Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Cải cách ngân Hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.78 KB, 11 trang )

Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
1
CẢI TỔ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM

Bài đọc này nhằm mục tiêu trình bày một cách có hệ thống về các cuộc cải tổ hệ thống
ngân hàng ở Việt Nam từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới kinh tế năm 1986. Trước hết
sẽ giới thiệu khái quát và điểm qua những nét đặc trưng của cải tổ hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Sau đó, chúng ta sẽ đi vào chi tiết của từng đợt cải tổ ngân hàng từ năm
1987 đến nay.

1. Những nét đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt Nam trước khi cải tổ

Ở Việt Nam do sản xuất hàng hoá chưa phát triển, ngân hàng ra đời muộn và hoạt
động non yếu thể hiện ở chỗ ít về số lượng, nhỏ về quy mô, và kém về tổ chức hoạt
động và nghiệp vụ. Trước Thế Chiến I chưa hề có ngân hàng Việt Nam chỉ có 3 ngân
hàng nước ngoài hoạt động, đó là Hương Cảng Ngân Hàng (1865), Đông Dương Ngân
Hàng (1875), và chi nhánh Chartered Bank (1904). Điều này chứng tỏ rằng kinh tế
Việt Nam thời đó còn rất kém phát triển và giai cấp tư sản Việt Nam còn rất non yếu,
chưa có tiếng nói gì trong giới tài chính.
Vài năm sau Thế Chiến I, một số ngân hàng nước ngoài khác được thành lập
như Đông Á Ngân Hàng (1921), Ngân Hàng Thương Mại Pháp (1922). Trong thời kỳ
này mầm móng tư sản tài chính Việt Nam bắt đầu nhen nhóm. Năm 1927 một số thân
hào nhân só cấp tiến có tin thần độc lập dân tộc kêu gọi các nhà tư sản khắp nơi góp
vốn thành lập Ngân Hàng Việt Nam, là ngân hàng thuần túy của người Việt Nam,
phục vụ người Việt Nam và do người Việt Nam quản trò.
Sau chiến Thế Chiến II, có 3 ngân hàng nước ngoài nữa nhảy vào Việt Nam, đó
là Trung Quốc Ngân Hàng (1946), Giao Thông Ngân Hàng, Quốc Gia Thương Mãi và
Kỹ Nghệ Ngân Hàng (1947). Theo sau đà bành trướng của ngân hàng nước ngoài,
hàng loạt ngân hàng Việt Nam khác ra đời vừa để cạnh tranh với ngân hàng nước


ngoài, vừa chứng tỏ sự lớn mạnh của ngân hàng và giới tư bản tài chính Việt Nam.
Sau năm 1954, đất nước bò chia cắt thành 2 miền có chế độ kinh tế chính trò
khác nhau, do đó, hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng khác nhau giữa 2 miền.

Ở Miền Bắc

Ngày 05/06/1951 Hồ Chủ Tòch ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam và sắc lệnh số 17/SL quy đònh mọi công việc của Nha Ngân Khố Quốc Gia
và Nha Tín Dụng Sản Xuất giao cho Ngân Hàng Quốc Gia phụ trách. Ngân Hàng
Quốc Gia Việt Nam sau đó đổi tên thành Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và được tổ
chức thành hệ thống thống nhất từ Trung ương đến đòa phương theo đòa giới hành chính
do Nhà nước độc quyền sở hữu và quản lý. Hệ thống ngân hàng này tồn tại cho đến
ngày Miền Nam được giải phóng. Sau khi thống nhất đất nùc hệ thống ngân hàng này
thay thế luôn hệ thống ngân hàng ở Miền Nam cho đến năm 1987.
Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
2
Ở Miền Nam

Ngày 31/12/1954 Bảo Đại ký dụ số 48 thành lập Ngân Hàng Quốc Gia cho Miền Nam.
Từ 1954 đến 1975 hệ thống ngân hàng ở Miền Nam được tổ chức theo hệ thống ngân
hàng các nước tư bản chủ nghóa nhưng mang nét đặc thù Việt Nam. Hệ thống ngân
hàng dưới thời chính quyền Sài Gòn bao gồm:


Ngân hàng trung ương được thành lập năm 1954 có tên gọi là Ngân Hàng Quốc
Gia Việt Nam.

