Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng theo quy định của công ước Vienna 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.08 KB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP

NGUN TẮC THIỆN CHÍ KHI THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA
CÔNG ƯỚC VIENNA 1980

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : ThS NGUYỄN CHÍ THẮNG
Sinh viên thực hiện : LÊ PHÁT ĐẠT
MSSV: 1511270471

Lớp: 15DLK04

Thành phố Hồ Chí Minh - 2019


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến nhà trường, lãnh đạo Khoa Luật đã tạo
điều kiện học tập tốt nhất, thuận lợi nhất đến các bạn sinh viên nói chung và em nói
riêng. Từ cơ sở học tập, các chương trình thực tiễn, các buổi hội thảo, những giảng
viên đầy kinh nghiệm và môi trường học tập truyền đầy cảm hứng cho người học,…
Cảm ơn quý thầy, cô trong Khoa Luật đã nhiệt huyết, tận tâm, ln có phương pháp
giảng dạy khiến cho người học thu kiến thức dễ dàng và mang lại nhiều kiến thức
vô cùng quý giá để tiếp sức em làm hành trang bước ra xã hội.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc nhất đến thầy
ThS Nguyễn Chí Thắng là người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hồn thành
chun đề Khóa luận cuối khóa. Cuối cùng em cùng khơng qn gửi lời cảm ơn đến


những người thân, quý thầy cô, bạn bè,… luôn bên cạnh trợ giúp, ủng hộ, sẻ chia,
chỉ dạy để em có thể hồn thành được khóa học cũng như chuyên đề Khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên

Lê Phát Đạt

I


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Lê Phát Đạt, MSSV: 1511270471
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt
nghiệp này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chun ngành (có trích dẫn
đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khố luận KHƠNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường
và pháp luật.
Sinh viên

Lê Phát Đạt

II


DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
1

Từ viết tắt

BLDS

Nghĩa tiếng Việt

Nghĩa tiếng Anh

Bộ luật dân sự

CISG 1980

Công ước Liên Hiệp Quốc

UNITED NATIONS

Công ước

về Hợp đồng mua bán

CONVENTION ON

hàng hóa quốc tế năm

CONTRACTS FOR THE

1980

1980.

INTERNATIONAL SALE
OF GOODS (1980).


4

L/C

Thư tín dụng

Letter Credit

5

LTM

Luật thương mại

PECL

Bộ nguyên tắc của Luật

Principles of European

hợp đồng châu Âu

Contract Law.

Nguyên tắc Hợp đồng

Principles of International

Thương mại Quốc tế


Commercial Contracts.

3

6
7
8

Vienna

PICC
ULF
UNCITRAL

9

Công ước La Haye
Ủy ban của Liên Hợp

United Nations Commission

Quốc về Luật thương mại

on International Trade Law.

quốc tế.
UNIDROIT
10


Viện quốc tế về nhất thể

International Institute for the

hoá pháp luật tư.

Unification of Private Law
/Iinstitut International Pour
l’unification du Droit Prive.

III


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................. I
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................II
DANH MỤC VIẾT TẮT..........................................................................................III
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 3
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................3
6. Bố cục đề tài...................................................................................................... 4
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN TẮC THIỆN CHÍ KHI THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC VIENNA 1980....... 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế............. 5
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế........................................ 5
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.................................. 9
1.2. Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng theo CISG.................................................... 14

1.2.1. Nghĩa vụ bên bán.......................................................................................14
1.2.2. Nghĩa vụ bên mua......................................................................................16
1.3. Nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng theo quy định Công ước
Vienna 1980............................................................................................................18
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của Nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng.
..............................................................................................................................18
1.3.2. Vai trị của ngun tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng.........................36
KẾT LUẬN CHƯƠNG I......................................................................................... 39
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN, ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT VIỆC ÁP DỤNG
NGUYÊN TẮC THIỆN CHÍ KHI THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THEO QUY
ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC VIENNA 1980.............................................................. 41
2.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc thiện chí thơng qua một số tranh chấp:..41
2.1.1. Phân tích “nguyên tắc thiện chí” trong vụ kiện số 1:.............................. 41
2.1.2 Phân tích “nguyên tắc thiện chí” trong vụ kiện số 2:............................... 43
2.1.3. Phân tích “nguyên tắc thiện chí” trong vụ kiện số 3:.............................. 46
2.2. Đánh giá và đề xuất áp dụng “nguyên tắc thiện chí” cho các bên khi thực
hiện hợp đồng........................................................................................................ 49

IV


2.2.1. Đánh giá quy định nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng theo
Công ước Vienna 1980........................................................................................ 49
2.2.2. Kiến nghị việc áp dụng nguyên tắc thiện chí đối với các bên tham gia hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế......................................................................... 50
KẾT LUẬN CHƯƠNG II........................................................................................54
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................... 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................58

V



PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Công ước Vienna 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa

quốc tế (viết tắt theo tiếng Anh là CISG) được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp
Quốc về Luật thương mại quốc tế là một trong những nỗ lực hướng tới việc thống
nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế. Năm 1964 hai
Cơng ước được ra đời có tên gọi chung là La Haye. Cơng ước thứ nhất có tên là
“Luật thống nhất về thiết lập hợp đồng mua bán quốc tế các động sản hữu hình”
điều chỉnh việc hình thành hợp đồng như chào hàng, chấp nhận chào hàng; Công
ước thứ hai có tên là “Luật thống nhất cho mua bán quốc tế các động sản hữu hình”
đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người bán, người mua và các biện pháp được áp
dụng khi một trong các bên vi phạm hợp đồng. Tuy vậy, hai Công ước La Haye
năm 1964 trên thực tế rất ít được áp dụng. Lý do là vì hai Cơng ước này do một
thiết chế tư (Unidroit) soạn thảo nên không gây được ảnh hưởng rộng rãi trên thế
giới. Hơn nữa, chỉ có những quốc gia Châu Âu (theo hệ thống luật Civil Law) tham
gia vào việc soạn thảo hai Cơng ước và vì vậy, chúng hầu như chỉ được biết đến và
được áp dụng tại các quốc gia này.
Năm 1968, UNCITRAL đã khởi xướng việc soạn thảo một Công ước thống
nhất về pháp luật nội dung áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm
thay thế cho hai Công ước La Haye năm 1964. Được soạn thảo dựa trên các điều
khoản của hai Công ước La Haye, song Công ước Vienna 1980 có những điểm đổi
mới và hồn thiện cơ bản. Cơng ước này được thông qua tại Vienna (Áo) ngày 11
tháng 04 năm 1980 tại Hội nghị của Ủy ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại
quốc tế với sự có mặt của đại diện của khoảng 60 quốc gia và 8 tổ chức quốc tế.
Ngày 11 tháng 4 năm 1980, sau cùng của các nỗ lực thì UNCITRAL đã thống nhất

luật và cho ra đời Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
và có hiệu lực chính thức vào 11 tháng 4 năm 1988, đến nay đã hơn 30 năm đưa vào
áp dụng, có thể nói đã giải quyết khá nhiều vấn đề khi giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa giữa thương nhân của các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, càng ngày kinh
tế các quốc gia trên thế giới càng phát triển, việc giao thương hàng hóa giữa thương
nhân của các quốc gia được diễn ra sôi nổi, càng thúc đẩy nhiều quốc gia tham gia
vào Cơng ước, ngồi việc có cơ sở pháp lý để giải quyết khi xảy ra tranh chấp thì
cịn mang lại khá nhiều lợi ích cho các nước thành viên tham gia.

