DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
BQL
Ban quản lí
CSHT
Cơ sở hạ tầng
CSVC- KT
Cơ sở vật chất- kĩ thuật
DLST
Du lịch sinh thái
Nxb
Nhà xuất bản
Tp
Thành phố
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
Tr
Trang
VHTTDL
Văn hóa- thể thao và du lịch
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1:Cơ sở lưu trú có thể sử dụng cho khách du lịch tại Tràng An
(2014)
Bảng 2: Số lượt khách đến Tràng An giai đoạn 2010- 2013
Bảng 3: Kết quả kinh doanh du lịch Khu du lịch sinh thái Tràng An
(2010-2013
Bảng 4: Doanh thu của một số khu, điểm du lịch sinh thái trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010 – 2013
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Ngày nay trên thế giới Du lịch đã trở thành nhu cầu cần thiết và tương
đối phổ biến với mỗi người. Đây chính là cơ hội lớn cho nghành Du lịch phát
triển trong hiện tại, cũng như trong tương lai, đóng góp ngày càng lớn vào thu
nhập toàn cầu và mỗi quốc gia. Theo Tổ chức du lịch Thế giới (WTO) nhận
định thì: “ Du lịch đóng góp 6% thu nhập của thế giới, là một trong 5 ngành
kinh tế lớn nhất của hành tinh” .
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự
đổi mới về chính sách đối ngoại, với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế,
ngành du lịch Việt Nam cũng đó có những bước phát triển mạnh mẽ và ngày
càng có tác động tích cực hơn đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã
hội. Du lịch đó được coi là ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh tế
của đất nước và đang dần hội nhập với khu vực và thế giới.
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía Đơng Nam của Đồng Bằng Bắc Bộ,
có diện tích là:1.420 km2, dân số: gần 1 triệu người. Ninh Bình là một tỉnh sở
hữu nguồn Tài nguyên thiên nhiên phong phú và đầy hấp dẫn. Khơng chỉ nổi
tiếng với Tam Cốc – Bích Động, được mệnh danh là” Nam Thiên Đệ Nhị
Động”. Ninh Bình còn hấp dẫn du khách bởi các quần thể Du lịch kỳ thú và
những địa danh như: Vườn quốc gia Cúc Phương, Suối nước nóng Kênh Gà,
khu Du lịch sinh thái ngập nước Vân Long, động Vân Trình, nhà thờ đá Phát
Diệm, Động Mã Tiên… Đặc biệt là khu du lịch sinh thái Tràng An Hay còn
gọi là “Hạ Long trên cạn”.
Tràng An là một khu du lịch sinh thái nằm trong Quần thể danh thắng
Tràng Annằm ở phía Đơng Bắc của tỉnh Ninh Bình. Tổng diện tích là: 1.566
ha. Trong đó, diện tích núi và rừng đặc dụng giao để quản lý là: 980 ha. Nơi
đây còn được gọi là thành Nam của cố đô Hoa Lư, gồm hệ thống dãy núi đá
vơi có tuổi địa chất khoảng 250 triệu năm, qua thời gian dài phong hóa bởi sự
biến đổi của trái đất, khí hậu, biển tiến, biển thối đã mang trong mình hàng
trăm thung lũng, hang động, hồ đầm. Trong danh thắng này cịn có nhiều hệ
sinh thái rừng ngập nước, rừng trên núi đá vôi và các di tích gắn với lịch sử
của kinh đơ Hoa Lư xưa.
Khu du lịch Tràng An đã và đang được thừa nhận là một trong những
địa điểm du lịch hấp dẫn vào bậc nhất của nước ta hiện nay... Tuy nhiên, các
dịch vụ du lịch tại đây còn nhiều bất cập và chưa xứng với tiềm năng vốn có.
Ngành dịch vụ du lịch cịn non trẻ, tính chun nghiệp trong nghiệp vụ còn
thấp, cơ sở đào tạo chuyên ngành còn thiếu và yếu, cơ sở vật chất phục vụ lưu
trú, ăn uống, vui chơi giải trí và vận chuyển của đại bộ phận các đơn vị kinh
doanh du lịch còn hạn chế, nhiều cơ sở lưu trú đang xuống cấp trầm trọng, tình
trạng chèo kéo, chặt chém khách du lịch diễn ra phổ biến, nhiềudịch vụ "ăn
theo" như cờ bạc, ăn xin, bán hàng rong, đổi tiền lẻ gây lộn xộn, mất an ninh
trật tự,... Do vậy, có thể nói trong thời gian qua, khu du lịch sinh thái Tràng An
đã phải đương đầu với rất nhiều thử thách và sẽ còn phải nỗ lực rất lớn để khai
thác hết tiềm năng, lợi thếcủa mình cao xứng đáng với bộ mặt của một trong
những khu du lịch lớn nhất Việt Nam.
Do những vấn đề nêu trên hơn nữa với vai trò, trách nhiệm của một sinh
viên khoa Văn hóa du lịch trường Đại học Văn hóa Hà Nội và đặc biệt là một
người con của quê hương Ninh Bình yêu dấu tơi muốn đóng góp một phần
nhỏ bé của mình vào sự phát triển du lịch của Ninh Bình, đặc biệt là khu du
lịch sinh thái Tràng An. Vì vậy mà tôi chọn đề tài: “DỊCH VỤ DU LỊCH TẠI
KHU DU LỊCH SINH THÁI TRÀNG AN” để làm đề tài cho bài khóa luận
tốt nghiệp ngành Văn hóa du lịch.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về dịch vụ, dịch vụ du lịch, khóa luận phân tích,
đánh giá thực trạng dịch vụ du lịch, hoạt động phục vụ khách du lịch tại khu
du lịch sinh thái Tràng An (dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung
khác...). Từ đó, đưa ra được giải pháp nhằm phát huy các thế mạnh, khắc phục
khó khăn, hạn chế của các cơ sở dịch vụ và hoạt động của con người góp
phần thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển.
2.2. Nhiệm vụ
-
Nghiên cứu tổng quan về dịch vụ du lịch và dịch vụ tại khu du lịch sinh thái
-
Tràng An.
Đánh giá thực trạng hoạt động dịch vụ du lịch tại khu du lịch sinh thái Tràng
-
An.
