Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Giải pháp pháp lý nhằm phát triển ngành dịch vụ Logistics ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.33 KB, 64 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất đến giảng viên – Tiến sĩ Nguyễn Thành
Đức đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới những giảng viên trong Trường Đại học Công nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là những Thầy, Cô giáo trong Khoa Luật đã dạy em
trong suốt thời gian qua.
Do điều kiện về năng lực bản thân còn hạn chế nên khóa luận chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu sót, em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các Thầy Cô
trong hội đồng và bạn bè để khóa luận của em được hồn thiện hơn.
Sau cùng em xin kính chúc q Thầy Cơ thật dồi dào sức khỏe để tiếp tục thực hiện
sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Em xin trân trọng cảm ơn.


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đề tài: “Giải pháp pháp lý nhằm phát triển ngành dịch vụ logistics
ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” là một cơng trình nghiên cứu độc
lập của bản thân. Đề tài là một sản phẩm mà em đã nỗ lực nghiên cứu trong quá trình
học tập tại Khoa Luật – Trường Đại học Cơng nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Trong q
trình viết bài có sự tham khảo một số tài liệu có nguồn gốc rõ ràng, dưới sự hướng dẫn
của giảng viên – TS. Nguyễn Thành Đức – Trưởng khoa Luật trường Đại học Công nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh. Em xin cam đoan nếu có vấn đề gì em xin chịu mọi trách
nhiệm.

Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Phạm Ngọc Thùy Giang


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


- ASEAN : Association of South East Asian Nations – Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á.
- DWT : Deadweight tonnage – Đơn vị đo năng lực vận tải an tồn của tàu tính
bằng tấn.
- EU
: European Union – Liên minh châu Âu
- GATS : General Agreement on Trade in Services – Hiệp định chung về Thương
mại dịch vụ của WTO.
- FTA : Free trade agreement – Hiệp định thương mại tự do
- WTO : World Trade Organization – Tổ chức Thương mại Thế giới


1

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài: .............................................................................................................................. 3
2. Mục đích nghiên cứu: ....................................................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .................................................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu:................................................................................................................. 4
5. Kết cấu khóa luận: ............................................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS............................................................................ 5
1.1. Khái niệm về logistics ........................................................................................... 5
1.2. Lịch sử hình thành và các giai đoạn phát triển của dịch vụ logistics .................... 7
1.2.1. Lịch sử hình thành ........................................................................................... 7
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của ngành dịch vụ logistics ...................................... 8
1.3. Đặc điểm và vai trò của dịch vụ logistics ............................................................ 10
1.3.1. Đặc điểm của dịch vụ logistics ...................................................................... 10
1.3.2. Vai trò của dịch vụ logistics .......................................................................... 11

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
DỊCH VỤ LOGISTICS ................................................................................................................... 16
2.1. Khái niệm dịch vụ logistics ................................................................................ 16
2.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics............................................................... 17
2.3. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics .......................... 21
2.4. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng .................................................................... 22
2.5. Trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics ........... 23
2.6. Giới hạn trách nhiệm .......................................................................................... 26
2.7. Quyền cầm giữ, định đoạt hàng hóa và nghĩa vụ khi cầm giữ hàng hóa ............ 28
2.8. Quy định về hợp đồng liên quan đến dịch vụ logistics....................................... 30


2

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS ............................................... 32
3.1. Đánh giá chung về dịch vụ logistics tại Việt Nam .............................................. 32
3.1.1. Những thuận lợi trong hoạt động logistics tại Việt Nam .............................. 32
3.1.2. Những mặt yếu kém trong hoạt động logistics tại Việt Nam ........................ 35
3.2. Đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics .................. 38
3.2.1. Những điểm thành công ................................................................................ 39
3.2.2. Những hạn chế ............................................................................................... 40
3.3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics ................... 43
3.3.1. Phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ........................ 44
3.3.2. Phù hợp với các cam kết Quốc tế của Việt Nam........................................... 47
3.3.3. Phù hợp với thực trạng của ngành dịch vụ logistics ..................................... 48
3.3.4. Đảm bảo tính minh bạch ............................................................................... 48
3.4. Các kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ
logistics ....................................................................................................................... 49
3.4.1. Hoàn thiện khái niệm logistics ...................................................................... 49

3.4.2. Hoàn thiện quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics ................... 50
3.4.3. Hoàn thiện quy định về trường hợp miễn trách nhiệm ................................. 50
3.4.4. Hoàn thiện quy định về hình thức hợp đồng ................................................. 51
3.4.5. Hồn thiện quy định về chứng từ .................................................................. 51
3.4.6. Tăng cường phổ biến, tuyên truyền pháp luật về dịch vụ logistics ............... 52
3.4.7. Nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics .................................................................................................................... 53
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................................. 56


3

Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Hội nhập, cạnh tranh và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong những
thập kỷ qua đã tác động mạnh mẽ đến hệ thống phân phối trên toàn thế giới, tạo ra sự
biến đổi nhanh chóng về cơng nghệ trong lĩnh vực vận tải, lưu kho và dịch vụ khách
hàng. Quá trình vận tải đã gắn kết chặt chẽ với q trình sản xuất và lưu thơng trong một
chuỗi cung ứng liên hoàn. Dịch vụ logistics ra đời và phát triển nhằm đáp ứng q trình
phân phối và lưu thơng hàng hóa trên tồn cầu, góp phần quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế, bố trí hợp lý nguồn tài nguyên và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường quốc tế. Ở Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch
vụ logistics nhưng vẫn chỉ dừng lại ở vai trò là người làm thuê cho các tập đoàn nước
ngoài và chiếm một phần rất nhỏ trong thị trường dịch vụ logistics. Trong tương lai,
trước bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế, dịch vụ giao nhận kho vận (logistics)
đóng vai trị quan trọng trong chuỗi cung ứng và nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng
hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Điều này tạo áp lực không nhỏ cho ngành logistics
cịn chưa hồn thiện của Việt Nam. Và vấn đề đặt ra là Chính phủ Việt Nam đã, đang và
sẽ xây dựng hành lang pháp lý như thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh

nghiệp trong nước phát triển tồn diện và có đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp
nước ngoài. Để giải quyết vấn đề này, việc nghiên cứu về logistics, về cơ chế pháp lý
liên quan là một vấn đề mang tính cấp bách. Đây cũng là lí do để em chọn đề tài: “Giải
pháp pháp lý nhằm phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế Quốc tế”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Khóa luận này nhằm mục đích phân tích, đánh giá thực trạng dịch vụ logistics ở Việt
Nam và những quy định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics. Trên cơ sở đó chỉ
ra những điểm phù hợp và chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam về dịch vụ này, đồng
thời đưa ra một số giải pháp và kiến nghị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Do tính chất đa dạng về chủ thể và nội dung của dịch vụ logistics là rất rộng và phức
tạp, liên quan đến nhiều chuyên ngành như kinh tế học, quản trị học, luật kinh tế, v.v…
Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của khóa luận chỉ giới hạn ở pháp luật điều chỉnh mối
quan hệ thương mại hình thành trong quá trình thương nhân cung cấp dịch vụ logistics


4

cho khách hàng. Đối với một số nội dung liên quan khác, khóa luận chỉ đề cập ở mức độ
nhất định, trong mối quan hệ cần thiết nhằm tạo lập cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong q trình nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp, dẫn chiếu đến các luật và các cam kết quốc tế,… nhằm đạt được yêu cầu đặt
ra đối với khóa luận.
5. Kết cấu khóa luận:
Khóa luận tốt nghiệp ngồi phần lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo có kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về logistics.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics.