1


Hiện nay, tính đến 2019 đã có đến 85 quốc gia trên thế giới tham gia Cơng
ước, trong đó ngày 18/12/2015 Việt Nam đã chính thức phê duyệt việc gia nhập
Công ước Vienna 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hợp quốc
để trở thành viên thứ 84 của Công ước này, việc số lượng các quốc gia tham gia
ngày càng tăng và cùng sự phát triển trên thế giới thì có nhiều vấn đề có thể không
lường trước được bởi Công ước đã ra đời cách đây hơn 30 năm. Tuy nhiên, có một
nguyên tắc không thể không nhắc đến khi nghiên cứu hoặc giải quyết tranh chấp khi
các bên lựa chọn Công ước Vienna 1980 để làm nguồn luật điều chỉnh đó là nguyên
tắc thiện chí, ngun tắc này được Cơng ước được đề cập tại khoản 1 Điều 7, dựa
trên lòng tin, sự trưng thực và ý chí tự nguyện của nhau để giải quyết các tranh khi
phát sinh, để có một cách nhìn nhận sâu sắc hơn về ngun tắc thiện chí và có cơ sở
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia người viết quyết định chọn
đề tài “Nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng theo quy định của Công ước
Vienna 1980” để tiếp tục nghiên cứu thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn
đề này.
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích chính của việc nghiên cứu là để chứng minh ngun tắc thiện chí

trong Cơng ước Vienna 1980 có vai trị chung khơng chỉ giới hạn trong việc giải
thích Cơng ước mà cịn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nguyên tắc thiện chí
khi thực hiện hợp đồng trong Cơng ước Vienna 1980 từ đó giúp các bên khi tham
gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hiểu rõ các quyền, nghĩa vụ của mình nhằm
mục đích thực hiện các giao dịch đúng theo tinh thần của Công ước, không những
tránh được các chế tài không đáng có khi giao kết hợp đồng mà cịn giúp việc kinh
doanh giữa các bên thuận lợi hơn trong quá trình đàm phán, thực hiện, thanh tốn
hợp đồng tạo sự tin tưởng nhất định cho các bên tham gia. Đồng thời nghiên cứu
nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng trong CISG thơng qua các tài liệu lý
thuyết, tìm hiểu về định nghĩa nguyên tắc trong pháp luật các nước, tính chất và
cũng như là vai trị của ngun tắc kết hợp với các bản án thực tế, những tình huống
cụ thể được tịa án quốc tế giải quyết để làm rõ hơn quy định này, từ đó đưa ra bài
học kinh nghiệm và đề xuất cho các bên tham gia để nhằm sự thuận lợi hơn trong
việc mua bán hàng hóa quốc tế.

2


3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên là một trong những nguyên tắc quan trọng của Công ước

Vienna 1980 : nguyên tắc thiện chí trong phạm vi thực hiện hợp đồng khi các bên
sử dụng CISG để giải thích hợp đồng.
Đề tài tập trung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn sử dụng nguyên tắc thiện
chí để giải quyết các quan hệ tranh chấp phát sinh trong mua bán hàng hóa quốc tế.
Bài viết phân tích ngun tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa

quốc tế và việc vận dụng nguyên tắc này thơng qua các vụ án cụ thể mà Tịa án
quốc tế đã ra phán quyết.
4.

Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đối với đề tài “Nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng theo quy định

Cơng ước Vienna 1980” hiện tại ở Việt Nam người viết chưa tìm thấy có tác giả
nghiên cứu về đề tài này, có thể Việt Nam là một trong các số nước tham gia vào
Công ước những năm gần đây, nên việc quan tâm đến ngun tắc thiện chí trong
Cơng ước Vienna 1980 cịn hạn chế. Có chăng cũng chỉ là những bài viết dưới dạng
tạp chí, văn bản học thuật, sách giáo trình, báo hoặc là một phần nghiên cứu nhỏ
trong các đề tài khác.
Nguyên tắc thiện chí đã được nhắc đến nhiều trong các ngành Luật của Việt
Nam và các ngành Luật khác trên luật quốc gia của các nước trên thế giới, tuy nhiên
để nghiên cứu về nguyên tắc thiện chí trong một Cơng ước chung trên thế giới thì
cịn khá nhiều hạn chế, chẳng hạn chưa có một thuật ngữ chung nào trên thế giới
định nghĩa về nguyên tắc thiện chí. Tuy nhiên đề tài liên quan nghiên cứu cụ thể
nguyên tắc thiện chí tại các nước tham gia vào Công ước ở giai đoạn đầu đã có khá
nhiều luận văn, chẳng hạn như luận văn thạc sĩ của Obaid Khalfan Almutawa
nghiên cứu về Vai trò của thiện chí trong Cơng ước Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế » hay luận văn của John Felemegas nghiên cứu về “Công
ước Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Điều 7 và giải thích
thống nhất” và cịn khá nhiều các bài viết bình luận khác trên thế giới về nguyên tắc
trên.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ về nguyên tắc thiện chí khi tham gia giao kết hợp đồng theo quy


định của Công ước Vienna 1980 người viết áp dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
3


Phương pháp bình luận pháp lý : nghiên cứu tổng hợp các khái niệm để phân
tích, bình luận với mục tiêu cuối cùng là đưa ra đề xuất.
Phương pháp so sánh: để hiểu ý nghĩa cơ bản và ứng dụng thực tế của nguyên
tắc thiện chí được nghiên cứu trong các nguồn luật khác nhau như PECL và Nguyên
tắc UNIDROIT. Tìm hiểu ý nghĩa của ngun tắc thiện chí trên cả hai cấp quốc gia
và quốc tế, từ đó hiểu biết nhiều hơn về khái niệm thiện chí trong CISG như là một
phần của luật thương mại quốc tế ở góc độ luật tư.
Đồng thời khóa luận sử dụng các phương pháp liệt kê, thu thập các bản án đã
được tòa án quốc tế xét xử, so sánh quy định về nguyên tắc thiện chí giữa các nước
lớn trên thế giới, diễn giải và tổng hợp. Từ đó làm rõ hơn quy định về nguyên tắc
này.
6.

