Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận triết học: vai trò của triết học trong lịch sử nhân loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.73 KB, 11 trang )

Lời mở đầu
Vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên, triết học ra
đời ở cả phương Đông và phương Tây tại một số trung tâm văn hóa – văn
minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Người Trung Quốc coi triết
học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết
học là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. Người Ấn Độ thì coi triết
học là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, sự giải
thốt. Cịn người phương Tây thì hiểu triết học với nghĩa là yêu mến sự
thông thái. Như vậy, triết học là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận
thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội và triết học được hiểu một cách khái quát là hệ thống lý luận chung
nhất của con người về thế giới, về vị trí và vai trị của con người trong thế
giới ấy.
Nhìn chung, triết học ra đời từ thực tiến, do nhu cầu của thực tiễn, có
nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Trong lịch sử phát triển của triết
học đã có những hệ thống lý luận và tư tưởng khác nhau tạo nên những
trường phái triết học khác nhau song đều xuất phát từ thực tiễn xã hội và bối
cảnh xã hội cũng tạo ra những quan điểm triết học trong lịch sử nhân loại.
Có thể thấy, triết học là hệ thống lý luận và xuất phát từ thực tiễn và bởi vậy
nó có vai trị trong lý luận và cũng như trong cuộc sống của con người và xã
hội, trong lịch sử phát triển của nhân loại cũng như trong bối cảnh hiện nay
khi mà xu hướng tồn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Trong tiểu
luận này, bằng sự hiểu biết của mình và từ những nguồn tư liệu đã công bố
tôi cố gắng phác họa về vai trò của triết học trong lịch sử nhân loại cũng như
trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là vai trò của triết học đối với Việt Nam
hiện nay.
1


1. Vai trò của triết học trong lịch sử nhân loại:
1.1. Vai trò của triết học trong lịch sử phương Tây:


Từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức
về tất cả các lĩnh vực và vì thế có quan niệm cho rằng “triết học là khoa học
của mọi khoa học” đặc biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại, và
cũng vì thế mà triết học thời kỳ này đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ và
ảnh hưởng của nó cịn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học Tây
Âu đến tận sau này.
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu thì quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội thì triết học trở thành nơ lệ của thần học. Nền
triết học tự nhiên bị thay bằng nền triết học kinh viện. Triết học lúc này phát
triển một cách chậm chạp trong môi trường trật hẹp của đem trường trung
cổ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã tạo một tri
thức vững chắc cho sự phục hưng triết học. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn,
đặc biệt yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên
ngành nhất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là khoa học độc
lập. Sự phát triển của xã hội thúc đẩy sự hình thành và củng cố quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, bởi những phát hiện lớn về địa lý và thiên văn cùng
với những thành tựu của cả khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn đã mở
ra thời kỳ mới cho sự phát triển của triết học. Triết học duy vật chủ nghĩa
dựa trên cơ sở của tri thức khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng
trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo đạt đến đỉnh cao mới
trong chủ nghĩa duy vật thê skỷ XVII-XVIII ở Anh, Pháp, Hà Lan. Lê Nin
đã đánh giá cao công lao của các nhà duy vật Pháp thời kỳ này đối với sự
phát triển chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học Mác. Thời kỳ này, tư duy

2


triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Heghen, đại biểu xuất sắc của triết
học cổ điển Đức.

Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng
bước phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trị “khoa học của các
khoa học”. Triết học Hêghen là học thuyết cuối cùng mang tham vọng đó.
Hêghen tự coi triết học của mình là một hệ thống phổ biến của sự nhận thức,
trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâ phụ thộc
vào triết học.
Hoàn cảnh kinh tế -xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào
đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt với quan
niệm “khoa học của các khoa học”, triết học Macxit xác định đối tượng
nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác
với mọi khoa học cụ thể. Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách
đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực
hiện được bằng cách tổng kết lịch sử của toàn bộ khoa học và lịch sử của
bản thân triết học.
Như vậy, điểm lại quá trình hình thành và phát triển của triết học ở Tây
Âu có thể thấy triết học có vai trị vơ cùng quan trọng trong lịch sử và xã hội
phương Tây, mà cụ thể là triết học như hệ lý luận cho sự phát triển của hệ tư
tưởng và khoa học của phương Tây, và không chỉ là hệ thống lý luận mà
trong đời sống triết học cũng đóng vai trị hết sức quan trọng.
1.2. Vai trị của triết học trong lịch sử phương Đơng:

