Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Vai trò của đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh với việc giáo dục lối sống cho học sinh trong các trường trung phổ thông ở quận 12 thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.44 KB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THÚY VI

VAI TRỊ CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO HỌC SINH
TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
QUẬN 12 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THÚY VI

VAI TRỊ CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO HỌC SINH
TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
QUẬN 12 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số

: 60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Quốc

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Anh Quốc. Các số liệu, tài liệu
được sử dụng trong luận văn là hoàn toàn trung thực, chính xác và có
nguồn gốc rõ ràng.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 05 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Thúy Vi


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA ĐỒN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC GIÁO DỤC LỐI SỐNG
CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG ......................................................................................................... 9
1.1. Lý luận về lối sống học sinh trung học phổ thông.................................. 9
1.1.1. Khái niệm về lối sống học sinh trung học phổ thông............................... 9
1.1.2. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến lối sống của học sinh
trung học phổ thông ............................................................................. 26

1.2. Việc giáo dục lối sống cho học sinh trong trường Trung học phổ
thông của tổ chức Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.............. 38
1.2.1. Tổ chức và hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh......... 38
1.2.2. Vai trị của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với việc
giáo dục lối sống cho học sinh trong trường Trung học phổ thơng................. 55
CHƯƠNG 2. CƠNG TÁC CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG
SẢN HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO
HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
QUẬN 12 THÀNH PHỐ HỖ CHÍ MINH HIỆN NAY .............................. 64
2.2. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội với việc hình
thành lối sống học sinh trung học phổ thơng ở Quận 12 Thành
phố Hồ Chí Minh .................................................................................. 64
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và sự hình thành lối sống học
sinh trung học phổ thơng ở Quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh............ 64


2.1.2. Đặc điểm cơng tác của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh trong việc giáo dục lối sống học sinh trung học phổ thông ở
Quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................. 69
2.2 . Cơng tác của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với
việc giáo dục lối sống cho học sinh trong trường Trung học
phổ thông ở Quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.................. 76
2.2.1. Thực trạng cơng tác của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh với việc giáo dục lối sống cho học sinh trong trường
trung học phổ thông ở Quận 12........................................................... 76
2.2.2. Những vấn đề đang đặt ra cho tổ chức Đoàn trong việc
giáo dục lối sống cho học sinh trong trường Trung học phổ
thông ở Quận 12 ................................................................................ 84
2.3. Phương hướng và các giải pháp nâng cao vai trị của Đồn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc giáo dục lối sống

cho học sinh trong trường Trung học phổ thông ở Quận 12
Thành phố Hồ Chí Minh.............................................................................. 88
2.3.1. Phương hướng phát huy vai trị của tổ chức Đồn trong việc
giáo dục lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Quận
12........................................................................................................ 88
2.3.2. Các giải pháp phát huy vai trò của Đoàn trong việc giáo dục
lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Quận 12 ........................ 96
KẾT LUẬN................................................................................................. 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 111


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người thì mỗi thời đại, mỗi
quốc gia khác nhau, cùng với sự phát triển kinh tế, chuyển biến xã hội đều
hình thành nên cốt cách, luân lý, lối sống phù hợp với nó. Lối sống vừa là
một biểu hiện trình độ phát triển của xã hội, vừa là yếu tố tạo nên đời sống
xã hội, là một bộ phận cấu thành văn hóa sống động của xã hội. Những
biến đổi về đạo đức, lối sống là một trong những nhân tố dẫn đến sự
chuyển biến về xã hội. Lối sống nói chung, lối sống của học sinh trung học
phổ thơng nói riêng giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển xã
hội nhanh, bền vững.
Sau cách mạng tháng Tám 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi
tồn dân xây dựng “Đời sống mới”. Từ sau năm 1954, những nghị quyết
của Đảng đều đề cập đến xã hội nền văn hóa mới, đạo đức mới, lối sống
mới – lối sống xã hội chủ nghĩa,….
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định mục tiêu của việc xây dựng nền văn hóa mới là

xây dựng con người mới có nếp sống, lối sống mới. Trong văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Biết
phát huy truyền thống lao động cần cù và đấu tranh anh dũng của dân tộc,
lao động với tinh thần tự nguyện, tự giác cao, với đầy đủ nhiệt tình, tận tụy,
sẵn sàng cống hiến mọi sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội; là con người có tinh thần cách mạng tiến cơng, khơng lùi bước
trước bất kỳ khó khăn nào, coi lao động là vinh dự, là hạnh phúc, là lẽ
sống;…” [24, tr.63].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982), Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Kiên trì xây dựng nếp sống mới lành mạnh,


2

khoa học, tiết kiệm và giản dị; bảo vệ và phát triển các giá trị tinh thần.
Kiên quyết bài trừ những hủ tục, mê tín dị đoan; tiếp tục đấu tranh quét
sạch văn hóa thực dân mới và ảnh hưởng của các loại văn hóa phản động,
đồi trụy khác. Tất cả những việc đó nhằm làm cho tư tưởng, tình cảm, lối
sống mới thật sự chiếm ưu thế trong đời sống nhân dân” [32, tr.172-173].
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức đầy đủ
và sâu sắc hơn vai trò của lối sống. Lối sống là một trong những lĩnh vực
then chốt của văn hóa có tác động to lớn đối với sự phát triển của mỗi cá
nhân, gia đình và xã hội. Lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa.
Tuy nhiên, do chịu sự tác động, ảnh hưởng của điều kiện sống, trong giai
đoạn đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, văn hóa,
lối sống ở Việt Nam đang có những biến đổi phức tạp. Một mặt, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là điều kiện để xây
dựng, hoàn thiện, phát triển văn hóa, lối sống mới theo hướng hiện đại, văn
minh, tiến bộ. Mặt khác, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế cũng có những tác động tiêu cực nhất định đối với sự phát triển văn

