Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Quan điểm chủ trương của đảng, nhà nước đối với hoạt động xuất bản, phát hành hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.07 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, tư tưởng, vừa là hoạt
động sản xuất vật chất. Nó là kết quả lao động sáng tạo của con người, là
phương tiện quan trọng phản ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi
dân tộc ở mọi thời đại. Mặt khác, từ khi xã hội loài người phân chia thành giai
cấp thì xuất bản khơng chỉ đóng vai trò phản ánh đời sống tinh thần và vật
chất của con người mà cịn mang tính giai cấp ngày càng rõ rệt, là nguồn lực
và vũ khí sắc bén của đấu tranh giai cấp.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ ra đời, Đảng và Nhà nước ta
ln thực thi chính sách nhất quán, đặc biệt coi trọng quyền tự do, dân chủ
của nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản. Hiến pháp Nhà nước Việt
Nam và một loạt các điều luật, hệ thống văn bản dưới luật lần lượt ra đời
nhằm xây dựng một hành lang pháp lý hồn chỉnh, tạo mơi trường thuận lợi
cho hoạt động xuất bản phát triển đúng hướng, trên nền táng luật pháp. Tuy
nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống
pháp luật nhiều năm tồn tại đã dần dần bộc lộ những thiếu sót, bất cập, chưa
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới.
Quan điểm chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động xuất
bản, phát hành hiện nay đóng một vai trị quan trọng. chính vì vậy việc tìm
hiểu quan điểm, chủ trương đó là một nhu cầu bức thiết hiện nay.

1


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở NƯỚC TA
1.1. Khái niệm hoạt động xuất bản
1.1.1. Lịch sử hoạt động xuất bản
Trong q trình tiến hố, con người đã phát minh ra các phương tiện để
phản ánh, lưu truyền các giá trị của đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần
của mình. Sách là một phát minh kỳ diệu, trở thành phương tiện quan trọng


trong các hoạt động văn hố tinh thần của lồi người.
Từ thời Cổ đại, những phát kiến về triết học, hoa học, văn học, nghệ
thuật đã được con người ghi, chép trên vỏ cây (chỉ thảo, vách đá và chính trên
da thịt mình, sau đó là thẻ tre, da thú, đất nung, v.v... Đó là hình thức sơ khai
về sách mà con người đã sáng tạo ra. Việc ghi chép và lưu truyền trong cộng
đồng các hình thức ban đầu đó của sách, đã hình thành nghề xuất bản sơ khai.
Vào đầu thế kỷ thứ II sau công nguyên, tại Trung Quốc người ta đã chế tạo ra
giấy, và khắc chữ trên các tấm ván gỗ để in. Tới thể kỷ XV, từ 1436 đến 1444
Johannes Gutenberg người Đức đã dùng khuôn đồng mơ chế tạo ra chữ rời
bằng hợp kim chì thiếc đồng, làm ra mực và in sách trên máy in bằng gỗ.
Cuốn sách đầu tiên được Gutenberg in tại Mainz từ năm 1452 là cuốn Phúc
âm, với số lượng 200 bản. Người ta còn gọi là cuốn Phúc âm 42 dịng, vì mỗi
cột có 42 dịng. Đây là bước phát triển mới vượt bậc về in, dẫn đến một thời
kỳ phát triển mới của xuất bản. Đúng như Ăngghen đã đánh giá về nghề in
trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”: “Nghề in ra đời, đó là một bước
ngoặt vĩ đại nhất trong tất cả các bước phát triển từ trước đến nay của thời đại
chúng ta”.
Là hoạt động do con người sáng tạo ra, và chính nó phục vụ lợi ích của
con người, xuất bản đã ứng dụng và phản ánh sự phát triển nhiều mặt của xã
2


hội lồi người, chính vì vậy xuất bản đã khơng ngừng phát triển. Từ chỗ chỉ là
hoạt động của từng nhóm người có ảnh hưởng trong phạm vị hẹp, nó đã được
xã hội hoá. Từ chỗ sản phẩm sách ở trình độ thơ sơ, mộc mạc, tiến tới đa
dạng, phong phú về hình thức, loại hình và nội dung. Sản phẩm của ngành
xuất bản khơng chỉ có sách, mà cịn bao gồm các loại hình khác đó là tranh,
ảnh, bản đồ, địa đồ, khẩu hiệu, bưu ảnh v.v... Nghề làm sách từ chỗ đơn giản,
thủ công qua nhiều bước phát triển, đã đạt tới trình độ tự động hố. Lao động
biên tập ở nhà xuất bản đã ứng dụng tiến bộ của công nghệ tin học, trong hoạt

