I. MỞ BÀI
Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một cây bút xuất sắc của văn học hiện thực phê phán trước năm 1945.
Nhà nhân đạo ấy đã để lại cho đời những tác phẩm thật sự có “tấm lòng lớn” như “Đời thừa”, “Chí Phèo”.
Trong đó, “Đời thừa” thực sự đã để lại dấu ấn của Nam Cao về giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học dựa trên niềm cảm thương sâu
sắc của nhà văn đối với số phận nhân vật. Nhà văn từ lòng thương người mà lên án tố cáo những thế lực
đã chà đạp lên quyền sống của con người. Cũng từ lòng nhân đạo, nhà văn cũng phát hiện và ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của con người và kêu gọi giải phóng cá nhân ra khỏi những khổ đau và bất hạnh.
Truyện ngắn “Đời thừa” ra đời năm 1943, là tác phẩm phản ánh sâu sắc và rõ nét về cuộc sống của những
người trí thức tiểu tư sản nghèo ở nước ta trong bối cảnh đất nước bị ngoại bang giày xéo. Tác phẩm đã
gây tiếng vang lớn và thực sự trở thành “tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nam
Cao đã phản ánh một cách rõ nét và chân thực những bi kịch lớn của người trí thức đương thời và cất
tiếng kêu cứu thảm thiết đòi quyền sống cho họ.
2. Trong tác phẩm “Đời thừa”, Nam Cao đã xây dựng thành công giá trị nhân đạo sâu sắc ấy.
a. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo là nhà văn xót xa thương cảm trước những nỗi khổ đau của nhà
văn Hộ khi sụp đổ giấc mộng văn chương và bi kịch tình thương.
Nam Cao đã xót thương và đồng cảm trước bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ , một nhà văn – một trí thức
giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được
phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực. Có thể nói, bi
kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Anh
mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. Nó đề cập đến những
vấn đề bức xúc của cả xã hội của cả nhân loại. Nó nói được những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa
phấn khởi, nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.” Và nhất
định anh sẽ giật giải Nobel !
Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế
nào ? Chao ôi ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ
mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm
rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Anh dằn vặt ghê gớm, anh
lên án chính mình “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương, còn sự cẩu thả trong văn
chương thì thật là đê tiện”.
Chính nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu
anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho
văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói.
Giá như anh cứ bỏ dứt cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế ! Nhưng anh cần
nghĩ tới tác phẩm của anh – các tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đau đớn, càng khổ đau.
Chao ôi ! “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất”
(Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn
chương chính là ở chỗ đó !
Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một
con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó
chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Quả là một sai lầm khi anh kết luận: nguyên nhân trực tiếp
cho sự sụp đổ các giấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Thất vọng trong văn
chương, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến anh tìm niềm vui trong men rượu. Và rượu – kẻ
“làm đỏ mặt và đen danh dự” đã đưa Hộ thành kẻ vi phạm nguyên tắc tình thương. Anh trở thành kẻ vũ
phu, kẻ vô học. Rượu đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được
đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu “chết tiệt” ấy
chính là cái trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tuỵ
của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng: “Cả con mẹ mày nữa cũng
đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình,
vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ trong lẽ
sống tình thương của mình. Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. Thế mà nay,
chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi
phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương,
chỗ dựa của bao giá trị nhân phẩm khác sụp đổ. Viết về nỗi đau này, Nam Cao dường như cũng đang thổn
thức cùng nhân vật.
b. Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Đời thừa” là tiếng nói của nhà văn lên án tố cáo
thế lực đã gây ra nỗi đau cho nhà văn Hộ, đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa, của bi kịch khủng khiếp. Bi
kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo
gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã
khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ấy có lẽ anh không hiểu được – nguyên
nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm
được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.
c. Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Đời thừa” đó chính là nhà văn phát hiện và trân
trọng nâng niu vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn Hộ.
Hộ là nhà văn chân chính. Anh là nhà văn rất có ý thức về nghề nghiệp. Anh mê văn, say văn và có giấc
mộng đẹp, một ngày nào đó, anh sẽ viết được một tác phẩm mà sẽ “làm mờ hết tất cả các tác phẩm ra
cùng thời”. Đó là tác phẩm “ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình. Nó làm người gần người
hơn”. Tác phẩm đó phải đạt giải Nobel. Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ
làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là ước mơ chính đáng ! Không phải người
nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết
xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con
đường cho mình – xác định tư tưởng cho mình.
Hộ lên án thứ văn chương rẻ tiền, hời hợt, dễ dãi. Thứ văn chương “cẩu thả”, “bất lương”. Hộ yêu cầu
văn chương phải sáng tạo, bởi “văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hộ đầy hoài bão về giấc mơ chinh phục đỉnh
cao. Anh là nhà văn chân chính.
Không chỉ vậy, Nam Cao còn phát hiện ra Hộ là con người giàu lòng nhân ái. Chính trong lời khẳng định
về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca tụng lòng tương,
tình bác ái, sự công bình”. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình
thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi
nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ
đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến khi “bao nhiêu xương thịt cứ tan ra thành nước mắt”
nhưng gặp anh, tình thương của anh đã toả rạng đến giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám
bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình
thương – lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp biết dường nào!
d. Biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân đạo là niềm tin của Nam Cao vào khả năng vươn dậy của nhân
vật. Cuối tác phẩm là hình ảnh Hộ ôm từ vào lòng. Bao nhiêu đau đớn, bao nhiêu hối hận dồn nén lại ở
Hộ để rồi bật lên thành tiếng khóc. Tiếng “khóc nức nở, tiếng khóc bật ra như quả chanh người ta bóp
mạnh” của Hộ cho ta thấy sự hối hận và đau khổ lên đến tột cùng của người trí thức tiểu tư sản nghèo có
nhân cách. Giọt nước mắt ấy đã nâng đỡ Hộ, thanh lọc tâm hồn anh, giúp anh đứng vững trên bờ vực
thẳm của sự tha hoá. Chắc chắn đằng sau những giọt nước mắt ấy là sự “trở về” của nhà văn Hộ.
3. Đánh giá chung :Tư tưởng nhân đạo mới mẻ của Nam Cao thể hiện ở việc nhà văn biết đề cao những
khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nổi khổ của họ. Những “tư tưởng nhân đạo
mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao ! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương
người – tình người nồng đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm. Dường như
những day dứt trong cuộc đời ông – cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập
vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước
Cách mạng.
Có thể tự tin mà nói rằng với “Đời thừa”, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo
của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức
rung động, lay chuyển lòng người đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà
văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với
người trí thức… Và viết lên được những dòng như thế cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của
Nam Cao.
Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp
người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo
truyền thống. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ
chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi – một trái tim của tình nghĩa.
III. KẾT BÀI
Tóm lại, tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm
vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.