Phương hướng và giải pháp phát triển dịch vụ tại khu du lịch sinh thái Tràng
An.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian
Khu du lịch sinh thái Tràng An, với tổng diện tích đất quy hoạch là
3.682,02 ha, thuộc địa phận các xã Gia Sinh – huyện Gia Viễn; xã Trường
Yên, Ninh Xuân, Ninh Hải, Ninh Hòa – huyện Hoa Lư, xã Ninh Nhất,
phường Ninh Thành – tp. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
Về mặt thời gian
Thu thập số liệu thứ cấp: Từ 01/01/2010 đến 31/12/2013
Thu thập số liệu sơ cấp: Từ 01/02/2014 đến 01/05/2014
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Dịch vụ du lịch tại khu du lịch sinh thái Tràng An.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
4.2. Phương pháp khảo sát thực địa
4.3. Phương pháp tổng hợp, so sánh
4.4. Phương pháp phỏng vấn
4.5. Phương pháp phân tích thống kê
5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài giúp tìm hiểu về các dịch vụ du lịch, chất lượng các dịch vụ du
lịch ở khu du lịch Tràng An, với những thuận lợi và hạn chế. Trên cơ sở đó, đề
ra những giải pháp để phát huy những lợi thế, khắc phục khó khăn trong dịch
vụ du lịch và chất lượng dịch vụ du lịch góp phần thúc đẩy khu du lịch Tràng
An hoạt động chuyên nghiệp, toàn diện và phát triển được bền vững, lâu dài.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết kuận, phần Tài liệu tham khảo, Phụ lục.
Nội dung chính của đề tài được kết cấu thành 3 Chương:
Chương 1: Khái quát về dịch vụ du lịch và dịch vụ tại khu du lịch sinh
thái Tràng An
Chương 2: Thực trạng dịch vụ tại khu du lịch sinh thái Tràng An
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển dịch vụ tại khu du lịch
sinh thái Tràng An.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ DU LỊCH
VÀ DỊCH VỤ DU LỊCH TẠI KHU DU LỊCH SINH THÁI
TRÀNG AN
1.1. Khái quát về dịch vụ du lịch
1
1
Dịch vụ
Khái niệm
Dịch vụ là một lĩnh vực rất rộng. Dịch vụ nằm trong cấu trúc nền sản
xuất xã hội. Ngoài lĩnh vực sản xuất sản phẩm vật chất ra, trong tổng sản
phẩm quốc dân, sự đóng góp của khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng
lớn. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và sự tiến bộ văn minh
nhân loại, lĩnh vực dịch vụ phát triển hết sức phong phú. Dịch vụ không chỉ ở
các ngành phục vụ như lâu nay người ta vẫn thường quan niệm, hoặc như gần
đây khái niệm dịch vụ được định nghĩa: “Dịch vụ là hoạt động cung ứng lao
động, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu về sản xuất, kinh
doanh, đời sống vật chất, tinh thần, các hoạt động ngân hàng, tín dụng, cầm
đồ, bảo hiểm”, mà nó phát triển ở tất cả các lĩnh vực quản lý và các cơng việc
có tính chất riêng tư (tư vấn về sức khoẻ, trang trí tiệc…)
Trong kinh tế học, dịch vụ được hiểu là những thứ tương tự như hàng
hóa nhưng là phi vật chất.
Philip Kotler cho rằng: “ Dịch vụ là mọi hành động và kết quả mà một
bên có thể cung cấp cho bên kia và chủ yếu là vơ hình và khơng dẫn đến
quyền sở hữu một cái gì đó. Sản phẩm của nó có thể có hay khơng gắn liền
với một sản phẩm vật chất”.
PGS.TS Nguyễn Văn Thanh cho rằng: “Dịch vụ là một hoạt động lao động
sáng tạo nhằm bổ sung giá trị cho phần vật chất và làm đa dạng hoá, phong phú
hoá, khác biệt hoá, nổi trội hoá… mà cao nhất trở thành những thương hiệu,
những nét văn hoá kinh doanh và làm hài lòng cao cho người tiêu dùng để họ sẵn
sàng trả tiền cao, nhờ đó kinh doanh có hiệu quả hơn”.
Như vậy có thể thấy dịch vụ là hoạt động sáng tạo của con người, là
hoạt động có tính đặc thù riêng của con người trong xã hội phát triển, có
sự cạnh tranh cao, có yếu tố bùng phát về công nghệ, minh bạch về pháp luật,
minh bạch chính sách của chính quyền.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Dịch vụ được hiểu là những hành
động nhằm phục thỏa mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt
(sinh hoạt cộng đồng, cá nhân và gia đình)”.
Trong kinh tế học hiện đại đưa ra khái niệm: “Dịch vụ bao gồm toàn bộ
các ngành, các ban tạo ra tổng sản phẩm quốc nội GDP hay tổng sản phẩm
quốc dân GNP, trừ các ngành sản xuất ra các sản phẩm vật chất như cơng
nghiệp, nơng- lâm- ngư nghiệp. Cịn các ngành như vận tải, hàng khơng, xe
lửa, bưu điện, lưu thơng hàng hóa hay các lĩnh vực hoạt động như ngân
hàng, tín dụng, bảo hiểm, du lịch,... đều thuộc lĩnh vực dịch vụ”.
Trong lĩnh vực quản lí nói chung và theo cách hiểu phổ biến được sử dụng
trong các văn bản gần đây: “Dịch vụ được hiểu là hoạt động cung ứng lao động,
khoa học kĩ thuật, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, đời
sống vật chất, tinh thần, các hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, tín dụng”.
Nhìn từ góc độ khoa học: “Dịch vụ với tư cách là một khái niệm khoa
học, một ngành được đại diện cho một ngành kinh tế, một lĩnh vực hoạt động
của ngành kinh tế quốc dân”.
Nhìn từ thực tế kinh doanh: “Dịch vụ là tổng hợpcủa 3 yếu tố cơ bản:
khách hàng, cơ sở sản xuất- công cụ sản xuất vật chất và nhân viên. Như vậy,
dịch vụ là một quá trình chứ khơng phải là sự có sẵn như hàng hóa vật chất
được sản xuất từ trước”.
2
Đặc điểm của dịch vụ
Dịch vụ có các đặc tính sau:
Tính vơ hình: Dịch vụ là những hoạt động do các nhà cung ứng mang lại.
Khác với hàng hóa hữu hình, chúng ta khơng thể nhìn được, nếm được, cảm
nhận, nghe thấy...trước khi chúng ta tiêu dùng dịch vụ đó.
