Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Biện chứng giữa tự do và tất yếu trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 160 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VÕ NGUYỄN ANH THI

BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ DO VÀ TẤT YẾU
TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VÕ NGUYỄN ANH THI

BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ DO VÀ TẤT YẾU
TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số

: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


TS. ĐỖ THỊ NGỌC LAN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học
của tơi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Đỗ Thị Ngọc Lan. Nếu có gì
khơng đúng tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2014

Tác giả

Võ Nguyễn Anh Thi


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ DO VÀ
TẤT YẾU, VỀ DÂN CHỦ VÀ QUY CHẾ DÂN CHỦ .................................. 10
1.1

Quan điểm trước Mác về biện chứng giữa Tự do và Tất yếu ........... 10

1.1.1 Quan niệm Đêmơcrít ........................................................................ 10

1.1.2 Quan niệm của Êpiquya ..................................................................... 13
1.1.3 Quan niệm của Xpinôda .................................................................... 16
1.1.4 Quan niệm Hêghen ............................................................................ 22
1.2 Quan điểm mácxít về biện chứng giữa tự do và tất yếu ....................... 31
1.2.1 Quan niệm về tất yếu ......................................................................... 31
1.2.2 Quan niệm về tự do ........................................................................... 32
1.2.3 Mối quan hệ giữa tự do và tất yếu ...................................................... 34
1.3 Quan niệm về dân chủ và quy chế dân chủ........................................... 40
1.3.1 Quan niệm về dân chủ ....................................................................... 40
1.3.2 Quan niệm về Quy chế dân chủ ......................................................... 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................ 61
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ
DO VÀ TẤT YẾU TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ........................................................ 64
2.1 Sự ra đời của Quy chế dân chủ ở cơ sở và quá trình thực hiện quy chế
này ở Việt Nam............................................................................................. 64
2.1.1 Sự ra đời của Quy chế dân chủ ở cơ sở .............................................. 64
2.1.2 Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của Việt Nam .............. 66
2.2 Mối quan hệ giữa tự do và tất yếu trong quá trình thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở............................................................................................. 82
2.2.1 Sự biểu hiện trên lĩnh vực kinh tế ...................................................... 82
2.2.2 Sự biểu hiện trên lĩnh vực chính trị. ................................................. 100


2.2.3 Sự biểu hiện trên lĩnh vực văn hóa - xã hội ...................................... 114
2.3 Ý nghĩa của việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất
yếu trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở .......................... 128
2.3.1 Ý nghĩa mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu là thống nhất
quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ............................................ 128
2.3.2 Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đảm bảo vấn đề xây dựng nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. ............................................................. 136
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 139
KẾT LUẬN .................................................................................................... 142
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 146


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức nhằm xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là sự nghiệp của tồn Đảng, tồn dân. Vì
thế, điều quan trọng, có ý nghĩa quyết định là phải tạo điều kiện để nhân
dân lao động ngày càng được thực sự làm chủ, phát huy cao độ tính tích
cực xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Dân chủ có vai trị đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến sự
thành công trong trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Dân chủ là bản chất
của chủ nghĩa xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển xã hội và hướng
con người đến tự do. Được sống trong tự do hạnh phúc là khát vọng lớn
nhất của mỗi con người. Từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp, có sự nơ
dịch và áp bức giữa người với người, thì nhu cầu vươn tới tự do đã trở
thành động lực mạnh mẽ nhất thôi thúc con người phải vùng lên đấu tranh
xóa bỏ cường quyền để giành lấy tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do.” Đó là chân lý bất hủ và mang ý
nghĩa sâu sắc.
Tự do là cơ sở nền tảng của dân chủ, tạo ra mối quan hệ giữa con người
với con người trong xã hội được công bằng hơn trên các phương diện của
cuộc sống. Từ đó, con người cần phải nâng cao năng lực nhận thức của
mình để hành động phù hợp với hiện thực khách quan.

Trong 28 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, bộ mặt xã hội có nhiều thay đổi rõ rệt, quyền lợi
của nhân dân lao động ngày càng được quan tâm, việc thực hiện phát huy
dân chủ ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất
đáng tôn trọng, hiện nay trong xã hội cịn tồn tại nhiều khó khăn, bức xúc


2

và bất công. Trên thực tế, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng
và phát huy đầy đủ trong đời sống xã hội, không những hiện tượng mất tự
do dân chủ, dân chủ hình thức, bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia
trưởng còn nặng nề. Đồng thời, cũng xuất hiện khuynh hướng dân chủ cực
đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ cương pháp luật. Pháp luật
chưa được cụ thể hóa và hồn thiện, chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc
cho nhân dân phát huy quyền làm chủ. Tình hình đó do nhiều nguyên nhân
như: Đời sống kinh tế khó khăn từ thói quen lối sống, tập tục sản xuất nông
nghiệp lạc hậu, mặt bằng dân trí thấp, pháp luật cịn nhiều chồng chéo và
thiếu đồng bộ chưa phù hợp với cuộc sống.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay, đã vận dụng một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào những vấn đề cụ thể của đất
nước, đưa dân tộc tới những thắng lợi trước các đế quốc hùng mạnh như:
Pháp, Mỹ, Nhật…. giành độc lập cho dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh vấn đề giữ vững và phát huy được
bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm
cho họ tham gia tự giác, tích cực vào việc quản lý nhà nước; tham gia kiểm
kê, kiểm sốt, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn
tham nhũng là khâu quan trọng, cấp bách cả trước mắt và lâu dài. Đặc biệt

là việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, vì cơ sở là nơi trực
tiếp thực hiện mọi chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách rộng rãi,
trực tiếp và phổ biến nhất với những mục tiêu đó; Quốc hội, Nhà nước,
Chính phủ, các bộ, ngành trong thời gian qua đã ban hành nhiều văn bản,
quy chế pháp luật nhằm tiếp tục cụ thể hóa đường lối của Đảng, chính sách


