Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nhu cầu bảo hiểm y tế của người dân xã quảng hưng, thành phố thanh hóa, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HOÀNG THỊ MỸ LINH

NHU CẦU BẢO HIỂM Y TẾ CỦA NGƯỜI DÂN
XÃ QUẢNG HƯNG, THÀNH PHỐ THANH HÓA,
TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HOÀNG THỊ MỸ LINH

NHU CẦU BẢO HIỂM Y TẾ CỦA NGƯỜI DÂN
XÃ QUẢNG HƯNG, THÀNH PHỐ THANH HÓA,
TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã ngành: 60.31.30

Người hướng dẫn khoa học

TS. LÊ HẢI THANH


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng
được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Thị Mỹ Linh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả quá trình nghiên cứu, tìm hiểu của tác giả bằng
phương pháp nghiên cứu xã hội học. Đây là thời gian mà tác giả thực sự thu nhận
nhiều điều ý nghĩa về mặt khoa học.
Để có được kết quả nghiên cứu này, tơi xin trân trọng cảm ơn tập thể lãnh
đạo, giảng viên khoa Xã hội học đã đào tạo, hướng dẫn lớp cao học khóa 2011.
Trân trọng cảm ơn TS. Lê Hải Thanh đã hướng dẫn, định hướng, và động viên tôi
rất nhiều trong suốt q trình nghiên cứu để tơi có thể hồn thành luận văn này.
Kính chúc sức khỏe, thành công.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHXH:

Bảo hiểm xã hội

BHYT:


Bảo hiểm y tế

BV:

Bệnh viện

CSSK:

Chăm sóc sức khỏe

KCB:

Khám chữa bệnh

PVS:

Phỏng vấn sâu

TTĐC:

Truyền thơng đại chúng

TW:

Trung ương

UBND:

Ủy ban nhân dân



MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU ......................................................................... 1
1. MỞ ĐẦU........................................................................................... 2
1.1 Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 2
1.2 Tổng quan tài liệu............................................................................................. 5
1.3 Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................... 16
1.4 Nội dung nghiên cứu .................................................................................... 16
1.5 Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu ............................................................... 16
1.6 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 17
1.7 Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................ 17
1.8 Phƣơng pháp xử lý dữ liệu ............................................................................. 19
1.9 Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa lý luận .............................................................. 20
1.10 Hạn chế trong quá trình thực hiện luận văn ................................................. 21

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP LUẬN .......................... 21
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của chính sách BHYT ở Việt nam .......... 21
2.2 Cách tiếp cận chính trong nghiên cứu ............................................................ 31
2.3 Các khái niệm ................................................................................................. 35
2.4 Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 38
2.5 Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................... 38
2.6 Khung phân tích ............................................................................................. 39
2.7 Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 39

PHẦN II: NHU CẦU BHYT TỰ NGUYỆN CỦA NGƢỜI DÂN
XÃ QUẢNG HƢNG, THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH
THANH HÓA............................................................................... 41
Chƣơng 1: Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế tại xã Quảng Hƣng,
thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ...................................................... 42

1.1 Đặc điểm về địa bàn nghiên cứu .................................................................... 42
1.2 Mô tả mẫu nghiên cứu.................................................................................... 43


2. Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế tại xã Quảng Hƣng, thành phố Thanh
Hóa tỉnh Thanh Hóa .................................................................................... 53
2.1 Thực trạng tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe của ngƣời dân .................. 53
2.2 Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế tại xã Quảng Hƣng ................................. 57
2.2.1 Khái quát thực trạng bảo hiểm y tế tự nguyện tại thành phố Thanh Hóa ... 57
2.2.2 Mức độ bao phủ bảo hiểm y tế .................................................................... 58
2.2.3 Thời gian sử dụng bảo hiểm y tế tự nguyện ................................................ 60
2.2.4 Sử dụng bảo hiểm y tế tự nguyện trong khám chữa bệnh ........................... 61

Chƣơng 2: Nhu cầu BHYT tự nguyện và những yếu tố ảnh hƣởng đến
nhu cầu BHYT tự nguyện của ngƣời dân xã Quảng Hƣng, thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa .......................................................................... 64
1.Nhu cầu bảo hiểm y tế tự nguyện ................................................... 64
1.1 Nhu cầu thông tin bảo hiểm y tế tự nguyện .................................................. 64
1.2 Lý do mua bảo hiểm y tế tự nguyện .............................................................. 70
1.3. Nhu cầu tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện .................................................. 72

2. Những yếu tố tác động đến nhu cầu BHYT tự nguyện của ngƣời
dân xã Quảng Hƣng, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh hóa ............. 84
2.1 Những yếu tố khách quan .............................................................................. 84
2.2 Những yếu tố chủ quan .................................................................................. 94

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................... 105
Kết luận ............................................................................................. 106
Khuyến nghị ...................................................................................... 110
Tài liệu tham khảo ............................................................................ 114

Phụ lục bảng hỏi định lƣợng ............................................................. 119
Phụ lục phỏng vấn sâu ...................................................................... 131
Phụ lục bảng ...................................................................................... 163


MỤC LỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1 : Nhóm tuổi của mẫu nghiên cứu...................................................... 43
Biểu đồ 1.2 : Giới tính của mẫu nghiên cứu ........................................................ 45
Biểu đồ 1.3: Nhóm học vấn của mẫu nghiên cứu ................................................ 46
Biểu đồ 1.4 : Nhóm nghề nghiệp của mẫu nghiên cứu ........................................ 48
Biểu đồ 1.5 : Hành vi chăm sóc sức khỏe khi có triệu chứng bệnh nhẹ .............. 54
Biểu đồ 1.6 : Hình thức chữa trị khi có triệu chứng bệnh nặng của người dân ... 56
Biểu đồ 1.7 : Tình hình tham gia BHYT tự nguyện của thành phố Thanh Hóa từ
năm 2009 đến năm 2013 ...................................................................................... 58
Biểu đồ 1.8 : Độ bao phủ BHYT của xã Quảng Hưng năm 2013 ....................... 59
Biểu đồ 1.9 : Tình hình tham gia BHYT tự nguyện của xã Quảng Hưng từ năm
2009 đến năm 2013 .............................................................................................. 60
Biểu đồ 1.10: Thời gian tham gia BHYT tự nguyện của người dân .................... 61
Biểu đồ 1.11 : Tần suất sử dụng BHYT trong năm của người dân ...................... 63
Biểu đồ 2.1: Nhu cầu nhận thơng tin về chính sách BHYT tự nguyện của người
dân ........................................................................................................................ 64
Biểu đồ 2.2: Nhận thông tin tuyên truyền từ đại lý BHYT tự nguyện của xã
Quảng Hưng ......................................................................................................... 67
Biểu đồ 2.3 : Lý do mua BHYT tự nguyện của người dân .................................. 71
Biểu đồ 2.4 : Nhu cầu tiếp tục tham gia ở nhóm đang tham gia BHYT tự nguyện .... 74
Biểu đồ 2.5: Nhu cầu tham gia trong tương lai ở những người chưa tham gia
BHYT tự nguyện .................................................................................................. 76
Biểu đồ 2.6: Lý do không tiếp tục tham gia BHYT tự nguyện ở nhóm đang tham
gia ......................................................................................................................... 81
Biểu đồ 2.7: Lý do khơng tham gia BHYT tự nguyện ở nhóm chưa tham gia .... 82