hóa và lối sống dân tộc. Đó là sự mai một bản sắc dân tộc. Về điều này, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam đánh
giá: “Tình trạng suy thối, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ
nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [32,172-173].
Việc khắc phục tình trạng suy thối về đạo đức, lối sống của thế hệ trẻ thì
vai trị giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội là hết sức cơ bản, quan
trọng và cần thiết.
Việc giáo dục lối sống học sinh trung học phổ thơng khơng chỉ có trí
tuệ, năng lực, tri thức, khoa học mà cịn phải có bản lĩnh, lý tưởng, lối sống
lành mạnh phải kể đến vai trị của ngành giáo dục, của tồn xã hội. Vai trò
của xã hội đối với việc giáo dục lối sống của học sinh trung học phổ thông


3

là hết sức quan trọng, đặc biệt trong đó là vai trị của Đồn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh. Tổ chức Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đóng
vai trị rất quan trọng trong việc giáo dục lý tưởng, lối sống đoàn viên,
thanh niên. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong thời gian qua, khơng ít nơi
vai trị của tổ chức Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc giáo
dục lối sống cho học sinh ở trường học phổ thơng cịn nhiều hạn chế.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế, văn hóa và khoa
học – công nghệ của cả nước. Quận 12 là một trong những quận vùng ven
của thành phố Hồ Chí Minh. Qua những năm đổi mới thì quận đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục,… Cơng tác xây dựng đời sống văn hóa có những chuyển
biến tích cực, nhưng bên cạnh đó xây dựng lối sống, đặc biệt là lối sống
của một bộ phận giới trẻ - học sinh trung học phổ thơng cịn một số bất cập.
Nói về lối sống học sinh trung học phổ thơng hiện nay, có thể nhận
thấy, một bộ phận không nhỏ chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và

thiếu tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh
hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm
pháp luật… Có những hiện tượng học sinh rơi vào tện nạn xã hội, bạo lực
học đường, khơng kính trọng thầy cơ, xem thường bạn bè, mọi người xung
quanh, không hiếu thảo với ông bà cha mẹ, thiếu tính nhân đạo, mê games
bỏ học hoặc tự tử vì games,….
Vì những lý do trên, tơi quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Vai trị
của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với việc giáo dục lối sống
cho học sinh trong các trường Trung học phổ thơng ở Quận 12 thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành chủ
nghĩa xã hội khoa học.


4

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Ngày nay, lối sống đã trở thành vấn đề trọng yếu, gắn liền với chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và con người Việt Nam của Đảng và
Nhà nước.
Lối sống nói chung, lối sống học sinh trung học phổ thơng nói riêng
là phạm trù lớn, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội
nhân văn. Lối sống gắn liền với mọi hành vi của con người, chi phối hành
vi của cá nhân và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Vấn đề lối sống nói
chung và lối sống của học sinh trung học phổ thông là chủ đề luôn nhận
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học khác nhau. Với các
tác phẩm đã được xuất bản, có thể khái quát thành các chủ đề sau:
Thứ nhất, các cơng trình chủ yếu nghiên cứu lý luận về lối sống của
thanh niên. Trong chủ đề này, phải kể đến các tác phẩm như: “Bàn về vấn
đề khái niệm sống” của N.I.Be-lo-va - Viện xã hội học dịch (1977), Tập thể
tác giả: “Lối sống xã hội chủ nghĩa” (dịch sang tiếng Việt, năm 1982),

“Bàn về thanh niên” của C.Mác và Ph.Ăngghen – Nxb. Thanh niên (1982);
“Bàn về thanh niên” của V.I.Lênin, Nxb. Thanh niên (1982). Một số tác
phẩm quan trọng của chủ tịch Hồ Chí Minh, như “Về giáo dục thanh thiếu
niên”, Nxb. Thanh niên (1982), “Về đạo đức học”, Nxb. Chính trị quốc gia
– Hà Nội (1993), “Bàn về công tác giáo dục”, Nxb. Sự thật – Hà Nội
(1970)… và nhiều tác phẩm được cơng bố trong “Hồ Chí Minh tồn tập” ,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (1995 – 1996),” Xây dựng lối sống cho
thanh niên đô thị hiện nay”, Cao Văn Định (2000) ; Phạm Hồng Tung
(2007), Nghiên cứu về lối sống: một số vấn đề về khái niệm và cách tiếp
cận; Lê Đức Phúc (2006), Đề cương bài giảng mơn tâm lý học văn hóa.
Trong các tác phẩm, các cơng trình khoa học trên đã cơng bố cho thấy, lối
sống nói chung, lối sống của học sinh trung học phổ thông được nghiên