Chương 3: Giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam
về dịch vụ logistics.


5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS
1.1. Khái niệm về logistics
Thuật ngữ logistics trên thế giới đã rất phát triển nhưng tại Việt Nam thuật ngữ này
còn tương đối mới mẻ. Nhiều người chỉ hiểu logistics là một hoạt động tương đối đặc
thù có liên quan chặt chẽ với việc vận tải và giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu. Nhưng
trên thực tế, khái niệm này còn rộng hơn rất nhiều, logistics được áp dụng trong rất nhiều
lĩnh vực khác nhau như quân sự, kinh tế, xã hội,…
“Logistics” là một trong những số ít thuật ngữ khó dịch nhất (giống như từ
“marketing”) từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt và thậm chí cả những ngơn ngữ khác bởi vì
bao hàm nghĩa của từ này quá rộng nên không một từ ngữ đơn giản nào có thể truyền tải
được hết ý nghĩa của nó.
Về mặt lịch sử, thuật ngữ “logistics” bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh cổ đại của đế
chế Hy Lạp và La Mã. Khi đó những chiến binh có chức danh “Logistikas” được giao
nhiệm vụ chu cấp và phân phối vũ khí và nhu yếu phẩm, đảm bảo điều kiện cho quân sỹ
hành quân an toàn từ bản doanh đến một vị trí khác. Cơng việc “hậu cần” này có ý nghĩa
sống còn đến cục diện của chiến tranh, khi các bên tìm mọi cách bảo vệ nguồn cung ứng
của mình và tìm cách triệt phá nguồn cung ứng của đối phương.1
Trải qua dòng chảy lịch sử cùng với quá trình phát triển, logistics đã được chun mơn
hóa và phát triển trở thành một ngành dịch vụ đóng vai trị quan trọng trong giao thương
quốc tế. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics trên thế giới và được xây dựng
căn cứ trên ngành nghề và mục đích nghiên cứu về dịch vụ logistics, tuy nhiên có thể
nêu một số khái niệm chủ yếu sau:
Theo Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ - 1988 (CLM – Council of Logistics
Management) định nghĩa: Logistics là quá trình lên kế hoạch, thực hiện và kiểm sốt

hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn,
thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích
thỏa mãn yêu cầu của khách hàng.2
Theo Ủy ban quản lý logistics của Hoa Kỳ: Logistics được hiểu là quá trình lập kế
hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm sốt việc di chuyển và bảo
quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành
1

/>TS. Phan Văn Hòa (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, NXB.
Lao động – Xã hội, trang 17
2


6

phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho
đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối để cùng đáp ứng yêu cầu khách hàng.3
Theo Liên hợp quốc (Khóa đào tạo quốc tế về vận tải đa phương thức và quản lý
Logistics, Đại học Ngoại Thương, tháng 10/2002): Logistics là hoạt động quản lý quá
trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra thành phẩm cho tới
tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng.4
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): Logistics liên quan đến việc quản lý dây chuyền
cung cấp hoàn chỉnh một sản phẩm đặc thù, bao gồm vận tải nguyên liệu đầu vào và sản
phẩm đầu ra, lưu kho, phân phối, liên kết các phương thức vận tải và các dịch vụ tạo điều
kiện cho thương mại.5
Trong lĩnh vực quận sự, logistics được định nghĩa là khoa học của việc lập kế hoạch,
tiến hành di chuyển và tập trung các lực lượng, các mặt trong chiến dịch quân sự liên
quan đến việc thiết kế và phát triển, mua lại, lưu kho, di chuyển, phân phối, tập trung,
sắp đặt và di chuyển khí tài, trang thiết bị.6
Khác với thuật ngữ “logistics”, thuật ngữ “dịch vụ logistics” chưa được đề cập nhiều

đến trong các tài liệu trên thế giới. Ngược lại ở Việt Nam, khái niệm về logistics lại
không được đề cập đến mà thay vào đó Luật Thương mại 2005 chỉ đưa ra định nghĩa về
“dịch vụ logistics”: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ
chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu
bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì,
ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa
thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.7
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng các khái niệm về dịch vụ logistics có
thể chia làm hai nhóm:
Nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật Thương mại 2005. Bởi vì
pháp luật quy định mang tính liệt kê đối với dịch vụ logistics, cụ thể là chỉ được thực
hiện theo các công đoạn được quy định tại Điều 233, đó là nhận hàng, vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói
bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo
thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Chính vì định nghĩa như vậy có thể dẫn đến
Trích dẫn như trên, trang 17
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân (2003), Logistics – Những vấn đề cơ bản, Lao động – Xã hội, trang 30
5
/>6
TS. Phan Văn Hòa (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, NXB.
Lao động – Xã hội, trang 17
7
Quy định tại Điều 233 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005
3
4


7

việc hiểu là những hoạt động không thuộc các hoạt động nêu trên tất yếu không phải là

hoạt động của dịch vụ logistics. Tuy nhiên định nghĩa cũng mang yếu tố mở khi có quy
định “hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa”, do đó có thể hiểu là khi những
hoạt động chưa được pháp luật ghi nhận vẫn có thể là hoạt động trong dịch vụ logistics
nếu liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng. Khái niệm logistics trong
một số lĩnh vực chuyên ngành cũng được coi là có nghĩa hẹp, tức là chỉ bó hẹp trong
phạm vi, đối tượng của ngành đó (như khái niệm trong lĩnh vực quân sự). Theo cách
định nghĩa này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá
trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ và dịch vụ logistics mang
nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics theo khái niệm này khơng có nhiều
khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức.
Nhóm định nghĩa thứ hai về dịch vụ logistics có phạm vi rộng. Theo nhóm định nghĩa
này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho
quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để
đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này của dịch vụ logistics góp phần
phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ giao nhận, vận
tải, phân phối, khai thuế hải quan,… với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên
nghiệp – người sẽ đảm nhận tất cả các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa
đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên
nghiệp địi hỏi phải có chun mơn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ mang tính
“trọn gói” này.
Qua các định nghĩa và phân tích trên cho thấy, logistics khơng phải là một dịch vụ
hoạt động đơn lẻ, logistics là một chuỗi các hoạt động cung ứng nguyên vật liệu và phân
phối hàng hóa đúng số lượng, đúng nơi, đúng lúc nhằm tiết kiệm chi phí và tạo giá trị lợi
nhuận cho doanh nghiệp cung ứng logistics trong sản xuất kinh doanh.
1.2. Lịch sử hình thành và các giai đoạn phát triển của dịch vụ logistics
1.2.1. Lịch sử hình thành
Cùng với tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới, logistics ngày càng được mở rộng
và nâng cao, trở thành một ngành dịch vụ chiếm vai trị khơng thể thiếu trong sự vận
động của giao thương quốc tế. Tuy nhiên, nguồn gốc ra đời của logistics lại rất đặc biệt.
Lý do đầu tiên để logistics được hình thành khơng phải xuất phát từ cung ứng cho hoạt