Bố cục đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài

được xây dựng gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng theo quy định
của Công ước Vienna 1980.
Chương 2: Thực tiễn về áp dụng nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng theo
quy định của Công ước Vienna 1980.

4



CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN TẮC THIỆN CHÍ KHI
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC
VIENNA 1980
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Cùng với sự tác động của quá trình tồn cầu hóa nền kinh tế và sự thiết lập các
khuôn khổ pháp lý song phương và đa phương về thương mại, hoạt động mua bán
hàng hóa giữa các cá nhân tổ chức không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia mà còn vươn ra phạm vi quốc tế. Phương tiện pháp lý cơ bản để các tổ chức cá
nhân tiến hành hoạt động mua bán hàng hóa trong phạm vi quốc tế là mua bán hàng
hóa quốc tế. Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như thương mại hàng hóa, thương mại liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ, thương mại trong lĩnh vực đầu tư…Trong đó các giao dịch trong lĩnh vực
thương mại hàng hóa ln diễn ra sơi động nhất, giữ vị trí trung tâm trong các giao
dịch thương mại quốc tế.1
Như đã trình bày, các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa quốc tế
được thực hiện chủ yếu thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tuy
nhiên trong khoa học pháp lý hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay nói chính xác hơn là chưa có một cách xác định
thống nhất tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, mà chỉ nêu lên một
số khái niệm hay một số cách xác định yếu tố quốc tế của loại hợp đồng này. Trong
khi đó, có thể nói rằng, việc làm rõ khái niệm “hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế” có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn hết sức quan trọng bởi nó gắn liền với việc xác
định luật nào được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của các bên trong hợp đồng. Nếu
hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa thơng thường (hợp đồng nội địa) thì sẽ
được pháp luật trong nước điều chỉnh. Nếu là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
thì nó sẽ được điều chỉnh bằng pháp luật thương mại quốc tế: có thể là pháp luật của
các quốc gia khác nhau, các điều ước quốc tế liên quan và trong nhiều trường hợp
liên quan đến cả tập quán thương mại quốc tế, nên cần thiết phải lựa chọn luật nào
trong số đó để áp dụng cho hợp đồng. Không những thế mà trong một số trường

Võ Sĩ Mạnh(2015), vi phạm cơ bản hợp đồng theo công ước vien 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam. Nguồn:
/>1

5


hợp còn cho phép xác định được pháp luật của quốc gia nào được sử dụng để điều
chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Vì vậy hết sức cần thiết phải
có một khái niệm chung, rõ ràng về hợp đồng mua bán hàng quốc tế, hay nói cách
khác là phải có cách xác định tương đối thống nhất tính quốc tế của hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.2
Có một số tác giả đã đưa ra khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và
xác định tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên nhiều yếu
tố khác nhau, Về phương diện thuật học, trong nước có một số tác giải đưa ra khái
niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, chẳng hạn theo tác giả Trương Văn
Dũng, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận có hiệu lực bắt buộc
giữa các bên có địa điểm kinh doanh đóng ở các nước khác nhau, theo đó bên bán
có nghĩa vụ giao và chuyển hàng hóa cho bên mua, bên mua có nghĩa vụ nhận và
thanh toán. Tuy nhiên, Tiến sĩ Võ Duy Mạnh cho rằng khái niệm này chưa làm rõ
được cơ sở xác định “hiệu lực bắt buộc” ở đây theo quy định của pháp luật nào bởi
tính chất quốc tế của hợp đồng thì rất nhiều nguồn luật khác nhau có thể cùng điều
chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Bên cạnh đó, bản thân của hợp đồng
mua bán hàng hóa đã là sự thỏa thuận giữa bên mua và bán, sự thỏa thuận này phải
đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng thì nó trở thành quy
định bắt buộc đối với các bên.3 Vì vậy việc nhấn mạnh “hiệu lực bắt buộc” đối với
các bên là không cần thiết.
Tuy nhiên, tại Điều 56 Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh quy định
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán được thiệt lập giữa các
bên có địa điểm kinh doanh (nếu khơng có địa điểm kinh doanh thì là nơi cư trú)

nằm trên lãnh thổ các nước khác nhau thỏa mãn các điều kiện như sau: thứ nhất,
hợp đồng bao gồm mua bán hàng hóa mà tại thời điểm ký kết hợp đồng, hàng hóa
được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác; thứ
hai, chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng được lập trên lãnh thổ của các quốc gia
khác nhau; thứ ba, việc giao hàng được thực hiện trong lãnh thổ của các quốc gia
khác với lãnh thổ của quốc gia chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng.
Như vậy theo pháp luật Anh, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, trước hết là
hợp đồng mua bán hàng hóa, tức là hợp đồng mà theo đó người bán chuyển giao
LS Đặng Bá Kỹ, Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nguồn: />3
Võ Sĩ Mạnh(2015), vi phạm cơ bản hợp đồng theo công ước vien 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam. Nguồn:
/>2

6


hoặc đồng ý chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho người mua để nhận tiền
tương ứng gọi là giá cả. Cở sở để xác định hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là căn cứ vào ba yêu cầu tại Điều 56 Luật mua bán hàng
hóa năm 1979. Để được xem là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khơng chỉ hợp
đồng được giao kết giữa các bên có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia khác nhau
mà hoạt động mua bán hàng hóa được thực hiện từ lãnh thổ quốc gia này sang lãnh
thổ quốc gia khác, chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng được lập trên lãnh thổ của
quốc gia khác nhau, rõ ràng quy định nói trên của Luật mua bán hàng hóa 1979 đã
thể hiện việc sử dụng tiêu chí “địa điểm kinh doanh” làm cơ sở xác định một hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay một hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước.4
Ở Hoa Kỳ, Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ năm 1952 không trực tiếp
đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng đưa ra định nghĩa
về giao dịch quốc tế tại Điều 1-301, theo đó giao dịch quốc tế là giao dịch với quốc

gia khác Hoa Kỳ và mua bán chính là việc chuyển giao quyền sở hữu từ người bán
sang người mua để nhận tiền. Tại bộ luật này, tuy không đưa ra trực tiếp tiêu chỉ để
xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng việc định nghĩa giao dịch
quốc tế đã thể hiện của tiêu chí “địa điểm kinh doanh” ở các nước khác nhau.5
Mặc dù quy định của Hoa Kỳ và Anh được diễn đạt khác nhau nhưng đều
thỏa thuận từ việc chuyển giao sở hữu hàng hóa từ người bán sang người mua để
đổi lại tiền tương ứng và cả hai bên phải có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia
khác nhau.
Ở phạm vi quốc tế, mặc dù Công ước Vienna không quy định về khái niệm
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng tại Điều 1 Công ước đã gián tiếp xác
định phạm vi của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như sau: “1. công ước này áp
dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có địa điểm kinh doanh
tại các quốc gia khác nhau… 2. sự kiện các bên có địa điểm kinh doanh tại các
quốc gia khác nhau khơng tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ
các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký kết giữa các bên hoặc từ việc
trao đổi thông tin của các bên…”.6
Như vậy, Công ước Vienna đã xem địa điểm kinh doanh là tiêu chí để xác
định hợp đồng ký kết giữa các bên có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
hay khơng. Trong trường hợp có nhiều địa điểm kinh doanh bên giao dịch có thể
Luật mua bán hàng hóa của Anh (1979), Điều 56.
Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ (1952), Điều 301.
6
Công Ước Vienna 1980, Điều 1.
4
5