5

cứu, tích lũy dưới nhiều góc độ, phương pháp tiếp cận khác nhau. Trong
đó, nội dung đã làm rõ khái niệm lối sống, quan niệm về lối sống, vị trí, vai
trị lối sống của học sinh trung học phổ thơng đối với sự phát triển xã hội
khá sâu sắc, toàn diện.
Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn có liên
quan đến giáo dục lối sống, về giá trị của lối sống trong truyền thống văn
hóa dân tộc Việt Nam. Chủ đề này phải kể đến các tác phẩm sau: “Văn hóa
Việt Nam truyền thống và hiện đại” (2000) của nhiều giáo sư do Lê Trung
Hoàn và Hồng Đức Nhuận tuyển chọn và giới thiệu; “Tìm hiểu giá trị văn
hóa truyền thống trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2001) của Nguyễn
Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sỹ Quý; “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sác dân tộc” (2001) của Nguyễn
Khoa Điềm; “Văn hóa truyền thống dân tộc với việc giáo dục thế hệ trẻ”
(2001) của Nguyễn Hồng Hà; “Giáo dục tư tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ

Việt Nam trong tình hình mới” (2000) của Phạm Đình Nghiệp; “Giáo dục
hệ thống giá trị đạo đức nhân văn” (1998) của Hà Nhật Thăng. Trong chủ
đề này, các tác phẩm đã tập trung phân tích, trình bày khá đầy đủ, khá
phong phú về văn hóa, đạo đức truyền thống đối với việc hình thành lối
sống của học sinh trung học phổ thơng. Đó là những chuẩn mực như trung,
hiếu, cần cù, tôn sư trọng đạo, lễ nghĩa,... được học sinh trung học phổ
thông tiếp thu, kế thừa trong việc hình thành lối sống của mình.
Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu về cơng tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho học sinh, đặc biệt là học sinh trung học phổ thơng. Trong nội
dung này, các cơng trình nghiên cứu liên quan phải kể đến như: “Giáo dục
lối sống mới” của tác giả Thanh Lê; “Phương pháp, kỹ năng và nghiệp vụ
giáo dục thanh niên” của Tiến sĩ Dương Tự Đam; “Những biện pháp quản
lý giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học của người Hiệu


6

trưởng” của Thạc sĩ Dương Thị Trúc Bạch; “Tổ chức và giáo dục đạo đức
cho sinh viên thông qua hoạt động của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh và Hội Sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang” của Thạc sĩ
Võ Đăng Khoa; “Một số biện pháp phối hợp giữa Hiệu trưởng và tổ chức
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong cơng tác giáo dục đạo đức
cho học sinh trung học phổ thơng tỉnh Bình Dương” của Thạc sĩ Võ Huỳnh
Ngọc Vân; “Một số biện pháp phối hợp giữa chính quyền và tổ chức Đồn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhằm tăng cường cơng tác quản lý sinh
viên ở trường Đại học Sư phạm Huế” của Thạc sĩ Hồ Quang Chính; “Một
số giải pháp phối hợp giữa Hiệu trưởng và Ban chấp hành Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trong cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở
trường Trung học phổ thông tỉnh Bình Phước” của Lê Hồng Quảng. Trong
chủ đề này, các tác phẩm đã tập trung trình bày, phân tích thực trạng lối

sống của học sinh trung học phổ thông. Đồng thời các cơng trình trên cũng
đã phân tích được vai trị của nhà trường, các tổ chức đồn thể, trong đó có
tổ chức Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc giáo dục lối
sống cho học sinh trung học phổ thông. Các tác phẩm cũng chỉ ra cách thức
phối hợp, các giải pháp cụ thể để nâng cao hơn nữa vai trị của tổ chức
Đồn trong việc cùng nhà trường, gia đình giáo dục đạo đức, lối sống đúng
đắn, có lý tưởng cho học sinh trung học phổ thơng.
Có thể nói, các cơng trình khoa học trên là những tài liệu, thông tin
để học viên cao học tiếp thu, kế thừa trong việc hoàn thiện luận văn chuyên
ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của mình. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu về vai trị của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh với việc giáo dục lối sống cho học sinh trong trường Trung học phổ
thông ở Quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.


7

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống
về vai trị của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với việc giáo dục lối
sống cho học sinh trong các trường Trung học phổ thơng ở Quận 12 TP.Hồ
Chí Minh hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài
Hệ thống lý luận về lối sống thanh niên và vai trị của Đồn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong giáo dục lối sống cho học sinh trong
trường Trung học phổ thông.
Làm rõ điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động đến lối sống của
học sinh trung học phổ thông ở Quận 12.
Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản phát huy vai trị của
Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong giáo dục lối sống cho học

sinh trung học phổ thông trên địa bàn Quận 12 – Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu vai trị của Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
trong giáo dục lối sống học sinh được giới hạn trong phạm vi học sinh bậc
trung học phổ thông và trên địa bàn Quận 12 – Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước ta về giáo dục thanh niên.
Luận văn còn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, như
phân tích và tổng hợp, lơgíc và lịch sử, điều tra xã hội học, so sánh, chứng
minh, kết hợp các phương pháp của một số ngành khoa học như tâm lý,
giáo dục, văn hóa học… để phân tích và trình bày nội dung luận văn.


8

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm sáng tỏ thêm
những luận điểm, các vấn đề lý luận và thực tiễn về lối sống và giáo dục lối
sống của học sinh trung học phổ thông.
Luận văn góp phần nhằm nâng cao vai trị của Đồn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh trong giáo dục lối sống cho học sinh trung học phổ thơng,
từ đó nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục lối sống
học sinh trung học phổ thông Quận 12 – Thành phố Hồ Chí Minh, giúp học
sinh xây dựng lối sống lành mạnh, phù hợp với các giá trị chuẩn mực đạo
đức, văn hóa, truyền thống của dân tộc trong bối cảnh hiện nay. Ngồi ra,
luận văn cịn được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong lĩnh vực giáo dục,
cơng tác đồn…
6. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.


