Tải bản đầy đủ (.docx) (173 trang)

luận văn thạc sỹ nghiên cứu hành vi của nhà đầu tư trên sàn chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.21 KB, 173 trang )

HUỲNH THANH NHÃ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH
TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013


HUỲNH THANH NHÃ

Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân
hàng Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH
TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013


Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Nghiên cứu hành vi của nhà đầu tư trên sàn chứng
khốn” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.

Các thơng tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn này là trung thực, các nội dung
trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc, và các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
văn này chưa được cơng bố tại bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác

Tp.HCM ngày 20 tháng 9 năm
2013 Người cam đoan



HUỲNH THANH NHÃ


Trong thời gian học tập, nghiên cứu và viết luận văn này, tơi ln nhận được sự hướng
dẫn tận tình, những lời động viên, khích lệ tinh thần, cũng như thấu hiểu, sự giúp đỡ to
lớn từ các Thầy Cô giáo, Gia đình và Bạn bè. Nhân đây, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu
sắc của mình đến những người đã giúp đỡ tơi rất nhiều trong q trình học tập và
nghiên cứu.
-

Trước tiên tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc
Trang, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình học tập, thực
hiện và hồn thành luận văn này. Với kiến thức và kinh nghiệm sâu rộng mà Cô
truyền dạy lại cho tôi đã làm cho luận văn này trở thành một tài sản quý báu và
vô giá trong cuộc đời tôi.

-

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các q Thầy Cơ của khoa Tài Chính Doanh
Nghiệp nói riêng và trường ĐH Kinh Tế Tp.HCM nói chung đã giành hết tâm
huyết để giảng dạy và truyền đạt cho tơi những kiến thức mới mẻ và bổ ích, làm
nền tảng để tơi hồn thành luận văn này.

-

Con xin được gửi một lời cảm ơn đặc biệt nhất đến Mẹ và Bố, hai người đã hy
sinh vì con rất nhiều, suốt cả 4 năm con học Đại học và 2 năm Cao học, động
viên con mỗi khi con gặp khó khăn, để rồi từ tình thương của Bố Mẹ con đã
hoàn thành được luận văn thạc sĩ, một sự nỗ lực rất lớn từ cả gia đình mình.


-

Cảm ơn gia đình, em trai đã ở bên canh và khuyến khích tơi trong suốt q trình
thực hiện luận văn.

-

Các anh chị em bạn bè lớp Cao học TCDN đêm 3 K21 và lớp Đại cương đêm 12
K21 Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã cùng nhau trao đổi, chia sẻ kiến
thức trong suốt quá trình tham gia khóa học.


-

Những anh chị em đã tham gia khảo sát cho đề tài này. Các bạn đã góp một
phần khơng nhỏ vào luận văn này của tôi.


MỤC LỤC
1. TỔNG QUAN

1

1.1. Tóm tắt:

1

1.2. Giới thiệu


1

1.3. Mục tiêu nghiên cứu:

3

2. KHUNG LÝ THUYẾT và CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÀI CHÍNH
HÀNH VI
2.1. Những lý thuyết hành vi của con người