Biểu đồ 2.8 : Lý do khám chữa bệnh trái tuyến của người dân ........................... 87
Biểu đồ 2.9: Biết về thủ tục gia hạn thẻ BHYT tự nguyện ở đối tượng chưa tham
gia ......................................................................................................................... 91


MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Mức thu nhập gia đình và trung bình nhân khẩu, trung bình mức chi cho y
tế của mẫu nghiên cứu............................................................................................... 50
Bảng 1.2 : Đặc điểm về cơ cấu mẫu phỏng vấn sâu bán cơ cấu .............................. 52
Bảng 1.3 : Mức độ bệnh của người dân trong một năm trước thời điểm khảo sát ... 53
Bảng 2.1: Nguồn đã nhận thông tin và nguồn thông tin mong muốn được cung cấp
về BHYT tự nguyện của người dân .......................................................................... 66
Bảng 2.2: Ý kiến của người dân về việc mỗi người nên có BHYT tự nguyện hàng
năm ............................................................................................................................ 73
Bảng 2.3: Khuyên người khác nên tham gia BHYT tự nguyện................................ 73
Bảng 2.4: Nhu cầu tiếp tục tham gia BHYT tự nguyện ở các đặc điểm về tuổi, giới
tính, học vấn, nghề nghiệp, kinh tế và tình trạng sức khỏe của nhóm đang có BHYT
tự nguyện................................................................................................................... 75
Bảng 2.5: Nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện trong tương lai ở các đặc điểm về
tuổi, giới tính, học vấn, nghề nghiệp, kinh tế và tình trạng sức khỏe của nhóm chưa
có BHYT tự nguyện .................................................................................................. 77
Bảng 2.6: Nhận định về mức phí tham gia BHYT tự nguyện và tình trạng bệnh mãn
tính của người dân..................................................................................................... 83
Bảng 2.7: Hình thức chữa trị khi có bệnh nhẹ của người dân................................... 90
Bảng 2.8: Hình thức chữa trị khi có bệnh nặng của người dân................................. 95
Bảng 2.9 : Đánh giá của người dân đối với cơ sở khám chữa bệnh ......................... 96
Bảng 2.10: Đánh giá của người dân đối với cơ sở khám chữa bệnh ……………

99


Bảng 2.11: So sánh giữa nhóm có BHYT tự nguyện và nhóm khơng có BHYT tự
nguyện về tình trạng bệnh mãn tính, mức độ bệnh nặng và số lần đi bệnh viện trong
năm ..........................................................................................................................

102

Bảng 2.12: Tuổi, giới tính và tình trạng bệnh mãn tính ở những người đã có BHYT
tự nguyện.................................................................................................................

103


PHẦN I: MỞ ĐẦU

1


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Bệnh tật là một trong những nguyên nhân thường gặp nhất dẫn đến rủi ro
trong cuộc sống. Bệnh tật có thể xảy ra với bất cứ ai, bất cứ nơi nào và khi nào,
mang lại những hậu quả khơng dự đốn được về nhiều mặt (cả về sức khỏe cũng
như về mặt kinh tế, xã hội, đặc biệt là nghèo đói). Phần đơng người bệnh đều có
nỗi lo về tính mạng của mình trước bệnh tật, nhưng kèm theo một nỗi lo không
kém nặng nề là lo tiền để chữa bệnh. Xét trên phương diện của từng cá nhân hay
từng hộ gia đình, thì chi phí cho chăm sóc sức khỏe (CSSK) nói chung và khám
chữa bệnh (KCB) nói riêng sẽ là một khoản chi rất lớn so với thu nhập tính trên
đầu người. Vì vậy ngồi việc làm mất sức lao động và gây ra nghèo đói, bệnh tật
cịn làm tăng thêm nghèo đói do chi phí cao cho KCB, mà mỗi một cá nhân hay
mỗi hộ gia đình khó vượt qua nổi; nhiều hộ gia đình nhất là các hộ nghèo muốn

KCB phải đi vay nợ và sau đó chỉ có nghèo hơn và người thuộc tầng lớp trung
lưu sẽ nhiều khả năng rơi xuống tầng lớp nghèo. Do đó, rơi vào tình trạng nghèo
khi bản thân có bệnh tật hay trong gia đình có người có bệnh tật ln ln là một
nguy cơ tiềm ẩn đối với người dân, nhất là những người nông dân, những người
lao động tự do, thất nghiệp… Họ khơng có nguồn thu nhập ổn định, nguồn tích
lũy cá nhân và cũng khơng nhận được sự trợ giúp chính thức nào khi đau ốm,
bệnh tật…Trong những trường hợp như thế này, các biện pháp dự phòng về tài
chính là sự cần thiết như một nhu cầu của con người. Với mức sống thấp cộng
thêm giá viện phí tăng thì bảo hiểm y tế (BHYT) đóng một vai trị rất quan trọng
trong việc hỗ trợ chi phí chăm sóc sức khỏe của người dân. Nghị quyết số 46NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2005 về cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới đã khẳng định: “Phát triển BHYT tồn
dân nhằm từng bước đạt tới sự cơng bằng trong chăm sóc sức khoẻ, thực hiện sự
chia sẻ giữa người khoẻ với người ốm; người giàu với người nghèo, người trong
độ tuổi lao động với trẻ em, người già…”[75]. Chăm sóc y tế là một nội dung
quan trọng của hệ thống an sinh xã hội, do đó, BHYT là một giải pháp quan
trọng trong việc chăm sóc y tế, một chính sách chủ yếu của hệ thống an sinh xã
hội ở nước ta.
2