9

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA ĐỒNTHANH NIÊN CỘNG SẢN
HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO
HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. LÝ LUẬN VỀ LỐI SỐNG HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1.1. Khái niệm về lối sống học sinh trung học phổ thông
Lối sống là một trong những phạm trù cơ bản trong lĩnh vực đời
sống xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam và trên thế giới đã có
nhiều cách hiểu, cách lý giải khác nhau về khái niệm “lối sống”. Trong đó
có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng khơng ít ý kiến khác nhau.
Vào những thập niên 60 – 80 của thế kỷ XX, giới nghiên cứu Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đưa ra hơn 50 định nghĩa tiêu
biểu về “lối sống” và có thể quy về ba khuynh hướng sau:
Thứ nhất, định nghĩa lối sống dựa vào khái niệm “hoạt động”, “hành
vi”. Riêng khái niệm “hoạt động” được hiểu theo nghĩa rộng nhất, tức là
bao hàm cả những sinh hoạt thường ngày. Những định nghĩa thuộc loại này
có ưu điểm là đã làm nổi bật đặc điểm cơ bản của lối sống xã hội chủ
nghĩa. Coi lao động sáng tạo với tính chất là hạt nhân trong hoạt động sống
của con người. Tuy nhiên, đối với những định nghĩa dựa trên khái niệm
“hoạt động” chưa phản ánh đầy đủ được các đặc điểm của lối sống, như
G.Glezerman (Liên Xô) cho rằng: “lối sống là tổng hịa những nét cơ bản,
nói lên những đặc điểm của các hoạt động sống của xã hội, dân tộc, giai
cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định” [100, tr.17-18]. Trong khi đó, V.I.Tơnxtưkhơ dựa trên cơ sở phạm trù

hình thái kinh tế - xã hội, một phạm trù bao quát tất cả những điều kiện và
những nhân tố quyết định lối sống, để xác định nội dung lối sống; xem lối


10

sống là “những hình thức cố định, điển hình của hoạt động sống cá nhân và
tập đoàn của con người; những hình thức ấy nói lên các đặc điểm về sự
giao tế, hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động
xã hội – chính trị, sinh hoạt và giải trí” [101, tr.27]. Quan niệm về lối sống
ấy đã bao quát nội dung cơ bản, phản ánh được đầy đủ yếu tố“cái xã hội”
của lối sống.
Thứ hai, tập trung vào cơ sở, nền tảng cho sự hình thành lối sống, đó
là các điều kiện vật chất quy định sự tồn tại của con người. Những định
nghĩa thiên về đề cao vai trò của “mức sống”, thậm chí dùng phạm trù
“chất lượng sống”, thay cho phạm trù lối sống. Theo Z.Dunốp (Hunggari),
lối sống trước hết là những điều kiện trong đó con người tự tái sản xuất về
mặt sinh học cũng như về mặt xã hội. Đó là tồn bộ những hình thức hành
vi hàng ngày, ổn định và điển hình của con người [3, tr.3,6].
Các điều kiện sống và mối quan hệ của các điều kiện sống là nền
tảng đánh giá sự thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người,
xã hội. Các định nghĩa nêu trên chưa làm rõ được tính chất của hình thức
thỏa mãn đó như thế nào trong đời sống hàng ngày của con người, do đó,
nó khơng thể hiện rõ tính chất xã hội, dân tộc, văn hóa cũng như vai trị tích
cực của chủ thể được thể hiện trong phạm trù lối sống.
Thứ ba, muốn kết hợp những ưu điểm và khắc phục những nhược
điểm của hai khuynh hướng trên trong quan niệm về lối sống. Quan niệm
này xem xét lối sống như một dạng hoạt động thực tế của con người trong
một xã hội nhất định và cần phải phân biệt nó với những điều kiện của hoạt
động sống ấy. A.P.Butencô, một chuyên gia nghiên cứu về lối sống của

Liên Xô trước đây, tán thành quan điểm này. Sự phân biệt có ý nghĩa hết
sức quan trọng về mặt phương pháp luận trong việc nghiên cứu, tìm hiểu
hoạt động sống của con người nói chung, lối sống của con người nói riêng.


11

Trên thực tế nhiều nhà nghiên cứu thường đồng nhất lối sống với các điều
kiện kinh tế, chính trị và xã hội, họ khơng phân biệt tính đặc thù của lối
sống trong các chế độ xã hội, các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau. Ở
phương diện khác, một số nhà nghiên cứu đã xem lối sống như một hình
thức hành động hoặc một hệ thống các hoạt động sống của con người và
xem xét các điều kiện sống chỉ là mơi trường bên ngồi của lối sống. Quan
điểm này không thấy rõ được mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, do đó
làm giảm vai trị quan trọng vốn có của nền tảng xã hội đối với ý thức và
hành động, lẽ sống và mức sống của con người.
Theo N.I.Belova, mặc dù đã có nhiều tác giả, nhiều tài liệu đề cập
đến khái niệm lối sống, nhưng đến nay người ta vẫn chưa thể nêu lên một
định nghĩa tương đối thống nhất về nội dung và ý nghĩa của nó.
Trong các tác phẩm của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin đã nhiều lần đề cập đến khái niệm phương thức sống, nếp sinh
hoạt…Chẳng hạn, trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã nhận xét một cách sâu sắc rằng: “không nên nghiên cứu phương thức
sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể
xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất
định của những cá nhân, một hình thức nhất định của hoạt động sống của
họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ” [81, tr.30]. Như vậy, có
thể thấy trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, lối sống trước hết có
tính chất là một cách thức của hoạt động đời sống: “một phương thức hoạt
động nhất định”, “một hình thức nhất định của hoạt động sống”, là “một
phương thức sinh sống nhất định”. Theo cách tiếp cận này, lối sống của

