Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

CHIEU DOI DO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.23 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Chiếu dời đô</b>



<b>Chiếu dời đô hay Thiên đô chiếu (遷都詔) là một đoạn văn được </b>Ngô Sỹ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ XV
trong Đại việt sử ký toàn thư, đoạn văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm


1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). Theo ý kiến
GS Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đơ đã khẳng định được vai trị của kinh đơ Thăng Long, nó được coi là tác
phẩm khai sáng văn học Hà Nội và triều Lý. Tuy nhiên, chiếu dời đô chưa nêu bật được tinh thần dân tộc và
khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.

<b>Văn bản</b>



Bản phiên âm Hán-Việt:


<i>Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ </i>
<i>quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn </i>
<i>thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi </i>
<i>Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu </i>
<i>tư, trí thế đại phất trường, tốn số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống </i>
<i>chi, bất đắc bất tỉ. </i>


<i>Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. </i>
<i>Chính Nam Bắc Đơng Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, </i>
<i>quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến </i>
<i>lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng </i>
<i>đô. </i>


<i>Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà? </i>
Bản dịch tiếng Việt:


<i>Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há </i>
<i>phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở </i>


<i>chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì </i>
<i>dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi </i>
<i>thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu n đóng đơ nơi đây, đến nỗi thế đại </i>
<i>khơng dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể </i>
<i>không dời. </i>


<i>Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, </i>
<i>chính giữa nam bắc đơng tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, </i>
<i>thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. </i>
<i>Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi </i>
<i>thượng đô kinh sư mãi muôn đời. </i>


<i>Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? </i>


(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong <i>Đại Việt sử ký toàn thư</i>, Nhà Xuất bản Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 1993)


<b>Ý nghĩa</b>



Có ý kiến cho rằng chiếu dời đô đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vuaĐại Cồ Việt


1000 năm về trước khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho
mn đời sau. Bản chiếu nêu bật được vai trị kinh đơ Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hố của quốc gia. Thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc,


Lê Trung Hưng và đang là Thủ đơ của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thăng Long thực sự là “nơi
kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

“Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà
hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngơi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào


hơn được nơi này”.


Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng chiếu dời đơ lại nổi bật những nhược điểm khiến nó khơng
thể trở thành một áng văn tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, thể hiện ở các yếu tố sau:


 Tinh thần dân tộc: là văn bản khai sinh ra một thủ đô Hà Nội nhưng chiếu dời đô không đề cập đến
truyền thống đấu tranh giành độc lập dân tộc mà các triều vua Việt Nam trước đó đã gây dựng. Bản
chiếu cũng khơng nêu vai trị của kinh đô Hoa Lư và các kinh đô trước đó như Phong Châu, Mê Linh,


Long Biên. Lý Thái Tổ lấy việc làm của các triều đại của cường quyền đế quốc Trung Hoa để noi
gương. Ông gọi đô hộ Cao Biền là "Cao Vương", gọi thành Đại La là "đô cũ". Điều này khiến chiếu
dời đô chưa toát nên được tinh thần dân tộc chủ đạo mà các áng văn khác như Nam quốc sơn hà ("sơng
<i>núi nước Nam vua Nam ở") và </i>Bình Ngơ Đại Cáo ("từ... Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập") đã
có. Chiếu dời đơ chỉ có ý nghĩa trong nội bộ quốc gia mà không thể ảnh hưởng ở tầm quốc tế.


 Khát vọng độc lập: Các nhà nghiên cứu đều cho rằng việc lập đô của các nhà Đinh và nhà Tiền Lê
không phải là tự theo ý riêng, thiển cận. Trong bối cảnh vừa thoát khỏi thời Bắc thuộc, chính quyền
cịn non trẻ, kinh đơ Cổ Loa khơng cịn trấn áp được loạn cát cứ thì việc lập đơ ở Hoa Lư trở lên lợi hại
hơn cả. Người Việt đã xây dựng kinh đô Hoa Lư của riêng mình mà khơng theo một hình mẫu nào của


Trung Hoa. Sự xuất hiện của chiếu dời đô là bằng chứng cho thấy đất nước đã phát triển sang trang
mới, vua Lý Thái Tổ không tự khởi nghiệp ở Thăng Long mà là người được triều đình Hoa Lư tiến cử
lên ngơi thay nhà Tiền Lê. Vì thế mà hệ thống triều đình và cơ sở vật chất của kinh thành Thăng Long


có được đều thừa hưởng từ đô cũ Hoa Lư. Sự kiện ban Chiếu dời đô vừa khẳng định vừa phủ định vai
trị của kinh đơ Hoa Lư. Là mốc son đánh dấu lịch sử hình thành thủ đơ Hà Nội của Việt Nam trên cơ
sở, nền tảng kinh đô Hoa Lư.