Tính chất khơng đồng nhất: Do dịch vụ được thực hiện bởi những người
khác nhau, ở những thời gian khác nhau và có cả sự can thiệp của khách hàng
trong quá trình tạo ra dịch vụ đã tạo ra tính khơng ổn định của dịch vụ. Vì thế
khó có thể kiểm tra chất lượng dịch vụ và điều này gây khó khăn trong quản lí
chất lượng dịch vụ.
Tính khơng thể tách rời: Trong đa số các trường hợp, dịch vụ được sản xuất
và tiêu dùng đồng thời và chỉ được hoàn thành cùng với sự hoàn thành tiêu dùng
của khách hàng. Nếu chưa có khách hàng, chưa có hệ thống tạo ra dịch vụ. Vì
khơng có thời gian giãn cách giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ để kiểm tra chất
lượng sản phẩm trong dịch vụ nên thực hiện khẩu hiệu: “Làm đúng, làm tốt ngay
từ đầu”.
Tính đồng thời: Trong dịch vụ sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời.
Yếu tố cấu thành của dịch vụ:
Khách hàng
3
a.
Khách hàng liên quan trực tiếp đến việc tạo ra dịch vụ; là người tạo ra
nhu cầu về dịch vụ, là yếu tố khởi đầu cho quá trình làm dịch vụ của các tổ
chức, xí nghiệp doanh nghiệp dịch vụ. Khơng có nhu cầu dịch vụ tức là khơng
có cung ứng dịch vụ, khơng có dịch vụ ra đời.
b.
Nhân viên tiếp xúc
Nhân viên tiếp xúc là người trực tiếp quan hệ với khách hàng, tìm hiểu
nhu cầu tiến hàng marketing hỗn hợp, giới thiệu và quảng bá dịch vụ, sau đó
bằng cơ sở vật chất làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng với chất lượng dịch
vụ tốt nhất, lôi kéo khách hàng tham gia vào dịch vụ với sự thỏa mãn cao nhất
nhu cầu của họ.
c . Cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất là toàn bộ những tư liệu lao động mà doanh nghiệp dịch
vụ sử dụng để sản xuất và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng hoặc là
toàn bộ tư liệu lao động cần thiết tham gia hoặc hỗ trợ cho quá trình sáng tạo
và cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
Cơ sở vật chất gồm 2 loại:
+ Các công cụ cần thiết cho dịch vụ mà nhân viên tiếp xúc hay khách
hàng sử dụng các công cụ này sẽ cho phép thực hiện dịch vụ.
+ Môi trường vật chất mà trong đó diễn ra dịch vụ: địa điểm, các ngôi
nhà, khung cảnh.
1.1.2. Dịch vụ du lịch
1.1.2.1.Khái niệm
Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay, đặc biệt là từ năm 1950- khi
nền kinh tế thế giới được khơi phục và phát triển, thu nhập bình quân đầu
người tăng không ngừng, đã làm cho nhu cầu giao lưu, tham quan, học tập,
nghỉ ngơi, vui chơi giải trí...cũng khơng ngừng tăng lên. Nhất là trong thời đại
ngày nay khi nhịp sống công nghiệp đưa con người ta vào cuộc sống hối hả
của những toan tính bận rộn, thì nhu cầu được nghỉ ngơi, giải trí, giao lưu
quốc tế càng trở nên bức thiết. Và nhờ đó, một số nước đã coi du lịch là ngành
kinh tế chủ lực tạo nguồn thu nhập đáng kể như Thái Lan, Trung Quốc, Tây
Ban Nha,...Từ đó nhiều nước đề ra những quốc sách hữu hiệu cho đầu tư và
phát triển dịch vụ du lịch.
Khi điều kiện kinh tế chưa phát triển, người ta coi du lịch như một hiện
tượng xã hội mang tính nhân văn nhằm làm phong phú thêm nhận thức con
người và dịch vụ du lịch là thoả mãn nhu cầu cho tầng lớp trên của xã hội
kiếm được tiền ở một nơi và đi tiêu tiền ở một nơi khác. Điều kiện kinh tế
phát triển hơn, người ta nhận thức được du lịch khơng cịn là một hiện tượng
xã hội đơn thuần mà còn là một hoạt động kinh tế, trong đó những hoạt động
dịch vụ phối hợp với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
Khi kinh doanh du lịch phát triển, trở thành một hệ thống mang tính tổng
hợp trên phạm vi vùng miền khơng chỉ của một quốc gia thì người ta coi “ Du
lịch là một ngành cơng nghiệp với tồn bộ các hoạt động mà mục tiêu là kết hợp
giá trị của các tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn với các dịch vụ,hàng
hoá để tạo ra sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu của du khách”.
Pháp lệnh Du lịch (2/1999) do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam quy định: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngồi nơi cư trú thường xun của mình nhằm đáp
ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời
gian nhất định”.
Có thể hiểu, du lịch là một phạm trù kép một mặt có ý nghĩa
thôngthường là sự di chuyển của con người với mục đích nghỉ ngơi giải trí,
nhưng mặt khác nó bao hàm hệ quả kinh tế tự thân khi những dịch vụ hỗ trợ
và cung ứng nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho du khách, trong
sự di chuyển đó.
Với quan niệm trên, sản phẩm du lịch cũng mang những nét đặc trưngcơ
bản không như các sản phẩm vật chất thuần tuý khác. Theo Từ điển du
lịch(Tiếng Đức, Nxb Kinh tế Berlinh, 1984) định nghĩa: "Sản phẩm du lịch là
sựkết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các
tiềmnăng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị,
mộtkinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng" [35]. Theo nghĩa hẹp, thì
sảnphẩm du lịch là những gì du khách bỏ tiền ra mua lẻ hoặc trọn gói trong
chuyến đi của mình. Cịn theo nghĩa rộng, đó là tổng hợp những sản phẩm vơ
hình và hữu hình do con người và thiên nhiên tạo ra, có khả năng thoả mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần cho du khách về nghỉ ngơi, giải trí và những
hoạt động có ích khác.
Theo Từ điển du lịch, lữ hành, lưu trú và ăn uống, (Tiếng Anh,
NxbButterworth Heinemann 1993) thì: “Dịch vụ du lịch là kết quả của các
hoạtđộng kinh tế được thể hiện trong sản phẩm vơ hình (phân biệt với hàng
hốvật chất) như lưu trú, vận chuyển, dịch vụ tài chính, thông tin liên lạc, y tế
và các dịch vụ cá nhân khác” [36].