một con người, một xã hội người khơng hồn tồn đồng nhất với phương
thức sản xuất, tức là với cách thức mà con người và xã hội người sản xuất
ra của cải vật chất, nhưng lối sống này lại bị phương thức sản xuất quy định


12

một cách trực tiếp và mạnh mẽ. C.Mác đã khẳng định sản xuất là yếu tố
quyết định sự tồn tại của cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt
động cơ bản của con người, là mặt cơ bản của lối sống.
Việc nghiên cứu về lối sống ở Việt Nam cho thấy việc tìm hiểu vấn
đề lối sống khá phong phú trên nhiều lĩnh vực, góc độ, giai đoạn khác nhau.
Nhưng có thể khái quát việc nghiên cứu về lối sống của các nhà khoa học
Việt Nam qua ba giai đoạn sau: từ năm 1970 trở về trước, lối sống được
nghiên cứu dưới góc độ triết học duy vật lịch sử; trong thập niên 80 của thế
kỷ XX, nó là đối tượng nghiên cứu của chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản
khoa học; và hiện nay, xã hội học và văn hóa học là hai hướng tiếp cận khá
phổ biến trong nghiên cứu về lối sống. Nói chung, cách tiếp cận triết học
đối với lối sống là định hướng nhận thức vào cái bản thể của sự vật, nhờ đó
giúp con người nhận thức các hiện tượng của đời sống xã hội sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, do thiên về nhận thức bản thể luận nên cách tiếp cận này có
phần trừu tượng. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi đó là cách tiếp cận “tinh
thần luận”, không gắn với thao tác, cho nên rất hạn chế trong việc nêu ra
được cách làm việc cụ thể trong hoạt động thực tiễn. Cách tiếp cận triết học
nếu khơng đạt đến trình độ nhận thức sâu sắc sẽ mang đậm tinh thần “ý chí
luận” mà kết quả là tơ đậm những mong muốn chủ quan và đồng nhất cái
ước vọng chủ quan với cái thực tại khách quan.
Tiếp cận xã hội đối với lối sống bắt đầu từ việc phân tích khoa học
sự khác biệt giữa hành động xã hội với hành vi tự nhiên để xác định khn
mẫu ứng xử. Sau đó, phân tích cách thức kết hợp khn mẫu ứng xử trong

những vai trò xã hội và mối liên hệ qua lại giữa chúng để tạo nên một thể
chế xã hội. Cuối cùng tìm hiểu sự phối hợp và cách thức vận hành toàn bộ
các thể chế xã hội theo một bảng giá trị xã hội nào đó để hình thành lối
sống mới của xã hội.


13

Tiếp cận văn hóa học đối với lối sống là nghiên cứu các biểu trưng
văn hóa của các q trình xã hội và khuôn mẫu ứng xử, tức là các định
hướng giá trị xã hội của chúng, nhằm tìm hiểu ý nghĩa của các biểu tượng
văn hóa mà con người và xã hội con người cung cấp cho thế giới vật thể và
phi vật thể. Với cách tiếp cận văn hóa học, có thể làm rõ được lối sống có
văn hóa và ý nghĩa tích cực của văn hóa lối sống trong quá trình cải biến
thế giới tự nhiên sao cho thích ứng được với hệ thống các nhu cầu của xã
hội con người. Bởi lẽ, các giá trị tinh thần – văn hóa là cơ sở và định hướng
vận hành của các khuôn mẫu ứng xử và thể chế xã hội phối hợp, tổng hợp
chúng thành phương thức sống của con người và xã hội.
Có thể nói, cho đến nay ở Việt Nam cách tiếp cận triết học, xã
hội học, văn hóa học về vấn đề lối sống là các hướng tiếp cận chính
trong nghiên cứu.
Ở Việt Nam, khái niệm “lối sống” được xem xét dưới góc nhìn tổng
hợp, trong đó có nói đến mối quan hệ giữa mặt chủ quan và khách quan,
giữa hoạt động sống và điều kiện sống của con người, giữa hoạt động sản
xuất vật chất và những hoạt động phi sản xuất vật chất.
Xem lối sống như những quan hệ xã hội, PGS.TS. Lê Như Hoa cho
rằng: “Lối sống là tổng thể các quan hệ xã hội của con người với những
hình thức và đặc trưng tiêu biểu cho mỗi dân tộc, quốc gia, vùng địa lý,
nhóm xã hội trong những điều kiện lịch sử, kinh tế và văn hóa cụ thể”[62,
tr.341]. Và GS. Hoàng Vinh trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận văn hóa

thời kỳ đổi mới” định nghĩa: “Lối sống là một phạm trù xã hội học. Nó là
một tổng thể những hình thái hoạt động của con người, phản ảnh các đặc
điểm sinh hoạt vật chất, tinh thần của cộng đồng người đã tạo ra lối sống
đó”[109,tr.45].