Khi đời sống càng phát triển, nhu cầu chăm sóc y tế của người dân càng
cao, bên cạnh đó, tỷ lệ mắc các bệnh không lây ngày càng gia tăng, tai nạn, chấn
thương, ngộ độc tăng nhanh. Sự gia tăng nhanh các bệnh không lây nhiễm gây ra
sự gia tăng nhanh chóng chi phí khám chữa bệnh. Chi phí điều trị cho các bệnh
khơng lây nhiễm trung bình cao hơn rất nhiều so với điều trị các bệnh lây nhiễm
do đòi hỏi kỹ thuật cao, thuốc đặc trị đắt tiền, thời gian điều trị lâu, dễ bị biến
chứng. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm khơng hề giảm, cùng với
tốc độ tăng giá, lạm phát quá nhanh đã và đang làm suy yếu thêm nguồn lực bảo
trợ vốn q ít ỏi hiện nay của gia đình, cộng đồng. Tình trạng người dân phải hy
sinh các nhu cầu thiết yếu như nhà ở, học hành, khám chữa bệnh... là một trong

những thách thức lớn đối với mục tiêu phát triển bền vững và giảm nghèo.
Mục đích chính của BHYT là giảm chi phí điều trị y tế, đặc biệt là trong các
thảm họa bất ngờ. Trải qua hơn 20 năm thực hiện, đặc biệt sau khi Luật BHYT có
hiệu lực (2009), tính đến cuối năm 2013 tỷ lệ tham gia BHYT trên cả nước đạt
gần 70%[42]. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách BHYT đã cho thấy có những
vấn đề bất hợp lý và chưa công bằng trong bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Hiện nay BHYT bắt buộc mới thực hiện đối với những người làm cơng hưởng
lương, diện chính sách, ưu đãi và bảo trợ xã hội, diện bao phủ BHYT tự nguyện
đến người nơng dân, người lao động tự do.... cịn q thấp. Các báo cáo cho thấy
tỷ lệ tham gia BHYT có sự khác biệt lớn giữa các nhóm đối tượng. Nhóm đối
tượng tham gia đạt tỷ lệ 100% là hành chính sự nghiệp, hưu trí, người có cơng
với cách mạng…Trong khi đó, tỷ lệ tham gia của đối tượng là người lao động
trong các doanh nghiệp mới đạt 53,4%, người cận nghèo (được ngân sách nhà
nước hỗ trợ một phần mức đóng BHYT) tham gia khoảng 25,26% ; tương tự, số
người tự nguyện tham gia BHYT cũng chỉ bằng 28% tổng số đối tượng [42].
Những cư dân sinh sống tại nông thơn, đã và đang đơ thị hóa, tham gia vào
khu vực lao động chính thức rất thấp, cịn lại họ vẫn thuộc khu vực lao động khơng
chính thức, khi chuyển đổi từ xã hội nông thôn sang xã hội đô thị nếu khơng có
việc làm người dân càng dễ rơi vào khủng hoảng và tổn thương. Khả năng tích lũy
của cư dân nơng thơn rất thấp, thậm chí nhiều gia đình cịn khơng có tích lũy.
Trong khi thu nhập thấp, bấp bênh, cuộc sống còn tiềm ẩn những rủi ro, bất trắc về
3


sức khỏe thì người dân vẫn phải tự mình lo liệu tiền viện phí khi đi khám chữa
bệnh, họ khơng có được sự hỗ trợ chính thức nào nếu khơng tham gia loại hình
BHYT tự nguyện, và khơng ít trường hợp người dân đành phải phó mặc cho sự rủi
may của số phận.
Kể từ khi triển khai bảo hiểm y tế, đến nay chính sách BHYT tự nguyện của
Nhà nước đã có những thay đổi đáng kể, chuyển dần các đối tượng thuộc BHYT

tự nguyện sang BHYT bắt buộc để mở rộng diện bao phủ, đáng chú ý là từ năm
2008 khơng cịn quy định về tỷ lệ tham gia BHYT tự nguyện tối thiểu theo
nguyên tắc cộng đồng, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân có thể tham gia BHYT tự
nguyện mà khơng phụ thuộc vào gia đình, tập thể. Lần đầu tiên sau hơn 10 năm
thực hiện chính sách BHYT, Thông tư liên tịch số 77/2003/TTLT-BTC-BYT
ngày 7/8/2003 hướng dẫn quyền lợi của người tham gia BHYT tự nguyện, trong
đó có học sinh, sinh viên tương tự như quyền lợi của người tham gia BHYT bắt
buộc: Người tham gia BHYT tự nguyện được quyền lợi khám chữa bệnh nội trú,
ngoại trú, theo đúng tuyến chuyên môn, kỹ thuật, thực hiện cùng chi trả 20% chi
phí khám, chữa bệnh. Tuy nhiên, kể từ khi triển khai BHYT đến nay, mức độ
tham gia BHYT tự nguyện qua các năm tăng không đáng kể: năm 2010 diện bảo
phủ đối tượng này là 21,11%, năm 2011 là 24%, đến năm 2013 là 28%, tỷ lệ này
thấp hơn nhiều so với nhóm đối tượng BHYT bắt buộc[42]. Thực hiện BHYT toàn
dân với chủ trương đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe
nhân dân, một chính sách mang tính nhân văn, định hướng cộng đồng trong việc
chia sẻ nguy cơ rủi ro, bệnh tật nhưng lại rất khó thực hiện. Vậy lý do nào dẫn đến
tình trạng đối tượng thuộc BHYT tự nguyện tham gia thấp, tại sao trong cùng một
cộng đồng, nhóm người này có nhu cầu BHYT tự nguyện trong khi ở nhóm khác
lại khơng? Phải chăng BHYT tự nguyện chưa đáp ứng đúng nhu cầu của người
dân?.
Từ những nhận định trên tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Nhu cầu bảo hiểm
y tế của người dân xã Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa”
để thực hiện. Nhằm tìm hiểu thực trạng tham gia BHYT của người dân, nhu cầu
của người dân đối với BHYT tự nguyện và những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu
của người dân.
4


1.2 Tổng quan tài liệu
Trong các nguồn tài liệu mà tác giả tiếp cận được bao gồm sách, tạp chí

chuyên ngành xã hội học, tạp chí bảo hiểm xã hội, luận văn đã thực hiện có liên
quan tới đề tài nghiên cứu, có ba chủ đề chính sau đây: Thứ nhất là các nghiên
cứu về độ bao phủ BHYT; thứ hai là công tác tuyên truyền BHYT; và thứ ba là
sử dụng BHYT trong khám chữa bệnh.