Theo điều 4, chương I Luật Du lịch Việt Nam “Dịch vụ du lịch là việc
cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi
giảitrí, thơng tin, hướng dẫn và các dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu
củakhách du lịch” [28, tr.2]. Tác giả luận văn tán thành với khái niệm này về
dịchvụ du lịch.
1.1.2.2.Đặc điểm của dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch có những đặc điểm chung của dịch vụ: là kết quả mang
lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng và khách hàng
và thông qua việc đáp ứng nhu cầu khách hàng đó mang lại lợi ích cho tổ
chức cung ứng dịch vụ đó. Ngồi ra, dịch vụ du lịch cịn có các đặc điểm
mang tính đặc thù:
Thứ nhất: Tính phi vật thể - đây là đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ
du lịch. Người sử dụng dịch vụ không thể tiêu dùng trực tiếp dịch vụ đó trước
khi mua nó, nói cách khác quá trình sản xuất ra dịch vụ cũng gắn liền với q
trình tiêu thụ nó. Dịch vụ đồng hành với sản phẩm vật chất nhưng nó lại tồn
tại dưới dạng phi vật chất nên người sử dụng chỉ có thể đánh giá được chất
lượng của dịch vụ khi trực tiếp sử dụng nó. Đặc điểm quan trọng này buộc
các nhà cung cấp phải có trách nhiệm trong việc tạo dựng thương hiệu thông
qua cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác, chân thực và khách quan về
những tiện ích và ưu việt của dịch vụ đối với du khách để họ thực sự yên tâm
và hài lòng về quyết định mua sản phẩm dịch vụ. Về phía du khách: phải thận
trọng và cần có sự nhìn nhận, lựa chọn nhà cung cấp căn cứ trên uy tín thương
hiệu, quảng cáo sản phẩm và tham khảo thêm những người đã sử dụng dịch
vụ trước khi quyết định mua dịch vụ cho mình.
Thứ hai: Tính đồng thời trong sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ.
Khác với các hàng hoá thơng thường có q trình sản xuất và tiêu dùng
diễn ra ở từng thời gian và địa điểm khác nhau, dịch vụ du lịch được sản
xuất và tiêu dùng thường diễn ra cùng lúc. Chính đặc điểm này quy định
tính thời vụ trong loại hình kinh doanh du lịch và nó làm cho cơng tác dự
báo của ngành du lịch thực sự trở thành một khoa học giúp các nhà hoạch
định chiến lược nắm được cung - cầu trên thị trường mà có hướng đầu tư
phù hợp. Trên thực tế có nhiều bất cập xảy đến trong q trình quản lý và
kinh doanh du lịch, nguyên nhân sâu xa chính vì chưa nắm thấu đáo tính
chất đặc thù này.
Thứ ba: Khách hàng là một bộ phận của cả quá trình sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Tính đặc thù này được quy định bởi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
dịch vụ diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định nên không tạo ra
khoảng cách giữa người tiêu dùng và người sản xuất dịch vụ. Nói cách khác,
người tiêu dùng không chỉ hưởng thụ một cách thụ động sản phẩm dịch vụ
được cung ứng, mà họ còn trực tiếp tham gia vào q trình sản xuất thơng qua
việc phản hồi của họ với nhà cung cấp về chất lượng và mức độ hoàn thiện
của sản phẩm. Thậm chí bằng kinh nghiệm và trình độ cảm nhận của mình, du
khách cịn là người trực tiếp sáng tạo ra các sản phẩm dịch vụ giúp cho nhà
cung cấp tạo ra những sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của
người tiêu dùng.
Thứ tư: Quyền sở hữu không được chuyển giao khi mua và bán. Đây là
một đặc thù riêng có của loại hình sản phẩm dịch vụ khi đem trao đổi trên thị
trường. Vì là sản phẩm không thể di chuyển trong không gian, là sản phẩm
phi vật thể và có tính đồng nhất trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nên
khách hàng chỉ đang mua quyền sử dụng sản phẩm chứ không hề mua được
quyền sở hữu sản phẩm dịch vụ đó. Khi quyền sử dụng của du khách khơng cịn
thì cũng là lúc nhà cung cấp toàn quyền sở hữu đối với sản phẩm dịch vụ đó.
Sản phẩm du lịch gồm: Dịch vụ du lịch và giá trị tài nguyên thiên nhiên
Dịch vụ du lịch gồm:
- Dịch vụ vận chuyển, nhằm đưa du khách từ nơi cư trú đến các điểm du
lịch, từ các điểm du lịch này đến điểm du lịch khác hoặc trong phạm vi một
điểm du lịch nào đó, bằng phương tiện nhất định.
- Dịch vụ lưu trú, ăn uống bao gồm các dịch vụ phục vụ du khách nghỉ
ngơi, thư giãn và lấy lại sức khoẻ trong hành trình du lịch của mình thơng qua
hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng... nơi khách dừng chân.
- Dịch vụ vui chơi giải trí: là loại hình giúp du khách đạt được sự thoả
mãn cao trong mỗi chuyến đi. Bởi vậy, nên thời gian của du khách phần lớn
được các nhà tổ chức chuyên nghiệp hướng đến là đưa khách tham quan các
khu du lịch, các khu di tích, xem văn nghệ... thậm chí đến các sịng bạc, các
bar café, sàn nhảy...
- Dịch vụ mua sắm: thực tế đây cũng là hình thức giải trí khơng thể thiếu
trong một chuyến đi du lịch của du khách, được thực hiện thông qua các siêu
thị, cửa hàng, làng nghề truyền thống, hàng mỹ nghệ, tạp hoá, vải lụa...
- Dịch vụ trung gian và bổ sung khác: y tế, công nghệ thông tin, Internet,
sửa chữa... tuy phụ trợ nhưng loại hình dịch vụ này cũng góp phần làm thoả
mãn chuyến đi của du khách và tham gia vào việc tạo nên một sản phẩm du
lịch hoàn chỉnh nơi khách dừng chân.