7


chọn ra trụ sở có mối quan hệ chặt chẽ nhất trong hợp đồng. Trong trường hợp bên

khơng có địa điểm kinh doanh thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên làm tiêu chí xác
định tính chất quốc tế của hợp đồng (Điều 10 CISG).
Tuy nhiên, trong trường hợp các bên khơng chứng minh được địa điểm kinh
doanh của mình một cách chính thức như tại quy định tại khoản 2 Điều 1, giả sử,
một trong các bên giao dịch khơng chứng minh mình là đại lý hợp pháp của một
bên có địa điểm kinh doanh khác thì hợp đồng ký kết giữa hai bên không được xem
là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Ngồi ra Cơng ước Vienna khơng lấy các
yếu tố mang tính quốc tịch, quy chế dân sự và quy chế thương mại làm tiêu chí xác
định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, (khoản 3 Điều 1).
Từ quy định tại Điều 1, kết hợp Điều 40, Điều 53 Cơng ước có thể hiểu hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên có địa điểm kinh
doanh đặt tại các nước khác nhau, theo đó một bên (người bán) có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu về hàng hóa
cho bên kia (người mua) và người mua có nghĩa vụ thanh tốn tiền hàng và nhận
hàng.7
Bên cạnh Cơng ước Vienna, PICC đưa ra những quy phạm chung, chủ yếu áp
dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế. PICC không đưa ra quy định rõ ràng,
nhưng khái niệm hợp đồng thương mại phải được hiểu một nghĩa rộng nhất có thể
được, không chỉ bao gồm các giao dịch thương mại nhằm cung cấp hay trao đổi
hàng hóa hay dịch vụ, mà cịn bao gồm các hình thức kinh tế khác như các hợp
đồng về đầu tư và ủy thác, các hợp đồng cung cấp dịch vụ chun mơn. Tính chất
quốc tế của một hợp đồng thương mại, theo PICC, được xác định bằng nhiều cách.
Pháp luật quốc gia và quốc tế đưa ra nhiều giải pháp từ việc căn cứ vào trụ sở hay
nơi cư trú thường xuyên của các bên tại các quốc gia khác nhau đến việc áp dụng
những tiêu chí tổng qt hơn. PICC khơng nhấn mạnh bất kỳ tiêu chí xác định tính
quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy nhiên, tính quốc tế của hợp đồng
thương mại nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng cần được giải thích
theo nghĩa rộng nhất có thể, chỉ ngoại trừ những trường hợp khơng có bất kỳ yếu tố
quốc tế nào, nghĩa là khi tất cả các yếu tố cơ bản của hợp đồng chỉ liên quan đến
một quốc gia.8

Công ước Vienna 1980, Điều 40, 53.
Võ Sĩ Mạnh(2015), vi phạm cơ bản hợp đồng theo công ước vien 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam.
Nguồn: />7
8

8


Như vậy, tính quốc tế hay đặc điểm có yếu tố nước ngồi của quan hệ chính là
điểm khác biệt của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với hợp đồng mua bán hàng
hóa thơng thường. Yếu tố nước ngồi có thể được quy định khác nhau trong pháp
luật của các quốc gia cũng như trong pháp luật quốc tế, nhưng nhìn chung đó là các
yếu tố liên quan đến quốc tịch, nơi cư trú hoặc trụ sở của các chủ thể liên quan đến
nơi xác lập hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng hoặc nơi có tài sản là đối tượng của
hợp đồng.
Do đó theo quan điểm này, thì tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế được xác định dựa trên các yếu tố: (i) chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng là
các bên có quốc tịch, nơi cư trú hay trụ sở ở các quốc gia khác nhau, (ii) khách thể
của hợp đồng (hàng hóa) ở nước ngồi, (iii) căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt hợp
đồng xảy ra ở nước ngồi.9
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trước hết đó cũng là một loại của hợp
đồng, vì vậy nó mang đầy đủ bản chất và đặc trưng của tất cả các loại hợp đồng nói
chung. Ngồi ra, do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng được ký kết
giữa các bên có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia khác nhau, tức là có yếu tố
nước ngồi tham gia, vì vậy nó sẽ có những điểm khác biệt nhất định so với hợp
đồng mua bán hàng hóa thơng thường. Vấn đề đặc điểm của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế rất ít khi được bàn đến trong các tài liệu nghiên cứu. Điều đó
khơng có nghĩa là việc luận giải các đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

là khơng quan trọng, mà ngược lại việc phân tích kỹ vấn đề này sẽ cho phép chúng
ta có cái nhìn thật cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, trên cơ sở đó sẽ
tạo điều kiện cho việc phân tích những vấn đề khác.10
Xuất phát từ những đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa thơng thường,
cùng với sự tham gia của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế. Chúng ta có thể đưa ra các đặc điểm sau đây đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Về phương diện pháp lý, các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế, kể cả các
đạo luật mẫu điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ít khi bàn đến vấn
LS Đặng Bá Kỹ, Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nguồn: />10
LS Đặng Bá Kỹ, Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nguồn: />9

9


đề chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều này được lí giải rằng thẩm
quyền ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ do pháp luật của quốc gia được
áp dụng đối với bên ký kết quy định. Từ đó, dẫn đến một hệ quả là pháp luật của
các quốc gia khác nhau sẽ có những quy định khơng giống nhau về thẩm quyền
được ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nhưng có thể thấy, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu là
các thương nhân. Thương nhân theo nghĩa thông thường được hiểu là những người
trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại. Trong luật thương mại,
thương nhân bao gồm các cá nhân, pháp nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quốc
gia quy định để tham gia vào các hoạt động thương mại và trong một số trường hợp
cả chính phủ (khi từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia). Mỗi quốc gia có những quy định
khác nhau về điều kiện trở thành thương nhân cho từng đối tượng cụ thể. Chẳng hạn,