1.2.1 Những nghiên cứu về bao phủ bảo hiểm y tế
Từ hiến pháp năm 1992 của nước ta đã xác định: “Kết hợp phát triển y tế
Nhà nước với y tế tư nhân; thực hiện BHYT, tạo điều kiện để mọi người dân được
chăm lo sức khỏe” đến Nghị quyết số 21-NQ/TW năm 2012 của Bộ Chính Trị về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo
hiểm y tế giai đoạn 2012-2020: “Mở rộng và hoàn thiện chế độ, chính sách
BHXH, BHYT có bước đi, lộ trình phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Phát triển hệ thống BHXH, BHYT đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã
hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi
cho mọi người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT… Phấn đấu đến
năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, 35% lực lượng
lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; trên 80% dân số tham gia BHYT”, là
những định định hướng chính sách quan trọng cho việc thực hiện BHYT trong cả
nước. Chính sách BHYT ở nước ta có hai hình thức tham gia đó là bắt buộc và tự
nguyện, các nghiên cứu đều cho thấy BHYT bắt buộc có tỷ lệ tham gia nhiều
hơn, độ bao phủ rộng hơn so với BHYT tự nguyện.
Tác giả Đặng Nguyên Anh và cộng sự trong nghiên cứu “Những yếu tố
quyết định khả năng tiếp cận BHYT ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Xã hội học số
1-2007 đã tìm hiểu việc tiếp cận BHYT ở 3 nhóm dân cư cơ bản: người nghèo ở
nông thôn, lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và cán bộ công chức đô thị.
Nghiên cứu đã chỉ ra mức độ bao phủ BHYT chủ yếu thuộc về đối tượng bắt
buộc và học sinh sinh viên [14]. Khi phân tích về những người di cư và tỷ lệ bao
phủ BHYT ở nghiên cứu “Di dân và chăm sóc sức khỏe”, các tác giả cho thấy, tỷ
lệ nam di cư được BHYT không khác mấy so với nam không di cư, ngược lại tỷ lệ
nữ di cư được BHYT nhiều hơn hẳn so với nữ không di cư. Bởi vì, khi di cư từ

5


nông thôn lên đô thị, người phụ nữ đã chuyển từ lao động nông nghiệp sang lao
động phi nông nghiệp và nhận được chế độ BHXH và BHYT bắt buộc[19]. Tương
tự như vậy, “Báo cáo kết quả nghiên cứu khả năng thực hiện BHYT toàn dân”
của Bộ Y tế do tác giả Tống Thị Song Hương và cộng sự thực hiện cho rằng đến
năm 2014 khả năng tham gia BHYT của các nhóm đối tượng vẫn cịn ở các mức
độ khác nhau. Những đối tượng có khả năng bao phủ 100% bao gồm: người lao
động thuộc đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp quốc doanh và đối tượng
được ngân sách nhà nước, quỹ bảo hiểm xã hội đóng BHYT; Những đối tượng
khó bao phủ 100%: lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, học sinh,
sinh viên, thân nhân người lao động; Những đối tượng rất khó bao phủ 100%:
người thuộc hộ gia đình cận nghèo, người thuộc hộ gia đình nơng dân (nơng
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp) có mức sống trung bình, xã viên
hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, lao động tự do khu vực thành thị [7].
Trong luận văn “Hành vi chăm sóc sức khỏe của người dân khu vực đang
xảy ra ô nhiễm môi trường” của tác giả Phan Hoàng Ngọc Anh, cho biết tỷ lệ
người có BHYT khá cao (78%). Lý do người dân tại địa bàn nghiên cứu tham gia
BHYT là sẽ giúp giảm gánh nặng tài chính khi ốm đau. Từ khi chính sách BHYT
tự nguyện bãi bỏ nguyên tắc tham gia theo cộng đồng thì số người mua BHYT
tăng nhanh trong cả nước[37]. Cũng theo “Báo cáo kết quả nghiên cứu khả năng
thực hiện BHYT toàn dân” cho thấy số người tham gia BHYT tự nguyện tăng dần
qua các năm, đặc biệt là năm 2008 do không có quy định tỷ lệ tham gia của gia
đình, cộng đồng nên số tham gia BHYT tự nguyện thời điểm này tăng lên nhanh
chóng, tất nhiên trong số này khơng tránh khỏi các yếu tố bất lợi đó là sự lựa
chọn ngược, tức là chỉ có những người nào ốm đau bệnh tật nặng mới tham gia vì
nhóm tự nguyện hồn tồn khơng có ngân sách hỗ trợ. Trong nghiên cứu về “Lý
thuyết và mơ hình an sinh xã hội” (phân tích thực tiễn ở Đồng Nai) của nhóm các
tác giả Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Vinh, Bùi Văn Hiền và Nguyễn Anh Dũng

khẳng định tỷ lệ tham gia của đối tượng là nhân dân (đối tượng tham gia BHYT tự
nguyện) chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu dân số, quyết định đến sự thành cơng của
mơ hình BHYT tồn dân, chia sẻ rủi ro, gánh nặng về chi phí cũng như đảm bảo

6


độ an tồn của quỹ bảo hiểm tự nguyện. Vì vậy bao phủ nhóm này vừa là mục tiêu
vừa là nhiệm vụ của cơ quan bảo hiểm xã hội Đồng Nai trong thời gian tới [38].
Bài viết “BHYT: nhu cầu và khả năng mở rộng ở nông thôn” đăng trên tạp
chí Xã hội học, số 1 năm 2007 của tác giả Trịnh Hịa Bình cho thấy tỷ lệ người dân
tham gia BHYT khá nhiều, so với tỷ lệ chung của cả nước, tuy nhiên tỷ lệ tham gia
BHYT bắt buộc theo quy định của nhà nước chiếm đa số. Đa số người dân tại địa
bàn nghiên cứu vẫn cho rằng việc mở rộng BHYT là cần thiết và rất cần thiết,
ngồi nhu cầu mở rộng BHYT thì nhu cầu về các loại hình BHYT cũng được
người dân đưa ra và nhu cầu về việc gia tăng các giá trị sử dụng BHYT [58]. Điều
này cho thấy khả năng mở rộng BHYT ở địa bàn nơng thơn là rất có tiềm năng.
Một nghiên cứu đáng chú ý của tác giả Tô Duy Hợp, Nguyễn Thị Minh Phương
(2007) đề cập đến hành vi tìm kiếm sức khỏe của dân cư nơng thơn cũng cho
thấy nhu cầu của người dân về loại bảo hiểm liên quan đến sức khỏe này là rất
cao và cao hơn hẳn so với các loại bảo hiểm khác, hơn 45% người trả lời có quan
tâm đến loại bảo hiểm này (BHYT) [41].
Trong “Báo cáo phát triển Việt Nam 2008: Bảo trợ xã hội” của nhóm các
nhà tài trợ Việt Nam đã chỉ ra việc song song với quá trình mở rộng đối tượng
tham gia BHYT thì một hoặc nhiều quỹ chuyên biệt vẫn cần phải thực hiện theo
nhu cầu, mong muốn của người dân [2]. Trong báo cáo “Kết quả giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật về BHYT giai đoạn 2009-2012” của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội phân tích tỷ lệ tham gia BHYT theo nhóm đối tượng cho
thấy, nhóm làm cơng ăn lương, cán bộ công chức trong khu vực công, đồng bào
dân tộc thiểu số, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, nhóm hưu trí, mất sức lao