động thương mại mà là để phục vụ cho chiến tranh.
Logistics được coi là một nhánh trong nghệ thuật chiến đấu, đó chính là việc vận
chuyển và cung cấp lương thực, thực phẩm, trang thiết bị,… đúng lúc, đúng nơi khi cần
thiết cho lực lượng chiến đấu. Logistics đã giúp quân đội các nước tham chiến gặt hái


8

được những chiến thắng. Điển hình là cuộc chiến đấu của quân đội Hoàng gia Pháp với
Hải quân Anh ở thế kỷ XVII-XVIII.
Trong chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh thế giới thứ II, rất nhiều kỹ năng của logistics
được biết đến nhưng lại bị lãng quên trong hoạt động kinh tế thời hậu chiến vì lúc này,
sự chú ý đang hướng vào việc đáp ứng những nhu cầu hàng hóa sau chiến tranh. Phải
đến thời kì suy thối kinh tế và những năm 50 của thế kỷ XX thì những nhà quản trị mới
bắt đầu nghiên cứu mạng lưới phân phối hàng hóa. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 1958 và việc thu hẹp lợi nhuận đã thúc đẩy các doanh nghiệp tìm kiếm các hệ thống
kiểm sốt chi phí để đạt hiệu quả hơn. Qua nghiên cứu thực tế, các doanh nghiệp đều
nhận ra rằng: “việc logistics ra đời và phát triển trong doanh nghiệp là một yếu tố tất yếu
nếu doanh nghiệp muốn đạt được lợi nhuận cao nhất trong quá trình hoạt động, sản xuất
kinh doanh”. Nguyên nhân chính xuất phát từ các yếu tố như: chi phí vận tải tăng nhanh,
các ngành hàng sản xuất gia tăng nhanh chóng, hiệu quả trong sản xuất đạt tới đỉnh cao,
công nghệ thông tin đã tạo nên sự thay đổi lớn trong sản xuất – kinh doanh của doanh
nghiệp. Chính vì lẽ đó, logistics đã được nghiên cứu mở rộng ứng dụng trong lĩnh vực
kinh doanh, trở thành một ngành dịch vụ quan trọng trong chuỗi cung ứng sản xuất, mua
bán hàng hóa.
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của ngành dịch vụ logistics
Theo Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP), quá trình phát
triển logistics trải qua 3 giai đoạn từ chỗ chỉ thực hiện các hoạt động logistics đơn lẻ rồi
kết hợp logistics đầu vào và logistics đầu ra đến phối hợp hoàn toàn thành dây chuyền
cung ứng mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Giai đoạn 1: Phân phối vật chất
Vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX, người ta quan tâm đến việc quản lý có hệ thống
những hoạt động có liên quan với nhau để đảm bảo hiệu quả việc giao hàng, thành phẩm
và bán thành phẩm… cho khách hàng. Những hoạt động đó là: vận tải, phân phối, bảo
quản, định mức tồn kho, bao bì đóng gói, di chuyển nguyên liệu… Những hoạt động này
gọi là phân phối vật chất hay logistics đầu vào.
Giai đoạn 2: Hệ thống logistics
Vào những năm 80-90 của thế kỷ XX, các công ty kết hợp chặt chẽ sự quản lý của 2
mặt (đầu vào và đầu ra) để giảm tối đa chi phí cũng như tiết kiệm chi phí. Sự kết hợp
chặt chẽ giữa cung ứng nguyên liệu cho sản xuất với phân phối sản phẩm đến tay người
tiêu dùng đã đảm bảo tính liên tục và ổn định của các luồng vận chuyển. Sự kết hợp đó
được mơ tả là hệ thống logistics.


9

Giai đoạn 3: Quản lý dây chuyền cung cấp
Giai đoạn này diễn ra từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay. Quản lý dây
chuyền cung cấp là khái niệm có tính chiến lược về quản lý dãy nối tiếp các hoạt động
từ người cung ứng – đến người sản xuất – đến khách hàng cùng với dịch vụ làm tăng
thêm giá trị sản phẩm như cung ứng chứng từ liên quan, theo dõi, kiểm tra… Khái niệm
này coi trọng đối tác, phát triển đối tác, kết hợp giữa doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
với người cung ứng, khách hàng cũng như những người liên quan đến hệ thống quản lý
(các công ty vận tải, lưu kho, những người cung cấp công nghệ thông tin…). Như vậy,
logistics được phát triển từ việc áp dụng các kỹ năng “tiếp vận”, “hậu cần” trong quân
đội để giải quyết những vấn đề phát sinh của thực tế sản xuất – kinh doanh và đến nay
được hoàn thiện trở thành hệ thống quản lý mang lại hiệu quả cao.8
Theo Jacques Colin – giáo sư về khoa học quản lý tại trường Đại học Aix – Marseille
II, giám đốc trung tâm nghiên cứu về vận tải và logistics thì sự ra đời và phát triển của
logistics trải qua các thời kì sau:

Giai đoạn những năm 50, 60 của thế kỷ XX:
Giai đoạn thử nghiệm này được bắt đầu từ việc nghiên cứu các tác nghiệp và những
kỹ thuật tối ưu hóa ứng dụng để giải quyết những vấn đề trong vận chuyển và kho hàng…
Giai đoạn những năm 70 của thế kỷ XX:
Đây là thời kỳ khởi động logistics trong doanh nghiệp. Trong thời kỳ này, Logistics
trước hết là nghiên cứu việc tối ưu hóa các bộ phận tách biệt (quản lý kho bãi, quản lý
hàng tồn kho, luân chuyển giao hàng…) và hợp lý hóa cơ cấu của doanh nghiệp. Sự tìm
kiếm tính liên tục trong vận hành doanh nghiệp là đặc điểm chính của logistics sản xuất
ở thời kỳ này.
Giai đoạn những năm 80 đến 90 của thế kỷ XX:
Giai đoạn này là giai đoạn phát triển của logistics. Đây là giai đoạn logistics hướng
vào việc phối hợp các bộ phận chịu trách nhiệm lưu chuyển các luồng hàng trong doanh
nghiệp, xóa bỏ sự ngăn cách giữa các bộ phận đó. Mối quan tâm của những người điều
hành các luồng luân chuyển này tập trung vào khâu lưu thơng hàng hóa.
Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay:
Đây là thời kỳ logistics được phát triển cả bề sâu lẫn bề rộng, huy động toàn bộ các
nguồn lực bên trong của doanh nghiệp, nhất là các nguồn lực bên ngồi doanh nghiệp
TS. Phan Văn Hịa (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, NXB.
Lao động – Xã hội
8


10

(nguồn lực của các đối tác) để xây dựng hệ thống logistics phức tạp, đa chủ thể có quan
hệ chặt chẽ và phụ thuộc qua lại lẫn nhau. Hệ thống này cho phép thực hiện nhiều giao
dịch dẫn đến sự hòa nhập của các chủ thể vào cùng một tiến trình hoạt động của doanh
nghiệp.9
1.3. Đặc điểm và vai trị của dịch vụ logistics
1.3.1. Đặc điểm của dịch vụ logistics