Ngân hàng phát triển thuộc sở hữu quốc doanh bao gồm Ngân Hàng Phát Triển

Nông Nghiệp có 25 chi nhánh ở khắp Miền Nam và Ngân Hàng Phát Triển Kỹ
Nghệ được thành lập năm 1971.

Các cơ sở tín dụng và tiết kiệm công lập, bao gồm Quỹ Tiết Kiệm Sài Gòn,
Tổng Nha Ngân Khố và Ty Ngân Khố toàn quốc, Quỹ Tiểu Thương Tín Dụng,
Trung Tâm Khuếch Trương Tiểu Công Nghệ, Trung Tâm Khu Chi Phiếu,
Trung Tâm Khuếch Trương Xuất Cảng, Quỹ Tài Trợ Khuếch Trương Kỹ Nghệ,
và Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia.

Các ngân hàng thương mại, bao gồm 17 ngân hàng thương mại tư và 2 ngân
hàng thương mại công với tổng cộng 144 chi nhánh ở Sài Gòn và các tỉnh.

Các ngân hàng nước ngoài, bao gồm 14 ngân hàng với 21 chi nhánh ở khắp
Miền Nam.

Trước khi cải tổ, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức như là hệ thống ngân
hàng một cấp bao gồm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hệ thống chi nhánh từ trung
ương đến đòa phương phân bố theo đòa giới hành chính. Hệ thống này vừa đảm nhận
chức năng quản lý Nhà nước về các mặt hoạt động tiền tệ, ngân hàng, tín dụng và
thanh toán vừa thực hiện chức năng kinh doanh của một ngân hàng thương mại. Kiểu
tổ chức hệ thống ngân hàng như thế này thích hợp với đặc thù của cơ chế quản lý kế
hoạch tập trung bao cấp lúc bấy giờ nhưng khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế kinh
doanh thì nó tỏ ra kém hiệu quả và không còn phù hợp nữa. Năm 1986 trước sức ép
của công cuộc đổi mới kinh tế đòi hỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam phải được cải tổ
sâu rộng nhằm thích ứng với tình hình và yêu cầu chuyển đổi của nến kinh tế. Từ đó
hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào thời kỳ cải tổ dần dần qua từng giai đoạn.
Hình 1 mô tả tổ chức hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trước khi bắt đầu cải tổ.








Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
3
Hình 1: Tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam trước khi cải tổ













2. Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất (1987 – 1990)

Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1987 nhằm làm cho hệ thống
ngân hàng Việt Nam thích ứng với cơ chế quản lý mới: Cơ chế quản lý kinh doanh xã
hội chủ nghóa. Đặc điểm của cơ chế này là bắt đầu trao quyền tự chủ tài chính cho các
xí nghiệp, xoá bỏ bao cấp, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghóa.
Với cơ chế mới này đòi hỏi ngân hàng cũng phải chuyển sang hoạt động kinh doanh
chứ không chỉ đơn thuần thực hiện chức năng quản lý tiền tệ, tín dụng và thanh toán

như trước kia.
Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất, từ 1987 đến 1990, thực hiện theo tinh
thần Nghò Đònh 53HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng. Có hai điểm nổi
bật trong công cuộc cải tổ ngân hàng lần thứ nhất. Thứ nhất là việc tách bộ phận Quản
lý quỹ Ngân sách Nhà nước ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để hình thành Hệ thống Kho
bạc Nhà nước, làm chức năng quản lý quỹ Ngân sách cho Chính phủ. Thứ hai là thành
lập hệ thống Ngân hàng chuyên doanh và tách chức năng kinh doanh của Ngân hàng
Nhà nước giao về cho các ngân hàng chuyên doanh. Điều này được xem như là một
bước cải tổ quan trọng vì bước đầu tách bạch rõ ràng được hai chức năng quản lý và
kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước.
Theo Nghò đònh 53, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức thành hệ thống
ngân hàng 2 cấp bao gồm: Ngân hàng Nhà nùc và Ngân hàng chuyên doanh. Ngân
hàng Nhà nước, được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến cấp tỉnh, thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngân hàng chuyên
doanh bao gồm Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nông
nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư Xây Dựng Việt Nam và Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam, thực hiện chức năng kinh doanh theo những lónh vực tương ứng với
tên gọi. Sơ đồ ở hình 2 dưới đây mô tả tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
1987 – 1990 theo Nghò đònh 53HĐBT.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chí nhánh NH Nhà nước tỉnh, thành phố
Chi nhánh NH Nhà nước quận, huyện
Khách hàng
Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
4
Hình 2: Tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1987 – 1990

