Ngoài ra, sản phẩm du lịch còn bao gồm cả giá trị tài nguyên thiên nhiên
- một bộ phận cấu thành quan trọng, nó địi hỏi các nhà chuyên môn trong
quản lý và điều hành phải biết phối hợp và điều tiết quá trình cung ứng sản
phẩm du lịch một cách khoa học thực sự, mới đem lại hiệu quả kinh tế cao
đồng thời thoả mãn được nhu cầu của du khách.
1.1.2.3. Phân loại dịch vụ du lịch
-
Theo các học giả nước ngồi:chia dịch vụ du lịch thành 3 nhóm
Nhóm dịch vụ mức độ 1 bao gồm: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ trong các cơ
-
sở lưu trú và dịch vụ trong các nhà hàng.
Nhóm dịch vụ tương ứng: Là các dịch vụ giúp du khách sử dụng những điều
∗
kiện vật chất của tựnhiên để thỏa mãn nhu cầu du lịch (trượt tuyết, leo núi,
-
tắm biển...), phục vụ việc thăm các di tích lịch sử văn hóa,..
Nhóm dịch vụ thơng tin: Cung cấp cho khách du lịch trong quãng thời gian di
chuyển từ nơi xuất phát đến nơi du lịch, giữa các điểm du lịch, thay đổi
phương tiện giao thông, đổi tiền, dịch vụ hướng dẫn, cung cấp và tư vấn
∗
-
những điều cần thiết cho khách du lịch.
Theo thực tế phân loại của ngành du lịch:
Nhóm dịch vụ chính (cơ bản): Đó là các dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu cơ
-
bản là ăn, ngủ và đi lại (dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển)
Nhóm dịch vụ bổ sung: Là các loại dịch vụ phù hợp với mục đích của chuyến
đi (VD: khách đi du lịch chữa bệnh sử dụng dịch vụ y tế, khách đi tham quan
∗
-
cần đến dịch vụ hướng dẫn viên...)
Theo sự phân loại của khoa học du lịch:
Nhóm dịch vụ đặc biệt: Là các dịch vụ góp phần tạo điều kiện cho du khách
sử dụng hiệu quả tài nguyên du lịch, mang những dấu ấn đặc trưng của từng
-
loại hình du lịch.
Nhóm dịch vụ cơ bản: Là những dịch vụ thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu
của du khách (thiếu nhóm dịch vụ này tài ngun du lịch khơng có khả năng
-
được khai thác)
Nhóm dịch vụ bổ sung: Gồm một tổ hợp rất lớn các dịch vụ khác nhau như:
tham quan, bán hàng lưu niệm, cho thuê các phương tiện thể thao, giao thông,
dịch vụ giải trí, cho thuê các dụng cụ để tiến hành các hoạt động như dù,
xuồng, thuyền, áo phao...
1.2. Tổng quan về dịch vụ du lịch tại khu du lịch sinh thái Tràng An
1.2.1 .Vị trí địa lý
Khu du lịch sinh thái Tràng An có diện tích đất quy hoạch là 3.682,02ha,
trên địa bàn 8 xã, phường thuộc huyện Hoa Lư, huyện Gia Viễn và thành phố
Ninh Bình của tỉnh Ninh Bình. Nó nằm về phía Đơng Bắc của tỉnh Ninh Bình,
cách thủ đơ Hà Nội hơn 90 km về phía Nam. Phía Bắc giáp huyện Gia Viễn,
phía tây giáp huyện Nho Quan, phía Nam giáp khu du lịch Tam Cốc – Bích
Động, phía Đơng giáp quốc lộ 1A.
Khu du lịch này nằm trong hệ thống các tuyến điểm du lịch quan trọng
của vùng Bắc bộ nói chung, tam giác tăng trưởng du lịch đồng bằng sơng
Hồng nói riêng, nơi dừng chân lý tưởng của các tour du lịch hấp dẫn tại Ninh
Bình. Đây cịn là một trong những địa danh nhận khách du lịch từ trung tâm
du lịch Hà Nội và các vùng phụ cận như: Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Hải Phịng,
Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An,…
1.2.2.Q trình hình thành và phát triển
Khu du lịch sinh thái Tràng An là một khu du lịch tổng hợp gồm: Du lịch
sinh thái, văn hoá, lịch sử, tâm linh… được thành lập ở tỉnh Ninh Bình.
Khu du lịch sinh thái Tràng An được phát hiện cách đây vài năm(từ năm
2001). Trung tâm bến thuyền cách thành phố Ninh Bình 6 km, cách Hà Nội hơn
90 km, lại gần với Quốc lộ 1A – tuyến đường huyết mạch của cả nước.
Tràng An là khu du lịch gắn liền với kinh thành xưa của Cố đô Hoa Lư.
Hang động ở khu du lịch Tràng An là một phần quan trọng ở phía Nam Kinh
đô Hoa Lư – hậu cứ để bảo vệ Kinh đơ Hoa Lư xưa. Nơi đây có núi non trùng
điệp, hang động kỳ ảo, sơng ngịi gấp khúc, thung lũng đan xen hoà quyện
vào nhau tạo nên một kỳ quan thiên nhiên độc đáo, mỹ lệ. Trong hai ngày 16
và 17/10/2008, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh
Ninh Bình, Hội di sản văn hoá Việt Nam đã tổ chức Hội thảo Khoa học về:
“Giá trị di sản văn hố Cố đơ Hoa Lư và khu du lịch Tràng An” nhằm tiến tới
đề nghị UNESCO công nhận Cố đô Hoa Lư là Di sản văn hoá thế giới và khu
du lịch sinh thái Tràng An là Di sản thiên nhiên thế giới. Với tiềm năng du
lịch sinh thái, văn hoá, tâm linh, lịch sử Tràng An là một điểm du lịch rất hấp
dẫn du khách trong và ngoài nước. Quy hoạch khu du lịch Tràng An đã được
điều chỉnh bổ sung để phù hợp với thực tế, và đã được UBND Tỉnh Ninh
Bình phê duyệt tại quyết định số 2570/QĐ –UBND ngày 18/11/2005. Theo
quy hoạch điều chỉnh, bổ sung thì Khu du lịch Tràng An được quy hoạch với
5 phân khu chức năng chính sau:
∗
Phân khu 1: Khu sinh thái hang động
Khu này được quy hoạch với diện tích là 966,4 ha, bao gồm 31 thung,
01 hồ và 48 hang động dài khoảng 12 km, bắt đầu từ bến thuyền đi xuyên qua
các hang động, các thung đến tham quan các đảo sinh thái và các di tích lịch
sử, văn hóa bằng hai lộ trình trên bộ hoặc bằng thuyền.