Logistic là một quá trình, là một chuỗi các hoạt động liên tục, liên quan mật thiết và
tác động qua lại với nhau, được thực hiện một cách khoa học và có hệ thống thơng qua
các bước: nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, thực hiện, kiểm tra, kiểm soát, hồn
thiện. Do đó ligistics xun suốt trong mọi giai đoạn, từ khâu đầu vào cho đến giai đoạn
tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Cũng chính vì lẽ đó, ngành dịch vụ logistics có những đặc
điểm khác hơn so với các ngành dịch vụ còn lại.
Thứ nhất, về chủ thể dịch vụ logistics:
Theo pháp luật Việt Nam quy định, trước hết thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh và được thành lập hợp pháp theo pháp luật
Việt Nam. Do đó, các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc
giấy phép đầu tư bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và
đáp ứng đủ những yêu cầu luật định thì mới được quyền kinh doanh dịch vụ logistics.
Ngoài ra, đối với thương nhân nước ngồi, pháp luật cịn quy định thương nhân đó phải
đáp ứng đủ điều kiện trong từng trường hợp nhất định như: hình thức hoạt động của cơng
ty, tỉ lệ góp vốn,… thì mới được phép kinh doanh dịch vụ logistics.
Thứ hai, về nội dung của dịch vụ logistics: nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng,
bao gồm các công việc như:
Nhận hàng từ người gửi để tổ chức vận chuyển: đóng gói bao bì, ghi mã kí hiệu;
chuyển hàng từ kho của người gửi đến cảng, bến tàu, bến xe và địa điểm giao hàng khác
theo thỏa thuận giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển.
Làm thủ tục, giấy tờ cần thiết (thủ tục hải quan, vận đơn vận chuyển, làm thủ tục gửi
giữ hàng hóa, làm các thủ tục nhận hàng,…) để gửi hàng hóa hoặc nhận hàng hóa được
vận chuyển đến.
Giao hàng hóa cho người vận chuyển; xếp hàng hóa lên phương tiện vận chuyển theo
quy định; nhận hàng hóa được vận chuyển đến.
9

/>

11


Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng hóa hoặc thực hiện việc giao
hàng hóa được vận chuyển đến cho người nhận hàng.
Thứ ba, logistics là một quá trình bao gồm một chuỗi các hoạt động liên tục và giữa
các hoạt động này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chính vì điều này mà cách viết
chính xác phải là logistics chứ khơng thể là logistic. Logistics bao gồm rất nhiều hoạt
động: vận chuyển, bốc xếp, đóng gói, dán nhãn, lưu kho, lưu bãi, khai thuế hải quan,
phân phối,… nhằm cung cấp các nguồn lực cho hoạt động sản xuất và đưa thành phẩm
đến người tiêu dùng. Ví dụ: để có được hàng hóa, thành phẩm bán cho người tiêu dùng,
cơng ty sản xuất ra nó phải có hoạt động thu mua nguyên, nhiên liệu, bao bì, th nhân
cơng lao động,… trước khi sản xuất. Logistics chính là các hoạt động nhằm dịch chuyển,
cung cấp các nguồn lực đầu vào từ rất nhiều địa điểm đến nhà sản xuất, quản lý điều tiết
vật tư hàng hóa trong q trình sản xuất, sau đó đưa thành phẩm đến tay người tiêu dùng
theo yêu cầu của thị trường, có thể là tại mọi nơi trên thế giới, và quản lý luồng thông
tin ở chiều ngược lại. Giữa các hoạt động logistics đều có mối liên hệ chặt chẽ, bởi vì
chúng cùng nằm trong một q trình, nếu khơng có sự thống nhất sẽ dẫn đến xung đột
gây khó khăn cho sản xuất và tiêu thụ, tăng chi phí và làm giảm sức cạnh tranh của hàng
hóa trên thị trường.
Thứ tư, dịch vụ logistics là bước phát triển cao hơn và hoàn chỉnh hơn các dịch vụ
liên quan đến hàng hóa như vận tải, đóng gói bao bì, giao nhận hàng hóa, lưu kho, lưu
bãi. Thương nhân cung ứng dịch vụ logistics có thể cung cấp các dịch vụ riêng lẻ như
thuê tàu, đóng gói hàng hóa, đăng ký mã hiệu, làm thủ tục hải quan… hoặc cung cấp
những dịch vụ trọn gói. Thương nhân cung cấp dịch vụ logistics thực hiện dịch vụ theo
chuỗi, có sự sắp xếp hợp lý nhằm tiết kiệm chi phí, thời gian từ nhận hàng, đóng gói bao
bì, ghi ký mã hiệu, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, chuẩn bị giấy tờ, làm thủ tục hải quan
và giao hàng tới cho người nhận.
Thứ năm, logistics hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp: dịch vụ logistics có vai trị
quan trọng đối với q trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Dịch vụ logistics có
thể hỗ trợ tồn bộ các khâu trong hoạt động doanh nghiệp, từ chuẩn bị nguyên liệu, sản
xuất đến khi sản phẩm được đưa ra khỏi doanh nghiệp đến tay người tiêu dùng. Các

doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics nhằm mục đích đưa hàng hóa đến tay người tiêu
dùng nhanh chóng, hạn chế tối đa rủi ro.
1.3.2. Vai trò của dịch vụ logistics
1.3.2.1. Tầm quan trọng của logistics đối với nền kinh tế


12

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới theo hướng tồn cầu hóa,
dịch vụ logistics được nhìn nhận như một hệ thống kết nối và mở rộng thị trường sản
xuất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển về cả quy mô lẫn tốc độ và hiệu quả.
Phát triển dịch vụ logistics một cách hiệu quả sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế và quốc gia. Trong xu thế toàn cầu mạnh mẽ như hiện nay, sự cạnh tranh
giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt hơn. Điều này làm
cho dịch vụ logistics được coi là một chức năng kinh tế, đóng vai trị quan trọng trong
nền kinh tế tồn cầu.
Lưu thơng phân phối hàng hóa, trao đổi giao lưu thương mại giữa các vùng trong nước
với nhau và với nước ngoài là hoạt động thiết yếu của nền kinh tế. Nếu các hoạt động
này thơng suốt, có hiệu quả thì sẽ góp phần to lớn làm cho các ngành sản xuất phát triển;
cịn nếu các hoạt động này bị trì trệ thì sẽ tác động xấu đến toàn bộ việc sản xuất và đời
sống.
Khi thị trường toàn cầu phát triển với các tiến bộ công nghệ, đặc biệt là việc mở cửa
thị trường ở các nước đang và chậm phát triển, logistics được các nhà quản lý coi như là
công cụ, một phương tiện liên kết các lĩnh vực khác nhau của chiến lược doanh nghiệp.
Thế giới ngày nay được nhìn nhận như các nền kinh tế liên kết, các công ty xuyên quốc
gia có các chi nhánh, các cơ sở sản xuất, cung ứng và dịch vụ đặt ở nhiều nơi, ở nhiều
quốc gia khác nhau, do đó các cơng ty này đã áp dụng hệ thống logistics toàn cầu để đảm
bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, khắc phục ảnh hưởng của các yếu
tố cự ly, thời gian và chi phí sản xuất. Ví dụ như thị trường tam giác gồm 3 khu vực địa
lý: Nhật, Mỹ - Canada và EU. Trong thị trường tam giác này, các công ty trở nên quan