4
4

2.1.1. Lý thuyết triển vọng

5

2.1.2. Lý thuyết ra quyết định dựa trên kinh nghiệm chủ quan (Heuristics)

7

2.2. Một số nghiên cứu thực nghiệm:
2.3. Những xu hướng hành vi

8
12

2.3.1. Xu hướng quá tự tin (Overconfidence)

13


2.3.2. Xu hướng đại diện (Representativeness)

14

2.3.3. Xu hướng bầy đàn (Herding)

15

2.3.4. Xu hướng “Neo” (Anchoring)

16

2.3.5. Xu hướng Bất hòa trong nhận thức (Cogintive dissonance)

17

2.3.6. Xu hướng Sợ hối hận (Fear of regret)

18

2.3.7. Xu hướng Gian lận con bạc (Gambler's fallacy)

19



2.3.8. Xu hướng Kế toán (Mental Accounting)

20


2.3.9. Xu hướng nhận thức muộn (Hindsight)

20

2.4. Tài chính hành vi và việc ra quyết định

20

3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN

23

3.1. Thiết kế nghiên cứu

23

3.2. Mẫu khảo sát

24

3.3. Thu thập dữ liệu

24

3.4. Các giả thuyết:

25

3.5. Các phương pháp nghiên cứu


25

3.5.1. Phân tích sự khác biệt (Discriminant Analysis)

25

3.5.2. Phương pháp tính điểm có trọng số

27

3.5.3. Kiểm định Chi – bình phương cho sự độc lập

27

4. Các kết quả nghiên cứu

29

4.1: Phân tích sơ bộ và Kiểm tra Đa cộng tuyến

29

4.2. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu lên danh mục đầu tư

32

4.3. Phân tích sự khác biệt:

33


4.4. Phân tích xu hướng và kiểm định giả thiết

40

4.4.1. Quá tự tin (Overconfidence)

40

4.4.2. Tính đại diện (Representativeness)

43


4.4.3. Xu hướng bầy đàn (Herding)

47

4.4.4. Xu hướng Neo (Anchoring)

54

4.4.5. Xu hướng Bất hòa trong nhận thức (Cognitive dissonance)

56

4.4.6. Xu hướng Sợ hối hận (Fear of Regret)

59


4.4.7. Xu hướng gian lận con bạc (Gambler's fallacy)

61

4.4.8 Xu hướng kế toán(Mental Account)

64

4.4.9. Xu hướng nhận thức muộn (Hindsight)

67

5. TÓM TẮT KẾT QUẢ VÀ KIẾN NGHỊ

70

5.1. Tóm tắt:

70

5.2. Một số kết quả chính

70

5.3. Kiến nghị

73

5.3.1. Đối với các nhà đầu tư


73

5.3.2. Kiến nghị khác

74

6. KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TƯƠNG LAI

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

78


1. TỔNG QUAN
1.1. Tóm tắt:
Những biến động khắc nghiệt đã gây cản trở sự hoạt động của thị trường tài
chính toàn cầu trong những năm 2008. Tâm lý của các nhà đầu tư là một trong những
yếu tố quan trọng dẫn đến sự thay đổi của thị trường. Trong luận văn này, việc nghiên
cứu vai trò của những cảm xúc như sợ hãi, tham lam và dự đoán khi đưa ra quyết định
đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng. Tài chính hành vi là một lĩnh vực mới nghiên cứu các
yếu tố tâm lý ảnh hưởng như thế nào đến quyết định của các nhà đầu tư. Luận văn này
nhằm tìm ra ảnh hưởng của những xu hướng hành vi, bao gồm: Sự quá tự tin, Tính đại
diện, tính Bầy đàn,, tính Neo, Bất hịa trong nhận thức, Sợ hối hận, Gian lận con bạc,
Sai lầm kế toán và Sự nhận thức muộn, đến quá trình đưa ra quyết định của các nhà
đầu tư cá nhân trên sàn chứng khoán. Dữ liệu sơ cấp của luận văn này được tập hợp
bằng cách phân phát cho các nhà đầu tư một bảng câu hỏi. Họ được chia thành 2 nhóm:
nhóm có kinh nghiệm và nhóm ít kinh nghiệm
1.2. Giới thiệu

“Một trong những sự thật thú vị trên thị trường chứng khốn đó là mỗi lần một
người mua, một người bán, thì cả 2 đều nghĩ mình sắc sảo hơn người cịn lại” William Feather.
Mơ hình tài chính truyền thống cố gắng để chứng minh việc các nhà đầu tư sử
dụng mơ hình để đưa ra quyết định của mình là dựa trên lý trí. Mặc dù nhiều lý thuyết
truyền thống vẫn còn tồn tại và phát triển qua nhiều thập kỷ, nhưng lý trí của nhà đầu
tư là một giả thuyết trung tâm cần xem xét. Theo Nofsinger (2001), lĩnh vực tài chính
đã phát triển trong vài thập kỷ qua, dựa trên giả thuyết là người ta đưa ra những quyết
định mang tính lý trí và họ khơng có xu hướng nghiêng về dự đoán tương lai. Người ta
nghĩ rằng các nhà đầu tư hẳn là phải dựa nhiều vào lý trí để có những quyết định mang