động sáng tạo và xử lý bản thảo, hoàn chỉnh bản mẫu để in hàng loạt. Hoạt
động phổ biến, sau này gọi là phát hành sách với các cửa hàng tự chọn được
quản lý bằng camera, và máy vi tính, với các loại xe chuyên dụng bán sách
lưu động, bán sách đặt trước qua bưu điện, bán sách khuyến mại.
Ngày nay xuất bản đã trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển. Bất
cứ quốc gia nào cũng tận dụng khả năng của nó để nâng cao dân trí, phục vụ
kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân, giao lưu văn hoá với các nước trên thế
giới. Nhiều nước phát triển có những tập đồn xuất bản - báo chí mạnh, đạt
hiệu quả kinh tế cao. ở Nhật có tới 5000 nhà xuất bản, chiếm 1/200 tổng số
giá trị sản phẩm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tại Mỹ, ngành xuất bản
đứng vị trí thứ 3 về tỷ lệ tăng trưởng giá trị sản phẩm.
Ở Việt Nam xuất bản sách xuất hiện từ thời Cổ trung đại. Cơ sở đầu
tiên của nghề xuất bản là sự ra đời của ngôn ngữ và chữ viết. Chữ Hán là thứ
văn tự đầu tiên du nhập vào Việt Nam từ thời Triệu Đà (207-137 TCN). Chữ
Nôm xuất hiện sau chữ Hán. Tới thế kỷ XVIII, XIX chữ Nôm phát triển cực
thịnh, ở mức độ nào đó đã lấn át chữ Hán với “Truyện Kiều”, “Chinh Phụ
Ngâm”, “Hịch Tây Sơn”...
Từ khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, với sự xuất hiện của sách báo
Macxit, sự nghiệp xuất bản Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới. Xuất bản
3


được phân chia thành nhiều khuynh hướng với những mục đích, quy mơ và
phương thức hoạt động khác nhau.
Hiện nay, ở Việt Nam xuất bản đã phát triển và đạt trình độ mới. Các
nhà xuất bản chuyên lo việc tổ chức, hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu đưa in.
Các nhà in lo việc tiếp nhận công nghệ mới, để thoả mãn nhu cầu về số lượng
và chất lượng việc in nhân bản các ý tưởng của tác giả, của nhà xuất bản
thành xuất bản phẩm. Phát hành là người chuyển tải các ý tưởng chứa đựng
trong những xuất bản phẩm đến tay người sử dụng, thông qua hoạt động

thương nghiệp.
1.1.2. Khái niệm
Theo nghĩa rộng, xuất bản là hoạt động bao gồm các lĩnh vực xuất bản,
in và phát hành xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức các
nguồn lực xã hội trong việc sáng tạo tác phẩm, in nhân bản các tác phẩm, phổ
biến đến nhiều người nhằm đạt hiệu quả kinh tế, chính trị và xã hội.
Hoạt động xuất bản còn là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hố tư tưởng,
thơng qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người,
không phải là hoạt động đơn thuần kinh doanh. Hoạt động xuất bản nhằm
mục đích phổ biến những tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội,
khoa học, cơng nghệ, văn học, nghệ thuật, pháp luật; giới thiệu di sản văn hoá
dân tộc, tinh hoa văn hoá thế giới; nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống
tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hoá vớicác nước, góp phần vào
sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bằng xuất
bản phẩm của mình, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi
ích quốc gia, phá hoạ nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt
Nam.
Theo nghĩa hẹp, xuất bản là quá trình tổ chức việc sáng tạo, tác động
vào quá trình sáng tạo của tác gải để có bản thảo tác phẩm, xử lý và hoàn
4


chỉnh bản thảo, bản mẫu, in thành các xuất bản phẩm nhằm phục vụ nhiều
người.
1.2. Đặc điểm của xuất bản
Đặc điểm thứ nhất: xuất bản vừa là hoạt động văn hoá tư tưởng vừa là
hoạt động kinh tế. Là một bộ phận của văn hoá, xuất bản chịu sự chi phối của
các quy luật phát triển văn hoá. Lao động xuất bản trong đó trung tâm là biên
tập, một loại lao động khoa học; tổ chức nghiên cứu khoa học, sáng tạo văn
học, nghệ thuật. Nó là lao động chất xám.