∗
Phân khu 2: Khu cơng viên văn hóa
Khu cơng viên văn hóa có diện tích 288,05 ha, được quy hoạch với
chức năng như một cơng viên giải trí gồm nhà điều hành, khu làng ẩm thực,
khu thương mại, nhà hàng nổi và phòng nghỉ nổi, chòi ven hồ, các kiosque,…
∗
Phân khu 3: Khu dịch vụ du lịch
Khu dịch vụ du lịch có diện tích 62 ha, nằm dọc hai bên đường tuyến
2, tại các thung nhỏ, các dải đất dọc hai bên đường và sông Sào Khê. Khu này
được quy hoạch để xây dựng các cơng trình phục vụ hoạt động du lịch gồm:
các nhà hàng, khách sạn, khu nhà vườn, biệt thự cao cấp, khu thể thao, vui
chơi giải trí và khu bán đồ lưu niệm.
∗
Phân khu 4: Khu trung tâm
Khu trung tâm bến thuyền được xây dựng trên khu đất có diện tích 99,3
ha. Khu này được quy hoạch để xây dựng bến thuyền, nhà chờ, nhà quản lý,
hội trường lớn, bãi đỗ xe, các cơng trình hạ tầng kỹ thuật, vườn hoa, cây xanh,
thảm cỏ với chức năng đón tiếp và hướng dẫn khách du lịch, là nơi tổ chức
các lễ hội lịch sử - văn hóa - thương mại - du lịch và các hội nghị, hội thảo
tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
Phân khu 5: Khu núi chùa Bái Đính
Với diện tích 964 ha, khu này được quy hoạch với chức năng là khu văn
hóa - tâm linh. Tại đây có khu núi chùa Bái Đính mới, khu núi chùa Bái Đính
cũ, khu cơng viên văn hố và học viện phật giáo, khu đón tiếp và cơng viên
cảnh quan, bãi đỗ xe, khu cây xanh, hồ nước,…
1.2.3. Tài nguyên du lịch tại khu du lịch sinh thái Tràng An
1.2.3.1.
∗
Tài nguyên du lịch tự nhiên
Cảnh quan karst
Khu vực Tràng An - Bích Động thuộc tiểu vùng cảnh quan Karst Trường
Yên. Khối Karst này điển hình cho Karst nhiệt đới với các đỉnh dạng tháp,
chng điển hình; sườn rửa lũa - đổ lở dốc đứng; các thung lũng kéo dài và
liên kết với nhau. Quá trình Karst nhiệt đới đã tạo nên các cảnh quan Karst
trên mặt và Karst ngầm với hệ thống hang động đa dạng, độc đáo.
Địa hình Karst trên mặt: bao gồm những khối karst sót với đỉnh dạng tháp,
vịm, chng và sườn vách dốc đứng. Phần rìa núi là các thung lũng và đồng bằng
Karst rộng lớn, địa hình phẳng, dễ ngập úng vào mùa mưa. Cảnh quan Karst trên
mặt vừa có sự trùng điệp, hùng vĩ của những khối núi đá vôi phần trung tâm chạy
nối tiếp nhau, vừa có sự nên thơ, non xanh nước biếc của những khối núi sót nhơ
lên trên bề mặt đồng bằng trũng, soi bóng xuống hồ nước và có cả sự đặc sắc về
hình thù như hịn Cá, hịn Ơng Rùa, đàn Hải Cẩu và những hình khối mang chiều
sâu văn hóa như: hịn Ơng Trạng, hịn Tập Sách...
Hang động Karst: gồm những hang đang hoạt động và những hang đã
ngừng hoạt động. Vào mùa mưa, nước có thể ngập kín hang, tạo ra các vết
sóng trần. Đồng thời, nước Karst từ các khe nứt đổ xuống cũng tạo nên những
“vú đá” với kích thước nhỏ. Ở đây tồn tại nhiều loại hình hang động xuyên
thủy, một số hang đã từng là ngôi nhà chung của bầy người nguyên thủy và
nhiều hang động gắn với sự tích, huyền thoại.
Khu du lịch sinh thái Tràng An hiện chưa có đánh giá chính xác được số
lượng hang động, chỉ riêng số hang xuyên thủy đã được đo khảo sát là 48
hang với tổng chiều dài là 12.226m. Mỗi hang động trong Khu du lịch Tràng
An mang một cái tên riêng: hang Sáng, hang Tối, hang Seo Lớn, Seo Bé, hang
Luồn. Nào là hang Nấu Rượu, hang Sơn Dương… Mỗi hang động đều gắn
với một truyền thuyết, quan niệm mang đậm tính văn hố. Hang Nấu Cơm,
Nấu Rượu có truyền thuyết là: Xưa có ơng khổng lồ mang cơm và mang rượu
ra núi ngồi ăn. Tương truyền, nơi đây có một dịng nước ngọt tinh khiết.
Người xưa vào đây lấy nước về để nấu rượu tiến vua thì rượu rất thơm và
ngon. Hang Ba Giọt có truyền thuyết là: Xưa kia, có ba dịng nước chảy tụ về
hang. Theo cư dân nơi đây thì nếu đi dọc hang Ba Giọt mà được ba giọt nước
từ nhũ đá rơi xuống đầu thì sẽ gặp được nhiều may mắn, sự nghiệp sẽ công
thành danh toại. Nếu hứng tiếp ba giọt vào lịng bàn tay để uống thì tình u
sẽ chung thuỷ, vẹn tròn. Quần thể hang động, núi, thung, hồ, suối,… đã tạo
nên một sinh cảnh Tràng An thơ mộng, “độc nhất vô nhị” ở vùng đồng bằng
* Hệ động, thực vật
Do đặc điểm môi trường tự nhiên, khu du lịch sinh thái Tràng An có hệ
động, thực vật phong phú, tính đa dạng sinh học cao. Qua điều tra, khảo sát
bước đầu đã thống kê được 577 loại thực vật trong đó có 10 lồi nằm trong
sách đỏ Việt Nam. Đặc biệt, tài nguyên cây thuốc ở đây đa dạng, q hiếm
(311 lồi), thực vật làm cây cảnh có 76 loài thuộc 31 họ. Các cây gỗ quý như
kiềng kiềng, đinh, sến, lát còn lại hiện nay trên núi đá vơi là những thực vật ít
có giá trị về mặt kinh tế.
