Tải bản đầy đủ (.ppt) (11 trang)

Bài giảng Ngữ văn 11 tuần 11: Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.42 KB, 11 trang )

LUYỆN TẬP VẬN DỤNG KẾT
HỢP CÁC THAO TÁC LẬP
LUẬN PHÂN TÍCH VÀ SO
SÁNH.
Bài giảng điện tử Ngữ văn 11


LUYỆN TẬP VẬN DỤNG KẾT HỢP CÁC
THAO TÁC LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ
SO SÁNH.
I. ƠN TẬP HAI THAO TÁC LẬP LUẬN:
1. Lập luận phân tích:
Chia nhỏ vấn đề ra theo một tiêu chí nào đó để làm sáng tỏ
vấn đề đang bàn luận.


Thế nào là thao tác lập luận phân tích?
Thế nào là thao tác lập luận so sánh?


2. Lập luận so sánh:
Đặt đối tượng đang bàn luận trong tương quan với đối tượng khác
để làm sáng tỏ đối tượng.

II. VẬN DỤNG HAI THAO TÁC:

1. Bài tập 1:

Đoạn văn có sử dụng những
thao tác nào? Chỉ ra cụ thể?


Đoạn văn
“Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại. Vì mình hay, cịn nhiều người hay hơn
mình. Mình giỏi, cịn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu tự đại tức là thối bộ. Sơng
to bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái
chén nhỏ, cái đĩa cạn thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ.
Người mà tự kiêu tự mãn thì cũng như cái chén, cái đĩa cạn”


Đoạn văn có sử dụng những thao tác lập luận phân tích và so sánh:

“Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại. Vì mình hay,
cịn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, cịn nhiều người
giỏi hơn mình. Tự kiêu tự đại tức là thối bộ. Sơng to bể
rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của
nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn thì một chút nước
cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu
tự mãn thì cũng như cái chén, cái đĩa cạn”

Phân tích

+So sánh: Để thấy sự nhỏ
bé, vơ nghĩa và đáng
thương của thói tự kiêu tự
mãn đối với mỗi cá nhân
trong tập thể hoặc cộng
đồng

Thao tác nào đóng vai
trị chủ yếu, thao tác nào
là bổ trợ?

Thao tác phân tích đóng vai trị chủ đạo, thao tác so sánh có vai trị bổ trợ.


Từ sự tìm hiểu trên ta rút
ra kết luận gì về việc sử
dụng hai thao tác này
-Phân tích nhằm giúp con người nhận thức bằng tư duy trừu
trong khi viết văn?
tượng, so sánh giúp con người nhận thức bằng tư duy cụ thể.
-Mỗi VB nghị luận thường có một thao tác lập luận chủ đạo và
một hoặc hơn một thao tác lập luận khác bổ trợ thì văn bản mới
sinh động, hấp dẫn.


-Bài tập 2: Vận dụng kết hợp phân tích và so sánh, viết đoạn văn bàn về
vẻ đẹp một tác phẩm văn học, tác giả .

-Chia thành 4 nhóm: trao đổi, thảo luận và đại diện nhóm trình bày.
Nhận xét, rút kinh nghiệm.

Gợi ý:
-Đoạn văn viết về vấn đề gì? Viết ra nhằm mục đích gì?
-Cần trình bày những luận điểm nào? Cần đưa ra những luận cứ nào để làm
sáng tỏ luận điểm?
-Sử dụng thao tác nào là chủ đạo?


Đoạn văn tham khảo:
“ Không phải đến Xuân Diệu, thơ Việt nam mới đụng đến thời gian. Xưa Nguyễn Du đã
từng than: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Gần chúng ta hơn, Tản Đà tặc lưỡi: “Trăm

năm là ngắn, một ngày dài ghê !”. Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian trở thành một nỗi
ám ảnh. Thời gian trong thơ ông không chỉ là cảm xúc, là thi hứng, mà còn là nhân tố
kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói, Xn Diệu nhìn đời bằng con – mắt –
thời – gian, “chất Xuân Diệu”, phong cách thơ của ơng là ở đó.
Xn Diệu có hẳn một bài thơ trực tiếp trình bày quan niệm của ơng về thời gian.
Ơng ví thời gian như dịng nước chảy, đời người như con thuyền trơi. Dịng nước thời
gian cứ trơi vơ tình, khơng để ý đến tình cảm, ý chí của con người đi trên thuyền (“Nước
không vội vàng/ cũng khơng trễ tràng/ nước trơi vơ tình”).Thời gian cũng như đời người
“một đi không trở lại” (“Thuyền không trở về / nước cũng mất luôn”).Nhưng thời gian
mất là mất số tháng ngày hữu hạn trong cái quỹ “ba vạn sáu ngàn ngày là mấy” của đời
người, còn thời gian, khách quan thì tồn tại vĩnh viễn như trời đất. Đời người, do vậy
cũng trở nên thoáng chốc và quý giá”


“ Không phải đến Xuân Diệu, thơ Việt nam mới đụng đến thời
gian. Xưa Nguyễn Du đã từng than: “Ngày vui ngắn chẳng tày
gang”. Gần chúng ta hơn, Tản Đà tặc lưỡi: “Trăm năm là ngắn,
một ngày dài ghê !”. Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian trở
thành một nỗi ám ảnh. Thời gian trong thơ ông không chỉ là
cảm xúc, là thi hứng, mà còn là nhân tố kiến trúc của tác phẩm
nghệ thuật. Có thể nói, Xuân Diệu nhìn đời bằng con – mắt –
thời – gian, “chất Xn Diệu”, phong cách thơ của ơng là ở đó.
Xn Diệu có hẳn một bài thơ trực tiếp trình bày quan niệm
của ơng về thời gian. Ơng ví thời gian như dịng nước chảy, đời
người như con thuyền trơi. Dịng nước thời gian cứ trơi vơ tình,
khơng để ý đến tình cảm, ý chí của con người đi trên thuyền
(“Nước khơng vội vàng/ cũng khơng trễ tràng/ nước trơi vơ
tình”).Thời gian cũng như đời người “một đi không trở lại”
(“Thuyền không trở về / nước cũng mất luôn”).Nhưng thời gian
mất là mất số tháng ngày hữu hạn trong cái quỹ “ba vạn sáu

ngàn ngày là mấy” của đời người, còn thời gian, khách quan thì
tồn tại vĩnh viễn như trời đất. Đời người, do vậy cũng trở nên
thoáng chốc và quý giá”

so sánh

Phân
tích


Bài tập 3. Viết lại và hoàn thiện đoạn văn đã trình bày ở bài 2.




×