3

pháp luật của Nhà nước trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở nước
ta.
Hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu trong việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp
chúng ta có cơ sở lý luận khoa học nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ
của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã
hội. Vì thế, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Biện chứng giữa tự do và tất yếu
trong việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sỹ triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khi nghiên cứu mối quan
hệ biện chứng “tự do và tất yếu” đã đặt nền móng khoa học cho việc giải
quyết mối quan hệ cơ bản này, việc vận dụng những quan điểm cơ bản đó
trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn được Đảng cộng sản và các
nhà lý luận từng bước làm rõ. Đặc biệt, trải qua những giai đoạn chiến
tranh lịch sử cũng như quá trình đổi mới và phát triển đất nước, vấn đề về
mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu và quy chế dân chủ cơ sở ở
Việt Nam là những đề tài được nhiều nhà chính khách, nhiều nhà lý luận
quan tâm nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Có thể phân chia các cơng
trình nghiên cứu theo các hướng như sau:

 Hướng tiếp cận thứ nhất: Các cơng trình nghiên cứu lý luận
chung về tự do, về tất yếu và mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất
yếu:
Nguyễn Trần Bạt (2004), Biện chứng của “tự do”, Khoa học và Tổ
quốc, số 23 (24); Nguyễn Tấn Hùng (2009), Chủ nghĩa tự do: Qua trình
phát triển và ảnh hưởng của nó đối với thế giới hiện đại”, sinh hoạt lý luận;
(6), hhtp://www.chungta.com; Nguyễn Văn Phúc “Tự do và trách nhiệm


4

trong hoạt động của con người”, Triết học, số 3 (202); Đỗ Minh Hợp,
“Khái niệm tự do trong triết học Hêghen”, Triết học, số 126; PGS,TS Đinh
Ngọc Thạch (2005) “Về tự do với tư cách phạm trù của triết học Xã hội”,
chungta.com.v.v; Vương Thị Bích Thủy (2004), Tất yếu và tự do - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn; RôGiê Garôđi, (1963), Tự do, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu những tác phẩm trên, tác phẩm
“Tất yếu và tự do – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Vương
Thị Bích Thủy đã chỉ ra được những tiền đề lý luận trong lịch sử trước Mác
một cách cơ bản về tất yếu và tự do để hiểu rõ sự phát triển của các nhà
sang lập chủ nghĩa Mác – Lênin về các khái niệm này. Tác giả Vương Thị
Bích Thủy cũng rút ra được ý nghĩa có giá trị thực tiễn đối với đường lối
lãnh đạo của cách mạng Việt Nam, hệ thống chính trị Việt Nam cần phải
thực hiện đúng mối quan hệ giữa tự do và tất yếu.
Tác phẩm “Tự do”, của RôGiê Garôđi chứng minh được các giá trị của
các nhà triết học trước Mác về quan niệm tự do và lấy đó làm cơ sở khi
thực hiện so sánh với các quan điểm của Chủ nghĩa Mác tạo nên hướng đi
mới trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng tới tự do một cách tích cực
cho con người.

Các tác phẩm còn lại đều được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, phương pháp khác nhau về quan niệm tự do và tất yếu, đồng thời nêu
lên được những mục đích, ý nghĩa của việc hướng con người tới tự do, và
làm tiền đề lý luận cho Đảng, Nhà nước cũng như đường lối cách mạng, hệ
thống chính trị Việt Nam xây dựng xã hội Việt Nam phù hợp với xu hướng
phát triển tất yếu của thời đại.


5

 Hướng tiếp cận thứ hai: Các cơng trình nghiên cứu về dân chủ
và quy chế dân chủ ở cơ sở:
Vấn đề Dân chủ và Dân chủ ở Việt Nam hiện nay: Nguyễn Duy Qúy và
Nguyễn Tất Viễn (2008); “Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ” của
TS. Đỗ Trung Hiếu (Tạp chí Thơng tin Khoa học xã hội, số 231, 2002);
“Một số cách tiếp cận khái niệm dân chủ” của tác giả Nguyễn Đăng Quang
(Tạp chí Thơng tin lý luận, số 175,1992); Khái niệm dân chủ; Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân lý luận và thực tiễn,
Nhà xuất bản Chính trị, Quốc Gia Hà Nội; N.M Voskresenskaia - N.B
Davletshina (2009), Chế độ dân chủ nhà nước và xã hội, Nhà xuất bản Tri
thức, Hà Nội; Hồ Bá Thâm (2007), “dân chủ hóa, phân quyền hóa cơ cấu
hệ thống quyền lực nhà nước theo tư duy pháp quyền biện chứng”, nghiên
cứu lập pháp, 22 (159); Nguyễn Thị Thu Thủy (2007) Dân chủ hóa đời
sống xã hội trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước Pháp quyền của dân, do
dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay; ; Hồ Bá Thâm
(2007), Dân chủ hóa và phát huy nội lực, Nhà xuất bản Phương Đông Bến
tre; Cuốn sách “Dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” (TS.
Lương Gia Ban) (Chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003; Tư tưởng dân chủ về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của V.I.
Lênin có ý nghĩa lí luận và thực tiễn, do đó Khoa Triết học, Trường Đại

học khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo
khoa học với chủ đề “Tư tưởng dân chủ của V.I Lênin và ý nghĩa của nó
đối với q trình dân chủ hóa đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay” từ kết
quả nghiên cứu đã tập hợp thành cuốn sách “Tư tưởng của V.I. Lênin về
dân chủ” (PGS.TS. Dỗn Chính, TS. Đinh Ngọc Thạch, TS. Trần Hùng,
TS. Trần Chí Mỹ) (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2004; Các qui định về dân chủ ở cơ sở, Nhà xuất bản chính trị quốc