Tổ chức hệ thống Ngân hàng như mô tả trên hình 2 có ưu điểm là tách được chức năng
kinh doanh khỏi chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước trao cho hệ thống ngân
hàng chuyên doanh. Tuy nhiên, tổ chức hệ thống ngân hàng kiểu này vẫn còn chứa
đựng nhiều nhược điểm khiến cho hệ thống ngân hàng không thích ứng được khi
chuyển sang cơ chế thò trường. Thứ nhất là hệ thống ngân hàng theo Nghò đònh
53HĐBT vẫn còn mang tính chất độc quyền Nhà nước, chưa cho phép các thành phần
kinh tế khác tham gia hoạt động ngân hàng, trong khi chủ trương của Chính phủ là
phát triển nền kinh tế đa thành phần. Thứ hai là hệ thống Ngân hàng này vẫn chưa chú
trọng đến vai trò hoạt động như một ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ ba là hệ thống ngân hàng tổ chức theo kiểu này còn xa lạ so với hệ thống ngân
hàng của các nước có nền kinh tế thò trường. Điều này phần nào làm cản trở quá trình
hội nhập và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cuối cùng hệ thống ngân hàng này vẫn còn
thiếu cơ sở pháp lý làm nền tảng cho hoạt động của cả hệ thống khiến cho cả hệ thống
lâm vào tình trạng khó khăn vào năm 1990.
Những nhược điểm như vừa nêu trên đòi hỏi một lần nữa phải cải tổ hệ thống
ngân hàng Việt Nam. Năm 1990 với sự ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và

Pháp lệnh các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào thời kỳ cải tổ
lần thứ hai.

3. Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ hai (1990 – 2000)

Nhu cầu cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam xuất phát từ yêu cầu chuyển đổi từ cơ
chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghóa sang cơ chế thò trường có sự điều tiết của Nhà
nước cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần. Ngày 23/05/1990 Hội
Hệ thống Ngân hàng Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Chuyên doanh Chi nhánh NH Nhà nước VN
NH Công
Thươn
g VN
NH PT Nông
n
ghiệp VN
NH Đầu tư Xây

ïng VN
NH Ngoại
thươn
g VN
Chi nhánh NH
Côn
g Thương
Chi nhánh NH
PT Nôn
g nghiệp
Chi nhánh NH
Đầu tư Xâ

y dựng
Chí nhánh NH
N
goại thương
Fulbright Economics Teaching Program Development Finance A Note on Vietnam’s Banking Reform
2002-03
Nguyễn Minh Kiều
5
Đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về các tổ
chức tín dụng. Hai pháp lệnh này đánh dấu thời kỳ cải tổ hệ thống ngân hàng Việt
Nam lần thứ hai. Với hai pháp lệnh này hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức
gần giống hệ thống ngân hàng các nước có nền kinh tế thò trường, bao gồm:

• Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò ngân hàng trung ương
• Các tổ chức tín dụng, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát
triển, công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng, đóng vai trò ngân hàng trung
gian.

3.1 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Theo pháp lệnh ngày 23/05/1990, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một pháp nhân,
đặt trụ sở tại Hà Nội có chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có các
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

• Tham gia xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các chính
sách liên quan đến hoạt động tiền tệ, xây dựng các dự án pháp luật về hoạt
động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, thanh toán và ngoại hối

Ban hành các văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền
• Nhận tiền gửi dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng

• Thực hiện cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá đối với các tổ
chức tín dụng
• Công bố lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối
đa của các tổ chức tín dụng
• Tổ chức thanh toán bù trừ giữa các tổ chức tín dụng
• Cấp giấy phép hoạt động và kiểm tra các tổ chức tín dụng trong việc chấp hành
pháp luật về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và ngoại hối
• Tổ chức in ấn, đúc, bảo quản và phát hành tiền

Công bố tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam, quản lý ngoại hối, tổ chức và điều tiết
thò trường hối đoái trong nước và giao dòch mua bán ngoại hối trên thò trường
quốc tế
• Lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế, theo dõi quan hệ tín dụng với nước
ngoài và với các tổ chức tín dụng quốc tế.

3.2 Các tổ chức tín dụng

Theo Pháp lệnh các tổ chức tín dụng năm 1990, các tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân
hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×