động, đối tượng bảo trợ xã hội do ngân sách nhà nước hoặc quỹ bảo hiểm xã hội
đóng tiền mua BHYT đều đạt ở mức rất cao (gần 100%). Tỷ lệ nhóm tự nguyện,
hộ cận nghèo tham gia BHYT đã tăng dần từ việc điều chỉnh chính sách nhưng
còn ở mức thấp [6].
Lý do người dân đưa ra khi không tiếp cận và sử dụng BHYT cũng khá
nhiều, có thể tập trung vào các nhóm như sau: khơng có điều kiện kinh tế để
tham gia; thiếu thơng tin; thấy rằng BHYT không cần thiết; tồn tại những tiêu
cực trong khám chữa bệnh BHYT. Trong nghiên cứu “BHYT: nhu cầu và khả
7


năng mở rộng ở nông thôn” của tác giả Trịnh Hịa Bình thì những người khơng
tham gia BHYT, đa số là họ cho rằng sức khỏe tốt, ít ốm đau nên không tham gia,
tiếp đến là lý do khả năng kinh tế gia đình khơng cho phép, ngồi ra, cịn có các lý
do khác như chất lượng khám chữa bệnh BHYT thấp, thanh tốn viện phí trực tiếp
thuận lợi hơn vì thủ tục thanh tốn BHYT rườm rà, phức tạp. Đối với những người
di cư, trong nghiên cứu “Di dân và chăm sóc sức khỏe” thì lý do chưa tham gia
BHYT là họ cho rằng BHYT không cần thiết; không biết về BHYT hoặc không
biết mua ở đâu. Một nghiên cứu khác về những người di cư là “Những vấn đề an
sinh xã hội của nhóm dân cư lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức ở đơ
thị” của tác giả Đỗ Minh Khuê và công sự cho thấy nhóm đối tượng ít mua bảo
hiểm nhất là nhóm nhập cư. Lý do không mua BHYT của người nhập cư là họ
sống không ổn định ở thành phố, thiếu thơng tin, nên nếu có nhu cầu thì họ cũng
muốn mua ở quê [20]. Cũng trong nghiên cứu của Đỗ Minh Khuê và cộng sự, một
kết quả khác cho thấy, có những bảo hiểm khơng được người lao động tin tưởng,
một trong số đó là BHYT. Đã có khơng ít lời kêu ca, phàn nàn về việc chi trả
BHYT từ phía người lao động như chất lượng khám chữa bệnh, thuốc men và cả
thái độ của cán bộ y tế. Nhiều trường hợp cho thấy, chất lượng khám chữa bệnh
theo BHYT thường kém hơn khi người lao động sử dụng dịch vụ y tế tự nguyện.
Tác giả Trịnh Hồ Bình có bài viết “Hành vi sức khỏe cư dân nơng thôn

trong bối cảnh xung đột môi trường” nghiên cứu trường hợp làng nghề Đồng bằng
Bắc bộ, đăng trên tạp chí Xã hội học, số 3 năm 2008 cho thấy việc người dân dành
một khoản tiền cho mua BHYT còn gặp nhiều khó khăn, hơn nữa, tại thời điểm
nghiên cứu, quy định khu dân cư phải có 10% số hộ trở lên mới bán BHYT và các
thành viên trong gia đình phải tham gia 100% đã khiến cho người dân khó đến
được với loại hình an sinh xã hội trong chăm sóc sức khỏe này. Số người có tham
gia BHYT hầu hết đều mua theo hình thức bắt buộc (cán bộ cơng nhân viên chức
và học sinh, sinh viên, hưu trí, người có cơng...)[54]. Tác giả Tơ Duy Hợp,
Nguyễn Thị Minh Phương cũng đã chỉ ra lý do hạn chế người dân tham gia
BHYT trong nghiên cứu của mình như sau: thứ nhất là quy định về mọi thành
viên trong hộ phải tham gia BHYT tự nguyện (trừ những người đã tham gia
BHYT bắt buộc). Nếu như vì một lý do nào đó một thành viên của hộ khơng
8


tham gia thì các thành viên cịn lại khơng thể đăng kí mua bảo hiểm tự nguyện;
thứ hai là việc mua bảo hiểm còn bị phụ thuộc vào sự tham gia của các hộ khác
trong xã (ít nhất phải có 10% tổng số hộ trong xã phải tham gia mua bảo hiểm).
Cũng trong nghiên cứu của Tô Duy Hợp và Nguyễn Thị Minh Phương, các tác
giả cho biết ngay cả đối với những người quan tâm đến BHYT, họ vẫn băn khoăn
về quyền lợi của mình do khơng nắm rõ phạm vi thụ hưởng các lợi ích từ BHYT
mang lại. Bên cạnh đó, người sử dụng BHYT than phiền về thái độ khám chữa
bệnh thiếu nhiệt tình và cho rằng bảo hiểm chỉ đỡ được tiền giường còn thuốc chỉ
được những loại rẻ tiền.
Như vậy, những yếu tố được xem là rào cản khi người dân tiếp cận với
các dịch vụ khám chữa bệnh từ khi chương trình BHYT hoạt động cho đến hiện
tại thông qua các nghiên cứu là sự thiếu hiểu biết về những quyền lợi, lợi ích của
người tham gia BHYT; thái độ phục vụ của nhân viên y tế và chất lượng khám
chữa bệnh kém; chi phí tham gia BHYT cịn vượt q khả năng của người dân và
tự bản thân người dân nhận thấy BHYT chưa cần thiết. Còn lại về nguyên tắc

tham gia theo cộng đồng như các nghiên cứu đã chỉ ra hiện nay khơng cịn là rào
cản bởi vì từ đầu năm 2008, theo luật BHYT và thông tư hướng dẫn thực hiện
BHYT tự nguyện đã bỏ quy định tham gia cộng đồng, BHYT tự nguyện áp dụng
cho tất cả các cá nhân có nhu cầu.
Các nghiên cứu trên đây cho tác giả thấy một bức tranh chung về độ bao
phủ BHYT, người dân đang tham gia loại hình BHYT bắt buộc là chủ yếu, nhu
cầu của cộng đồng đối với BHYT tự nguyện khá thấp. Để tiến tới BHYT toàn
dân, định hướng chuyển dần các đối tượng thuộc diện tự nguyện sang diện tham
gia bắt buộc được nước ta chú trọng thực hiện, bởi vì đối tượng đích của BHYT
tự nguyện là rất lớn. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên đây chỉ ra những hạn chế
chung đối với thực trạng sử dụng BHYT hiện nay, những phân tích riêng về đối
tượng BHYT tự nguyện chưa nhiều. Trong luận văn của mình, tác giả sẽ phân tích
về nhu cầu của người dân đối với BHYT tự nguyện, tại sao một bộ phận người dân
mua BHYT tự nguyện, và một bộ phận khác lại chưa có nhu cầu BHYT tự nguyện,
và họ có nhu cầu BHYT tự nguyện trong tương lai hay không.