đối với cá nhân những điều kiện hưởng tư cách thương nhân trong pháp luật thương
mại quốc gia thường bao gồm điều kiện nhân thân (độ tuổi, năng lực hành vi, điều
kiện tư pháp) và nghề nghiệp.11
Như vậy, tùy theo mỗi quốc gia mà có cách khác nhau để quy định về điều
kiện để trờ thành thương nhân, nhưng có thể nói một cách bao quát về đặc điểm
chung về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên, người bán và
người mua và một điều khơng thể thiếu đó là có địa điểm kinh doanh đặt ở các nước
khác nhau.
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải thỏa mãn
các quy định về quy chế hàng hóa được phép mua bán, trao đổi theo pháp luật của
nước bên mua và bên bán. Pháp luật của các quốc gia khác nhau có những quy định
khơng giống nhau về những hàng hóa được phép trao đổi mua bán, từ đó sẽ dẫn đến
việc có những hàng hóa theo quy định của nước này thì được phép trao đổi mua bán
nhưng theo quy định của pháp luật nước khác thì lại cấm trao đổi mua bán. Như vậy
chỉ những hàng hóa nào đều được pháp luật quốc gia của các bên ký kết hợp đồng
quy định là được phép trao đổi mua bán thì mới có thể trở thành đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khái niệm hàng hóa được ghi nhận trong pháp luật
các quốc gia trên thế giới hiện nay, mặc dù có những khác biệt nhất định song đều
có xu hướng mở rộng các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông thương mại.
Theo pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế
PGS.TS Mai Hồng Quỳ- ThS. Trần Việt Dũng, Luật Thương Mại Quốc Tế, NXB Đại học quốc gia
TP.HCM, 2005, tr 19.
11

10


chẳng hạn như Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
hàng hóa là đối tượng của mua bán thương mại được hiểu bao gồm những loại tài

sản có hai thuộc tính cơ bản: (i) có thể đưa vào lưu thơng, và (ii) có tính chất thương
mại. Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa (tại điểm d, e, f Điều 2)
chỉ loại trừ đối với một số loại hàng hóa như chứng khốn, giấy bảo đảm chứng từ
và tiền lưu thơng, điện năng, phương tiện vận tải đường thủy, đường không, phương
tiện vận tải bằng khinh khí cầu12…Như vậy, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế là động sản, tức là hàng có thể chuyển qua biên giới của một nước, trừ
những loại hàng hóa mà pháp luật quốc gia cấm hoặc được loại trừ.
Thứ ba, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, các bên tham gia giao kết hợp đồng có
quyền tự do lựa chọn hình thức thể hiện ý chí thích hợp. Điều này cũng có nghĩa là
về ngun tắc, ý chí khơng nhất thiết phải được bày tỏ dưới một hình thức nhất định,
nó có thể biểu lộ bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi, cử chỉ cụ thể hoặc thậm
chí là sự im lặng. Tuy nhiên, để thiết lập sự an toàn pháp lý trong quan hệ hợp đồng
cũng như để bảo toàn chứng cứ và bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích xã hội, có những
trường hợp hợp đồng giao kết phải tuân theo những hình thức pháp luật quy định,
nếu không các bên tham gia giao kết sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi. Như
vậy hình thức hợp đồng được hiểu khơng chỉ là phương thức ghi nhận sự biểu lộ ý
chí dưới dạng lời nói, văn bản, hành vi, cử chỉ cụ thể mà còn là những thủ tục mà
pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ trong một số
trường hợp nhất định.13
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng được quy định rất
khác nhau trong pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế. Có pháp luật của
một số nước yêu cầu bắt buộc hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
phải được lập thành văn bản, nhưng pháp luật của một số nước khác lại không có
bất kỳ một u cầu nào về hình thức hợp đồng. Mặt khác, ngay cả khái niệm “văn
bản” giữa các quốc gia cũng có các quan niệm rộng hẹp khác nhau về những dạng
vật chất nhất định chứa đựng thông tin nào được coi là văn bản.
Trong các văn bản pháp lý quốc tế, rất ít khi quy định về điều kiện hình thức
của hợp đồng. Thật vậy, theo quy định của Cơng ước Vienna 1980 thì hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng

Cơng ước Vienna 1980, Điều 2.
TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong bộ luật dân sự Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007,
tr 174-176.
12
13

11


được coi là hợp pháp. Điều 11 Công ước quy định: hợp đồng mua bán không cần
phải được ký kết hoặc xác lập bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác
về hình thức hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả
những lời khai của nhân chứng. Vấn đề này cũng được quy định tương tự trong Bộ
nguyên tắc của UNIDROIT 2016 về hợp đồng thương mại quốc tế. Theo quy định
tại Điều 1.2 của Bộ ngun tắc thì: khơng một chi tiết nào của Bộ nguyên tắc yêu
cầu một hợp đồng phải được ký kết bằng văn bản hoặc phải được chứng minh có sự
thỏa thuận bằng văn bản. Sự tồn tại của một hợp đồng có thể được chứng minh bằng
bất kỳ hình thức nào kể cả bằng nhân chứng.14 Tuy nhiên để giảm bớt sự “tùy nghi”
của Điều 11 Cơng ước Vienna 1980 và có tính đến quy định trong pháp luật quốc
gia của một số nước thành viên yêu cầu hình thức của hợp đồng phải là văn bản, tại
Điều 12 Công ước quy định: nước thành viên của cơng ước có pháp luật quốc gia
u cầu hợp đồng phải có hình thức bằng văn bản có thể tuyên bố bảo lưu vấn đề
này bất cứ lúc nào. Và Điều 96 của Công ước cũng quy định nếu luật của một quốc
gia thành viên nào đó quy định hợp đồng phải được ký kết dưới hình thức văn bản
mới có giá trị thì quy định này phải được tôn trọng, kể cả trong trường hợp chỉ cần
một trong các bên có địa điểm kinh doanh tại quốc gia có luật quy định hợp đồng
phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Ví dụ: theo quy định tại Điều 27 Luật
Thương Mại Việt Nam 2005 thì: mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện trên
cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương;15 Vậy mặc dù 2 bên thỏa thuận áp dụng Công ước Vienna 1980, nhưng Việt

Nam chỉ xem hợp đồng có hiệu lực khi được giao kết dưới hình thức văn bản hoặc
tương đương (mail, telex, fax,..) và việc này hoàn toàn được chấp nhận theo quy
định trên.
Như vậy, mặc dù trong các văn bản pháp lý quốc tế cũng như trong quy định
pháp luật của một số quốc gia khơng u cầu hình thức của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế phải được lập thành văn bản, tuy nhiên, xuất phát từ sự tham gia của
yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, từ sự quy định khác
nhau trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, từ sự bất đồng ngôn ngữ giữa các
bên tham gia ký kết hợp đồng và hàng loạt các vấn đề khác, cho nên tốt hơn hết các
bên khi tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì nên thiết lập bằng
văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, vì như vậy các bên sẽ

14
15

Bộ nguyên tắc của UNIDROIT 2016 về hợp đồng thương mại quốc tế, Điều 1.2.
Luật Thương Mại Việt Nam, 2005, Điều 27.