Đặc điểm thứ hai: xuất bản phẩm là kết quả của quá trình tư duy và quy trình
sản xuất đặc thù.
Xuất bản là một loại ngành nghề, và nó trở thành một ngành kinh tế kỹ
thuật đạt lợi nhuận cao ở các nước phát triển. Hoạt động của nó là dạng hoạt
động sản xuất vật chất đặc biệt. Tính đặc biệt do địi hỏi của sản phẩm sách
quy định. Tồn bộ quy trình sản xuất hàng hố sách là một q trình của lao
động tư duy, lao động trí óc. Đây là nhu cầu khách quan của việc sản xuất sản
phẩm vh tinh thần. Bởi vì chỉ có tư duy và tư duy sáng tạo mới “đẻ” ra những
“đứa con tinh thần”. Từ đó thơng qua một quy trình sản xuất đặc thù, giá trị
tinh thần do tư duy mang lại được vật hoá thành xuất bản phẩm.
Đặc điểm thứ ba: xuất bản phẩm là một loại hàng hoá đặc biệt
Là một loại sản phẩm của quá trình sản xuất vật chất, xuất bản phẩm
nói chung, sách nói riêng cũng như mọi sản phẩm khác, nó là kết quả của lao
động sống và lao động quá khứ được vật hoá. Vì vậy, xuất bản phẩm cũng có
giá trị và giá trị sử dụng. Khi vào lưu thơng nó trở thành hàng hố. Và chính
từ thị trường trao đổi, mới có thể thực hiện giá trị của nó. Nhưng sách là một
loại hàng hố đặc biệt. Tính đặc biệt ở đây là do tính đặc biệt của giá trị và giá
trị sử dụng của sách quy định.

5


Chương 2
QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN PHÁT HÀNH HIỆN NAY
2.1. Vị trí
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, tư tưởng, vừa là hoạt
động sản xuất vật chất. Về phương diện văn hoá tư tưởng, sách và các xuất
bản phẩm do hoạt động xuất bản mang lại là sản phẩm tinh thần. Nó là kết
quả lao động sáng tạo của con người, cho con người và vì con người. Các giá

trị xã hội chứa đựng trong sách thể hiện và thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong
phú về nhiều mặt của đời sống xã hội. Nó là một bộ phận rất quan trọng phản
ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi dân tộc, ở mọi thời đại. Nội
dung chính trị - xã hội, pháp luật văn học - nghệ thuật, khoa học - công nghệ
chứa đựng trong sách là ý tưởng của tác giả, nhà xuất bản nhằm truyền bá, bồi
dưỡng và nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân,
mở rộng giao lưu văn hoá với các nước. Giá trị cơ bản của sách nói riêng,
xuất bản phẩm nói chung là giá trị văn hoá tinh thần, do lao động tinh thần
của con người tạo ra. Mục đích chủ yếu, lý do tồn tại của nó là văn hố, tư
tưởng. ở Việt Nam, các nhà xuất bản là phương tiện, cong cụ của cơ quan Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị. Vì vậy, hoạt động
xuất bản là hoạt động văn hoá, tư tưởng thuộc kiến trúc thượng tầng.
Về phương diện sản xuất vật chất, các giá trị tinh thần, do lao động tinh
thần của con người mang lại chỉ trở thành sách và các xuất bản phẩm khác
thông qua hoạt động sản xuất. Từ việc thừa nhận sách là sản phẩm tinh thần,
trí tuệ, mọi người phải thừa nhận sách là sản phẩm vật chất, bởi nó là kết quả
do lao động vật chất tạo ra. Cấu trúc của nó do chính các yếu tố vật chất tạo
thành. Đó là các loại vật liệu chuyên dùng như: giấy, mực in, chỉ, thép, hồ
6


dán, vải, ximili, caton, v.v... Thơng qua q trình sản xuất vật chất của nghề
in, những vật liệu rời rạc đó cấu thành sản phẩm sách - cái “vỏ vật chất”
chuyển tải nội dung tinh thần, trí tuệ của con người. Khi đã trở thành sản
phẩm hoàn chỉnh và vào lưu thơng, xuất bản phẩm trở thành hàng hố. Nó
mang đủ các thuộc tính của hàng hố; chịu sự tác động của quy luật giá trị,
giá cả, cung cầu, v.v... Những người mua ở đây là mua cái giá trị chứa đựng
trong “cái vỏ vật chất”. Là người bán, nhà xuất bản cũng bán cái giá trị tinh
thần bên trong, nhưng khơng chỉ thế mà cịn quan tâm đến các vật liệu đã đầu
tư. Vì vậy, sách là một loại hàng hoá đặc biệt xét về giá trị. Mặt khác, không

phải ai cũng đọc sách và đọc bất kỳ sách nào, vì sách bao giờ cũng có đối
tượng riêng. Người tiêu dùng sách, thưởng thức sách khác người tiêu dùng
các sản phẩm vật chất khác ở yêu cầu có văn hố. Tuỳ theo văn hố cao, thấp,
chun mơn sâu, rộng của mình mà người tiêu dùng lựa chọn sách phù hợp.
Tóm lại hoạt động xuất bản là hoạt động văn hóa tinh thần có ảnh
hưởng nhiều đến việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, dân trí, vì vậy nó thuộc
thượng tầng kiến trúc, chịu sự chi phối của các quy luật phát triển văn hoá.
Mặt khách hoạt động xuất bản là hoạt động sản xuất vật chất khác có vai trò
quan trọng trong việc tạo thành, chuyển tải, nhân bản các giá trị tinh thần, trí
tuệ, ý đồ của tác giả, nhà xuất bản thành xuất bản phẩm, vì vậy nó đồng thời
chịu sự tác động của hệ thống quy luật kinh tế, nó thuộc hạ tầng cơ sở.
2.2. Quan điểm chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động
xuất bản, phát hành hiện nay
Trong thời gian qua công tác báo chí, xuất bản đã đạt được những
thành tích đáng ghi nhận, góp phần vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, ổn
định chính trị xã hội, xứng đáng là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng
- văn hóa của Đảng. Tuy nhiên, cũng nghiêm khắc nhận thấy rằng những
khuyết điểm, yếu kém trong hoạt động báo chí, xuất bản đang đặt ra cho
7