3


Ở phương Đơng, Triết học cũng hình thành trong khoảng thế kỷ VI
trước Công nguyên và gắn với sự phát triển của các nền văn hóa – văn minh
cổ đại như văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.

Triết học Ấn Độ cổ đại ra đời dựa trên những điều kiện tự nhiên và kinh
tế xã hội của Ấn Độ cổ đại. Đặc điểm nổi bật của điề kiện kinh tế xã hội cổ
trung đại là sự cồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mơ
hình “cơng xã nơng thơn”, trong đó, theo Mác là chế độ tư hữu về ruộng đất.
Trên cơ sở đó đã phân hóa và tồn tại bốn đẳng cấp lớn là tăng lữ (Brahman),
quý tộc (Ksatriya), bình dân tự do (Vaisya) và tiện nơ (Ksudra), ngồi ra cịn
có sự phân biệt chủng tộc, dịng dõi, nghề nghiệp và tơn giáo. Văn hóa được
hình thành trên các điề kiện tự nhiên và hiện thực xã hội và nét nổi bật của
văn hóa Ấn Độ cổ trung đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng, tơn giáo.
Từ những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và văn hóa như vậy mà triết học
Ấn Độ là một nền triết học chịu ảnh hưởng của những hệ tư tưởng tôn giáo.
Giữa triết học và tơn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học Ấn Độ ẩn
giấu các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua bộ kinh Vêda, Upanisad. Tuy
nhiên, tơn giáo của Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội” chứ không phải
“hướng ngoại” như tôn giáo phương Tây. Vì vậy, xu hướng trội của triết học
– tôn giáo Ấn Độ đều tập trung lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh
qan dưới góc độ tâm linh tơn giáo nhằm tới sự giải thốt, tức là sự đồng nhất
tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ (Atman và Brahman).
Một điểm khác cần nhấn mạnh trong sự hình thành và phát triển của
triết học Ấn Độ đó là tư tưởng triết học Phật giáo. Phât giáo ra đời vào thế
kỷ VI trước công nguyên và khác với các tôn giáo khác, Phật giáo cho bất kỳ
chúng sinh thuộc bất kỳ đẳng cấp nào. Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên
bằng nhân quả. Phật giáo nhìn nhận nhân sinh quan ở mục tiêu giải thốt
khỏi vịng ln hồi, nghiệp báo để đạt tới sự tồn tại cả con người. Nhìn
4


chung, Phật giáo và hệ thống triết hoc Phật giáo ra đời sớm và tồn tại kéo dài
trong lịch sử và đến khoảng thế kỷ IX hoàn toàn sụp đổ trước sự tấn công cả
Hồi giáo vào thế kỷ XII. Tuy vậy, Phât giáo và triết học Phật giáo đã ảnh

hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội, văn hóa và lịch sử của Ấn Độ. Khi
nghiên cứu về lịch sử, văn hóa Ấn Độ có thể thấy hệ tư tưởng của Phật giáo
cũng như tôn giáo luôn tác động và tôn giáo đan xen với triết học luôn ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội Ấn Độ từ cổ đại đến cận hiện
đại.
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn có hai miền khác nhau và
được hình thành bên lưu vực các con sơng lớn như Hồng Hà ở phía Bắc và
Dương Tử ở phía Nam. Lịch sử hình thành của Trung Hoa cổ đại từ cuối
thiên niên kỷ thứ III trước công nguyên kéo dài đến cuối thế kỷ III trước
Công nguyên và trải qua các vương triề như triều đại nhà Hạ, Tây Chu,
Đông Chu (Xuân Thu – Chiến Quốc). Trong giai đoạn này có sự chuyển
động mạnh mẽ của xã hội, đặc biệt là giai đoạn Đơng Chu là sự hình thành
của chế độ phong kiến và giải thể cả chế độ nơ lệ. Sự biến chuyển sơi động
đó cả thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trng tâm của
các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những mâu thuẫn của
xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “bách gia chư tử”
(trăm nhà trăm thầy), “bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Chính
trong q trình này đã nảy sinh các tư tưởng lớn và hình thành nên các
trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái ấy là
ln lấy con người làm trung tâm, có xu hướng giải quyết các vấn đề thực
tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Thời kỳ này có các trường phái triết học
chính gọi là Cửu gia gồm: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Danh
gia, Pháp gia, Nơng gia, Tung hồnh gia, Tạp gia và Phật giáo được du nhập
từ Ấn Độ sớm hơn các trường phái triết học này.
5


Như vậy, ra đời trên cơ sở kinh tế - xã hội Đông Chu, so sánh với triết
học Ấn Độ cổ đại và phương Tây cổ đại, triết học Trung Hoa cổ đại có
những đặc điểm nổi bật như: trong tư tưởng của triết học Trung Hoa cổ đại

thì tinh thần nhân văn có vị trí cao với các loại tư tưởng liên quan đến con
người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học lịch sử phát triển
và triết học tự nhiên có phần mờ nhạt. Triết học Trung Hoa cổ đại ln chú
trọng đến chính trị đạo đức, suốt mấy ngàn năm lịch sử các triết gia Trung
Hoa đều theo đuổi những luân lý đạo đức, họ xem việc thực hành đạo đức là
bản căn bản nhất của con người, đặt lên vị trí thứ nhất cảu sinh hoạt xã hội
và có thể nói đây chính là nguyên nhân dẫn triết học đến sự kém phát triển
về nhận thức lận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa. Một
đặc điểm nữa là triết học nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa tự nhiên và
xã hội, điều này có phần khác với triết học phương Tây trong nhận thức về
thế giới quan. Điểm nổi bật cuối cùng của triết học Trung Hoa cổ đại là tư
duy trực giác của triết học, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm.
Phương thức tư duy trực giác là coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là
gốc rễ của nhận thức “lấy tâm để bao quát vật”. Vì vậy, các khái niệm và
phạm trù chỉ là trực giác, thiếu suy luận lôgic, làm cho triết học thiếu đi
những phương pháp cần thiết để xây dựng một hệ thống lý luận khoa học.
Nhìn chung, nền triết học Trung Hoa ra đời từ chế độ chiếm hữu nô lệ
lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của
các nhà tư tưởng Trung Hoa là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính
trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải
thích và đưa ra những biện pháp để giải quyết các vấn đề xã hội nhưng các
tư tưởng của họ có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã hội theo
mơ hình qn chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn
mực đạo đức phong kiến phương Đông.
6


Bên cạnh những tư duy sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học
Trung Hoa cổ đại còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng
sâu sắc về sự biến đổi của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương ngũ hành