6

gia, Hà nội - 2001; Hỏi và đáp, về giám sát đầu tư giám sát cán bộ tại cộng
đồng khu dân cư, nhà xuất bản chính trị quốc gia - 2009; Tìm hiểu về Văn
hóa kinh tế thị trường nhà nước và pháp luật, chương trình giáo dục các
chuyên đề lý luận dành cho cơ sở; Hướng dẫn thực hiện các qui định về
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, Uỷ ban kiểm tra trung
ương, Nhà xuất bản lao động - xã hội.
Có những cơng trình đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về dân chủ và kế thừa di sản tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân
chủ, tạp chí trình bày về dân chủ và các cơng trình đề cập đến vấn đề quy
chế dân chủ cơ sở và phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay:
Tác phẩm “Tư tưởng của V.I. Lênin về dân chủ” (PGS.TS. Dỗn
Chính, TS. Đinh Ngọc Thạch, TS. Trần Hùng, TS. Trần Chí Mỹ) (đồng chủ
biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Trong tác phẩm này
tác giả đã nêu bật quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ, và chỉ ra sự khác
nhau cơ bản giữa dân chủ tư sản và dân chủ vơ sản, từ đó đưa ra phân tích
những bài học đối với q trình dân chủ hóa đời sống xã hội ở Việt Nam.
Tác phẩm “Dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” (TS.
Lương Gia Ban) (Chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003
đã thể hiện được những tiền đề lí luận về dân chủ và đồng thời xây dựng hệ

thống chính trị cơ sở, tác giả đã nêu lê được ý nghĩa trong việc thực hiện
quy chế dân chủ trước tiên cần mở rộng việc thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở, đưa vai trò của nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Ngồi ra có những tác phẩm, tạp chí trên các tác giả đã trình bày những
vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,
đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy chế dân chủ cơ sở.
Có nhiều tác phẩm, cơng trình nghiên cứu trong việc đóng góp, hồn
hiện đường lối, chính sách và đưa ra những phương hướng nhằm phát huy


7

vai trò của Đảng và Nhà nước, cho từng tổ chức chính trị ở góc độ lý luận
trong việc so sánh với thực tiễn để nghiên cứu, hoàn thiện.
 Hướng tiếp cận thứ ba: Về những cơng trình nghiên cứu về biểu
hiện mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu trong các lĩnh vực
đời sống xã hội
Vương Thị Bích Thủy (2004), Tất yếu và tự do - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn; TS. Đoàn Thế Hùng, “ Quan hệ giữa kinh tế thị trường với
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”;
Nguyễn Công Bá Đạt, “Biện chứng giữa tự do và tất yếu trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay” Nguyễn Trần Bạt (2004),
Biện chứng của “tự do”, Khoa học và Tổ quốc, số 23 (24); Hồ Anh Dũng,
“Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”.
Trong đó tác phẩm: “Tất yếu và tự do – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” của TS. Vương Thị Bích Thủy (chủ biên) đã thể hiện được mối quan
hệ giữa tự do và tất yếu trong đời sống thực tiễn, quy định đường lối, chính
sách và các giải pháp đổi mới trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và q trình dân chủ hóa đời sống xã hội đảm bảo quy luật khách

quan.
Tác phẩm: “Quan hệ giữa kinh tế thị trường với kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của TS. Đoàn Thế Hùng
(chủ biên) đã chỉ ra sự biểu hiện quan hệ này là tuân thủ các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường. Đó là hệ thống đầy đủ, đồng bộ thị trường, tự
do cạnh tranh, đảm bảo được sự tự do theo quy luật, tạo điều kiện để mơi
trường kinh tế vận hành bình thường. Chính mối quan hệ này đã chỉ ra
được mối quan hệ biện chứng tất yếu và đi đến tự do trong sự phát triển
kinh tế ở Việt Nam hiện nay.


8

Cơng trình: “Biện chứng giữa tự do và tất yếu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn
Công Bá Đạt là thể hiện cơ sở nhận thức và vận dụng những nội dung của
cái tất yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì sẽ
đạt được tự do, biện chứng của tất yếu và tự do là cơ sở xác lập, củng cố
các quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất tạo nên tính chất xã hội hóa ngày
càng cao, là cơ sở xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, cơng bằng, văn minh. Song, cho đến nay chưa có cơng trình nào
nghiên cứu biện chứng giữa tự do và tất yếu trong việc thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Tơi cố gắng để có thể khắc phục khoảng trống
này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận văn
Mục đích của luận văn
Góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa “tự do và tất yếu” trong
việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam nhằm phát triển dân chủ
trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn

Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
Trình bày có hệ thống các tiền đề lí luận trong lịch sử trước Mác cũng
như các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ biện chứng giữa tự do và
tất yếu và vấn đề dân chủ cơ sở.
Giới hạn của luận văn
Tự do và tất yếu bao hàm những nội dung, ý nghĩa, cấu trúc và mối
quan hệ với các lĩnh vực của đời sống xã hội rất đa dạng. Tuy nhiên, để
thực hiện được mục đích và hồn thành được nhiệm vụ đề tài đặt ra, luận
văn tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu trong mối quan hệ biện


9

chứng giữa tự do và tất yếu mà nó tác động đến việc thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Về phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
* Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phối hợp các phương
pháp như phương pháp thống nhất giữa logic và lịch sử, phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh
và đối chiếu v.v…Để nghiên cứu và trình bày luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học của luận văn là góp phần làm rõ cơ sở lý luận của
mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu trong việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay, từ đó luận văn đã khẳng định tính
khoa học của việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng như đường lối của Đảng và chính sách pháp luật Nhà nước Việt Nam

trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn là cơ sở cho việc xây dựng các chính
sách, chỉ đạo thực tiễn trong việc thực hiện quy chế dân chủ của các chính
quyền cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể dung làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên
các chuyên ngành Triết học, chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 2 chương với 6 tiết.