trọng hơn quốc gia vì quyền lực kinh tế của họ đã vượt quá biên giới quốc gia, quốc tịch
của công ty trở nên mờ nhạt (như hoạt động của Toyota hiện nay, mặc dù phần lớn cổ
đông của Toyota là người Nhật và thị trường quan trọng nhất của Toyota là Mỹ nhưng
phần lớn xe Toyota bán tại Mỹ được sản xuất tại nhà máy của Mỹ thuộc sở hữu của
Toyota). Như vậy quốc tịch của Toyota đã bị mờ đi nhưng đối với thị trường Mỹ thì rõ
ràng Toyota là nhà sản xuất một số loại xe ô tô và xe tải có chất lượng cao.10
Những nước kết nối tốt với mạng lưới dịch vụ logistics tồn cầu thì có thể tiếp cận
được nhiều thị trường và người tiêu dùng từ các nước trên thế giới. Chẳng hạn như Chi
lê – một nước mặc dù ở cách xa hầu hết các thị trường lớn nhưng lại có vai trị rất lớn
trong thị trường lương thực thế giới, cung cấp cá tươi và hoa quả khó bảo quản cho người
tiêu dùng ở Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Đối với những nước khơng có khả năng kết
TS. Phan Văn Hịa (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, NXB.
Lao động – Xã hội, trang 28
10


13

nối này, chi phí logistics sẽ rất cao và ngày càng gia tăng, khả năng mất cơ hội cũng rất
lớn nhất là các nước nghèo nằm sâu trong đất liền mà phần lớn là ở Châu Phi.
Hệ thống logistics góp phần vào việc phân phối các ngành sản xuất một cách hợp lý
để đảm bảo sự cân đối và tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Mỗi một vùng địa lý có
những đặc điểm về địa hình khác nhau, nguồn tài ngun khống sản khác nhau và có
phương thức lao động, tập quán khác nhau. Do đó cần phải có sự phân bố, sắp xếp các
ngành sản xuất, các khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế sao cho phù hợp với những
điều kiện riêng và tổng thể nhằm phát huy được các nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
Logistics đóng vai trị quan trọng trong việc đảm bảo yếu tố đúng thời gian, đúng địa
điểm. Q trình tồn cầu hóa kinh tế đã làm cho hàng hóa và sự vận động của chúng
phong phú và phức tạp hơn, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ, đặt ra yêu cầu mới đối với dịch
vụ vận tải giao nhận. Đồng thời để tránh hàng tồn kho, doanh nghiệp phải làm sao để

lượng hàng tồn kho luôn là nhỏ nhất. Kết quả là hoạt động lưu thơng nói chung và hoạt
động logistics nói riêng phải đảm bảo yêu cầu giao hàng đúng lúc, kịp thời. Mặt khác
phải đảm bảo mục tiêu khống chế lượng hàng tồn kho ở mức tối thiểu. Sự phát triển
mạnh mẽ của tin học cho phép kết hợp chặt chẽ quá trình cung ứng, sản xuất, lưu kho
hàng hóa, tiêu thụ với vận tải giao nhận, làm cho cả quá trình này trở nên hiệu quả hơn,
nhanh chóng hơn nhưng đồng thời cũng diễn ra phức tạp hơn.
1.3.2.2. Lợi ích khi áp dụng dịch vụ logistics vào doanh nghiệp
Hệ thống logistics với sự kết hợp liên hoàn các hoạt động riêng lẻ mang lại rất nhiều
lợi ích cho doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Đối với doanh nghiệp, logistics
khơng những phát huy vai trị tối ưu hóa q trình lưu chuyển hàng hóa, vật tư, mà còn
phối hợp và hỗ trợ các bộ phận khác thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Logistics có thể vừa giúp doanh nghiệp đảm bảo cung ứng kịp thời đầu vào cho quá trình
sản xuất của doanh nghiệp, vừa tối ưu hóa đầu ra cho sản phẩm, kiểm soát và sử dụng
hợp lý hiệu quả các nguồn lực,.. nhờ đó giúp doanh nghiệp giảm chi phí, sức lực, thời
gian; đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày một tốt hơn, duy trì mối quan hệ làm ăn với
các đối tác, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường mà vẫn đảm bảo cho việc tăng lợi
nhuận.
1.3.2.2.1. Giảm chi phí
Giá cả hàng hóa mua bán trên thị trường được xác định bởi nhiều yếu tố mà quan
trọng nhất là yếu tố giá vốn hàng hóa và chi phí vận tải. Đặc biệt trong giao thương quốc
tế, chi phí vận tải sẽ chiếm tỷ trọng không nhỏ và là bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa
trên thị trường. Vận tải có nhiệm vụ đưa hàng hóa đến nơi tiêu dùng và tạo khả năng để
thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Trong bn bán quốc tế, chi phí vận tải


14

chiếm tỉ trọng khá lớn, theo số liệu thống kê của UNCTAD11 thì chi phí vận tải đường
biển chiếm trung bình 10-15% giá FOB hay 8-9% giá CIF. Mà vận tải lại là yếu tố quan
trọng nhất trong hệ thống logistics, vậy nên dịch vụ logistics ngày càng hoàn thiện và

phát triển sẽ tiết kiệm chi phí vận tải và các chi phí khác phát sinh trong q trình lưu
thơng hàng hóa. Nếu tính cả chi phí vận tải thì tổng chi phí logistics (bao gồm đóng gói,
vận tải, lưu kho, quản lý,…) ước tính chiếm đến 20% tổng chi phí sản xuất ở các nước
phát triển, trong khi đó nếu chỉ tính riêng chi phí vận tải có thể chiếm tới 40% giá trị
xuất khẩu của một số nước khơng có đường bờ biển.
Ngồi ra, mục tiêu của logistics là tối thiểu hóa thời gian chờ đợi tại các điểm nên
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics sẽ sắp xếp lịch trình phù hợp cho hàng hóa để
hàng tới cảng là được bốc ngay lên phương tiện vận chuyển và khi đến cảng đích là được
dỡ ngay xuống giao cho chủ hàng, từ đó giảm được thời gian hàng phải nằm chờ tại kho
của cảng hay ngay trên phương tiện vận tải, chủ hàng cũng như người vận tải sẽ khơng
phải tốn thêm chi phí lưu kho hay chi phí phạt chậm dỡ hàng hoặc những chi phí ảnh
hưởng trực tiếp đến giá thành cung cấp dịch vụ. Việc áp dụng logistics giúp việc vận
chuyển hàng hóa sẽ được quản lý sao cho hàng hóa khơng bị ách tắc ở bất kì khâu nào.
Nhờ đó giúp rút ngắn thời gian chuyên chở hàng hóa và tiết kiệm được chi phí lưu kho,
lưu bãi và những chi phí khác.
1.3.2.2.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ
Mục đích của logistics là đưa đúng hàng đến đúng nơi và đúng lúc. Vì vậy việc ứng
dụng dịch vụ logistics trong vận tải biển giúp giảm chi phí, giảm thời gian “chết” tàu và
hàng phải chờ đợi để được giải phóng. Nhờ vậy chất lượng dịch vụ logistics được nâng
lên. Các doanh nghiệp giao nhận vận tải ứng dụng logistics trong hoạt động của mình sẽ
có sức cạnh tranh tốt hơn so với các doanh nghiệp giao nhận vận tải thơng thường vì yếu
tố giá cả và chất lượng của dịch vụ là hai yếu tố quan trọng nhất tác động tới chủ hàng
trong việc quyết định nên thuê người cung cấp dịch vụ giao nhận vận tải nào.
Một trong những yêu cầu cần thiết khi ứng dụng dịch vụ logistics là phải có hệ thống
kho tiêu chuẩn và hệ thống quản lý mạng chuẩn. Khi sử dụng các dịch vụ tiêu chuẩn
quốc tế như vậy thì đương nhiên chất lượng dịch vụ giao nhận - vận tải cũng tăng theo
như một hệ quả tất yếu. Tuy nhiên những năm trước ở Việt Nam, khi các doanh nghiệp
mới chập chững bước vào thị trường logistics, các công đoạn thực hiện hoạt động giao
nhận vận tải vẫn được tiến hành một cách thủ cơng. Ví dụ như chủ hàng muốn biết tại
thời điểm hiện tại tàu và hàng đang ở địa điểm nào để thông báo cho người nhận chủ