tính khả thi. Một nhà đầu tư được xem là lý trí khi (i) người đó ln cập nhật niềm tin
của mình và bày tỏ thái độ khi nhận được thơng tin mới, (ii) có những lựa chọn có thể
chấp nhận được. (Thaler, 2005).
Trong những cái được xem như là “bất thường”, thì việc nền kinh tế thế giới bị
sụp đổ bởi cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008 là một kết quả. Phần lớn các
nhà kinh tế học và những chuyên gia kinh tế chiếm giữ những ghế quan trọng trong
chính phủ và các tổ chức tài chính bị bắt bất ngờ và kéo theo đó là những sự kiện như
phá sản, vỡ nợ. Thậm chí sau khi cuộc khủng hoảng đã bắt đầu, nhiều người trong số
họ vẫn khơng thể phân tích được cường độ của nó. Ngược một chút về quá khứ, trường
hợp của một quỹ bảo hộ có tên là Long Term Capital Management cần được nhắc đến.
Mặc dù được hợp tác với cựu phó chủ tịch của Hội đồng dự trữ liên bang, đạt được 2
giải Nobel về kinh tế, nhân viên bao gồm 24 thạc sĩ, họ cũng rơi vào thất bại
(Nofsinger, 2001).
Sự thất bại của những nhà kinh tế và những học thuyết của họ, đã đưa ra một
câu hỏi: Có phải các nhà đầu tư là dựa vào lý trí không ? Hay là họ bị ảnh hưởng bởi
những cuộc chiến của cảm xúc như là sợ hãi và tham lam, điều mà sẽ dẫn đến những
quyết định xấu.
Bernstein (1998) nói rằng “Bằng chứng cho thấy những mơ hình được lặp đi

lặp lại với sự không hợp lý, không thống nhất và thiếu hợp lý trong cách con người
đưa ra quyết định và khi đối mặt với sự không chắc chắn”. Nofsinger (2001) nói rằng
những giả thuyết về tính lý trí và sự khơng thiên về xu hướng của con người đã bị đánh
bại bởi các nhà tâm lý học trong khoảng thời gian dài.
Những nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm của 2 nhà tâm lý học Daniel
Kahneman và Amos Tversky đóng vai trị là nền tảng và đưa ra một lý thuyết mới trong
những năm 1980, được gọi là Tài chính hành vi.


Từ một quan điểm học thuật, một trong những lý do chính cho sự xuất hiện của
lý thuyết Tài chính hành vi là vì có q nhiều khó khăn khác nhau phải đối mặt trong
những lý thuyết truyền thống. Các nhà khoa học tranh luận rằng, nếu các giả thuyết về


lý trí được nới lỏng, các hiện tượng tài chính khác nhau sẽ dễ hiểu hơn. Sau đó, các mơ
hình khác nhau ra đời. Nó nhấn mạnh rằng mục tiêu chính của tài chính hành vi thì
khơng được chứng minh trong những lý thuyết hiện có, bởi vì nếu những giả thuyết đó
khơng thể chứng minh những kịch bản khó hiểu thành cơng, chúng sẽ khơng cịn tồn
tại nữa. Vì vậy, điều mà Tài chính hành vi cần thiết để đạt đến đó là bổ sung các lý
thuyết truyền thống bằng cách kết hợp nó với nhận thức tâm lý, với nỗ lực nhằm tạo ra
một mơ hình hồn chỉnh trong việc đưa ra quyết định của các nhà đầu tư . (Thaler,
2005)
Từ một quan điểm của một người đang nghiên cứu, Tài chính hành vi xác định
những xu hướng dẫn đến những hành xử bất hợp lý của con người nhằm đưa ra quyết
định tối ưu. Với một nhà đầu tư thông minh nắm bắt được tầm quan trọng của Tài
chính hành vi, tất cả những gì anh ta phải làm được phản ánh trên quyết định đầu tư.
Con người dễ bị ảnh hưởng bởi những hành vi bất thường, điều này có thể là trở ngại
lớn nhất trong nỗ lực tối đa hóa tài sản của họ. Điều đó có nghĩa là các nhà đầu tư có
kinh nghiệm khơng phải là khơng có sai sót, chỉ là họ hiểu tầm quan trọng của những
cảm xúc trong kinh doanh, và cố gắng khơng để tâm trí của mình bị lẫn vào cảm xúc

khi đưa ra quyết định đầu tư bằng cách theo 2 bước dưới đây (i) hiểu cảm xúc của
chính mình và điểm yếu tâm lý bằng cách nghiên cứu những sự bất thường hoặc “xu
hướng” và xác định xem anh ta đã mắc phải sai lầm trong quá khứ chưa hoặc có một
xu hướng nào đó trong tương lai không; và (ii) sau khi đã đạt được mục đích ở bước
trước đó rồi, hiểu cách hành xử vô lý của những người khác và hưởng lợi từ các sai lầm
đó (Parikh, 2011).
1.3. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là :


- Kiểm tra liệu các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khốn có hồn tồn dựa
trên lý trí khi đưa ra quyết định đầu tư hay họ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý khác.