10

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ DO VÀ
TẤT YẾU, VỀ DÂN CHỦ VÀ QUY CHẾ DÂN CHỦ
1.1 Quan điểm trước Mác về biện chứng giữa Tự do và Tất yếu
Trước Mác có ba nhà triết học tiêu biểu bàn đến các khái niệm tất yếu
và tự do. Chúng ta sẽ xem xét quan niệm với những giá trị và hạn chế của
từng người.
1.1.1 Quan niệm Đêmơcrít
Đêmơcrít (460 – 370 TCN) là một trong số các nhà duy vật lớn nhất
thời cổ đại, là nhà triết học “chẳng những không lánh xa thế giới mà trái
lại, ông nghiên cứu một cách thực nghiệm giới tự nhiên và là một bộ óc
bách khoa đầu tiên trong những người Hy Lạp”[104,11]. Ơng cịn nổi tiếng
với thuyết ngun tử luận và học thuyết nguyên tử, mà trong đó có thể hiện
tư tưởng về cái tất yếu.
Đêmơcrít kế thừa quan niệm về ngun tử (atoma) của Lơxíp và từ đó
phát triển lên thành học thuyết nguyên tử cho riêng mình, học thuyết của
ông là đỉnh cao và phát triển mạnh trong thời kì cổ đại và có thể coi đó là

một bước đột phá trong giai đoạn này ở Hy Lạp. Trong học thuyết ngun
tử Đêmơcrít đã chỉ ra ngun nhân vật chất, nội tại của các sự vật, hiện
tượng và các q trình trong thế giới vật chất, ơng đã đưa ra lý luận về cấu
tạo nguyên tử (atoma). Căn cứ vào đó ơng đã chỉ ra được tính tồn tại khách
quan của vật chất, tính phổ biến, tất yếu của tự nhiên tồn tại trong thế giới
này. Từ đó Đêmơcrít cho rằng giữa các sự vật tồn tại khách quan ln vận
động và diễn ra theo trình tự nhất định thông qua sự “va chạm nhau, đẩy
nhau, rồi xoắn vào nhau, tan hợp hợp tan giữa những nguyên tử’’ [99,67].
Học thuyết ngun tử của Đêmơcrít đã khắc phục được những hạn chế về
những quan niệm mang tính tâm lý của thế giới mà chính con người là nạn


11

nhân cho những tư tưởng khơng có căn cứ khoa học, và cho rằng mọi trật
tự diễn ra trong thế giới đều phục tùng tính tất yếu. Dù tính tất yếu đó là
hiện tượng tinh thần của con người, hay sự vận hành của con người trong
học thuyết về nguyên tử linh hồn. Chính sự ra đời của học thuyết nguyên tử
đã biến sự năng động của con người trước những đấng thần linh thành con
người của tự nhiên, xã hội chi phối ngược trở lại các hiện tượng tự nhiên
“quan niệm tất yếu của Đêmơcrít đã xóa nhịa ranh giới giữa cái tâm lý và
vật lý. Tính năng động của đời sống tinh thần được đặt dưới quyền lực của
quyết định luận chung, đã trở thành phổ biến trong tất cả các hiện tượng tự
nhiên; tính tất yếu từ các lực lượng thần thánh thống trị số phận con người,
đã biến thành cơn lốc nguyên tử, thành sức mạnh chi phối tất cả các hiện
tượng tự nhiên” [89,14]. Chính ông đã loại bỏ cái gọi là ngẫu nhiên trong
học thuyết của mình và cho rằng sự tồn tại của một q trình đều có sự
tương tác một cách tất yếu trong sự vận hành của nguyên tử. Như vậy, theo
Đêmơcrít tất cả các sự vật sinh ra đều tn theo quy luật nhân quả và coi đó
như là quy luật tất yếu. Ông đã phê phán; “người ta đã nghĩ ra ngẫu nhiên

và dùng nó như chiếc lọng che đậy tính chất phi lý nơi mình” [99,71].
Chính Arítxtốt đã chỉ ra những yếu tố mà Đêmơcrít đã bàn đến đó là cái tất
yếu tự nhiên, và khơng đề cập đến cái tất yếu trong đời sống xã hội, mục
đích sống của con người trong xã hội là một cơ sở để con người hướng đến
cái tất yếu tạo cơ sở để con người được tự do, ơng viết: “Đêmơcrít đã bác
bỏ nguyên nhân mục đích, quy tất cả những cái mà giới tự nhiên sử dụng
vào tính tất yếu” [104,15]. Cịn Đêmơcrít lại nhận thức về vấn đề tất yếu
được thể hiện ở mọi sự tồn tại trong thế giới, tính tất yếu thể hiện như một
quy luật nó khơng tự nhiên sinh ra và biến mất, nó tồn tại đều có cơ sở của
nó, Đêmơcrít đã thể hiện được tính quy luật trong q trình tồn tại của sự
vật, coi quy luật như là sự vận hành tạo thành cái tất yếu, cái tất yếu như là