Động, thực vật thủy sinh trong vùng ngập nước Tràng An tương đối
phong phú, bao gồm 30 loài động vật nổi, 40 loài động vật đáy đặc biệt là rùa
cổ sọc (Ocaclia sinensis) được coi là động vật quý hiếm cần được bảo vệ.
Động vật trên cạn chưa thống kê đầy đủ nhưng hiện nay nhân dân địa
phương đôi khi cả khách du lịch vẫn còn gặp những bầy khỉ, sơn dương, cầy
đổi màu, tê tê, tắc kè, rái cá, mèo rừng, vượn, trăn, rắn; các loài chim như sáo,
vẹt, khiển, chim cu, le le, cị, sc, đặc biệt là phượng hồng đất – một loài
chim quý hiếm sống thành bầy đàn.
1.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
∗
Di tích khảo cổ học hang động
Khu du lịch sinh thái Tràng An được xem là cầu nối giữa thời đại đá mới
và thời đại đồng thau, giữa miền núi với châu thổ ven biển trong tiến trình
phát triển văn hóa tiền sử Việt Nam. Nơi đây có một số hang động khảo cổ,
thuộc các niên đại khác nhau, dấu tích văn hóa khơng giống nhau, phản ánh
nhiều khía cạnh khác nhau của văn hóa nhân loại từ tiền sử đến lịch sử, tiêu
biểu như: hang Hoa Sơn, hang Lợn, hang Vượn trên, hang Vượn dưới, hang
núi Thung Bình,... Trong quá trình nạo vét hệ thống hang động, khai quật
khảo cổ từ nhiều năm qua, nhiều di vật, dấu tích của người tiền sử từ 5000
đến 30000 năm đã được tìm thấy ở Hang Bói, hang Trống.
∗
Di tích lịch sử - văn hố:
Khu du lịch sinh thái Tràng An được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long trên
cạn”, là điểm đến quan trọng và hấp dẫn trong hành trình “Kết nối các Kinh
đơ cổ” của các chương trình tham quan “Du lịch về cội nguồn dựng nước và
giữ nước, tìm hiểu vănhóa và lịch sử” của dân tộc Việt Nam.
Tràng An như một cuốn bảo tàng vĩ đại và sống động mang tính nhân
văn và gìn giữ những giá trị văn hóa dân tộc quý báu trong q trình dựng
nước và giữ nước đầy cam go, sóng gió nhưng rất oanh liệt và hào hùng của
dân tộc. Hiện nay, trong khu vực có 12 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 1
di tích cấp quốc gia là khu núi chùa Bái Đính. Các di tích lịch sử - văn hóa ở
đây là những dấu vết của buổi bình minh văn minh Đại Việt, thời các vua
Đinh, Tiền Lê, Lý với cố đô Hoa Lư, tiêu biểu như: đền thờ Quý Minh đại
vương (đền Trần), đền thờ Cao Sơn đại vương (núi chùa Bái Đính), đền thờ
vua Đinh Tiên Hồng, đền thờ vua Lê Đại Hành, nhà bia tưởng niệm vua Lý
Thái Tổ, đền Phất Kim, Phủ Khống, Phủ Đột. Bên cạnh các di tích gắn với Cố
đơ Hoa Lư, cịn có rất nhiều các di tích mang đậm tính tín ngưỡng và tâm linh
như chùa Nhất Trụ, chùa Am, chùa Ngần, chùa Bàn Long, chùa Bái Đính, …
Chùa Bàn Long:
Chùa Bàn Long lấy động làm chùa (là chùa thiên tạo và nhân tạo), nằm
gọn trong Đại Tượng Sơn (núi Đại Tượng), ở thôn Khê Đầu thượng, xã Ninh
Xuân, huyện Hoa Lư. Núi Đại Tượng có hình con voi khổng lồ chầu về Kinh
đơ Hoa Lư xưa. Núi cao khoảng 200m, có một cửa ngầm phun nước bổ sung
cho lượng nước của sơng Sào Khê và sơng Khê Đầu (Khê Đầu có nghĩa là
đầu nguồn của một con suối). Gọi là chùa Bàn Long vì khi chúa Trịnh Sâm
khi đến thăm chùa đã đề ba chữ lớn: “Bàn Long tự” lên vách cửa động. Bàn
Long – có nghĩa là: bệ rồng (bệ đá rồng ngồi). Trong động, có nhũ đá giống
hình con rồng ngồi, hình rồng nổi rõ cả vảy. Người dân nơi đây thường vào
trong động, nhìn vảy rồng để xem thời tiết nắng mưa thế nào. Nếu trời nắng
hạn lâu ngày mà thấy vảy rồng đá trong động rực sáng long lanh thì vài ngày
sau trời sẽ đổ mưa. Vì thế mà vào những năm hạn hán, nhân dân địa phương
thường làm lễ cầu mưa ở chùa Bàn Long. Bàn Long là một ngơi chùa có từ rất
sớm ở nước ta, được hình thành từ trước thời nhà Đinh, cách đây hơn 10 thế
kỷ. Tương truyền, nhân dân phát hiện ra động từ lâu, thấy trong động có hình
rồng cuộn nên lập chùa ngay khi đó. Tấm bia ở vách núi Đại Tượng được
khắc vào thế kỷ XVI, niên hiệu Ngun Hồ tức đời vua: Lê Trang Tơng, có
ghi: “Từ thành cổ Hoa Lư men theo núi đá đi về phía Nam, đến làng Khê Đầu
ở đó có chùa Bàn Long. Đây là danh thắng từ ngàn xưa. Trải qua các triều
Đinh, Lê, Lý, Trần, chùa này càng thêm nổi tiếng”…
Chùa Bái Đính
Chùa Bái Đính nằm trong Khu du lịch Tràng An và có thể phân ra thành:
chùa Bái Đính mới và chùa Bái Đính cổ Chùa Bái Đính thuộc địa phận của xã
Gia Sinh, huyện Gia Viễn.