- Kiểm tra xem có sự khác biệt trong việc ra quyết định đầu tư giữa nhóm nhà đầu tư
có kinh nghiệm và ít kinh nghiệm khơng.
Nghiên cứu tập trung vào 9 xu hướng hành vi, bao gồm: Sự quá tự tin, Tính đại
diện, tính Bầy đàn,, tính Neo, Bất hòa trong nhận thức, Sợ hối hận, Gian lận con bạc,
Sai lầm kế toán và Sự nhận thức muộn. Tác động của 9 yếu tố này được phân tích trên
sàn chứng khốn Hồ Chí Minh. Ảnh hưởng được phân tích là có hay khơng có sự tác
động của các yếu tố hành vi đến việc mua/bán hoặc nắm giữ cổ phần.
Dữ liệu chính của nghiên cứu được tập hợp từ một bảng câu hỏi điều tra. Bảng
câu hỏi được phát cho các nhà đầu tư trên sàn môi giới và được đăng trực tuyến để tiếp
cận các nhà đầu tư thích giao dịch qua internet hơn. Kết quả cuối cùng bao gồm 104
nhà đầu tư được chia thành 2 khu vực theo độ tuổi và theo số năm kinh nghiệm: Nhà
đầu tư có kinh nghiệm là những người có trên 5 năm kinh nghiệm, cịn nhà đầu tư trẻ
thì có ít hơn hoặc 5 năm kinh nghiệm. Với mỗi xu hướng, sẽ sử dụng kỹ thuật “Thang
đo 3 điểm, 5 điểm” của Likert. Một phân tích tổng thể sẽ được thực hiện bằng cách sử
dụng phân tích Sự khác biệt, để kiểm tra xem hành vi của nhà đầu tư trẻ và nhà đầu tư
có kinh nghiệm có khác nhau không? Thêm nữa, mỗi một xu hướng sẽ được phân tích

riêng rẽ ở mỗi nhóm bằng các sử dụng phương pháp Chấm điểm theo trọng số và Chi –
bình phương cho sự độc lập.
2. KHUNG LÝ THUYẾT và CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÀI
CHÍNH HÀNH VI
2.1. Những lý thuyết hành vi của con người
Tài chính hành vi là một nhánh của tài chính, nghiên cứu hành vi của các nhà
đầu tư trên thị trường như thế nào và ảnh hưởng của những yếu tố tâm lý đến việc đưa
ra quyết định mua hoặc bán, do đó tác động đến giá cả. Tài chính hành vi nhằm giải


thích lý do tại sao lại hợp lý để tin rằng thị trường là không hiệu quả.


Do đó, tài chính hành vi có thể được định nghĩa như một lĩnh vực tài chính, với
mục đích là giải thích những sự bất thường trên thị trường chứng khoán bằng cách sử
dụng những xu hướng tâm lý học, còn hơn là gạt bỏ chúng như “một kết quả phù hợp
với thị trường hiệu quả” (theo Fama, 1998). Người ta giả định là các nhà đầu tư cá
nhân và kết quả thị trường bị ảnh hưởng bởi các thông tin cấu trúc và các đặc điểm
khác nhau của những người tham gia thị trường.
2.1.1. Lý thuyết triển vọng
Lý thuyết này được hình thành bởi Kahneman and Tversky (1979) và sau đó
Daniel Kahneman đã giành được giải thưởng Nobel cho lĩnh vực Kinh tế. Lý thuyết
này chia thành 2 giai đoạn trong quá trình lựa chọn: giai đoạn hình thành (hoặc chỉnh
sửa), giai đoạn ước lượng. Tversky and Kahneman, 2 người phát minh ra lý thuyết này,
cho thấy con người kiểm sốt sự rủi ro và sự khơng chắc chắn như thế nào. Về bản
chất, lý thuyết này giải thích sự bất thường trong hành vi của con người khi đánh giá
rủi ro và sự khơng chắc chắn. Nó nói rằng: con người không phải lúc nào cũng sợ rủi
ro, hay đúng hơn là họ sợ rủi ro trong lợi nhuận hơn là rủi ro trong thua lỗ. Con người
đặt nhiều hy vọng vào kết quả, vì kết quả có thể nhận biết được chính xác hơn là dự
đốn, một đặc trưng được biết đến như là: “hiệu quả chắc chắn” (Kahneman and