14

Nhìn chung, các khái niệm về lối sống đều gặp nhau những điểm
sau: một là, xem lối sống là một dạng hoạt động sống của con người; hai
là, hoạt động sống này phụ thuộc chặt chẽ vào phương thức sản xuất và
điều kiện sống của con người; ba là, nó thể hiện đặc trưng riêng của từng
cộng đồng người.
Có thể nói, lối sống là hoạt động của con người. Về thực chất, đó là
cách thức con người ứng xử với tự nhiên và với xã hội để bảo tồn và phát
triển đời sống của mình. Vì vậy, khái niệm “lối sống” bao hàm cả hai mặt
khách quan lẫn chủ quan. Mặt khách quan là điều kiện sống của con người,
trong đó bao hàm những đặc điểm của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định mà cốt lõi là phương thức sản xuất. Mặt chủ quan chính là ý thức của
con người trong sự lựa chọn cho mình một lối sống, dựa trên cơ sở một lẽ
sống, một thái độ sống cụ thể, những mục tiêu mà con người đặt ra.
Về mặt khách quan, lối sống cũng như phương thức sản xuất, một
mặt, được quyết định bởi quan hệ thực tiễn của con người với tự nhiên, bởi
trình độ trang bị kỹ thuật và năng suất lao động của họ và mặt khác, lối
sống được quyết định bởi tính chất quan hệ sản xuất, bởi chế độ kinh tế của
xã hội, cơ sở của toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất. Nhưng lối sống căn
bản khác với phương thức sản xuất ở hai mặt. Thứ nhất, trong khái niệm lối
sống “phương thức hoạt động” được nhấn mạnh. Thứ hai, lối sống không
chỉ hạn chế vào lĩnh vực sản xuất của cải vật chất. Nó khơng chỉ nói lên
khía cạnh kinh tế của đời sống, hoạt động lao động của con người mà cịn

nói lên hoạt động ngồi sản xuất của họ, những đặc điểm cơ bản về sinh
hoạt, văn hóa, đời sống chính trị, đạo đức. Khái niệm “lối sống” là sự tổng
hợp tất cả những nét căn bản của hoạt động của con người trong thực tiễn
do các khía cạnh tương ứng của hệ thống quan hệ xã hội quyết định. Vì
vậy, khái niệm “lối sống” có liên quan chặt chẽ với khái niệm “hình thái


15

kinh tế - xã hội”. Hình thái kinh tế - xã hội nào, lối sống ấy. Có lối sống
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và nhiều lối sống trong một
hình thái kinh tế - xã hội cụ thể. Có sự khác nhau giữa lối sống của giai cấp
phong kiến, giai cấp tư sản với lối sống của giai cấp nông dân và giai cấp
công nhân. Do sự quy định của điều kiện và môi trường địa – văn hóa nên
có lối sống du mục và lối sống trồng lúa nước. Và do sự quy định của điều
kiện và môi trường kinh tế - xã hội mà có lối sống thị trường và lối sống
cơng xã truyền thống…
Sự tương tác giữa các quan hệ giai cấp và sự tương tác giữa các quan
hệ địa – văn hóa (thiên nhiên, mơi trường sinh thái, dân cư, lãnh thổ, dân
tộc, tín ngưỡng và tơn giáo…) đã tạo nên biểu tượng và giá trị văn hóa
riêng biệt như là bản sắc văn hóa ổn định của lối sống. Vì thế, như đã đề
cập ở trên, nhiều mặt của lối sống có tính độc lập tương đối so với sự phát
triển của cơ sở hạ tầng. Do đó, có những phương thức sản xuất đã qua đi
trong lịch sử, nhưng nhiều yếu tố của lối sống cũ vẫn được bảo lưu và phát
huy trong phương thức sản xuất mới. Chẳng hạn, lối sống một vợ một
chồng, lối sống tôn trọng người già, lối sống với nhau có tình có nghĩa, lối
sống yêu chuộng lao động “đói cho sạch, rách cho thơm”… có giá trị phổ
biến trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, đành rằng hình thức biểu hiện và
có khi tính chất của nó có thể khác nhau ở một mức độ nào đó.
Để tồn tại và phát triển, hằng ngày con người phải sống trong rất

nhiều mối quan hệ khác nhau và khái quát nhất, có thể quy về ba mối quan
hệ căn bản: quan hệ với công việc, quan hệ với người khác và quan hệ với
chính bản thân mình. Cho nên, lối sống của một con người, một cộng đồng
người chính là kiểu hành vi ứng xử và hoạt động của họ trong môi trường
tự nhiên, xã hội nhất định và bao giờ cũng bị quy định bởi mơi trường đó.