12


tránh được tối đa các hậu quả pháp lý bất lợi, những rủi ro và tranh chấp khơng
đáng có cũng như các thiệt hại có thể xảy ra.16
Thứ tư, về luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, dù được giao kết hồn chỉnh, chi tiết đến
đâu, bản thân nó cũng không thể dự kiến, chứa đựng tất cả những vấn đề, những
tình huống có thể phát sinh trong thực tế. Do đó, cần phải bổ sung cho hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách lựa chọn luật áp dụng
cho hợp đồng đó. Vì hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nên luật điều chỉnh hợp
đồng này cũng có thể là luật người người bán, cũng có khi là luật nước người

mua...17 Việc địa điểm kinh doanh của các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế
nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau khơng chỉ có nghĩa các bên nằm trên
lãnh thổ của các nước khác nhau mà cịn có nghĩa là các bên liên quan đến các hệ
thống pháp luật khác nhau. Nếu luật áp dụng là luật nước người mua thì luật này là
luật nước ngồi đối với người bán. Người bán phải có sự hiểu biết về nó, trong đó ít
ra người bán phải hiểu rõ được luật này có bảo vệ quyền lợi cho người bán hay
không. Và ngược lại, đối với người mua cũng vậy. Trong khi đó mỗi một quốc gia
trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng của mình và các hệ thống pháp luật đó
khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Từ đó dẫn đến hiện tượng xung đột pháp
luật. Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều
có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác.
Từ đó có thể nói, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được điều chỉnh bởi
pháp luật của các quốc gia khác nhau, bên cạnh đó hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế có thể được điều chỉnh bởi điều ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc
tế, hoặc và các đạo luật mẫu về hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy nhiên điều cần
nhấn mạnh ở đây là mỗi quan hệ thì chỉ có thể áp dụng một hệ thống pháp luật để
điều chỉnh mà thôi. Vấn đề cần phải giải quyết là chọn một trong các hệ thống pháp
luật để áp dụng điều chỉnh quan hệ đó. Như vậy, khơng chỉ người bán và người mua
cần có sự hiểu biết để lựa chọn, để tuân thủ luật áp dụng mà ngay cả cơ quan giải
quyết tranh chấp (tòa án hoặc trọng tài) cũng phải nghiên cứu vấn đề luật áp dụng
cho hợp đồng đó thì mới có thể làm tốt được chức năng, nhiệm vụ của mình18. Xuất
phát từ quyền tự do ý chí trong quan hệ hợp đồng, các bên ký kết hợp đồng mua bán
LS Đặng Bá Kỹ, Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nguồn: />17
LS Đặng Bá Kỹ, Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nguồn: />18
Luật hợp đồng, Thứ Ba, 19/06/2018, Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nguồn: />16

13



hàng hóa quốc tế có thể chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh hợp đồng của mình.
Tất nhiên việc chọn luật phải thỏa mãn các điều kiện chọn luật, và trong một số
trường hợp quyền chọn luật bị hạn chế bởi quy định của pháp luật quốc gia khi nó
liên quan đến các vấn đề chẳng hạn như bảo lưu trật tự công cộng…Trong trường
hợp các bên không chọn luật áp dụng cho hợp đồng thì các quy tắc của tư pháp
quốc tế được áp dụng để chọn ra hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng khi cần
thiết.

1.2. Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng theo CISG
1.2.1. Nghĩa vụ bên bán
Theo quy định tại Điều 30 của Công ước Vienna 1980, thì trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế bên bán có hai nghĩa vụ cơ bản: (i) nghĩa vụ giao hàng;
(ii) chuyển giao các giấy tờ liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa theo
đúng quy định của hợp đồng và của Công ước19.
Thứ nhất, bên bán nghĩa vụ giao hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng:
Giao hàng được coi là nghĩa vụ cơ bản nhất của người bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của người bán đều có
liên quan đến và nhằm mục đích hồn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua.
Khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng đúng đối tượng, đúng chất lượng tại địa điểm và
theo thời gian giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng.20
Một là, Giao hàng đúng số lượng và chất lượng. Tại Điều 35 Công ước Vienna
1980 quy định: bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng và chất lượng mà các
bên đã quy định trong hợp đồng, đồng thời phải được đóng trong bao bì thích hợp
như hợp đồng đã quy định, và phải đảm bảo chất lượng hàng hóa, nếu hợp đồng
khơng quy định cụ thể thì hàng hóa được coi là khơng đúng quy cách phẩm chất khi:
hàng khơng thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại thường
đáp ứng hoặc hàng không phù hợp với bất kỳ mục đích nào mà người bán đã cho
người mua biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào lúc kí hợp đồng; hoặc hàng

khơng phù hợp với hàng mẫu (trong trường hợp bán hàng theo mẫu) mà bên bán đã
cung cấp cho bên mua, hoặc hàng không được đóng trong bao bì theo cách thơng
thường cho những mặt hàng cùng loại đề bảo vệ hàng đó.
Cơng ước Vienna 1980, Điều 30.
Giáo trình Pháp luật Kinh doanh quốc tế, Đại học Ngoại thương HN, NXB Đại học Hà Nội, 2012, Trang
224.
19
20

14


Hai là, Giao hàng đúng địa điểm. Theo quy định tại Điều 31 của Cơng ước
Vienna 1980 thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm mà các bên đã thỏa thuận trong
hợp đồng. Trường hợp các bên không thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì: (i) bên
bán phải giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên, nếu hợp đồng có liên quan đến
sự vận chuyển; (ii) trường hợp khác thì người bán có nghĩa vụ đặt hàng hóa dưới
quyền định đoạt của người mua tại nơi sản xuất hàng hóa hoặc tại địa điểm kinh
doanh của người bán tùy vào từng trường hợp cụ thể, vấn đề này cũng được quy
định tương tự trong Bộ nguyên tăc UNIDROIT 2016. Theo quy định tại Điều 6.1.6
của Bộ nguyên tắc thì: nếu địa điểm thực hiện nghĩa vụ khơng được quy định trong
hợp đồng hoặc không thể xác định được căn cứ vào hợp đồng thì nghĩa vụ phải
được thực hiện: (i) tại trụ sở của bên có quyền, nếu là nghĩa vụ thanh toán một
khoản tiền; (ii) tại trụ sở của bên có nghĩa vụ nếu là nghĩa vụ khác. Tuy nhiên điều
khác biệt giữa Bộ nguyên tắc UNIDROIT và Công ước Vienna 1980 là Bộ nguyên
tắc đã không dự liệu đến trường hợp giao hàng có người vận chuyển.
Ba là, Giao hàng đúng thời hạn. Theo quy định tại Điều 33 Cơng ước Vienna
1980 thì người bán phải giao hàng đúng thời gian đã quy định trong hợp đồng, nếu
hợp đồng không quy định cụ thể về thời gian giao hàng thì người bán có nghĩa vụ
giao hàng trong một thời gian hợp lí sau khi hợp đồng được ký kết. Về việc giao