chúng ta những vấn đề mới cần tập trung giải quyết nhằm bảo đảm cho cơng
tác thơng tin đóng góp hơn nữa vào cơng cuộc xây dựng đất nước, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Hội nghị Trung
ương 5 khóa X đã ra nghị quyết về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước
yêu cầu mới; Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chỉ thị, quyết định,
thông báo, thông tri, kế hoạch nhằm chỉ đạo tăng cường cơng tác quản lý báo
chí, xuất bản, với các nguyên tắc: tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước với cơng tác báo chí, xuất bản; phát triển đi đôi với

quản lý tốt; nâng cao vai trò của cấp ủy đảng, cơ quan tham mưu của Đảng,
các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chủ quản
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo quản lý báo chí, xuất bản; xử lý nghiêm minh các
sai phạm; rà soát, sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật về báo chí,
xuất bản, bảo đảm khơng có báo chí tư nhân, làm tốt công tác tư tưởng và giữ
vững trận địa tư tưởng trong bối cảnh tình hình bên ngồi và trong nước có
những diễn biến mới, phức tạp.
Nghị quyết và những văn bản chỉ đạo của Đảng đã góp phần quan trọng
trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về báo
chí, xuất bản. Có thể nêu một số văn bản quan trọng gần đây như:
Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 22-7-2005 của Ban Bí thư về phát triển và
quản lý báo điện tử ở nước ta hiện nay; Thông báo kết luận số 41-TB/TW
ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo
và quản lý báo chí; Thơng báo kết luận số 68-TB/TW ngày 30-3-2007 của Bộ
Chính trị về tiếp tục thực hiện Thông báo số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của
Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí;
Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư về việc ban hành
8


Quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo cơ quan
báo chí; Quyết định số 155-QĐ/TW ngày 23-4-2008 của Ban Bí thư về việc
ban hành Quy định về sự phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán
sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thơng, Đảng đồn Hội Nhà báo Việt Nam và
các cơ quan Đảng, Nhà nước trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí; Quyết
định số 157-QĐ/TW ngày 29-4-2008 của Ban Bí thư về việc ban hành Quy
định về chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng, nhất là đối với các vấn đề
quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội dung thơng tin của báo chí; Chỉ thị
số 25-CT/TW ngày 31-7-2008 của Ban Bí thư về tăng cường cơng tác xây
dựng Đảng trong các cơ quan báo chí; Quyết định số 202-QĐ/TW ngày 1112-2008 của Ban Bí thư về việc ban hành Quy chế phối hợp và gắn kết công

tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí.
Trong lĩnh vực xuất bản, cùng với Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 17-101997 của Bộ Chính trị, Thơng tri số 01/TT-TW ngày 25-12-2001, Ban Bí thư
Trung ương Đảng khóa IX đã ra Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25-8-2004 về
nâng cao chất lượng toàn diện hoạt động xuất bản.
Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo của Đảng về báo chí, xuất bản được
đúc kết từ thực trạng phát triển của báo chí, xuất bản và thực tiễn cơng tác chỉ
đạo, định hướng báo chí, xuất bản trong tình hình mới, nên đã chỉ rõ những
vấn đề cịn tồn tại trong cơng tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, đồng
thời định hướng phát triển với tầm nhìn bao qt, góp phần nâng cao nhận
thức cho các cấp ủy đảng về lĩnh vực tư tưởng quan trọng này.
Trong lĩnh vực báo chí, các văn bản của Đảng thời gian gần đây đã chỉ
rõ nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan quản lý nhà nước về báo chí là việc rà sốt
quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan báo chí thuộc tất cả các loại hình,
bảo đảm tổ chức và hoạt động đúng với Luật Báo chí; tổng kết, nghiên cứu,
9


đề xuất nội dung sửa đổi Luật Báo chí theo hướng giữ vững bản chất của báo
chí cách mạng và tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản, cơ quan báo
chí và người làm báo trước Đảng, Nhà nước và nhân dân...
Trong lĩnh vực xuất bản, các văn bản của Đảng đã chỉ rõ hoạt động
xuất bản phải coi trọng việc phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng, đáp ứng
nhu cầu đọc của nhân dân, đồng thời phải thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh,
xây dựng ngành xuất bản thành một ngành kinh tế - công nghiệp phát triển
tồn diện, vững chắc; xây dựng những chính sách và cơ chế phù hợp để xuất
bản hoạt động có hiệu quả trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Thực hiện cơng tác thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng về báo
chí, xuất bản thành chính sách, pháp luật của Nhà nước