16

Vì thế, mặt khách quan của lối sống cịn thể hiện ở những chuẩn giá
trị xã hội. Chuẩn giá trị xã hội là các giá trị cốt lõi được lựa chọn, đánh giá,
xác định và cấu trúc theo những thang bậc nhất định như những chuẩn mực
chung cho đại đa số thành viên xã hội.
Mặt chủ quan của lối sống, như đã nói, là ý thức của con người trong
việc lựa chọn cho mình một lối sống, dựa trên cơ sở của một lẽ sống, một
thái độ sống cụ thể, những mục tiêu mà con người đặt ra. Mặt chủ quan này
phụ thuộc rất nhiều vào nền văn hóa, vào thế giới quan, lý tưởng sống mà
cá nhân hấp thu được… Nó làm cho lối sống trở thành tự giác, vươn đến
các giá trị, làm nên ý nghĩa lối sống.
Như vậy, để có thể đi đến một định nghĩa về lối sống, cần phải chú ý
mấy vấn đề sau: 1- Lối sống là một phương thức sinh sống nhất định của
con người mà mặt cơ bản của nó là phương thức sản xuất; 2- Phương thức
sinh sống ấy là kết quả của sự tác động tích cực của con người vào điều
kiện sống của mình trong mối quan hệ biện chứng giữa con người và hoàn
cảnh; 3- Lối sống là một thực thể xã hội với hệ thống những chuẩn mực xã
hội của một cộng đồng nhất định mà cá nhân phải tuân theo.
Tóm lại, Lối sống là phương thức hoạt động đã xác định của con
người, bao gồm những dạng hoạt động sống ổn định mà con người đã lựa
chọn theo những chuẩn giá trị xã hội nào đó và cách thức thực hiện các
hoạt động đó trong những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.

Để hiểu rõ hơn khái niệm lối sống, có thể tìm hiểu thêm mối
quan hệ giữa lối sống với các khái niệm có liên quan như: lẽ sống, nếp
sống, mức sống,…
Lẽ sống hay còn gọi là đạo lý sống, là mặt tinh thần của lối sống. Nó
phản ánh nhu cầu, khát vọng, mục tiêu, quan điểm, lý tưởng sống và thể hiện
những chuẩn mực giá trị định hướng cho hoạt động sống của con người trong


17

những giai đoạn lịch sử nhất định. Có thể nói, lẽ sống được xem là mặt ý thức
của lối sống, phản ánh nhận thức của con người về chính bản thân trong các
mối quan hệ xã hội. Lẽ sống là mặt tự giác cao của lối sống, có quan hệ chặt
chẽ và chịu sự tác động chi phối trực tiếp của tư duy. Nhờ đó mà, lẽ sống tác
động, định hướng cho sự hình thành, biến đổi và phát triển của lối sống. Nó
đóng vai trị dẫn dắt, định hướng, nhằm làm cho lối sống ổn định theo từng cá
nhân, nhóm hay giai cấp, dân tộc. Mà một khi lẽ sống được thực hiện nhiều
lần, lặp đi lặp lại thành thói quen thì trở thành nếp sống.
Nếp sống là mặt ổn định của lối sống. Trong cách nói thơng thường
của người Việt Nam, các từ “nếp sống”, “lối sống” nhiều khi được dùng
như những từ đồng nghĩa. Nhưng với tính cách là một khái niệm khoa học
thì khái niệm “nếp sống” có nội dung hẹp hơn khái niệm “lối sống”. Nếp
sống là lối sống hoặc một phần – một mặt của lối sống (những hoạt động
sống) đã trở thành thói quen, thành phong tục, tập quán, thành quy ước của
cộng đồng. Nếp sống làm nên sự đa dạng của lối sống, giúp duy trì những
kinh nghiệm sống mà lồi người đã nhận thức được, định tính như một giá
trị, một chuẩn mực được cá nhân và cộng đồng thừa nhận, làm theo. Theo
GS. Vũ Khiêu, nếp sống là toàn bộ những thói quen được hình thành trong
cuộc sống hàng ngày, những thói quen đã trở thành nếp trong sản xuất,
chiến đấu, trong quan hệ xã hội và trong sinh hoạt riêng tư của mỗi con

người. Những thói quen ấy cịn được gọi là tập quán.
Mức sống là thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh giá mặt vật chất của
lối sống dựa trên chỉ số về sự đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của
con người. Thơng thường, mức sống phản ánh trình độ của nền sản xuất vật
chất trong những điều kiện lịch sử nhất định. Mức sống được nâng cao là
điều kiện để hoàn thiện lối sống. Tuy nhiên, cũng không nên coi mức sống
là mặt quyết định đối với lối sống. Khác với lối sống, mức sống có thể thay


18

đổi nhiều trong một khoảng thời gian ngắn và trong khuôn khổ của một chế
độ xã hội. Trong lối sống, khơng có những thay đổi sâu sắc trong những
thời hạn ngắn do sự tác động của việc tăng thu nhập và mức tiêu dùng của
cải vật chất và tinh thần. Vì vậy, những dữ kiện về mức tăng thu nhập của
những người lao động vẫn chưa đủ để hình dung về những thay đổi trong
lối sống. Những dữ kiện ấy cho phép so sánh về mặt số lượng mức tiêu
dùng khác nhau trong một nước. Nhưng để phân tích lối sống, nhất là trong
những chế độ xã hội khác nhau, phải chủ yếu sử dụng những chỉ tiêu chất
lượng là những chỉ tiêu phản ánh ưu thế của lối sống trong những điều kiện
của một phương thức sản xuất nhất định. Khái niệm mức sống, đúng như
tên gọi của nó, chỉ nói về mức sống và trình độ đời sống, chứ khơng nói lên
cách thức mà đời sống triển khai. Sống đẹp, cơ bản không phải là sống đầy
đủ mà là sống có ý nghĩa dưới sự dẫn dắt của những lẽ sống cao đẹp.
Khái niệm “Lối sống học sinh trung học phổ thông”
Căn cứ theo Điều 4 và Điều 83 của Luật Giáo dục (2006) nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể hiểu học sinh trung học phổ thông là
những người đang theo học ở cấp trung học phổ thông, cấp học kế tiếp sau
cấp trung học cơ sở và “… được thực hiện trong ba năm, từ lớp mười đến
lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học

cơ sở, có tuổi là mười lăm”. Điều lệ trường trung học cũng quy định rõ tuổi
của học sinh trung học phổ thông “là 15 đến 19”.
Vậy xét theo bậc học quy định của Nhà nước ta thì học sinh trung
học phổ thông là học sinh học lớp mười, mười một, mười hai.
Xét theo góc độ của khoa học tâm lý thì với độ tuổi như trên, học
sinh trung học phổ thơng thuộc giai đoạn đầu của tuổi thanh niên (cịn gọi
là thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh) và là giai đoạn cuối của tuổi
dậy thì. Ở lứa tuổi này, họ có sự phát triển đột biến về tâm lý, thể lực, trí