Hiện nay, ngôi chùa Bái Đính được xây dựng với quy mơ đồ sộ và rộng
lớn, đang trong giai đoạn hồn thành. Ngơi chùa mới được xây dựng rất gần với
ngơi chùa Bái Đính cổ, trải dài tới 800 m từ chân lên đến đỉnh đồi. Chùa Bái
Đính được xây dựng có kiến trúc kiểu cổ Á Đơng: mái lợp bằng ngói ống, đầu
đao cong vút, cột trịn, hệ vì kèo kiểu chùa cổ. Ngồi ra, đến thăm chùa Bái Đính
mới, du khách thập phương cịn có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp bề thế của: tháp
chuông – nơi đặt qủa chuông lớn nặng tới 36 tấn, cao 10 m, đường kính miệng
5m. Điện Tháp Chủ - nơi đặt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng nguyên
khối nặng 100 tấn. Hay Điện Tam Thế - nơi đặt ba pho tượng Tam Thế bằng
đồng, mà mỗi pho nặng tới 50 tấn. Cùng với một hành lang La Hán gồm có 500
pho tượng La Hán được tạc bằng đá, cao từ: 2m - 2,5m;...
Chùa Bái Đính cổ toạ lạc trên ngọn núi đá cùng tên (Bái Đính), đây là
một kiểu chùa cổ của cư dân Ninh Bình. Lợi dụng địa hình thiên nhiên để tạo
nên kiểu “chùa hang”. Núi Bái Đính cịn giữ được nét ngun sơ của núi
rừng, cây cối. Tương truyền, cách đây khoảng 1000 năm, thiền sư Nguyễn
Minh Không (1065 – 1141), khi đến đây tìm thuốc đã phát hiện ra động này,
từ đó biến thành động thờ Phật. Trên núi Bái Đính có ba hang: Ở lưng chừng
núi có hang Voi Phục, bên phải là động Sáng (thờ Phật), bên trái là động Tối
(hay động Mẫu, động Tiên):
Hiện nay, với việc đưa chùa Bái Đính vào hoạt động du lịch, đáp ứng
nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của du khách đã giúp cho hoạt động du lịch nơi
đây ngày càng phát triển, lượng khách đến thăm quan gia tăng đáng kể. Vì
vậy mà chùa Bái Đính được coi là một điểm nhấn của khu du lịch sinh thái
Tràng An.
Đền Trình
Đền Trình là nơi thờ 2 cơng thần nhà Đinh là Tả Thanh Trù và Hữu
Thanh Trù. Đương triều họ là 2 Giám sát Đại tướng quân cai quản kho vàng,
két bạc của vua. Tương truyền, khi vua Đinh Tiên Hồng băng hà, triều đình
rối ren, họ đã mang giấu Đinh Toàn tại đây để tránh sự truy bắt của Lê Hồn.
Tại đây cịn có đền Tứ Trụ thờ 4 vị quan thân cận của Đinh Tiên Hoàng Đế là
Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ.
Đền Trần
Đền Trần Ninh Bình do vua Đinh Tiên Hồng xây dựng cùng thời với
đền Hùng, sau này vua Trần Thái Tông về đây lập hành cung Vũ Lâm tiếp tục
cải tạo bề thế hơn nên được gọi là đền Trần. Đền Trần là nơi thờ thần Quý
Minh, vị thần trấn cửa ải phía nam Hoa Lư tứ trấn. Đền cịn có tên là đền Nội
Lâm (ngôi đền trong rừng). Đền Trần Nội Lâm cùng với Vũ Lâm, Văn Lâm
hợp thành Tam Lâm dưới triều đại nhà Trần. Lễ hội đền Trần Ninh Bình diễn
ra vào ngày 18 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Phủ Khống
Phủ Khống là nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh, gắn với các truyền
thuyết khi vua Đinh Tiên Hồng băng hà, 7 vị quan trong triều đình mang
nhiều quan tài chôn theo các hướng rồi cùng tự sát để giữ kín những bí mật về
ngơi mộ thật. Một vị tướng trấn giữ thành nam vơ cùng cảm kích trước nghĩa
khí của 7 vị trung thần liền lập bát nhang thờ cúng ở đây. Sau khi vị tướng
này mất, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và trồng cây thị ngay trước cửa
Phủ để tưởng nhớ các bậc trung thần. Cây thị nghìn năm tuổi mà quả có 2
loại: 1 tròn và 1 dẹt.
∗
Lễ hội
Lễ hội cũng là một tài nguyên rất quan trọng của Khu Du lịch Tràng An.
Do được hình thành trong một khơng gian văn hố, lại nằm trên một mảnh đất
truyền thống hàng nghìn năm lịch sử - Cố đơ Hoa Lư nên khu du lịch Tràng
An là nơi được chứng kiến và tham gia nhiều Lễ hội truyền thống gắn với các
di tích lịch sử rất có ý nghĩa như:
∗
Lễ hội chùa Bái Đính: Tổ chức vào ngày mồng 6 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm
∗
tại thôn Sinh Dược, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Lễ hội Trường Yên: Diễn ra từ ngày mồng 10 - 13/3 (âm lịch) hàng năm tại xã
Trường Yên, huyện Hoa Lư (Cố đô Hoa Lư) để tưởng nhớ công đức vua Đinh
∗
Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành.
Lễ hội đền Thái Vi: Tổ chức hàng năm từ ngày 14 - 17/3 (âm lịch) tại thôn
Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Đây là dịp để nhân dân Ninh Bình và
nhân dân cả nước tưởng nhớ công lao các vua Trần - những người có cơng lớn
∗
với dân với nước.
Lễ hội đền Địch Lộng: Lễ hội được tổ chức vào hai ngày mùng 6 và mùng 7
tháng 3 (âm lịch) tại chùa Địch Lộng thuộc huyện Gia Thanh, huyện Gia
∗
Viễn.
Ẩm thực
Đến với khu du lịch sinh thái Tràng An, du khách có cơ hội thưởng thức
các món ăn đặc sản của đất Ninh Binh như: dê Trường Yên, cá rô tổng
Trường, cơm cháy Hoa Lư, mắm tép Gia Viễn, nem chua,...
1.2.4. Đặc điểm và các loại hình dịch vụ du lịch tại khu du lịch sinh
thái Tràng An
1.2.4.1. Các loại hình dịch vụ du lịch ở khu du lịch sinh thái Tràng An
Khu du lịch sinh thái Tràng An mới đưa vào hoạt động tuy nhiên các
dịch vụ du lịch ở đây rất phong phú và đa dạng có thể tựu trung lại ở các loại
hình dịch vụ chủ yếu sau:
Dịch vụ vận chuyển, đưa đón khách