UNCTAD: United Nations Conference onf Trade and Development – Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương
mại và phát triển
11


15

động đến nhận hàng thì người giao nhận – vận tải không thể đưa ra được câu trả lời ngay.
Mà để biết thông tin, bên dịch vụ phải gửi thư, gọi điện thoại hoặc fax sang hãng tàu,
thậm chí cịn phải liên lạc với cảng để biết thông tin về chuyến tàu và hàng đó. Trong
khi nếu như ứng dụng dịch vụ logistics với hệ thống quản lý mạng trên toàn cầu, chúng
ta chỉ cần nhập số vận đơn và mã số tàu vào máy tính và trong một thời gian rất ngắn,
người giao nhận có thể hồn tồn nắm bắt được các thông tin chi tiết về ngày giờ, địa
điểm cập cảng của tàu và thông báo lại cho chủ hàng một cách nhanh chóng. Rõ ràng,
hoạt động logistics trong vận tải biển ưu việt hơn hoạt động vận tải thông thường.
1.3.2.2.3. Nâng cao mức độ linh hoạt của doanh nghiệp
Việc ứng dụng logistics trong vận tải biển giúp các doanh nghiệp vận tải giao nhận
chủ động về nhiều mặt, nâng cao tính linh hoạt của doanh nghiệp. Khi thiết lập cho mình
một hệ thống vận chuyển, doanh nghiệp sẽ nắm rõ lịch trình của tàu, tình trạng hoạt động
của các cảng nên có thể bố trí tàu vào cảng kịp thời, có kế hoạch chủ động gom hàng để
di chuyển đúng tuyến.
Ngồi ra việc áp dụng logistics cịn giúp cho việc tiến hành các thủ tục thông quan
hàng hóa được diễn ra thuận tiện hơn. Khi hàng hóa chưa về đến cảng thì các thơng tin
về tàu, về hàng đã được hải quan nước sở tại nhận được và sẵn sàng làm thủ tục lưu
thơng, nhờ đó mà thời gian làm thủ tục xuất, nhập khẩu hàng hóa sẽ được rút ngắn.
1.3.2.2.4. Tăng doanh thu và lợi nhuận
Việc ứng dụng logistics trong vận tải biển đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho doanh
nghiệp kinh doanh giao nhận vận tải như giảm chi phí, giảm thời gian làm hàng, nâng
cao sức cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ, tăng tính linh hoạt trong hoạt động của
doanh nghiệp. Ngồi những lợi ích đó, nó cịn giúp tăng doanh thu và lợi nhuận của các

doanh nghiệp kinh doanh giao nhận – vận tải. Khi cung ứng dịch vụ logistics, các doanh
nghiệp sẽ cung cấp toàn bộ các dịch vụ trong chuỗi hoạt động logistics. Hàng hóa của
các chủ hàng sẽ được gửi trong hệ thống kho của doanh nghiệp, được vận chuyển trên
tàu của doanh nghiệp,… vì vậy doanh nghiệp sẽ thu thêm được phí từ chủ hàng dẫn đến
doanh thu của doanh nghiệp cũng được tăng lên. Ngoài ra, việc cắt giảm được chi phí
logistics cũng góp phần tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp.


16

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
DỊCH VỤ LOGISTICS
Hiệu quả dịch vụ logistics mang lại có ý nghĩa rất to lớn, song, hoạt động logistics có
mang lại hiệu quả hay khơng cịn phụ thuộc vào mơi trường pháp lý có đầy đủ và đảm
bảo sự thơng thống hay khơng. Ngày nay, hoạt động của các doanh nghiệp địi hỏi phải
có một hệ thống pháp lý đầy đủ và chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp trên
mọi lĩnh vực. Các quy định về thương mại, thuế, vận tải giao nhận hay hải quan,... đều
phải được hệ thống hóa bằng pháp luật. Nếu pháp luật khơng có quy định hoặc quy định
khơng rõ ràng về những lĩnh vực này, các hoạt động của doanh nghiệp khó có thể đạt
được hiệu quả như mong muốn hoặc tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp lách luật.
Vậy pháp luật Việt Nam đã quy định về lĩnh vực logistics như thế nào và việc thực
thi pháp luật ra sao, có thực sự mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp trong nước hay
khơng, có thực sự hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển bền vững, lớn mạnh, đủ sức cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài hay khơng? Và nếu cịn tồn tại những bất cập thì
các nhà làm luật nên sửa đổi pháp luật như thế nào cho hợp lý.
Ở Việt Nam, thuật ngữ logistics được cơng chúng quan tâm nhiều là khoảng tháng
7/2006. Trước đó có thuật ngữ logistics được sử dụng ở Việt Nam, Luật Thương mại
năm 1997 đã có quy định về “dịch vụ giao nhận hàng hóa của thương nhân”. “Dịch vụ
giao nhận hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng
hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức việc vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục

giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận hàng theo sự ủy
thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác (gọi
chung là khách hàng)”.12
Do thuật ngữ này không đủ để bao hàm những nội dung mà dịch vụ logistics cung cấp
nên Luật Thương mại 2005 đã thay thế khái niệm “dịch vụ giao nhận hàng hóa” bởi khái
niệm “dịch vụ logistics”. Từ đó, hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến logistics dần
được hình thành và hồn thiện.
2.1. Khái niệm dịch vụ logistics
Về khái niệm, Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa rõ ràng về hoạt động
logistics mà thay vào đó là khái niệm “dịch vụ logistics” được quy định tại Điều 233
Luật Thương mại 2005: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương
nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói
12

