tác phẩm, ta không hề
nhận thấy một sự mỉa mai hài hước nào của tác giả mà lại tốt lên ở đó một nỗi niềm thương
xót cho kiếp phận con người trong nạn đói, sự trớ trêu của số phận. Chính là “Vợ nhặt”
khơng phải là “Nhặt vợ” nên mới càng xót xa. “ Nhặt vợ” chỉ là một hành động nhất thời,
cịn “Vợ nhặt” thì lại trở thành một loại vợ chỉ tồn tại trong cái hoàn cảnh khốn cùng ấy.
Tình huống truyện cịn thể hiện qua việc nhặt vợ kia trong một bối cảnh xót xa thê thảm.
Thường thì người ta lấy vợ lấy chồng trong gia cảnh khá giả. Người xưa có câu:
“Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay”
Vậy mà ở đây, Tràng – nhân vật của truyện đã lấy vợ vào cái bối cảnh khổ đau và thê thảm.
Việc lấy vợ này cũng đâu có giống lẽ thường, không phải là lấy vợ mà nhặt vợ. Nhưng dựng
lên tình huống nhặt vợ như vậy, Kim Lân đã thể hiện được biết bao điều cao đẹp trong tấm
lòng của ông dành cho con người.
Tấm lòng nhân đạo của Kim Lân đã giúp biến những việc nhìn bề ngồi tưởng chỉ là xót
xa, trớ trêu thành khát khao cao đẹp của những con người đau khổ.
Tràng – một nhân vật vừa xấu trai, lại nghèo hèn, việc làm bấp bênh, có chút khơng bình
thường. Cái dáng ngật ngưỡng ngay từ đầu tác phẩm đã toát lên tất cả sự đáng thương của
con người. Với con người tưởng chừng việc kiếm tìm hạnh phúc chỉ là vơ vọng thì Kim Lân
đã dựng lên tình huống nhặt vợ rất đúng nghĩa của từ ấy đối với Tràng. Bởi lẽ nó rất dễ
dàng, buông ra vài từ vu vơ, và đãi một người đàn bà bốn bát bánh đúc, sau một tiếng
“chậc” đầy liều lĩnh, Tràng đã có vợ, y như một anh chàng tốt số đào hoa. Nhưng thực ra
sâu xa hơn, Kim Lân đã nói lên cái số kiếp nhỏ bé của một con người như Tràng, vì chỉ có
cái hồn cảnh khốn cùng, Tràng mới lấy được vợ, mới có vợ. Đối tượng của động từ “ nhặt”
kia lại là một phụ nữ nghèo khổ. Cả một con số không to tướng bao trùm lên chị: khơng gia
đình, khơng tên tuổi, khơng tiền, khơng sắc. Người đàn bà gày gị xấu xí ấy lại cịn “chao
chát” “chỏng lỏn”. Chịu theo không về làm vợ người đàn ông xa lạ, điều ấy làm sao có thể
giải thích? Đó trước tiên chỉ có thể là sự chạy trốn cái đói, nhưng sâu xa hơn, Kim Lân đã
phát hiện khát khao rất người, rất cao đẹp ở hai con người ấy. Đó là hi vọng, khát khao có
một cuộc sống gia đình. Người phụ nữ ấy dù có đanh đá, chao chát, chỏng lỏn đi chăng nữa,
hồn tồn khơng phải vì xấu xa, mà chỉ vì đói. Tấm lòng nhân đạo cao cả của Kim Lâm đã
phát hiện ra điều này để vượt qua sự khinh bỉ đến bến bờ của cảm thông và yêu thương.
Hai con người đến với nhau bởi khát khao hạnh phúc gia đình. Đó là một khát khao đáng
được trân trọng.
Cuộc hơn nhân này được nhìn một cách khá tồn diện từ đôi mắt từng trải và nhân hậu của
bà cụ Tứ - mẹ Tràng. Sau bao nỗi niềm buồn vui lẫn lộn, lo lắng cho các con trong cơn bĩ
cực thì tất cả còn lại là quan niệm “người sống hơn đống của” của dân tộc Việt Nam. Bà đã
nhen lên niềm hi vọng cho con cháu bằng nỗi lòng bao dung.
Những con người đó đã đến với nhau để làm nên một gia đình. Khát khao sống trong tình
thương ln là khát khao bất diệt của con người tạo cho con người sức mạnh để bước qua
ranh giới đói khát và cái chết. Thực sự là trên đời này đã khơng có con đường cùng.
Trong buổi sáng, sau hơn lễ đặc biệt ấy một khung cảnh rạng rỡ đến với mỗi con người,
dù xung quanh cịn rập rờn bóng dáng của cái chết. Điều quan trọng hơn là sự thay đổi trong
tâm hồn của mỗi con người. Họ đã được sống đúng là một con người.
Kim Lân đã phát hiện ra khao khát của những con người cùng khốn, trân trọng và làm cho
nó trở nên thiêng liêng. Hình ảnh một gia đình, tuy vẫn phải chịu cái đắng chát của miếng
cám, nhưng bù lại là hình ảnh của lá cờ sao vàng đã kịp gieo mầm hi vọng cho những cảnh
đời khốn cùng kia.
“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Cả cái tài và cái tâm đã làm nên một tác phẩm có giá
trị của Kim Lân.
Nhà văn Nga Nicolai trong “Thép đã tôi thế đấy” đã viết: “Hãy biết sống cả khi cuộc đời
đã trở nên không thể sống được nữa”. Tấm lòng nhân đạo của Kim Lân đã cảm thông và
trân trọng những khát khao sống cháy bỏng của con người để thắp lên ngọn nến của tình u
thương giữa bóng tối bao trùm của số phận và cuộc sống khắc nghiệt. Tình cảm nhân đạo
lớn lao của nhà văn đã làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Chính nhờ giá trị
nhân đạo này mà tác phẩm sẽ còn trường tồn cùng sự nghiệp văn học nước nhà.