hàng đúng thời hạn Bộ nguyên tắc UNIDROIT tại Điều 6.1.1 cũng có quy định
tương tự. Tuy nhiên có một điểm khác biệt cơ bản giữa hai văn bản pháp lý này về
thời hạn giao hàng mà chúng ta cần chú ý đó là: theo quy định của tại Điều 33 Cơng
ước Vienna 1980 thì bên bán phải giao hàng trong khoảng thời gian được hợp đồng
ấn định hoặc có thể xác định từ hợp đồng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn
đó, trừ phi tình huống cho thấy bên bán (nghĩa là chính bên có nghĩa vụ) phải chọn
một ngày khác. Trong khi đó theo quy định tại Điều 6.1.1 Bộ nguyên tắc
UNIDROIT 2016 thì: bên có nghĩa vụ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình
vào một thời điểm bất kỳ trong một khoảng thời gian xác định, nếu khoảng thời
gian đó được ấn định trong hợp đồng hoặc có thể xác định được căn cứ vào hợp
đồng, trừ trường hợp do hoàn cảnh mà việc lựa chọn thời điểm thực hiện hợp đồng
do bên kia (nghĩa là bên có quyền) quyết định. Như vậy, cùng một hoàn cảnh,
nhưng theo quy định của Cơng ước Vienna 1980 thì bên bán (bên có nghĩa vụ) sẽ là
bên có quyền thay đổi thời điểm thực hiện hợp đồng (thời điểm giao hàng); trong
khi đó theo quy định của Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2016 thì bên mua (bên có
quyền) mới là bên có quyền thay đổi thời điểm thực hiện hợp đồng (thời điểm giao
hàng).
15


Thứ hai, nghĩa vụ chuyển giao các giấy tờ liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu
hàng hóa:
Các loại giấy tờ này bao gồm: hóa đơn, B/L, Giấy chứng nhận sở hữu hàng
hóa, …Theo quy định tại Điều 34 Cơng ước Vienna 1980 thì bên bán có nghĩa vụ
giao giấy tờ liên quan đến hàng hóa cho người mua đúng thời gian và thời điểm đã
quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên bên bán có thể giao giấy tờ liên quan đến hàng
hóa trước thời gian quy định nếu việc giao giấy tờ đó khơng bất tiện hoặc chi phí
cho người mua; trong trường hợp người bán giao giấy tờ cho người mua đã gây
thiệt hại cho người mua thì người bán phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ngồi các nghĩa vụ cơ bản trên đây thì bên bán cịn có nghĩa vụ bảo đảm

quyền sở hữu cho người mua đối với hàng hóa đã bán đề người mua không bị bên
thứ ba tranh chấp, cũng như bảo đảm hàng không bị ràng buộc bởi bất kỳ quyền hạn
nào của người thứ ba trên cơ sở sở hữu cơng nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác.21

1.2.2. Nghĩa vụ bên mua
Theo quy định tại Điều 53 Công ước Vienna 1980 thì nghĩa vụ nhận hàng của
bên mua được thể hiện ở hai hành vi, đó là: (i) thanh tốn tiền hàng và (ii) tiếp nhận
hàng.22
Nếu việc giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa là nghĩa vụ của bên bán,
thì nhận hàng và thanh tóan là nghĩa vụ cơ bản của bên mua. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của người mua luôn gắn liền với việc nhận hàng
và thanh toán.
Thứ nhất, nghĩa vụ thanh toán:
Một là, nghĩa vụ thanh toán theo đúng giá cả của hàng hóa. Theo quy định tại
Điều 55 Cơng ước Vienna 1980 thì: người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng
cho người bán theo giá cả mà các bên đã thỏa thuận ghi trong hợp đồng. Nếu hợp
đồng khơng quy định cụ thể về giá của hàng hóa thì giá của hàng hóa sẽ được xác
định bằng cách suy đoán rằng các bên đã dựa vào giá đã được ấn định cho mặt hàng
như vậy khi nó được đem bán trong những điều kiện tương tự của ngành thương
mại tương tự. Vấn đề cũng được quy định tương tự tại Điều 5.1.7 của Bộ nguyên tắc
UNIDROIT 2016 theo đó: khi hợp đồng khơng ấn định giá hoặc khơng đưa ra
phương thức xác định giá, các bên trong hợp đồng được coi như (trừ chỉ dẫn ngược
LS Đặng Bá Kỹ, Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nguồn: />22
Công ước Vienna 1980, Điều 53.
21

16



lại) đã hướng tới mức giá thông thường được áp dụng vào thời điểm giao kết hợp
đồng tại cùng ngành hàng, cho cùng cơng việc thực hiện trong hồn cảnh tương tự,
hoặc nếu khơng có mức giá này thì hướng tới mức giá hợp lí. Tuy nhiên Bộ nguyên
tắc UNIDROIT 2016 thực sự đã đi xa hơn Công ước Vienna 1980 khi quy định rằng:
khi mức giá do một bên ấn định rõ ràng là phi lý thì một mức giá hợp lí sẽ thay thế
dù cho hợp đồng có quy định ngược lại.
Hai là, nghĩa vụ thanh toán đúng địa điểm quy định. Theo quy định tại Điều
57 Công ước Vienna 1980 thì người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng theo
đúng địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng, nếu hợp đồng không quy định cụ thể
về địa điểm thanh tốn thì người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho người
bán tại trụ sở của người bán hoặc tại nơi giao hàng, hoặc tại nơi giao chứng từ nếu
việc trả tiền phải được làm cùng lúc với việc giao hàng hoặc giao chứng từ.
Ba là, nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn. Theo quy định tại Điều 58 Cơng ước
Vienna 1980 thì bên mua phải thanh toán tiền hàng theo đúng thời gian quy định
trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không quy định cụ thể về thời gian giao hàng thì
người mua phải có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng khi người bán chuyển giao hàng
hoặc các giấy tờ liên quan đến hàng hóa theo quy định của hợp đồng. Nếu hợp đồng
có quy định về việc vận chuyển hàng thì người bán có thể gửi hàng đi và với điều
kiện là hàng hoặc giấy tờ liên quan đến hàng hóa chưa giao cho người mua nếu
người mua chưa thanh toán tiền. Như vậy trong trường hợp này người mua có nghĩa
vụ thanh tốn trong thời gian hợp lí để nhận được hàng.
Tóm lại, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tạo lập quyền và
nghĩa vụ cho các bên tham gia ký kết, các bên sẽ thực hiện hợp đồng thông qua việc
thực hiện nghĩa vụ của mình trên cơ sở tính ràng buộc và hiệu lực của hợp đồng;
các bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng những gì mà hợp đồng và luật
áp dụng cho hợp đồng quy định. Trường hợp ngược lại, trách nhiệm sẽ được đặt ra
đối với bên không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, nghĩa vụ nhận hàng:
Nhận hàng là việc người mua tiếp nhận trên thực tế hàng hóa từ bên bán. Bên
mua hàng hóa có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa thuận và thực hiện các công việc

hợp lý để giúp bên bán giao hàng. Người mua sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng nếu
người mua không nhận hàng theo đúng quy định trong hợp đồng. Mặt khác, đó lại
là quyền lợi của người mua được nhận hàng để đạt được mục đích của mình khi ký
kết hợp đồng.
17