Thứ nhất, các cơ quan làm công tác xây dựng pháp luật đã quán triệt
sâu sắc tinh thần chỉ đạo của Đảng, thể chế hóa trong tất cả các văn bản quy
phạm pháp luật về báo chí, xuất bản nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý; khơng có báo chí tư nhân; phát triển đi đôi với quản lý tốt...
Thứ hai, hầu hết các khuyết điểm, yếu kém trong hoạt động và công tác
báo chí, xuất bản mà văn bản chỉ đạo của Đảng đã nêu rõ đều được thể chế
hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xuất bản, thành các chế
tài, quy định hết sức cụ thể, rõ ràng nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu
kém, tạo điều kiện cho báo chí, xuất bản phát triển. Ví dụ như việc xây dựng
quy chế xác định nguồn tin trên báo chí để khắc phục tình trạng đăng thơng
tin không rõ nguồn gốc, thông tin liên quan đời tư công dân; hay Thông tư
hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên
thường trú ở trong nước của cơ quan báo chí nhằm tạo hành lang pháp lý rõ
ràng trong hoạt động tác nghiệp của cơ quan báo chí, phóng viên tại địa
phương, đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý báo chí
10


tại địa phương, chấn chỉnh những bất cập, lộn xộn của hoạt động đặt văn
phịng đại diện và cử phóng viên thường trú như đã từng xảy ra trước khi ban
hành Thông tư...
Công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển sự nghiệp báo chí được thực hiện nghiêm túc, đúng định
hướng và sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Thực hiện ý kiến chỉ
đạo của Bộ Chính trị tại các Thông báo số 162-TB/TW, số 41-TB/TW và số
68-TB/TW về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí,
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 388/QĐ-TTg ngày 13-5-2005 và Chỉ
thị số 37/2006/CT-TTg ngày 29-11-2006 của Thủ tướng Chính phủ thực hiện
kết luận của Bộ Chính trị. Chỉ thị số 37 của Thủ tướng Chính phủ một lần nữa
khẳng định: “Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và

khơng để bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục
vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước”.
Với tinh thần đó, Bộ Thơng tin và Truyền thông đã xây dựng và triển
khai Chương trình hành động thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị và Quyết
định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Bộ đã và đang tiếp tục tiến
hành rà sốt chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí, xác định những ấn
phẩm chồng chéo về tôn chỉ, mục đích, chức năng nhiệm vụ, khơng phù hợp
quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đã trình Thủ tướng
Chính phủ quyết định phê duyệt đề án quy hoạch báo chí in đến năm 2020;
xây dựng Kế hoạch phát triển hệ thống phát thanh - truyền hình địa phương
đến năm 2020...
Công tác xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí được Bộ Thông tin và
Truyền thông quan tâm chỉ đạo thực hiện nên đã đạt được một số kết quả nhất
định.
11


Về báo chí, quán triệt chỉ đạo của Đảng, Ban soạn thảo xây dựng Luật
Báo chí sửa đổi do Bộ Thơng tin và Truyền thơng chủ trì đã hồn thành dự
thảo lần thứ 12 trình Chính phủ, nội dung qn triệt nguyên tắc: sửa Luật Báo
chí là nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; khơng
có báo chí tư nhân; tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí phát triển nhanh, vững
chắc theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, phục vụ sự phát triển của đất nước; khắc phục những mặt hạn chế, thiếu
sót của hoạt động báo chí; đề cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ của các cơ
quan báo chí, nhà báo; trách nhiệm của tồn xã hội đối với hoạt động báo chí
trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần thực hiện
thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.

Cùng với việc sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí hiện hành, quán triệt sự
chỉ đạo của Đảng, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã đồng thời tiến hành
xây dựng mới hoặc rà soát nhằm sửa đổi, bổ sung hàng loạt văn bản pháp lý
để điều chỉnh kịp thời những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn, trong đó có
những vấn đề đặc biệt nhạy cảm và phức tạp như việc quản lý blog, quản lý
nguồn tin trên báo chí, quản lý các văn phịng đại diện và phóng viên thường
trú hoạt động tại các địa phương và nhiều vấn đề cấp bách khác. Trong thời
gian qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã lần lượt ban hành, xây dựng văn
bản trình Chính phủ ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng
như: Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28-5-2007 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quy chế phát ngơn và cung cấp thơng tin cho báo chí. Quyết
định số 22/2009/QĐ-TTg ngày 16-2-2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Quy hoạch Truyền dẫn phát sóng phát thanh, truyền hình đến năm
2020. Thông tư số 07/2007/TT-BVHTT ngày 20-3-2007 hướng dẫn cấp, đổi
và thu hồi thẻ nhà báo; Quyết định số 49/2008/QĐ-BTTTT ngày 26/9/2008
12


ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Bộ Thơng
tin và Truyền thơng; Bộ đã chủ trì phối hợp với các cơ quan có liên quan trình
Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28-8-2008 về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.
Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đang xây dựng và sẽ ban hành
trong thời gian tới một số văn bản như: Thông tư hướng dẫn việc cấp giấy
phép hoạt động báo chí; thu hồi, tịch thu ấn phẩm báo chí; đình bản tạm thời
và thu hồi giấy phép hoạt động báo chí; Thơng tư hướng dẫn việc quản lý chất
lượng tín hiệu đầu cuối truyền hình cáp tương tự; Thơng tư liên bộ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy hệ thống phát thanh,
truyền hình từ tỉnh đến cơ sở; Thông tư hướng dẫn Nghị định số 97/2008/NĐCP về quản lý thông tin trên In-tơ-net...
Về xuất bản, Bộ Thơng tin và Truyền thơng đã tích cực trong việc tham

mưu, đề xuất với Chính phủ và một số bộ, ngành có liên quan từng bước xây
dựng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, như trong vòng gần 5 năm,
2 lần tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản năm 1993
(năm 2004 và năm 2008) và xây dựng hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Xuất bản để triển khai thực hiện đồng bộ khi Luật có hiệu lực thi
hành.
Việc sửa đổi Luật Xuất bản đã bảo đảm thể chế hóa một cách khoa học
và tồn diện các quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xuất
bản, đồng thời bảo đảm sự phát triển ổn định của hoạt động xuất bản cả trước
mắt và lâu dài; đặc biệt tạo sự tự chủ, năng động, sáng tạo cho các đơn vị
trong hoạt động xuất bản. Nội dung sửa đổi, bổ sung đã kế thừa những quy
định còn phù hợp trong Luật Xuất bản năm 1993, bổ sung những vấn đề mới
do thực tiễn và yêu cầu phát triển của hoạt động xuất bản đặt ra; cụ thể hóa

13


những quy định cịn chung chung, mang tính ngun tắc hoặc quá đơn giản;
bỏ những quy định đã lạc hậu hoặc thiếu tính khả thi.
Trong q trình thực thi, Luật Xuất bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng chính trị của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất bản và chất lượng
xuất bản phẩm, khắc phục những quy định khơng cịn phù hợp hoặc thiếu khả
thi do sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn; phân định rõ trách nhiệm,
quyền hạn của các đơn vị xuất bản, các cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý
nhà nước và của cá nhân đối với hoạt động xuất bản, góp phần thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
Mặc dù vậy việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng trong
công tác xây dựng pháp luật về báo chí, xuất bản có những thời điểm cịn
chậm, thiếu sự chủ động.

Tình hình đó có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là do việc xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xuất bản chưa bảo đảm tiến độ
chương trình đề ra dẫn đến cơng tác thể chế hóa đường lối, quan điểm của
Đảng thành pháp luật của Nhà nước bị chậm lại về thời gian.
Việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành các quy định
của pháp luật do Nhà nước ban hành là một nguyên tắc quan trọng trong quy
trình xây dựng pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, địi hỏi những
người làm cơng tác xây dựng pháp luật, chính sách phải nắm chắc đường lối,
quan điểm của Đảng một cách có hệ thống. Thực tế cho thấy một số cán bộ
làm công tác xây dựng pháp luật còn chưa nắm chắc sự chỉ đạo của Đảng liên
quan lĩnh vực chuyên môn nên tỏ ra lúng túng khi triển khai cơng tác này, đây
chính là một trong những ngun nhân khiến cơng tác thể chế hóa chưa mang
tính chủ động.

14


Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
3.1. Hoạch định chiến lược phát triển xuất bản theo định hướng xã
hội chủ nghĩa
Đối với các quốc gia, việc xác lập các mục tiêu phát triển trên từng lĩnh
vực của đời sống kinh tế xã hội được đặt ra như một tất yếu. Các mục tiêu đó
được xây dựng trên cơ sở thực trạng kinh tế - xã hội và xu thế phát triển của
thời đại. Nếu không làm được vấn đề này thì khơng khác người đi đường
khơng có đích. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, sự hoà nhập trong cộng đồng
quốc tế ở đó có nhiều mơ hình phát triển khác nhau, thì việc lựa chọn mơ
hình, bước đi, mục tiêu phát triển phù hợp càng đòi hỏi cấp thiết hơn. Việt
Nam ta vốn là nước chậm phát triển, định hướng cho sự phát triển được đặt ra
từ Đại Hội VI, tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung và cụ thể hoá trong các Đại