9


1.2.2 Những nghiên cứu về công tác tuyên truyền bảo hiểm y tế
Luật BHYT năm 2009 đã quy định các đơn vị, cơ quan (cơ quan Bảo hiểm
xã hội, Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân các cấp….) “có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
biến chính sách, pháp luật về BHYT”[30]. Trong Chỉ thị số: 38-CT/TW ngày
07/09/2009 về đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới, cơng tác tun
truyền được nhấn mạnh: “Tiếp tục quán triệt sâu sắc và nâng cao nhận thức về vị
trí, vai trị, ý nghĩa của bảo hiểm y tế; Tổ chức thực hiện đồng bộ, có hiệu quả
các chính sách về bảo hiểm y tế; Đổi mới công tác thông tin, truyền thông và
tuyên truyền về bảo hiểm y tế; Phát động cuộc vận động toàn dân tham gia bảo
hiểm y tế và chuẩn bị lộ trình tiến đến bảo hiểm y tế bắt buộc trong năm tiếp
theo” [76]. Đây là những cơ sở pháp lý, chỉ thị quan trọng để công tác tuyên

truyền được thực hiện tốt, tiến tới thực hiện BHYT toàn dân. Trong “Báo cáo
phát triển Việt Nam 2007: Hướng đến tầm cao mới”, nhóm tác giả cho rằng thành
cơng của việc đưa BHYT trở thành một chương trình tồn dân phụ thuộc rất nhiều
vào khả năng mở rộng diện tham gia chương trình BHYT tự nguyện. Nếu khơng
có những hành động quyết tâm nhằm thu hút sự tham gia của các nhóm tổ chức
quần chúng thì chương trình sẽ chỉ thu hút được những người có xu hướng sử dụng
nhiều dịch vụ y tế, và như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng tài chính của họ.
Báo cáo này cũng cho rằng có thể huy động các tổ chức đồn thể như Hội Nông
dân và Hội Phụ nữ để nêu cao tinh thần trách nhiệm và ý thức công dân trong cơng
chúng nói chung[1].
Nghiên cứu của tác giả Trịnh Hịa Bình về “BHYT : nhu cầu và khả năng
mở rộng ở nông thôn” cho biết nguồn thông tin mà mà người dân đã biết về
BHYT chủ yếu là từ các phương tiện truyền thông đại chúng, nguồn thông tin từ
cơ quan BHYT và nhân viên y tế chiếm tỷ lệ khơng cao. Nói về hiệu quả của
cơng tác tun truyền thì chính sách BHYT đến với người dân chưa được là bao,
chủ yếu mang tính hình thức và thơng báo chứ chưa đi sâu vào phân tích hay chỉ
ra những lợi ích hay tầm quan trọng của BHYT đối với sức khỏe người dân. Đó
cũng chính là ngun nhân khiến người dân chưa tham gia BHYT một cách rộng
rãi [58].

10


Trong các nghiên cứu của các tác giả Tô Duy Hợp và Nguyễn Thị Minh
Phương; Đỗ Minh Khuê và cộng sự đều cho thấy những thông tin mà người dân
nắm được cũng chỉ là hình thức thơng báo như mua ở đâu, bao nhiêu tiền, được
hưởng bao nhiêu phần trăm. Những thông tin cụ thể về quyền lợi, nghĩa vụ của
người tham gia và bên cung cấp dịch vụ, những lợi ích hay tầm quan trọng của
BHYT trong việc chăm sóc sức khỏe của cá nhân nói riêng và cộng đồng nói
chung đều chưa được phổ biến rộng rãi. Do đó người dân chưa nắm được thơng

tin cụ thể, chưa hiểu đầy đủ về ý nghĩa của việc tham gia BHYT cũng như những
quyền lợi mà họ được hưởng, thậm chí đối với một số đối tượng của BHYT tự
nguyện thì họ cịn khơng biết phải mua BHYT ở đâu, và đội ngũ cán bộ y tế tại
địa phương cũng không nhận biết hết thông tin về BHYT. Tầm quan trọng của
BHYT mới chỉ được nhìn nhận ở góc độ giảm nhẹ tài chính cho bản thân và gia
đình khi có bệnh tật, cịn ý nghĩa đối với cộng đồng và quỹ khám chữa bệnh cho
nhân dân nói chung vẫn chưa có sự nhận thức cao từ phía người dân. Số người
trả lời hiểu mơ hồ và không hiểu cũng phần nào cho thấy hiểu biết về bảo hiểm
con sơ sài, đơn giản, kể cả BHYT, bảo hiểm con người, bảo hiểm ô tô, xe máy.
Điều này là do việc phổ biến, tuyên truyền các kiến thức về bảo hiểm cho người
sử dụng vẫn còn nhiều sơ xuất, đặc biệt những đối tượng làm trong khu vực nhà
nước được mua bảo hiểm theo quy định, còn nặng về việc tuân thủ theo thủ tục
quy định của các cơ quan, xí nghiệp nhà nước hơn là giới thiệu, giải thích cho họ
hiểu về BHYT [20], [41].
Trong nghiên cứu “Những yếu tố tác động đến việc tiếp cận và sử dụng
BHYT tự nguyện của người dân ở nông thôn hiện nay” của tác giả Đặng Thị Thúy
Diễm thì yếu tố truyền thơng đại chúng khơng đóng vai trị quan trọng trong việc
tun truyền BHYT tự nguyện đến người dân mà yếu tố truyền thông liên cá
nhân lại là yếu tố quyết định trong việc tuyên truyền ở nông thôn. Do ở nông
thôn có những đặc trưng khác biệt so với thành thị là tính cộng đồng, mối liên kết
cộng đồng cao nên hình thức truyền thơng liên cá nhân lại phát triển. Trong đó,
vai trị của nhân viên BHYT tự nguyện tại địa phương lại rất lớn và quan trọng vì
nhân viên đại lý là người đóng vai trị trung gian giữa người dân tại địa phương
và BHYT cấp cơ sở [15].
11


Như vậy, thông qua tổng quan tài liệu các nghiên cứu nêu trên, chúng ta
thấy công tác truyền thông của các đơn vị có trách nhiệm tuyên truyền chưa hiệu
quả. Người dân chưa biết và chưa hiểu được những thông tin cơ bản liên quan

đến quyền lợi, lợi ích khi họ tham gia BHYT. Đây là một những những yếu tố
rào cản dẫn đến độ bao phủ BHYT thấp, đặc biệt là BHYT tự nguyện.