19

tuệ và nhân cách. Đây là thời kỳ tâm lý xảy ra những biến đổi mãnh liệt và
cũng là thời kỳ then chốt của sự phát triển tâm lý, chịu ảnh hưởng rất lớn
của những điều kiện kinh tế - xã hội và mơi trường sống.
Có thể thấy, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thơng có
những đặc điểm chung sau:
Về đặc điểm cơ thể, đặc điểm hoạt động học tập và đặc điểm của sự
phát triển trí tuệ: Lứa tuổi trung học phổ thơng là thời kỳ đang dần đạt đến
sự trưởng thành về mặt thể lực nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự
phát triển cơ thể của người lớn. Học sinh trung học phổ thơng có những nét
của người lớn nhưng chưa phải là người lớn, còn phụ thuộc vào người lớn,
người lớn quyết định nội dung và xu hướng chính của hoạt động của họ. Vì
vậy, vai trị của cha mẹ, thầy cô giáo, của người lớn rất quan trọng đối với sự
phát triển về mọi mặt của học sinh trung học phổ thông, đặc biệt là về nhân
cách và trí tuệ. Tư duy, trí tuệ đã phát triển từ tư duy cụ thể, tư duy lấy “cái
tôi” làm trung tâm tới tư duy logic trừu tượng, khả năng phân tích, tổng hợp,
suy luận và phán đốn của họ cũng được nâng cao. So với tuổi thiếu niên, tư
duy của học sinh trung học phổ thông chặt chẽ hơn, hệ thống hơn và có tính
phê phán hơn. Tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các hình thức của

q trình nhận thức. Tri giác có mục đích đã đạt tới mức cao; quan sát trở
nên có mục đích, có hệ thống và tồn diện hơn. Ghi nhớ có chủ định giữ vai
trị chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu
tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Ở lứa tuổi này, đa số học sinh
có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo. Khi
tiếp xúc với những tri thức chính trị, nhất là tri thức lý luận, thì thường có
nhu cầu phải được chứng minh, được luận giải một cách chặt chẽ, khoa học.
Khả năng thực hiện các thao tác tư duy, khả năng phân tích và nắm bắt mối


20

quan hệ nhân quả trong tự nhiên và trong xã hội… của học sinh trung học
phổ thông là cơ sở để hình thành thế giới quan.
Nội dung và tính chất hoạt động học tập của học sinh trung học phổ
thông khác rất nhiều so với hoạt động học tập của lứa tuổi thiếu niên. Điều
này không chỉ thể hiện ở nội dung học tập ngày một sâu hơn mà còn ở chỗ
hoạt động học tập đòi hỏi sự năng động và độc lập cao. Động cơ, thái độ,
hứng thú và năng lực học tập đều được nâng cao. Đối với lứa tuổi học sinh
trung học phổ thông, nội dung và tính chất hoạt động khác nhiều so với
hoạt động học tập của thiếu niên. Cuối cấp trung học phổ thông, đa số họ
đã xác định cho mình một hứng thú ổn định đối với một môn học hay một
lĩnh vực tri thức nào đó. Lúc này động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức là
những yếu tố ảnh hưởng quyết định đến hứng thú học tập một mơn học nào
đó, khi ấy mới đến ý nghĩa xã hội của môn học và các động cơ cụ thể
khác…. Nhược điểm trong thái độ học tập của học sinh trung học phổ
thông là họ chỉ hứng thú học những môn học mà họ cho là quan trọng, gắn
liền với khuynh hướng nghề nghiệp của bản thân.
Về đặc điểm nhân cách: ở lứa tuổi 15 đến 19 tuổi, học sinh trung học
phổ thông có sự bộc lộ mạnh mẽ về tính cách, tính tình thường khơng ổn

định, dễ chuyển từ cực này sang cực kia hay cịn gọi là tính lưỡng cực trong
tính nết. Điều này có nguồn gốc từ cơ chế sinh lý nhưng có nguyên nhân xã
hội của nó. Về cơ bản, học sinh trung học phổ thơng có tính cách mạnh mẽ,
tình cảm phong phú và nhiệt tình sơi sục – đây là mặt chủ đạo của tuổi
thanh niên nói chung, học sinh trung học phổ thơng nói riêng. Ở lứa tuổi
này, họ giàu ý chí và khát vọng, giàu tình cảm, cảm xúc, hăng hái hoạt
động, ham hiểu biết, thích cái mới, khơng có tính bảo thủ, trì trệ như người
lớn tuổi. Vì vậy, dễ thích ứng với đường lối đổi mới, với các chủ trương
chính sách mới. Đây là cơ sở thuận lợi để giáo dục lối sống cho học sinh


×