hội VII, VIII của Đảng cộng sản, theo tinh thần đổi mới.
Hoạt động xuất bản cũng nằm trong sự địi hỏi phát triển có mục tiêu.
Đây là nội dung quan trọng đầu tiên, định hướng cho việc hình thành hành
lang pháp luật, đảm bảo cho hoạt động xuất bản phát triển. Với ý nghĩa đó,
mục này trình bầy những nội dung cần phải điều chỉnh bằng pháp luật.
Giải pháp cụ thể
Một là: Đa dạng hố và đa năng hố các loại hình xuất bản phẩm, thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của bạn đọc
Hai là: điều chỉnh hợp lý cơ cấu đề tài xuất bản, nâng cao số lượng,
chất lượng xuất bản phẩm đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố và hiện đại hố.
Ba là: Các hình thức sở hữu và kinh doanh trong ngành xuất bản
Bốn là: mở rộng thị trường xuất bản phẩm
Năm là: Cơng nghiệp hố hiện đại hố ngành xuất bản.

15


3.2. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật trên các lính vực khác nhau
của xuất bản
Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xuất bản, từ hoạt động
của các chủ thể xuất bản, in, phát hành, xuất nhập khẩu vật tư thiết bị xuất
bản, xuất nhập khẩu xuất bản phẩm đến hoạt động của các chủ thể trong lập
pháp, hành pháp và tư pháp là các nội dung đa dạng và phong phú cần được
điều chỉnh bằng pháp luật. Các lĩnh vực khác nhau của xuất bản, phải được
quản lý bằng pháp luật gồm nhóm các vấn đề chính sau:
Vấn đề thứ nhất: quyền và nghĩa vụ cơng dân, tổ chức trong hoạt động
xuất bản.
Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hố đã cho họ quyền đó.
Các Nhà nước đã ghi nhận các quyền tự nhiên và cơ bản của con người trong
hiến pháp, các đạo luật và luật thành các quyền công dân. Đồng thời với các

quyền, các nghĩa vụ tương ứng của công dân được phát sinh. Tuỳ theo chế độ
chính trị - xã hội, mỗi Nhà nước có quy định rộng, hẹp vả cơ chế thực hiện
các quyền và nghĩa vụ khác nhau.
Ở Việt Nam, quyền và nghĩa vụ công dân là một trong những nội dung
cơ bản được ghi trong hiến pháp. Tư tưởng nhân văn về quyền con người
được các nhà làm luật nêu ra từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, phát triển
nó trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và Hiến pháp 1992. Trong các quyền
của công dân, thì quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, xuất bản đều được ghi
nhận trong các bản Hiến pháp với các cấp độ khác nhau, theo sự tiến bộ của
kỹ thuật lập pháp. Hiến pháp 1992, tại điều 69 đã ghi: “Cơng dân có quyền tự
do ngơn luận...” Đó là quyền cơ bản của cơng dân.
Vấn đề thứ hai: về xuất bản phẩm.
Xuất bản phẩm là sản phẩm của hoạt động xuất bản, có thuộc tính
riêng, và có vai trị đặc biệt trong đời sống xã hội. Vì vậy, pháp luật về xuất
16


bản phải có quy phạm phù hợp để điều chỉnh, phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt trái, cũng như ngăn ngừa sự độc hại từ nội dung của xuất bản phẩm.
Những nội dung chủ yếu mà pháp luật về xuất bản phải đề cập là:
- Khái niệm về xuất bản phẩm cần được duy danh định nghĩa rõ ràng.
Trong đó phải chứa đựng các đặc trưng cơ bản, là thuộc tính của xuất bản
phẩm. Việc làm này có ý nghĩa đặc biệt nhằm phân biệt xuất bản phẩm với một
số loại hình gần gũi với xuất bản như báo chí, điện ảnh, video truyền hình. Mặt
khác, sự chuẩn xác trong kỹ thuật lập pháp, đảm bảo cho quá trình hoạt động
hành pháp và tư pháp đạt hiệu quả cao trong việc thi hành pháp luật.
- Xuất bản phẩm với các đặc trưng riêng, nó có tác động lớn tới nhận
thức, tư tưởng và tình cảm của con người. Vì vậy, các Nhà nước không thể để
các cơ quan xuất bản muốn xuất bản gì cũng được. Để cho nhân dân có các
món ăn tinh thần lành mạnh, khơng độc hại, phải nghiêm cấm xuất bản những

nội dung nhất định.
- Chế độ kiểm duyệt trong xuất bản có đặt ra hay không là một vấn đề
hệ trọng liên quan đến tự do ngơn luận. Trong trường hợp có kiểm duyệt tác
phẩm trước khi xuất bản thì tình thế và hồn cảnh kiểm duyệt phải xác định rõ
ràng. Làm như vậy nhằm ngăn chặn các hành vi lợi dụng của cơ quan hành
pháp hạn chế quyền tự do ngôn luận của công dân.
Vấn đề thứ ba: điều kiện để trở thành chủ thể xuất bản, in, phát hành
xuất bản phẩm.
Việc ra đời các tổ chức trong mọi Nhà nước, đặc biệt ở Nhà nước pháp
quyền phải thoả mãn các điều kiện cần và đủ. Vì vậy, việc ra đời các chủ thể về
xuất bản, in và phát hành cũng phải được Nhà nước qui định cụ thể về điều kiện.
Về lĩnh vực xuất bản:
Với tính chất hoạt động chuyên nghiệp, và vị trí vai trị của nó trong
đời sống xã hội, các điều kiện ra đời phải bao gồm nội dung sau:
17