12

cái thể hiện nguyên nhân của mọi sự tồn tại, “khơng có gì xuất hiện một
cách ngẫu nhiên, mọi sự vật mà tất cả chúng ta cho rằng đã nảy sinh một
cách tự phát hay ngẫu nhiên, thực ra đều có ngun nhân nhất định”
[39,76]. Hơn nữa, Đêmơcrít đã thể hiện nguyên nhân của tất yếu như là sự
xuất hiện mọi tồn tại trong thế giới là do sự xoay chuyển, liên kết của các
nguyên tử, coi đó như là nguyên nhân tất yếu tự thân, tất yếu của từng bộ
phận khác nhau là do những nguyên nhân khác nhau hình thành nên và tạo
được sự chuẩn xác trong quá trình tồn tại như một tất yếu của bộ phận đó,
thế giới vũ trụ bao la, sự tồn tại của nguyên nhân, kết quả bao la và tất yếu
cũng được hình thành từ những ngun nhân và kết quả đó, “tự thân vũ trụ
đã hàm chứa một cái gì đó chuẩn xác, trật tự, là môi trường rộng lớn, nơi
mỗi thực thể đều chiếm một vị trí nhất định” [99,72]. Đêmơcrít đã đưa ra
những ngun nhân để hình thành nên cái tất yếu, nhưng lại không giải
quyết được câu hỏi về nguồn gốc và nguyên nhân của vận động như một
quy luật của phạm trù tất nhiên - ngẫu nhiên, ông đã loại khỏi cái ngẫu

nhiên trong đời sống xã hội, bỏ qua việc bàn đến tự do và mục đích của đời
sống xã hội để đi đến cái tất yếu trong tự nhiên. Có thể ở góc độ nhận thức
manh nha về tự do của con người bị giới hạn vì quy định của tính tất yếu.
Đêmơcrít đã phớt lờ đi cái ngẫu nhiên và coi ngẫu nhiên như khơng có ý
nghĩa gì với đời sống xã hội và của con người, xem nó như là mặt khác của
tất yếu trong thế giới bao la mà con người đang tồn tại. Vì vậy, trong quan
niệm của Đêmơcrít đã khơng thoát khỏi những qui luật tự nhiên, sự tồn tại
của con người như là sự thừa nhận sức mạnh tự nhiên mà con người phải
gánh chịu, phải thừa nhận chính cái định mệnh, số phận mà con người đang
tồn tại.


13

1.1.2 Quan niệm của Êpiquya
Êpiquya (341 -279 TCN) là một nhà triết học có ảnh hưởng to lớn đến
đời sống tinh thần của người Hy lạp cổ đại ở thời kỳ suy thối của xã hội
chiếm hữu nơ lệ (thế kỷ III – I trước CN), thời kì này các mâu thuẫn xã hội
chiếm hữu nô lệ ngày một trở nên gay gắt, chiến tranh xâm lược thường
xuyên diễn ra. Khủng bố, cướp bóc triền miên, tạo ra các hình thức áp bức
chính trị, tinh thần thơ bạo. Từ đây, Êpiquya luận chứng cho sự không phụ
thuộc của con người vào số phận đã trở thành một tư tưởng chủ đạo trong
triết học thời kì này.
Êpiquya đã kế thừa và phát triển có chọn lọc ngun tử luận của
Đêmơcít, ơng xem nguyên tử là bản nguyên của mọi sự tồn tại, hơn nữa sự
tồn tại của nguyên tử là sự hợp thành kể cả linh hồn con người. Chính
những yếu tố đó đã tạo ra cái mới trong q trình nhận thức của Êpiquya,
một hướng đi mới của tư duy con người,“linh hồn như là một dạng nguyên
tử đặc biệt, tinh túy, trơn trượt, vận động nhanh. Sự sống và cái chết, do
đó, chẳng qua là sự hợp nhất hay phân rã các ngun tử” [99,222]. Chính

từ đó ơng đã loại bỏ những quan niệm của con người về linh hồn bất tử
cũng như loại bỏ sự can thiệp của thần linh vào đời sống con người. Ông đã
đưa quá trình nhận thức của con người lên một hướng phát triển mới đó là
phát triển thêm về cách thức và nguồn gốc của sự vận động của các nguyên
tử để đưa ra tư tưởng “Tự do và tất yếu’’ và ‘‘tất yếu của cái ngẫu nhiên”.
Trong quá trình tồn tại của quy luật tự nhiên về học thuyết nguyên tử
Êpiquya đã đưa ra quan niệm về tính dao động của một dạng vật chất được
tách ra từ một dạng thức ban đầu của nguyên tử. Với quan niệm này, trong
ý thức trước đó của Êpiquya đã xuất hiện ý tưởng về tự do mà ở đây là sự
liên tưởng đến năng lực tự do nội tại xuất hiện từ ý chí của con người đến
một dạng vật chất khách quan như một quy luật tất yếu để mở ra một phạm