 Màu sắc dị đoan, phong thuỷ: Chiếu dời đô được viết với nội dung mang đượm màu sắc đầy dị đoan,
phong thuỷ. Sự phát triển của một thủ đơ so với các vùng đất khác hồn tồn không bị ảnh hưởng


nhiều vào yếu tố phong thuỷ. Roma nằm trên 7 quả đồi xa xơi khó đi lại, Seoul núi non bao bọc, lẻ loi
ít khống sản, thời tiết khắc nghiệt, Singapore nhỏ nhoi thiếu nước, Bern núi non hiểm trở, Tokyo tủn
mủn, rời rạc, chia cắt, Ottawa nằm giữa thung lũng ẩm ướt, sông ngòi dày đặc được bao bọc bởi rừng
rậm và đầm lầy, Amsterdam chỉ xuất xứ từ một đập làng chài trong sông Amstel đều là các vùng
không thuận lợi cho việc phát triển kinh tế mà vẫn đứng đầu quốc gia. Đánh giá thế nào là thuận lợi
cho việc phòng thủ và phát triển kinh tế là trình độ và khả năng của nhà cầm quyền đương thời. Lý
Thái Tổ ám chỉ các triều vua nhà Đinh, nhà Tiền Lê tự theo ý riêng mình mà vận mệnh ngắn ngủi
trong khi chính ơng là người thừa hưởng nền tảng độc lập mà các triều đại này để lại. Quan điểm này
không phù hợp với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt. Thực tế rất nhiều anh hùng đã hy sinh
như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Quang Trung... mà triều đại do họ gây dựng tồn tại rất
ngắn nhưng lịch sử luôn đánh giá công bằng. Bản chiếu dời đô cũng không thấy sự xuất hiện của vị


vua Việt Nam nào được vua Lý nêu tới.


Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất
trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long
- một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.


<b>Hành trình dời đơ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Năm Thái Bình thứ 7 (976) dưới thời vua Đinh Tiên Hồng đã có việc bn bán với nước ngoài bằng thuyền.
Các nhà nghiên cứu khẳng định Lý Công Uẩn dời đô cũng cần đưa đội thuyền đi theo. Đoàn thuyền xuất phát
từ bến Ghềnh Tháp (nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đơ Hoa Lư).
Rồi thuyền vào sông Sào Khê, qua cầu Đơng, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đị Trường n vào sơng Hồng
Long. Đi tiếp đến Gián Khẩu thì rẽ vào sơng Đáy. Từ sơng Đáy lại rẽ vào sơng Châu Giang. Đến Phủ Lý đồn
thuyền ngược sông Hồng, rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.[19]


Như vậy hành trình dời đơ đi qua 6 con sơng khác nhau, trong đó các hành trình trên sơng Sào Khê, sơng
Hồng Long, sơng Châu Giang là đi xi dịng, trên sơng Đáy, sơng Hồng, sơng Tơ Lịch là đi ngược dòng. Sở
dĩ nhà Lý đi bằng đường sông chứ không đi bằng đường biển cũng là bảo đảm an tồn vì thuyền phải tải nặng


khơng chịu nổi sóng dữ ở biển.


<b>Từ Hoa Lư tới Thăng Long</b>



Khác với các kinh đơ chính thống khác ở Việt Nam, kinh đơ Hoa Lư có một vai trị lịch sử đặc biệt: là nơi
đánh dấu sự ra đời kinh thành Thăng Long - Hà Nội, thủ đô hiện tại của đất nước Việt Nam. Mốc son Lý Thái
Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long mà bằng chứng là chiếu dời đô được xác định là thời điểm khai sinh lịch
sử thủ đô mặc dù với việc mở rộng diện tích phần lớn các vùng đất đế đơ của Việt Nam có trước Hoa Lư như
Mê Linh (Hai Bà Trưng), Long Biên (nhà Tiền Lý), Cổ Loa (nhà Ngô) nay đều thuộc về Hà Nội.


Hoa Lư gắn liền với sự nghiệp của 2 vua đầu triều đại nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ được triều đình Hoa Lư tiến cử
lên ngơi thay nhà Tiền Lê. Vì thế mà hệ thống chính trị và cơ sở vật chất của kinh thành Thăng Long sau này
đều thừa hưởng từ kinh đơ Hoa Lư trước đó. Để tưởng niệm cơng lao đặt nền móng xây dựng độc lập tự chủ
của đất nước và nhớ đến Cố đô Hoa Lư, nhà Lý đã xây dựng nhiều cơng trình kiến trúc giống ở Hoa Lư tại
khu vực ở Thăng Long mà chúng vẫn tồn tại đến tận nay như: Ô Cầu Dền, phố Tràng Tiền, phố Cầu Đông,


</div>

<!--links-->


Chiếu dời đô
  • 13
  • 777
  • 2
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×