Tversky, 1979). Lựa chọn của con người cũng bị ảnh hưởng bởi “hiệu ứng khuôn khổ”.
Tác động này chỉ ra cách mà trong đó, vấn đề giống nhau được biểu hiện bằng nhiều
cách khác nhau và tác động đến việc ra quyết định. Nó cũng chứng minh được những
sự đảo chiều có hệ thống của xu hướng khi vấn đề tương tự nhau được biểu diễn ở
những cách khác nhau (Tversky and Kahneman, 1981).
Chức năng tối đa hóa giá trị trong lý thuyết triển vọng thì khác so với lý thuyết
danh mục đầu tư hiện đại. Trong lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại, việc tối đa hóa tài


sản thì dựa trên vị thế cuối cùng của tài sản trong khi lý thuyết triển vọng quan tâm đến
lợi nhuận và thua lỗ. Một khía cạnh quan trọng của q trình hình thanh khung nữa đó


là con người có xu hướng cho rằng kết quả của việc kinh doanh là lợi nhuận và
thua lỗ, chứ khơng phải là tình trạng cuối cùng của tài sản. Lợi nhuận và thua lỗ
được xác định là có liên quan đến một điểm tham chiếu trung lập nào đó và những sự
thay đổi được đo lường một cách tương đối chứ không phải là đo lường một cách tuyệt
đối (Kahneman và Tversky, 1979).
Khi nó liên quan đến đầu tư trên thị trường, điểm tham chiếu là giá mua của cổ
phiếu. Thật vậy, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm cho rằng giá mua của cổ phiếu
dường như là một trong số những điểm tham chiếu được sử dụng bởi các nhà đầu tư .
tuy nhiên, cũng có thể có một vài điểm tham chiếu bổ sung ảnh hưởng đến một nhà
đầu tư. Ví dụ, giá cổ phiếu tối đa trong lịch sử lợi nhuận gần đây được phát hiện là ảnh
hưởng đến quyết định của nhà đầu tư.
Yếu tố trung tâm nhất của lý thuyết triển vọng là hàm giá trị hình chữ S.

Hàm giá trị được định nghĩa về những sự thay đổi trong tài sản chứ không đề
cập đến tình trạng cuối cùng của tài sản. Hình dạng của hàm thì lõm trong khu vực lợi
nhuận, và lồi trong khu vực thua lỗ phản ánh sự lo ngại rủi ro trong phạm vi lợi nhuận,
sự ưa thích rủi ro trong khu vực thua lỗ. Một đặc tính hấp dẫn của hàm giá trị nữa là nó



có độ dốc cao nhất tại điểm tham chiếu. Điều này nghĩa là một sự thay đổi trong lợi
nhuận hoặc thua lỗ có một ảnh hưởng nhỏ hơn trên giá trị, điều này được nhận biết bởi
các nhà đầu tư khi khoảng cách giữa các điểm tham chiếu là lớn. Lý thuyết triển vọng