14

trù tự do cho mục đích tồn tại về ý tưởng xuất hiện trong ý thức của mình.
Từ đó, Êpiquya cho rằng: “Điều bất hạnh là sống trong sự tất yếu, nhưng
sống trong sự tất yếu lại tuyệt nhiên không phải là điều tất yếu. Những con
đường dẫn đến tự do đều rộng mở ở khắp nơi, có nhiều con đường ấy,
chúng ngắn và dễ dàng, chúng ta hãy cảm ơn thượng đế vì khơng thể giữ
được ai trong cuộc sống, ngăn ngừa chính sự tất yếu - đó là được phép [81,
296].
Tự do là tất yếu một vấn đề hiển nhiên không thể thay đổi được, như
vậy khi đề cập đến học thuyết của Êpiquya về “sự giao động tự do” thì
chúng ta cũng hiểu được sự giao động đó là một hình thức vận động xảy ra
trong một điều kiện đủ thì có thể làm nó giao động và sự giao động đó tất
nhiên là tự do khơng có sự tác động nào từ yếu tố bên ngồi, thể hiện được
tư duy biện chứng về mối liên hệ giữa tự do và tất yếu, từ quan niệm về dao
động tự do trong mối liên hệ với phương thức vận động thẳng tất yếu của
các nguyên tử ông đã mở rộng đến mối liên hệ biện chứng các vấn đề đạo

đức, pháp quyền để xây dựng trong ý tưởng về khế ước xã hội. Từ đó, khế
ước xã hội là kiểu nhà nước thể hiện quyền con người với con người trong
một xã hội “Êpiquya là người đầu tiên đã đưa ra quan niệm cho rằng nhà
nước dựa trên sự giao ước giữa người với người, một khế ước xã hội”
[70,185 -186].
Bên cạnh tự do là tất yếu được thể hiện trong học thuyết “giao động tự
do” của Êpiquya thì theo Bưkhốpxki đã đánh giá rằng:“Việc thừa nhận
ngẫu nhiên trong học thuyết của Êpiquya về sự chệch khỏi hướng thẳng khi
rơi xuống của nguyên tử là nhằm chống lại số phận, tính tiên định… là
hướng vào việc giải phóng con người khỏi ý thức cam chịu, chủ nghĩa khắc
kỷ, là đưa gần tới việc đặt ra vấn đề tự do và tất yếu” [89,26]. Có thể thấy
rằng Bưkhốpxki đã đánh giá cao sự thể hiện tự do (ngẫu nhiên) của


15

Êpiquya trong học thuyết giao động tự do như là sự khẳng định quan niệm
tự do trong học thuyết triết học của Êpiquya là một định hướng cơ sở để
hướng con người thoát khỏi những ràng buộc cơ bản trong cuộc sống trong
xã hội. Chính các nhà triết học Xơ Viết trước đây đã đánh giá cao ý định
luận chứng một cách duy vật cho tự do và tất yếu trong định hướng đạo đức
học ở phép biện chứng của Êpiquya.
Theo đánh giá của PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch: “Quan niệm của
Êpiquya về dao động tự do của nguyên tử như điều kiện cần thiết cho tự do
của con người là quan niệm ấu trĩ, mộc mạc, nhưng nó có ý nghĩa nhân
văn sâu sắc: Tự nó gắng với bản chất con người là cái phẩm giá do tự
nhiên ban tặng, trở thành “thiên bẩm”, không thể bị tước đoạt ” [99,227].
Bên cạnh sự kế thừa quan điểm duy vật về bản thể trong ngun tử luận
của Đêmơcrít, Êpiquya đã vượt qua tính tất yếu máy móc của Đêmơcrít để
đưa đến một cái nhìn tổng quát biện chứng của mình để khẳng định sự vận

động của các nguyên tử không chỉ diễn ra theo những khuynh hướng tất
yếu phổ biến mà nó cịn thể hiện sự tự do theo quy luật của nguyên tử “có
sự giao động tự do” [104,23]. Êpiquya đã bước xa hơn Đêmơcrít trong sự
nhận thức, Êpiquya đã thừa nhận nguyên nhân của những cái ngẫu nhiên
như chịu sự chi phối của cả tính tất yếu. Chính từ đó ơng đã chỉ ra ba dạng
vật chất vận động của nguyên tử đó là: Vận động thẳng do trọng lực, vận
động hổn độn do va chạm, vận động dao động tự do nội tại, tách khỏi các
dạng thức ban đầu “quá trình tự nhiên chịu sự chi phối của cả tính tất yếu
(vận động thẳng do trọng lực, vịng xoáy lốc do va chạm của các nguyên
tử) lẫn mối liên hệ ngẫu nhiên, xác suất (dao động tự do nội tại, tách ra
dạng thức ban đầu của các nguyên tử)’’ [99,227]. Êpiquya trong khi đề cập
đến vấn đề tất yếu ông đã đưa ra những dẫn chứng về tự tồn tại khách quan
của cái ngẫu nhiên, chính cái ngẫu nhiên trong tư duy của ông là cơ sở để


16

hình thành nên cái tất yếu. Do đó, khi xem xét về hai nhà ngun tử luận
Đê mơcrít và Êpiquya thì quan niệm về tất yếu chính là sự vận hành cùa
các quy luật khách quan, nội tại của các nguyên tử “vận động tự do tách
khỏi dạng thức ban đầu” của nguyên tử, nó quyết định mọi dạng thức tồn
tại của các sự vật hiện tượng và các quá trình trong thế giới hiện thực và cả
thế giới tinh thần của con người. Từ đó, Êpiquya đã đi đến giải thích bản
chất, ngun nhân thế giới vật chất, góp phần chứng minh tính khách quan,
nội tại của vật chất trong sự tồn tại của thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những
gì mà Êpiquya có được trong tiền đề lý luận của mình thì nó cịn có những
hạn chế trong quan niệm của ơng về tất yếu đó là: quan niệm về vật chất và
các dạng thức tồn tại và liên kết của nguyên tử tạo nên tính tất yếu của thế
giới, đã cho thấy sự hạn chế của Êpiquya kể cả Đêmơcrít cịn mang nặng
tính phỏng đốn, trực quan cảm tính và siêu hình. Cho nên, những tiền đề