- Điều kiện về pháp nhân: pháp luật phải quy định được các loại pháp
nhân thuộc đối tượng có thể đứng tên xin lập nhà xuất bản.
- Điều kiện về sự phù hợp giữa tơn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của
nhà xuất bản với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân đứng tên xin thành lập;
- Điều kiện về nhân thân của người làm giám đốc, tổng biên tập nhà
xuất bản.
Về lính vực in và phát hành:
Các điều kiện thành lập cơ sở in và phát hành cần chú ý nhiều đến vón
hoạt động, và các yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật, việc ứng dụng công
nghệ và thiết bị, sản phẩm in. Tuy nhiên phải có điều kiện về mục tiêu, ngành
nghề kinh doanh. Các điều kiện này rất quan trọng, nhằm ngăn ngừa việc in
nhân bản các sản phẩm độc hại.
Vấn đề thứ tư: các quy định về hoạt động xuất bản

Khi trở thành chủ thể, các tổ chức xuất bản, in, phát hành được hoạt
động theo hành lang do pháp luật xuất bản quy định.
Quyền tự do và quyền chủ động của nhà xuất bản, cơ sở in và phát
hành là quyền được làm tất cả những gì pháp luật xuất bản khơng cấm. Đó là
mục đích của hoạt động lập pháp. Vì như vậy mới phát huy được các nguồn
lực của cơ sở xuất bản. Đồng thời cho phép các cơ quan quyền lực Nhà nước
chỉ được làm những gì pháp luật qui định, nếu khơng pháp luật khơng cịn là
phương tiện, mà trở thành mục đích của các cơ quan quản lý Nhà nước.
Vấn đề thứ năm: quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quyền lực Nhà nước.
Nhà nước với ba bộ phận hợp thành, gồm lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Các cơ quan quyền lực này ra đời, tồn tại và hoạt động trong sự phối
hợp có phân công phân nhiệm theo quy định của Hiến Pháp. Xuất bản là một
hoạt động được các cơ quan của Nhà nước thực hiện vai trò quản lý như mọi
hoạt động khác.
18


KẾT LUẬN
Hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức các nguồn lực xã hội để sáng
tạo ra các tác phẩm văn hoá, nghệ thuật khoa học, sản xuất ra xuất bản phẩm,
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá của xã hội. Vì vậy, xuất bản là “bà đỡ” của
các sản phẩm văn hoá tinh thần, là phương tiện thực hiện việc lưu giữ, bảo tồn
và phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của xã hội loài người. Đồng thời
nó là cơng cụ quan trọng của mỗi quốc gia trong việc nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và là vũ khí đấu trahh giai cấp trong xã hội có
giai cấp. Xuất bản phẩm nói chung, sách nói riêng là một loại hàng hố,
nhưng là hàng hố đặc biệt. Nội dung của nó tác động vào tư tưởng, tình cảm
và nhận thức của con người. Vì vậy, xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn
hoá tư tưởng, đồng thời là hoạt động sản xuất kinh doanh. Những nhận thức
chung về xuất bản được trình bầy ở phần này, nhằm làm rõ tính đa dạng và

phức tạp của các quan hệ xã hội trong xuất bản, địi hỏi Nhà nước có pháp
luật thích hợp để quản lý. Là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật có
những đặc trưng riêng, bắt nguồn từ các quan hệ vật chất về xuất bản. Đó là:
quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật là mở đường cho hoạt động
sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; là bảo tồn, phát
triển nền văn háo dân tộc, hiện đại và nhân văn, tiếp thu tinh hoa văn hố và
tiến bộ về khoa học - cơng nghệ của nhân loại; là quản lý hoạt động thuộc lĩnh
vực văn hoá tư tưởng đồng thời là hoạt động sản xuất kinh doanh. Chín vì
vây, pháp luật là phương tiện tạo lập môi trường tự do sáng tạo, bảo vệ lợi ích
hợp pháp của các tác giả; đảm bảo cho xuất bản phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, loại trừ xuất bản phẩm độc hại, nâng cao hiệu quả công ty,
kinh tế xã hội trong xuất bản, chống thương mại hoá xuất bản; đồng thời là
phương tiện bảo vệ lợi ích người tiêu dùng xuất bản phẩm.
19



×