1.2.3 Những nghiên cứu về sử dụng bảo hiểm y tế trong khám chữa
bệnh
Vấn đề được đề cập rất nhiều trong các nghiên cứu về BHYT đó là sử
dụng BHYT trong khám chữa bệnh (KCB). Nghiên cứu về sử dụng BHYT khi
KCB nhằm tìm hiểu mục đích mua và sử dụng BHYT của người dân, cũng như
khả năng đáp ứng dịch vụ của các cơ sở y tế so với nhu cầu khám chữa bệnh của
người dân. Sự khác nhau, bất bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng BHYT
của các nhóm dân cư cũng được các tác giả đề cập đến trong các nghiên cứu .
Nghiên cứu của các tác giả Trần Thái Ngọc Thành; Giang Thanh Long,
Bùi Thế Cường; Báo cáo phát triển Việt Nam đều cho thấy các hộ gia đình giàu
sử dụng nhiều hơn khoản chi tiêu công cộng cho y tế so với các hộ gia đình
nghèo. Các hộ gia đình giàu thường sử dụng các cơ sở y tế nhà nước, trong khi
các hộ nghèo thường chỉ tiếp cận được với các cơ sở y tế cấp xã với cơ sở hạ tầng
và chất lượng dịch vụ thấp hơn rất nhiều. Người nghèo cũng có tỷ lệ bệnh tật
thấp hơn người giàu, nhưng họ lại mắc phải những căn bệnh nghiêm trọng hơn
người giàu. Điều đó cũng có nghĩa là người nghèo dễ bị tổn thương với bệnh tật
hơn nhưng lại ít có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế (chi phí đi lại, chi phí
phát sinh thêm…trong khi đó người nghèo lại khơng thể ngừng làm việc). Những
dịch vụ mà người nghèo dễ tiếp cận thì họ khơng hài lịng vì ngồi chất lượng
thấp cơ sở vật chất, trình độ chun mơn thấp và cũng có sự thiên lệch trong điều
trị và thái độ kém thân thiện của nhân viên y tế đối với người bệnh thuộc nhóm
BHYT, do đó, họ khơng đi khám chữa bệnh. Và đến lúc đi chữa bệnh thì lại quá
nặng, chi phí tốn kém thậm chí khơng nằm trong danh mục thanh tốn của
BHYT hoặc khơng thể chữa trị được nữa. Các nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan
hệ giữa nghèo đói và sức khỏe là mối quan hệ hai chiều. Nghĩa là nghèo đói đưa
tới bệnh tật và khi bị bệnh tật người nghèo bị bần cùng hóa thêm vì bệnh tật làm
12



họ khơng đi làm việc được nên khơng có thu nhập; khi bị bệnh người nghèo còn
phải tốn tiền cho chi phí chăm sóc y tế và thuốc men. Các chi phí này là gánh
nặng cho nguồn thu nhập ít ỏi của người nghèo và trong nhiều trường hợp, khi
các gia đình nghèo có thành viên ốm nặng hay bị bệnh mãn tính họ đã phải bán
tài sản lớn nhất của mình là đất đai để chi trả chi phí y tế cho những thành viên
này, và thậm chí vẫn không đủ, họ không thể tiếp cận được với các dịch vụ y tế
tốt hơn, những dịch vụ nằm ngoài chi trả của BHYT [1], [2], [9], [50].
Có những nghiên cứu tập trung vào các yếu tố tác động đến việc sử dụng
BHYT và những đánh giá tích cực và tiêu cực từ những người đang tham gia
BHYT. Những yếu tố này được các tác giả nghiên cứu và xem xét kết hợp trên
cơ sở tìm hiểu quá trình sử dụng thẻ BHYT và những suy nghĩ, nhận định của
người dân trong quá trình tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh BHYT, bên cạnh
đó, các tác giả tổng hợp những đánh giá của họ để phân tích xu hướng và dự báo
khả năng mở rộng của BHYT tự nguyện trên cơ sở phát huy những yếu tố tích
cực và khuyến nghị để giảm bớt, hạn chế những tiêu cực. Những tiêu cực trong
khám chữa bệnh BHYT được nhắc đến nhiều nhất là thủ tục rườm rà, mất thời
gian, chuyển tuyến khó khăn, thái độ của nhân viên y tế khơng tận tình, chất
lượng kém. Người bệnh khơng tin tưởng vào chất lượng khám chữa bệnh của
tuyến y tế cơ sở, thêm vào đó là vấn đề chuyển tuyến khá khó khăn đã gây nên
tình trạng người dân tự đi khám trái tuyến dẫn đến quá tải cho tuyến trên, đặc
biệt là các bệnh viện tuyến trung ương. Nghiên cứu “Phát triển dịch vụ xã hội ở
nước ta đến năm 2020 một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do tác giả Vũ Văn Phúc
chủ biên chỉ ra rằng các bệnh viện cơng lập gây khó khăn đối với những người
khám chữa bệnh bằng BHYT nhằm đẩy họ khám và chữa bệnh theo cơ chế dịch
vụ, bệnh viện ngoài cơng lập dù luật BHYT mới có hiệu lực quy định được quyền
khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm nhưng hầu như không thực hiện, cơ chế quản lý,
sử dụng, thanh tốn BHYT cịn nhiều bất cập, chậm ban hành chính sách hỗ trợ
BHYT cho nông dân[61].

Trong nghiên cứu về “Khám chữa bệnh ngoại trú trái tuyến của người có
thẻ BHYT tại Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Đỗ Thị Kim Hồng, đã phân
tích khá rõ và chi tiết những yếu tố tác động đến việc người dân đã tự đi trái
13