Để thực hiện việc sẵn sàng tiếp nhận hàng, người mua phải tiến hành chuẩn bị
mọi cơ sở vật chất như phương tiện bốc dỡ, kho bãi…nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho việc nhận hàng. Việc người mua phải thực hiện hành vi sẵn sàng tiếp nhận
hàng không những thể hiện sự tận tâm mẫn cán của người mua đối với nghĩa vụ của
mình mà cịn tạo điều kiện thuận lợi cho người bán thực hiện việc giao hàng của
mình. Khi bên bán đưa hàng đến địa điểm quy định và đặt hàng dưới sự định đoạt
của người mua thì người mua phải thực hiện nghĩa vụ của mình là tiếp nhận hàng.23
Ngồi ra cịn có một số nghĩa vụ đồng thời là quyền của bên mua như:
Kiểm tra chất lượng hàng hóa: là một bước khơng thể thiếu khi người mua
nhận hàng.
Thông báo về sự không phù hợp của hàng hóa: Sau kiểm tra và phát hiện sự
khơng phù hợp của hàng hóa, người mua phải thơng báo về sự không phù hợp này
cho người bán trong một khoảng thời gian hợp lý.
Từ chối nhận hàng: sau khi kiểm tra, giám định và nhận thấy hàng hóa khơng
phù hợp với thỏa thuận của hợp đồng, người mua có quyền từ chối lô hàng hoặc
phần không phù hợp.24

1.3. Nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng theo quy định Công ước
Vienna 1980.
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của Nguyên tắc thiện chí khi thực hiện hợp đồng.
Thiện chí được hiểu theo nghĩa đen có nghĩa là một ý định tốt khi muốn thực
hiện một hành vi nào đó, theo từ điển Cambridge25 định nghĩa một hành động là có
thiện chí nếu nó được thực hiện một cách chân thành và trung thực.

Phần lớn các văn bản pháp lý và lập pháp liên kết khái niệm trung thực với
thiện chí. Theo luật Canon,26 thiện chí được xác định một cách chủ quan bởi mỗi
người. Mối quan hệ giữa thiện chí và sự trung thực trước tiên có thể được xác định
trong từ điển pháp lý. Trong từ điển luật hợp đồng, giao ước ngụ ý về sự trung thực
và giao dịch công bằng là một giả định chung cho rằng các bên tham gia hợp đồng,
sẽ đối xử với nhau một cách trung thực, cơng bằng và thiện chí, để không phá hủy
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, sđd, tr 253.
Cơng ước Vienna 1980, Điều 39, 50, 51, 60, 65.
25
Từ điển Cambridge, nguồn: />26
Hiện nay trên thế giới có ba hệ thống pháp luật phổ biến nhất đó là các hệ thống dân luật, thông luật và luật
tôn giáo. Luật Canon là một trong các loại luật chính của Luật tơn giáo (Luật tơn giáo bao gồm 3 loại chính:
Sharia ở Hồi Giáo, Halakha ở Do thái giáo, và luật Canon ở một số quốc gia theo Công giáo)
23
24

18


quyền của bên kia hoặc các bên khác để nhận được lợi ích từ hợp đồng. Tuy nhiên,
đáng chú ý là các từ điển đều xác nhận rằng yếu tố chính của khái niệm thiện chí là
sự trung thực, có nghĩa là sự trung thực hoặc có thể tin cậy và khơng có khả năng ăn
lừa đảo, lừa gạt hoặc khơng giữ lời hứa.
Ý nghĩa của từ thiện chí dường như cho thấy rằng thiện chí và trung thực được
phải được liên kết với nhau, mà theo đó, hành động trong thiện chí sẽ yêu cầu hành
động trung thực. Tương tự như vậy, người trung thực là người hành động có thiện ý.
Ngồi ra, cả hai khái niệm này đều là khái niệm đạo đức trong bản chất của chúng,
điều này đã tạo ra khó khăn khi cố gắng xác định ý nghĩa hoặc chức năng của chúng.
Nó đã được giải thích rằng: Cố gắng xác định phạm vi của “trung thực”, có thể gặp
phải những vấn đề tương tự như xác định thuật ngữ “thiện chí”; bởi nó chỉ thay thế

một thuật ngữ này bằng một thuật ngữ khác.27
Pháp luật hợp đồng thương mại quốc tế chiếm vị trí rất quan trọng trên hệ
thống pháp luật thế giới bởi hầu hết các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế điều
liên quan đến pháp luật hợp đồng thương mại quốc tế, như đã biết hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập thay đổi, chấm dứt quyền nghĩa vụ của các
bên, vậy hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý chí của các bên bằng việc thỏa thuận
với nhau về quyền và nghĩa vụ của nhau. Vì vậy thiện chí là một trong những
ngun tắc nền tảng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng, nhằm tạo sự thuận lợi
hơn khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên việc ghi nhận nguyên tắc này chưa có sự
thống nhất trong các hệ thống pháp luật khác nhau, chẳng hạn:
Theo hệ thống Common Law, các bên trong giai đoạn đàm phán hợp đồng
khơng có nghĩa vụ tuân theo nguyên tắc trung thực, thiện chí đối với bên cịn lại. Do
đó, họ được hưởng quyền tự do hồn tồn trong việc rút khỏi thương lượng mà
khơng phải chịu trách nhiệm đối với chi phí của các bên còn lại. Một ngoại lệ của
sự tự do đàm phán này là thuyết promissory estoppel. Lý thuyết này bảo vệ bên đàm
phán có niềm tin hợp lý về việc các bên sẽ đạt đến thỏa thuận cuối cùng.
Trái với hệ thống Common Law, khái niệm trách nhiệm tiền hợp đồng được
áp dụng tại nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, đặc biệt là các nước theo hệ
thống Châu Âu lục địa. Theo hệ thống Civil Law, culpa in contrahendo – một hình
thức của trách nhiệm tiền hợp đồng – là một phần quan trọng trong luật hợp đồng và
nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Trách nhiệm tiền hợp đồng yêu cầu các bên hành xử trên
Obaid Khalfan Almutawa, 2015, The Role of Good Faith in the United Nations Convention on Contracts
for the International Sale of Goods (CISG), Thesis submitted for the degree of Master of Philosophy at the
University of Leicester, trang 31,32.
27

19



×