lý luận của ông cũng thật sự chưa vững chắc trong tư duy biện chứng,
chứng minh cho tính khách quan rõ ràng tương đối giữa hai mặt tất yếu và
ngẫu nhiên trong quá trình vận động và phát triển hết sức phong phú đa
dạng của hiện thực khách quan, bỏ qua khả năng nhận thức của con người
với khả năng nắm bắt được cái tất yếu như là một quy luật.
Trước tình thế như vậy, con người đã làm chủ được cái tất yếu để được
tự do cải tạo thế giới hiện thực khách quan, phục vụ cho mục đích sống của
mình, tạo cho con người có hướng đi từ vị thế khuất phục định mệnh để
hướng tới tự do và làm chủ số phận của chính mình.
1.1.3 Quan niệm của Xpinôda
Xpinôda (1632 – 1677) là một nhà triết học Hà Lan nổi tiếng, người
gốc Do Thái, nhà duy vật vô thần, nhà tư tưởng của tầng lớp dân chủ tư
sản. Xpinôda được coi là một trong những nhà duy lý vĩ đại nhất của triết
học thế kỉ 17.


17

Xpinôda đứng trên quan điểm nhân bản chủ nghĩa để phủ nhận tự do ý
chí và ơng cho rằng mọi hoạt động, mọi hành vi của con người đều có tính
quy luật tất yếu và có tính biện chứng về mối liên hệ giữa tự do và tất yếu.
Tư tưởng đó được ơng thể hiện trong khái niệm “tính tất yếu và tự do” và
theo ông: “tự do là đồng nhất với sự hiểu biết, cho nên mọi nổ lực vươn
đến sự tự hiểu biết đều là khát vọng tự do của con người”[37,91]. Về vấn
đề con người Xpinôda đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên ông
xem vũ trụ thì bao la, vơ tận và con người chỉ là bộ phận của tự nhiên, một
mảnh của bộ máy thế giới, với sự tồn tại của con người trong thế giới tự
nhiên bao la tạo nên sự ràng buộc của con người với thế giới bên ngoài, sự
biến đổi của thế giới tự nhiên dù như thế nào cũng chi phối và tác động đến
con người khơng ít thì nhiều. Quan điểm này được gắn với khuynh hướng

duy vật của ơng khi giải thích hoạt động tư tưởng của con người. Theo
Xpinôda: “Sự phụ thuộc của tư duy của con người vào trạng thái cơ thể
của nó được thấy rõ ở giai đoạn cảm tính, cảm tính là giai đoạn nhận thức
đầu tiên của tri thức, cũng còn gọi là ý kiến (dư luận) nhận thức cảm tính
thường đưa đến sự nhầm lẫn. Nhưng dù là phản ánh không chính xác
khách thể, thì trong nhận thức cảm tính vẫn chứa đựng yếu tố chân lý”
[37,90]. Chính sự tác động qua lại của con người với thế giới tự nhiên gây
nên sự “ham muốn” trong tinh thần của con người. Sự “ham muốn” ấy là
kết quả cảm thụ tinh thần thông qua thể xác do những yếu tố tác động
khách quan bên ngồi của con người, cũng có lúc con người còn mơ hồ
trước những ham muốn, thúc đẩy đến sự ham thích mù qng và đó là con
đường hướng con người trở thành nơ lệ cho những ham thích đó. Ơng viết:
“tơi gọi sự bất lực của con người trong việc làm chủ và kềm hãm những
“ham muốn” của mình, là sự nơ dịch. Bởi vì một người tn phục những
ham thích thì khơng làm chủ được mình nữa…; sự bất lực của con người là


18

ở chỗ con người bị chi phối với những khách thể tồn tại bên ngồi mình, và
con người bị những khách thể đó quyết định trong hành động mà tình hình
tồn bộ những khách thể ấy xui nên, chứ khơng phải bị quyết định bởi bản
chất con người đúng như nó mang trong bản thân nó”[39,174]. Sự tác
động đến con người dù ở phương diện nào cũng được thể hiện bởi hoàn
cảnh bên ngoài, trong linh hồn của con người như là một dạng tư duy có
thể nắm bắt được tất cả những gì của thực tế, tuyệt nhiên khơng có gì là ý
chí tuyệt đối hay tự do cả “mà linh hồn bị quyết định phải muốn cái này
hay cái nọ, bởi một nguyên nhân mà bản thân nguyên nhân này lại bị quyết
định bởi một nguyên nhân khác và cả nguyên nhân khác cũng lại bị quyết
định bởi nguyên nhân khác nữa, và cứ thế đến vô tận”[39,175]. Như vậy,

con người tự do là con người phải có vốn kiến thức cơ bản để nhận thức.
Điều đó được thể hiện trong quá trình nhận thức của con người từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, con người sẽ trở nên tự do khi chuyển từ
nhận thức cảm tính, lờ mờ, hỗn độn, chủ quan đến nhận thức lý tính với
mục đích thể hiện mạnh mẽ. Trong nhận thức lý tính, con người như một
chuỗi khám phá thế giới khách quan của tư duy “… tất yếu của bản thân
hình tam giác phải là tổng số ba góc ấy bằng hai góc vng” [39,178].
Trong quan điểm đạo đức của Xpinôda cũng gắn với quan điểm về tự
do, đạo đức của Xpinôda là khái niệm “con người tự do”. Trong hoạt động
của mình con người chỉ có thể trở thành tự do khi được chỉ đạo bởi lý trí
của chính con người, nếu con người đi ngược lại đạo đức thì con người sẽ
khơng được tự do và gắn liền với nó là sự khổ hạnh. Trong tác phẩm vĩ đại
của Xpinơda “đạo đức học được trình bày theo kiểu của Eculid trong năm
phần của nó “Về Thiên Chúa”; “Về Thiên nhiên và Nguồn gốc tinh thần”;
“Về Nguồn gốc và bản chất của Cảm xúc”; “Về sự lệ thuộc của con người,
hay sức mạnh của cảm xúc”; “Về Sức mạnh của trí tuệ, hay của tự do của