tranh luận rằng khi lựa chọn giữa các trò chơi may rủi, con người tính tốn lợi nhuận
và thua lỗ và sau đó chọn một trong hai xét theo lợi ích về sau. Trong bối cảnh tài
chính, điều này đề nghị con người có thể chọn cách phân bổ danh mục đầu tư bằng
cách tính tốn, với mỗi sự phân bổ, lợi ích và thua lỗ tiềm năng trong giá trị cổ phần
mà họ năm giữ, và sau đó chọn một sự phân bổ có lợi ích cao nhất sau này .
2.1.2. Lý thuyết ra quyết định dựa trên kinh nghiệm chủ quan (Heuristics)
“Heuristics là những quy luật hiệu quả, đơn giản, được sử dụng để giải thích
việc con người đưa ra quyết định đầu tư như thế nào, nhìn nhận và giải quyết vấn đề,
tiêu biểu là khi đối mặt với những vấn đề phức tạp và thông tin chưa hoàn chỉnh.
Những nguyên tắc này làm việc tốt ở hầu hết các trường hợp, nhưng trong một vài
trường hợp nhất định, nó dẫn đến các xu hướng nhận thức dựa theo kinh nghiệm”. Daniel Kahneman (Parikh, 2011).
Tversky và Kahneman xác nhận sự ảnh hưởng của Heuristics đến việc đưa ra
quyết định. Tversky định nghĩa heuristic như là một chiến lược, có thể được sử dụng
cho nhiều vấn đề, thường – không phải là luôn luôn – mang lại một giải pháp chính
xác. Con người thường sử dụng heuristics để làm giảm sự phức tạp trong cách giải
quyết vấn đề (Tversky và Kahneman, 1981). Quá trình quyết định dựa trên heuristics là
một quá trình mà các nhà đầu tư tự mình nhận thấy những điều, thường là bằng cách
thử và sai, dẫn đến sự phát triển của quy tắc ngón tay cái. (Luật ngón tay cái là một quy
luật dựa trên kinh nghiệm, thói quen của con người chứ khơng phải dựa trên khoa học
hay là sự đo lường chính xác.)
Con người thì khơng có khả năng xử lý tồn bộ các thông tin được thể hiện hàng
ngày. Trong khi tích lũy kinh nghiệm thơng qua q trình làm một việc gì đó, những
kinh nghiệm này cho thấy những ấn tượng về việc đó hoạt động như thế nào. Quá trình



này tạo ra quy tắc ngón tay cái , con người có thể sử dụng khi gặp phải một tình huống
tương tự. Hiện tượng này được gọi là sử dụng dựa trên kinh nghiệm chủ quan


heuristics. Nó cũng có liên quan đến nền kinh tế hiện đại, khi số lượng các cơng cụ tài
chính và mật độ thông tin tăng lên một cách đáng kể. Sử dụng heuristics cho phép đẩy
nhanh tiến độ của việc đưa ra quyết định tài chính so với việc xử lý theo lý trí những
thơng tin sẵn có. Ưu điểm của điều này là có thể tiết kiệm được thời gian, trong khi
nhược điểm chính đó là nó phụ thuộc vào kinh nghiệm trước đây. Những mơ hình tài
chính truyền thống loại bỏ heuristic và giả định tất cả các quyết định đều dựa trên
những cơng cụ thống kê có lý trí (Shefrin, 2000).
2.2. Một số nghiên cứu thực nghiệm:
Một vài nghiên cứu thực nghiệm có giá trị được tóm tắt sau đây:
Hoffmann, Shefrin and Pennings (2010) phân tích những sự khác biệt có hệ
thống trong danh mục của các nhà đầu tư và chiến lược ảnh hưởng đến danh mục đầu
tư họ chọn lựa như thế nào và lợi nhuận họ kiếm được. Những phân tích trong nghiên
cứu này được thực hiện trên những hồ sơ giao dịch của một mẫu khách hàng (65,325
tài khoản cá nhân với trên 9 triệu lượt giao dịch từ tháng 1/2000 đến tháng 3/2006), từ
trang môi giới trực tuyến lớn nhất ở Hà Lan. Dữ liệu được thu thập thông qua 1 bảng
câu hỏi. Kết quả có thể hữu ích với những nhà hoạch định chính sách. Người ta nhận ra
rằng các nhà đầu tư nào mà dựa vào các phân tích cơ bản thì sẽ có doanh thu và kỳ
vọng cao hơn, chịu nhiều rủi ro hơn, và quá tự tin, làm tốt hơn các nhà đầu tư mà dựa
vào phân tích kỹ thuật.
Chandra (2008) nghiên cứu tác động của các yếu tố hành vi và tâm lý của nhà
đầu tư khi đưa ra quyết định, và kiểm tra phản ứng của họ với rủi ro và hành vi ra
quyết định. Nghiên cứu này dựa vào dữ liệu thứ cấp. Thông qua nghiên cứu, tác giả
nhận thấy không giống như lý thuyết tài chính truyền thống đã nói, các nhà đầu tư cá
nhân không phải lúc nào cũng đưa ra quyết định một cách lý trí. Quyết định đầu tư bị



ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố hành vi như sự tham lam và sợ hãi, bất hòa trong nhận


×