mặc dầu có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc
mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ đã có
ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này không những của người
Trng Hoa mà chịu những ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển của triết học ở phương Tây và
phương Đông đều gắn với các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Giữa triết
học phương Đông và phương Tây có sự khác nhau rõ rệt trong quan niệm về
tự nhiên, xã hội và con người song có thể thấy triết học đóng vai trị vơ cùng
quan trọng, triết học như là một hệ tư tưởng hay hệ thống các lý luận trong
xã hội. Triết học khơng chỉ đóng vai trò lý luận mà còn ăn sâu vào thực tiễn
của cuộc sống con người ở cả phương Tây và phương Đơng. Chẳng hạn như
Phật giáo hình thành và phát triển ở Ấn Độ, sau đó là Trung Hoa và nhiều
quốc gia của phương Đông, những giáo lý của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống của con người ở mọi tầng lớp trong xã hội, Phật giáo được
tiếp thu và biến đổi nhiều khi khơng cịn là những giáo lý mà đã hòa trộn và
mang dáng dấp của cuộc sống đời thường. Bên cạnh Phật giáo, thì nhiều hệ
thống triết học khác cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống và vì vậy
triết học khơng chỉ có vai trị cho lý luận mà cịn có vai trị quan trọng trong
thực tiễn trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại.
2. Vai trò của triết học trong bối cảnh ngày nay:
Ngày nay nhân loại đang chứng kiến nhữn biến động to lớn, phức tạp
và có tác động sâu sắc đến nhiều mặt không chỉ đến con người, xã hội mà
còn cả tự nhiên. Sự biến động xã hội vô cùng mạnh mẽ, xảy ra ở mọi nơi,
mọi lúc và dồn dập trên thế giới này, sự biến động trong xã hội ngày càng
7


xảy ra dồn rập, cái này chưa kết thúc hay chưa được giải quyết thì đã đến cái
kia và ở mức độ nào đó đã nảy sinh sự khủng hoảng trầm trọng.
Cùng với những biến động xã hội, sự tăng trưởng và phát triển mạnh

mẽ của nền kinh tế toàn cầu, các thành tựu khoa học và công nghệ đang tạo
nên những bước tiến mới trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống đương đại,
đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các nền văn hóa dân tộc và văn minh nhân
loại nói chung. Cơng nghệ thơng tin và các phương tiện liên lạc, giao thông
hiện đại làm thu nhỏ trái đất lại và biến nó thành “ngơi làng tồn cầu”. Trong
bối cảnh phát triển mạnh mẽ của nhân loại thì triết học đã trở nên mờ nhạt và
có những ý nghĩ cho rằng triết học đã hết thời.
Tuy nhiên, xét một cách cụ thể thì có thể thấy các thành tựu mà nhân
loại đạt được trong các lĩnh vực khác nhau, nhất là trong khoa học và công
nghệ, trong kinh tế, một mặt là những động lực cơ bản và quan trọng thúc
đẩy xã hội phát triển nhanh hơn, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau hơn,
làm tăng khả năng khám phá và khai thác giới tự nhiên của con người. Mặt
khác, chính con người và xã hội lại đứng trước những sự bất thường, mối đe
dọa và những rủi ro khó lường do hậu quả của việc chiếm dụng, sử dụng và
lạm dụng những thành tựu ấy của con người. Tồn cầu hóa, một mặt thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội, song mặt khác là những tác động có hại
đến tự nhiên và ẩn chứa những nguy hại đối với con người.
Chính những thành tựu hay hậu quả của tồn cầu hóa đã đặt ra nhiều
vấn đề cho người nghiên cứu và cần có những giải pháp cụ thể. Những giải
pháp đó dựa trên những quan điểm và thực sự dựa vào hệ thống lý luận
trước đó và đặc biệt là triết học và những tư tưởng của triết học duy vật biện
chứng. Như chúng ta biết, trong lịch sử nhân loại hệ thống triết học duy vật
biện chứng đã phân tích sâu sắc đến các điều kiện tự nhiên, xã hội và con
người và bởi vậy, căn cứ vào bối cảnh tự nhiên, xã hội và con người hôm
8


nay để từng bước xác định thái độ, xác định cách nhìn về cuộc sống và về
cách thức sinh sống của mỗi con người trong những điều kiện và hoàn cảnh
mới.