tuyến mà không thông qua cơ chế chuyển tuyến của chính sách BHYT. Những
người dân mà tác giả Kim Hồng tiếp cận đều có thẻ BHYT (cả tự nguyện và bắt
buộc), họ thuộc các tỉnh thành khác nhau, có những người ở tận Đak Lak, Quảng
Ngãi... vẫn đi trái tuyến vào bệnh viện Chợ Rẫy (TPHCM). Yếu tố có sự ảnh
hưởng nhất đến hành vi đi khám chữa bệnh trái tuyến của người dân đó là do chất
lượng chun mơn điều trị của bác sĩ, nhấn mạnh đến việc chẩn đoán bệnh của
bác sĩ, đơn thuốc và sự tư vấn về bệnh tật của bác sĩ đối với bệnh nhân. Đây cũng
chính là những nguyên nhân tác động đến hành vi đi KCB ngoại trú trái tuyến
của người có thẻ BHYT, nó đã phản ánh sự mong muốn của người bệnh là muốn
được cung ứng một dịch vụ y tế với chất lượng tốt nhất[62].
Những tiêu cực trong khám chữa bệnh BHYT đã được đề cập đến trong
các nghiên cứu đều cho rằng trong mối quan hệ giữa cơ quan cung cấp dịch vụ
BHYT, cơ sở khám chữa bệnh BHYT và người đi khám chữa bệnh thì người dân
thường chịu thiệt thòi, tuy nhiên nhà cung cấp dịch vụ BHYT lại chưa đưa ra
được những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ khách hàng của mình là người mua
BHYT.
Bên cạnh việc nghiên cứu khám chữa bệnh BHYT thì những nghiên cứu
về chăm sóc sức khỏe khá nhiều, đặc biệt là những nghiên cứu trường hợp về sự
chi tiêu cho y tế, sự lựa chọn dịch vụ, hình thức chăm sóc y tế khi cá nhân có vấn
đề về sức khỏe, thói quen chăm sóc sức khỏe, khả năng tài chính, trình độ văn
hóa y tế trong việc lựa chọn dịch vụ y tế khi ốm đau. Trong đó, bao gồm hành vi
tìm kiếm sức khỏe của người dân và việc sử dụng BHYT của họ. Các nghiên cứu
đã cho thấy việc chữa trị bệnh của người dân như sau: Khi mới bị bệnh, có triệu
chứng đau bệnh nhẹ người ta thường không quan tâm hoặc chỉ nghỉ ngơi đôi

chút, nếu đi khám cũng để biết mình bệnh gì có nguy hiểm khơng, họ khơng mua
thuốc, khơng chữa trị gì cả. Và một bộ phận cư dân vẫn có thói quen tự chữa trị
cho mình bằng kinh nghiệm dân gian [56]. Đến khi bệnh nặng hơn thì người ta
mới nghĩ đến việc đi khám và mua thuốc chữa trị, các bệnh viện tuyến trên được
người dân lựa chọn nhiều hơn so với mơ hình trạm y tế do năng lực của y tế
tuyến xã chưa đáp ứng được nhu cầu KCB của người dân, bên cạnh đó thì việc
mua BHYT tại các cơ sở tuyến trên cũng nhiều hơn so với mua BHYT tại các
14


tuyến cơ sở. Do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có trình độ văn hóa y tế
thấp việc mua BHYT chưa phát triển ở nơng thơn. Vì vậy ngồi các đối tượng có
BHYT bắt buộc, cịn lại đa số dân cư đặc biệt là những người không thuộc diện
ưu tiên theo chính sách, chỉ đến bệnh viện điều trị khi khơng cịn khả năng tự giải
quyết ở gia đình và ở y tế cộng đồng cơ sở tại nơi cư trú-trạm y tế xã và các cơ sở
y tế tư nhân. Điều này không chỉ tổn hại đến sức khỏe, sinh mạng của con người
mà còn làm tăng thêm gánh nặng chi phí điều trị và gia đình và xã hội. Bên cạnh
đó, các cơ sở y tế tư nhân như bệnh viện tư có chất lượng cao thì người nghèo,
thu nhập thấp lại khơng có khả năng tiếp cận, chỉ có nhóm khá giả mới có khả
năng chi trả cho những dịch vụ chất lượng cao này [14], [49], [57].
Nhìn chung, các nghiên cứu chỉ ra rằng đối với BHYT tự nguyện khi
người những người mua đều có nhu cầu sử dụng, thậm chí là đối với những
người đã từng có bệnh nặng và có bệnh mãn tính thì đã khai thác đối đa chức
năng giảm nhẹ tài chính trong khám chữa bệnh, những người đi KCB rất ít thì họ
khơng có nhu cầu, những người có điều kiện kinh tế khá giả và giàu có tham gia
BHYT tự nguyện không cao, và những người khỏe mạnh, chưa chi tiêu nhiều cho
việc KCB cũng không tham gia nhiều, những người nhập cư thì cuộc sống khơng
ổn định, những người lao động trong khu vực phi chính thức chưa thuộc về nhóm
thu nhập cao, nên khả năng tham gia BHYT tự nguyện còn rất hạn chế.
Các tài liệu nghiên cứu mà tác giả đã tổng quan trên đây chủ yếu tập trung

vào việc so sánh các hình thức, dịch vụ được lựa chọn khi cá nhân có vấn đề về
sức khỏe, trong đó có đề cập đến khám chữa bệnh BHYT nói chung, những khó
khăn, rào cản khi sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh BHYT, công tác tuyên truyền
cần được thể hiện như thế nào để thu hút người dân tham gia BHYT. Các nghiên
cứu cũng so sánh độ bao phủ về hai loại hình BHYT đó là bắt buộc và tự nguyện,
so sánh sự bất bình đẳng trong chi tiêu y tế giữa các nhóm dân cư khác nhau về
nghành nghề, thu nhập, mức sống và địa bàn (nêu bật lên sự bất bình đẳng đối
với nhóm nghèo, dễ tổn thương)…Những giải pháp được đưa ra để thu hút và
đẩy mạnh lộ trình BHYT tồn dân nói chung cho các nhóm đối tượng và nhấn
mạnh vào những tiêu cực, rào cản khi người sử dụng BHYT tiếp cận với các cơ
sở khám chữa bệnh.
15


Tóm lại, trong các cơng trình nghiên cứu trên đây có đề cập đến độ bao
phủ, tiếp cận và nhu cầu của người dân đối với BHYT tự nguyện, tuy nhiên chưa
có nhiều nghiên cứu chỉ tập trung vào một nhóm đối tượng là BHYT tự nguyện.
Do đó, tác giả thực hiện luận văn của mình tập trung vào nhu cầu BHYT tự
nguyện của người dân với mong muốn những kết quả thu được sẽ đóng góp thêm
về nhóm đối tượng cụ thể là nhu cầu BHYT tự nguyện trong nghiên cứu về hệ
thống BHYT nói chung.

1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhu cầu của người dân đối với BHYT tự
nguyện và những những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu của họ.
Mục tiêu cụ thể
Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu đã được giới hạn và mục tiêu chung,
luận văn hướng tới các mục tiêu cụ thể như sau:
 Thực trạng tham gia BHYT của người dân trên địa bàn nghiên cứu.
 Nhu cầu thông tin về BHYT tự nguyện của người dân.

 Nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện của người dân.
 Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu BHYT tự nguyện của người
dân.

1.4 Nội dung nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả đi vào phân tích chủ yếu hai nội dung
lớn như sau:
Thứ nhất, nhu cầu BHYT tự nguyện của người dân xã Quảng Hưng, thành
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Trong phần này tác giả phân tích về nhu cầu
thông tin và nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện của người dân;
Thứ hai, tác giả phân tích những yếu tố khách quan và những yếu tố thuộc
chủ quan ảnh hưởng đến nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện của người dân.

1.5 Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng: Nhu cầu BHYT tự nguyện của người dân xã Quảng Hưng,
thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

16


×