Điều 163 Luật Thương mại năm 1997


17

bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hố theo
thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng
Việt là dịch vụ lơ-gi-stíc”.
Như đã đề cập ở trên, dịch vụ logistics là loại hình phát triển mở rộng hơn so với dịch
vụ giao nhận hàng hóa được quy định ở Luật Thương mại 1997. Tuy nhiên, khái niệm
dịch vụ này chỉ theo nghĩa đơn thuần mà chưa thể hiện được xu thế phát triển cũng như
tính hệ thống của hoạt động này trong kinh doanh. Về mặt hệ thống, khái niệm này chỉ
mang tính liệt kê các khâu trong dịch vụ logistics, từ việc nhận hàng, vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, bảo quản đến việc cung cấp dịch vụ môi giới hải quan, làm thủ tục xuất
nhập khẩu, đóng gói bao bì,… chứ khơng sắp xếp các cơng việc này theo trình tự để diễn

tả đây là một chuỗi dịch vụ cung ứng có tính lơ gíc và khoa học. Hơn nữa, bản chất của
logistics là một chuỗi các dịch vụ liên hoàn chứ không phải là từng dịch vụ riêng lẻ. Bởi
vậy, nếu quy định “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân thực
hiện một hoặc nhiều cơng việc…”, vậy thì kể cả những thương nhân chỉ cung cấp một
dịch vụ trong chuỗi logistics cũng được pháp luật công nhận là thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics. Quy định như vậy chưa lột tả thực chất của hoạt động logistics. Tuy
nhiên, quy định này có ưu điểm là đã liệt kê các hoạt động trong chuỗi logistics theo
hướng mở khi quy định “…hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa
thuận với khách hàng…”. Về xu thế phát triển, logistisc có thể là phương thức quản trị
ứng dụng trong sản xuất – kinh doanh mà cũng có thể là một sản phẩm dịch vụ do doanh
nghiệp giao nhận vận tải cung cấp. Với quy định khái niệm như vậy, Luật Thương mại
2005 chỉ giới hạn điều chỉnh logistics ở dịch vụ giao nhận vận tải và một số dịch vụ phụ
trợ, trong khi bản chất của dịch vụ logistics còn rộng hơn thế.
2.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics
Về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics, Luật Thương mại 2005 vẫn chưa có quy
định cụ thể. Điều 234 chỉ đưa ra hai khoản nhỏ như sau:
“1. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là doanh nghiệp có đủ điều kiện kinh
doanh dịch vụ logistics theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ quy định chi tiết điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.”
Như vậy, tại thời điểm luật Thương mại 2005 có hiệu lực, tức là ngày 01/01/2006, thì
các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics vẫn còn chưa rõ ràng,
gây ra nhiều lúng túng cho các doanh nghiệp muốn tham gia hoạt động lĩnh vực này.
Tuy sau đó đã có nhiều văn bản dưới luật như Thơng tư, Nghị định được ban hành nhằm
hướng dẫn chi tiết Luật Thương mại, nhưng đối với lĩnh vực logistics thì phải đến năm
2007, tức là hai năm sau khi Luật Thương mại 2005 được ban hành thì Chính phủ mới


18

ban hành văn bản dưới luật là Nghị định 140/2007/NĐ-CP “Quy định chi tiết Luật

Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ lơ-gi-stíc và giới hạn trách nhiệm đối với
thương nhân kinh doanh dịch vụ lơ-gi-stíc”. Sự chậm trễ này đã làm cho các doanh
nghiệp bỏ lỡ rất nhiều cơ hội. Mặc dù dịch vụ logistics là một mảng thị trường đầy tiềm
năng và mang lại rất nhiều lợi nhuận, nhưng với quy chế còn bỏ ngỏ như trên, các doanh
nghiệp chưa thể biết được động thái của Nhà nước ra sao và liệu rằng gia nhập ngành
dịch vụ này có thật sự đem lại nguồn lợi cho họ hay không? Hơn thế nữa, sự chần chừ
trong việc quyết định tham gia ngành dịch vụ logistics của các doanh nghiệp vơ hình
chung đã làm giảm đi sự cạnh tranh với các đối thủ trong ngành. Và khi đó trên thị trường
tất nhiên chỉ tồn là những cơng ty chiếm đa số thị phần thì nghiễm nhiên họ sẽ chiếm
giữ vị thế độc quyền, từ đó dẫn đến chất lượng của dịch vụ sẽ đi xuống và người chịu
thiệt vẫn là khách hàng.
Một điểm bất cập nữa là quy định về thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tại
Khoản 1 Điều 234 Luật Thương mại 2005. Theo đó, “thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics” được quy định là doanh nghiệp, mà “doanh nghiệp” theo định nghĩa được quy
định tại Khoản 7 Điều 3 Luật Doanh nghiệp 2014 thì là “tổ chức có tên riêng, có tài sản,
có trụ sở giao dịch, được đăng kí thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
kinh doanh”. Quy định như vậy đã giới hạn phạm vi những thương nhân có khả năng
tham gia ngành dịch vụ này, bởi vì họ có thể là một tổ chức kinh tế, có thể là một cá
nhân, miễn là họ có khả năng kinh doanh dịch vụ logistics một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh thì họ nên được pháp luật cơng nhận. Ngồi ra, Luật
Thương mại Việt Nam 2005 chưa có quy định điều kiện kinh doanh đối với các thương
nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics. Tuy nhiên ở Nghị định 163/2017/NĐ-CP
quy định về kinh doanh dịch vụ logistics cũng đã có những quy định cụ thể các điều kiện
đối với nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics, ngoài việc đáp ứng các điều
kiện quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2017/NĐ-CP thì các nhà đầu
tư nước ngồi thuộc nước, vùng lãnh thổ là thành viên của WTO được cung cấp dịch vụ
logistics theo các điều kiện sau:
“a) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển (trừ
vận tải nội địa):
- Được thành lập các công ty vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam hoặc góp vốn, mua

cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước
ngồi khơng q 49%. Tổng số thuyền viên nước ngoài làm việc trên các tàu treo cờ
quốc tịch Việt Nam (hoặc được đăng ký ở Việt Nam) thuộc sở hữu của các công ty này


19

tại Việt Nam không quá 1/3 định biên của tàu. Thuyền trưởng hoặc thuyền phó thứ nhất
phải là cơng dân Việt Nam.
- Cơng ty vận tải biển nước ngồi được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua
cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp.
b) Trường hợp kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ vận tải
biển (có thể dành riêng một số khu vực để cung cấp các dịch vụ hoặc áp dụng thủ tục
cấp phép tại các khu vực này), được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần,
phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi
khơng q 50%. Nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại tại
Việt Nam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
c) Trường hợp kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ mọi
phương thức vận tải, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay, được thành lập doanh nghiệp
hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp
của nhà đầu tư nước ngồi khơng q 50%.
d) Trường hợp kinh doanh dịch vụ thông quan thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, được
thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp,
trong đó có vốn góp của nhà đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài được phép thành
lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
đ) Trường hợp kinh doanh các dịch vụ khác, bao gồm các hoạt động sau: Kiểm tra
vận đơn, dịch vụ mơi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác
định trọng lượng; dịch vụ nhận và chấp nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng từ vận tải,
được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh
nghiệp, trong đó có vốn góp của nhà đầu tư trong nước.

e) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường thủy
nội địa, dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường sắt, được thành lập doanh
nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn
góp của nhà đầu tư nước ngồi khơng q 49%.
g) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường bộ,
được thực hiện thơng qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc được thành lập
doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó
tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi khơng q 51%. 100% lái xe của doanh nghiệp
phải là công dân Việt Nam.
h) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thực hiện theo quy định của
pháp luật về hàng không.
i) Trường hợp kinh doanh dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật


20

- Đối với những dịch vụ được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ được
thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp trong đó có vốn góp của nhà đầu tư trong nước
sau ba năm hoặc dưới hình thức doanh nghiệp trong đó khơng hạn chế vốn góp nhà đầu
tư nước ngoài sau năm năm, kể từ khi nhà cung cấp dịch vụ tư nhân được phép kinh
doanh các dịch vụ đó.
- Khơng được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các phương
tiện vận tải.
- Việc thực hiện dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật bị hạn chế hoạt động tại các
khu vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phịng.”13
Từ những quy định dành riêng cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics nước ngồi nêu
trên, có thể nhận thấy rằng: trong quá trình hội nhập, Việt Nam đang mở cửa cho thương
nhân nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ tiềm năng này song còn khá dè dặt và thận
trọng. Tỷ lệ phần trăm vốn góp cịn hạn chế, mơ hình cơng ty được phép thành lập khơng
tồn diện, có những lĩnh vực khơng được phép đầu tư. Việc làm này có nguyên do của

nó, đó là:
Thứ nhất, do đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ ở nước ta, vì vậy nếu mở cửa hồn tồn
thì thương nhân nước ta chưa đủ hiểu biết và tự tin để thực hiện công việc kinh doanh
này nên sẽ bị doanh nghiệp nước ngoài lấn át và chiếm lĩnh thị trường.
Thứ hai, sự hạn chế trong tỷ lệ vốn góp của doanh nghiệp nước ngoài là giúp cho
doanh nghiệp Việt Nam trong q trình hợp tác khơng bị lép vế trước doanh nghiệp nước
ngoài nhiều vốn và kinh nghiệm.
Đặc biệt quy định tại Điểm i Khoản 3 Điều 4 “Không được kinh doanh dịch vụ kiểm
định và cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận tải” là lĩnh vực kinh doanh mà
pháp luật Việt Nam không cho phép các thương nhân nước ngoài đầu tư. Bởi đây là
những dịch vụ rất quan trọng, sự chính xác của nó ảnh hưởng đến sự quy định của pháp
luật, vấn đề này có liên quan đến yếu tố chính trị, sự độc lập của quốc gia và sự điều
hành của nhà nước.
Ngoài ra tại Khoản 4 Điều 4 Nghị định 163/2017/NĐ-CP còn quy định: “Trường hợp
nhà đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng áp dụng của các điều ước quốc tế có quy định
khác nhau về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics, nhà đầu tư được lựa chọn áp dụng
điều kiện đầu tư quy định tại một trong các điều ước đó.” Đây là một khoảng rất “mở”
của Nghị định, vì hiện nay Việt Nam đã ký kết và đang thực hiện các Hiệp định FTA thế
hệ mới và các cam kết trong ASEAN liên quan đến các dịch vụ logistics và Nghị quyết
13

Khoản 3 Điều 4 Nghị định 163/2017/NĐ-CP


21

số 71/2006/NQ-QH ở Điều 2 cũng quy định: “Trong trường hợp quy định của pháp luật
Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại
Thế giới, Nghị định thư và các tài liệu kèm theo thì áp dụng quy định Hiệp định thành
lập Tổ chức Thương mại Thế giới, Nghị định thư và các tài liệu kèm theo” nên Nghị

định 163/2017 đã đưa ra điều khoản này.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Điều 235 Luật Thương mại 2005 quy định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics:
“1. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có
các quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác;
b) Trong q trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách
hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của
khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng;
c) Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc khơng thực hiện được một phần hoặc
tồn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thơng báo ngay cho khách hàng để xin
chỉ dẫn;
d) Trường hợp khơng có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách
hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý.
2. Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.”
Trong giao dịch thương mại dịch vụ thực tế, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sẽ được
quy định trong hợp đồng theo thỏa thuận của các bên và hợp đồng này sẽ có giá trị pháp
lý cao nhất. Luật Thương mại 2005 chỉ được áp dụng với tính chất bổ sung trong trường
hợp hợp đồng quy định thiếu hoặc không quy định. Về vấn đề quyền và nghĩa vụ của
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, căn cứ vào Điều 235 thì bên cung cấp dịch vụ
logistics có quyền được hưởng khoản thù lao và chi phí khác nếu đáp ứng được yêu cầu
của khách hàng. Nhưng “các chi phí hợp lý khác” theo quy định tại Điểm a Khoản 1
điều này là chi phí gì thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, điều này sẽ gây khó khăn
cho việc xác định trên thực tế và có thể ảnh hưởng đến lợi ích của một trong các bên
tham gia vào hợp đồng dịch vụ logistics. Ngược lại, đối với khách hàng, thương nhân có


22


nghĩa vụ thơng báo khơng chậm trễ trong tình huống khơng thể thực hiện hoặc chỉ có thể
thực hiện một phần yêu cầu của khách hàng, hoặc vì quyền lợi chính đáng của họ mà
khơng làm theo mong muốn của khách hàng. Cũng giống như “các chi phí hợp lý khác”
thì “lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng” mà thương nhân có thể thực hiện khác
với chỉ dẫn của khách hàng, hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Vì
vậy việc xác định thế nào là lý do chính đáng nếu khơng được các bên thỏa thuận ghi
trong hợp đồng thì rất khó giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Ngồi ra pháp luật cũng
quy định trong trường hợp khi ký kết hợp đồng dịch vụ logistics, hai bên không thỏa
thuận về thời hạn thì thương nhân cung cấp dịch vụ logistics phải thực hiện nghĩa vụ của
mình trong khoảng thời gian hợp lý. Theo Khoản 2 điều này, các thương nhân buộc phải
tuân thủ pháp luật và tập quán về vận tải. Các hoạt động vận chuyển hàng hóa của thương
nhân sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật về giao thông cụ thể như Luật Giao thông đường
bộ năm 2008, Bộ luật Hàng hải năm 2015, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm
2014, Luật Giao thông đường sắt năm 2017,… hoặc là bởi tập quán, ví dụ như tập quán
vận tải container hóa.
2.4. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng
Về quyền và nghĩa vụ của khách hàng, Điều 236 quy định như sau:
“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, khách hàng có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
2. Cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics;
1. Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng;
3. Thông tin chi tiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hố cho thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics;
4. Đóng gói, ghi ký mã hiệu hàng hoá theo hợp đồng mua bán hàng hố, trừ trường
hợp có thỏa thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đảm nhận công việc này;
5. Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc trong trường
hợp do lỗi của mình gây ra;
6. Thanh tốn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản tiền đã đến
hạn thanh tốn.”

Ngồi những điều khoản quy định chi tiết, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
trong hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, phía khách hàng sử dụng dịch vụ
logistics phải tuân thủ những quy định tại Điều 236 Luật Thương mại 2005. Khách hàng


×