Trong bối cảnh tồn cầu hóa, những biến động về kinh tế xã hội và tự
nhiên đã khiến con người quan tâm và giúp con người nhìn nhận những gì
đang diễn ra trong mọi lĩnh vực của thế giới đương đại, cả đời sống xã hội
một cách khách quan hơn, toàn diện và cụ thể hơn, tránh được sự chủ quan,
phiến diện, cứng nhắc, giáo điều và đồng thời cũng tránh được cả sự thiếu
nhất quán, theo xu hướng cực đoan một chiều. Lúc này, triết học giúp con
người có được cái nhìn tổng qt, có cách lý giải đúng đắn về chiều hướng
và về những biến động trên thế giới, về xã hội, về bản thân con người và như
vậy triết học đã giúp con người có sự định hướng đúng đắn trong hành động
và củng cố sự quyết tâm hành động để hoàn thành mục tiêu đã đề ra với kết
quả cao nhất.
Tóm lại, trong bối cảnh tồn cầu hóa, khi mà những biến động về kinh
tế - xã hội, biến động về tự nhiên và ngay cả con người đang diễn ra vơ cùng
mạnh mẽ thì triết học như là hệ thống lý luận để định hướng cho sự phát
triển đúng hướng của nhân loại. Triết học khơng chỉ đóng vai trị quan trọng
trong lý luận mà nó ăn sâu vào thực tiễn, trong cách nhìn nhận của bản thân
mỗi con người về thế giới tự nhiên, về xã hội hiện nay.
Kết luận
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy triết học đóng vai trị vơ cùng
quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn của nhân loại. Trong lịch
sử nhân loại, kể cả phương Đơng và phương Tây thì triết học đều được đề
cao trong lý luận và hình thành những hệ thống tư tưởng về thế giới, về xã
hội và về con người. Mặc dù có sự khác nhau giữa thế giới phương Đông và

9


phương Tây trong nhận thức song nhìn chung thì đều thấy được triết học có
vai trị to lớn trong lý luận cũng như trong thực tiến.
Cũng như trên đã đề cập, trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, khi mà

những biến động về kinh tế, xã hội và cả tự nhiên đang diễn ra mạnh mẽ thì
triết học đã giúp con người có được sự định hướng đúng đắn trong hành
động và củng cố sự quyết tâm hành động, giúp con người có cái nhìn tổng
qt, có cách lý giải đúng đắn về chiều hướng của những biến động trên thế
giới, về xã hội và cả bản thân con người. Triết học trong bối cảnh tồn cầu
hóa như vậy đã khơng mất đi mà nó cịn tồn tại như là một lý luận căn bản
cho sự phát triển của nhân loại.
Đối với Việt Nam, triết học duy vật biện chứng đã và đang đóng vai trị
vơ cùng quan trọng trong sự đổi mới đất nước. Triết học không chỉ có vai trị
trong lý luận nghiên cứu ở các nhà trường mà đã ăn sâu vào thực tiễn, trong
công cuộc đổi mới kinh tế xã hội và văn hóa của Việt Nam. Trong bối cảnh
tồn cầu hóa hiện nay, triết học cũng giúp con người định hướng, có cái nhìn
tổng quát và lý giải đúng đắn và từ đó xác định những bước đi và sự phát
triển của mình.

10


Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo 2006, Giáo trình triết học Mác – Lê Ninh
(dùng trong các trường đại học, cao đẳng) (Tái bản lần thữ hai có sửa
chữa, bổ sung). Nxb Chính trị Quốc gia.
2. Nguyễn Trọng Chuẩn 2013, Về vai trò của triết học trong giai đoạn
tồn cầu hóa hiện nay. Bài giảng chun đề cho học viên cao học.
3. Nguyễn Trọng Chuẩn 2013, Triết học khơng thể đứng ngồi cơng
cuộc hội nhập với thế giới trong bối cảnh tồn cầu hóa. Bài giảng
chun đề cho học viên cao học.
4. Ph.Ăng-Ghen 1972, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và cả
nhà nước. Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội.
5. N.KonRat 1996, Phương Đông và phương Tây. Nhà xuất bản giáo

dục, Hà Nội.
6. M.Rô-den-tan và P.iu din 1976, Từ điển Triết học. Nxb sự thật, Hà
Nội.

11



×