19

con người”[65,1073]. Xpinôda là người theo thuyết tất định rõ rệt, mọi sự
xảy ra đều được định đoạt bởi hai yếu tố, thứ nhất: Bản tính thường hằng
của Thiên Chúa có nghĩa là các luật tự nhiên và các điều kiện trước đó
cũng định đoạt trở đi trở lại một cách vơ hạn mà ở Xpinơda khơng có tự do
trung lập của con người nhưng có những mức độ tự do khác nhau là tự do
của con người một cách tích cực hơn, thứ hai: hiểu một các đơn giản hơn
Xpinôda coi chúng là những con người lệ thuộc theo mức độ chúng ta chịu
sự kiểm soát của những vật ngoại tại, những con người tự do theo mức độ
chúng ta đối diện cuộc sống bằng sự hiểu biết sáng tạo về những gì phục vụ
tốt nhất cho những mục đích và các ý tưởng thích đáng sẽ định đoạt nơi

chúng ta.
Với tư tưởng tự do, tự do là một q trình nhận thức tất yếu, chính ơng
là người đã đặt nền móng khởi nguyên cho mối quan hệ giữa tất yếu và tự
do một cách đúng đắn, chỉ ra một hướng đi mới cho nền triết học trong quá
trình tiếp cận đến phạm trù tự do và tất yếu. Xpinơda đã lấy chủ nghĩa duy
vật làm cơ sở lí luận và ơng khẳng định trong thế giới tính tất yếu nội tại,
khách quan, tất yếu là cái có trước linh hồn, khơng phụ thuộc vào linh hồn
cịn tự do khơng phải ở ý chí, suy nghĩ chủ quan, tự do cũng không phải tồn
tại nhờ chống lại tất yếu mà tự do tồn tại được nhờ có sự tồn tại của cái tất
yếu. Do vậy ở Xpinôda luôn thể hiện cái tự do trong mối quan hệ biện
chứng với một cái khác, với ơng khơng có cái tự do tuyệt đối và tối cao, mà
tự do tồn tại và song hành với cái tất yếu và chi phối cái tất yếu. Chính từ
đó những phạm trù của phép biện chứng nó cũng thể hiện được những khái
niệm của hình thức tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính cơ bản
của một lớp những sự vật hiện tượng nhất định của hiện thực khách quan,
kể cả phạm trù tự do và tất yếu cũng khơng loại khỏi những hình thức tư
duy đó. Ở đây, tự do là sự nhận thức cái tất yếu, Xpinôda đã gắn liền với tự


20

do với năng lực nhận thức của con người và ông chỉ ra được tự do là hoạt
động con người và hoạt động đó được gọi là hoạt động nhận thức và loại bỏ
suy nghĩ tự do là thuộc tính của con người.
Tuy nhiên, trong sự thể hiện biện chứng của Xpinôda về tự do và tất
yếu, nhưng với những hạn chế của lịch sử cho nên tư tưởng của Xpinơda
khơng thể thốt khỏi tính chất siêu hình đang diễn ra rất mạnh mẽ vào thời
kì này. Tính siêu hình của ơng chính là sự thể hiện các mối liên hệ một
cách máy móc, ơng cho rằng tính tất yếu duy lý mang tính chất của sự vĩnh
viễn, bất biến từ đó trong học thuyết của ơng ln lý tưởng hóa ý tưởng cho

nên ơng đã khơng dành một chỗ nào cho lịch sử hiện thực. Chính vì thế con
người trong triết học Xpinơda bị đặt ra ngồi lịch sử - xã hội và nó khơng
có liên lạc gì với lịch sử của nó.
Hơn nữa Xpinơda cịn mang trong chính tư tưởng của mình theo lối tư
duy duy tâm chủ quan, và trong cụm từ tự do ông đã chỉ ra đúng về sự tự
do chủ quan đó là cái tất yếu đã có sự tự chủ, chế ngự ham muốn cá
nhân.“Theo nghĩa đó thì rất đúng khi nói là tự do là tất yếu trở thành tự
giác…nhưng ông đã không thể chỉ ra được một sự tự do khách quan, một
sự làm chủ thực sự thế giới về lịch sử bằng việc nhận thức và vận dụng
những quy luật tất yếu của tự nhiên và xã hội có thể như thế nào” [39,181].
Do vậy, triết học của Xpinôda cũng chỉ dừng lại ở góc độ duy tâm và duy
lý, ông đã bỏ quên vai trò của thực tiễn, ông chỉ giải phóng con người bằng
ý thức tư duy chủ quan của mình mà khơng đưa ra sự gắn kết của tư duy
với tự nhiên và xã hội, trong khi đó thì đối với tính khách quan của những
quy luật tự nhiên và xã hội, “thực tiễn xã hội cho phép vận dụng những quy
luật khách quan ấy khi chúng đã được nhận thức. Định mệnh và sự chịu
đựng chỉ có thể được khắc phục khi tự do khơng cịn chỉ là sự nhận thức
được tính tất yếu, mà là một hành động dựa trên nhận thức đó” [39,183].


×