ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
CÁC NGHI LỄ NÔNG NGHIỆP DO TRIỀU NGUYỄN
TỔ CHỨC (1802-1883)
Sinh viên thực hiện
: Phan Thảo Ly
Chuyên ngành
: Sư phạm Lịch sử
Lớp
: 16SLS
Người hướng dẫn
: TS. Trương Anh Thuận
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2020
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 4
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu................................................... 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 5
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................... 5
5.1. Nguồn tư liệu ............................................................................................... 5
5.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 5
6. Đóng góp của đề tài .............................................................................................. 6
7. Bố cục của đề tài ................................................................................................... 6
NỘI DUNG................................................................................................................ 7
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VIỆT NAM DƢỚI TRIỀU NGUYỄN
(1802-1883) VÀ CÁC NGHI LỄ NƠNG NGHIỆP ............................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình Việt Nam dƣới triều Nguyễn ( 1802-1883).......... 7
1.1.1. Tình hình chính trị .............................................................................. 7
1.1.2. Tình hình văn hóa- tƣ tƣởng ............................................................ 11
1.2. Một số vấn đề chung về nghi lễ nông nghiệp ........................................ 24
Chƣơng 2: TRIỀU NGUYỄN VỚI VIỆC TỔ CHỨC CÁC NGHI LỄ NÔNG
NGHIỆP (1802-1883) ............................................................................................. 33
2.1. Lễ Tịch điền ............................................................................................. 33
2.2. Lễ Nghênh xuân - Tiến xuân .................................................................. 41
2.3. Lễ Cầu đảo ............................................................................................... 44
1
2.4. Một số nhận định về các nghi lễ nông nghiệp do triều Nguyễn tổ chức
(1802-1883) ...................................................................................................... 46
2.5. Bảo tồn và phát huy các giá trị của các nghi lễ nông nghiệp do triều
Nguyễn tổ chức (1802-1883) .......................................................................... 49
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 52
2
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và rèn luyện 3 năm rưỡi tại trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng, em đã hồn thành khóa học của mình, với những nỗ lực bản thân, em rất tự
hào khi kết thúc q trình học tập bằng việc hồn thành khóa luận tốt nghiệp ngành
Sư phạm Lịch sử với đề tài nghiên cứu “Các nghi lễ nông nghiệp do triều Nguyễn
tổ chức (1802-1883)”.
Để hồn thành khóa luận này và đạt được kết quả như ngày hôm nay, em xin
gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến tồn thể Thầy/Cơ khoa Lịch sử đã tận tình
giảng dạy, truyền đạt cho em kiến thức và kinh nghiệm quý báu, để em trưởng
thành hơn và chuẩn bị hành trang bước vào đời.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Thầy Trương Anh Thuận –
người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ, quan tâm và động viên em rất nhiều
trong việc tiếp cận, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn thành kính và yêu thương đối với sự hỗ trợ,
giúp đỡ, động viên của gia đình, bạn bè trong suốt q trình hồn thành khóa luận
tốt nghiệp, cũng như trong suốt q trình học tập vừa qua.
Xin kính chúc quý Thầy/Cô sức khỏe và thành công trong sự nghiệp đào tạo
những thế hệ tri thức tiếp theo trong tương lai.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày 06 tháng 01 năm 2020
Sinh viên thực hiện
PHAN THẢO LY
3
1
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa, một đất nước với 54 dân tộc
anh em cùng chung sống đoàn kết, gắn bó và giúp đỡ nhau phát triển về mọi mặt
trong suốt hàng ngàn năm qua. Tất cả những điều đó tạo nên một bức tranh văn hóa
dân tộc vơ cùng đa dạng. Trong đó, nghi lễ nơng nghiệp là một trong những hiện
tượng đặc sắc.Nghi lễ nông nghiệp là một loại hình sinh hoạt văn hóa của người
Việt, có lịch sử lâu đời. Từ thưở lập nước, Việt Nam là một nước nông nghiệp, cây
lúa trở thành cây lương thực chính của người Việt từ bao đời, nghề nông đã trở
thành sinh kế nuôi sống biết bao thế hệngười Việt Nam. Vì vậy, nơng nghiệp đã trở
thành một phần quan trọng trong đời sống không chỉ về mặt vật chất mà cả về tinh
thần của mỗi người con đất Việt. Chính vì vậy, nghi lễnơng nghiệp cũng từ cái gốc
rễ kinh tế ấy mà hình thành và phát triển.
Trong thời kì quân chủ, bên cạnh hệ thống các nghi lễ nông nghiệp phổ biến
trong dân gian được nhân dân tổ chức, thì trong triều đình, với ý thức coi trọng
nơng nghiệp, hồng đế các triều đại qn chủ Việt Nam cũng tổ chức các nghi lễ
liên quan đến nơng nghiệp với mong muốn khuyến khích sản xuất, mong cầu cho
thời tiết khí hậu thuận lợi, mùa màng tốt tươi, bội thu. Trên cơ sở kế thừa truyền
thống tổ chức các nghi lễ nông nghiệp của các triều đại trước, đến giai đoạn triều
Nguyễn, các hoàng đế Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đã có những
quy định cụ thể và tiến hành thường xuyên các nghi lễ nơng nghiệp, trong đó các
nguồn sử liệu của triều Nguyễn đề cập tương đối nhiêu về lễ Tịch điền, lễ Nghênh
xuân - Tiến xuân và lễ Cầu đảo. Vậy trên thực tế, việc ban định điển lệ và quá trình
tổ chức các nghi lễ trên đã diễn ra như thế nào? Vấn đề này thực sự đã có sức hấp
dẫn lớn đối với tác giả.
1
Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thời kỳ mở cửa hội nhập toàn cầu đã và đang lan tỏa, thấm dần trên mọi miền của
Tổ quốc, từ miền xuôi lên miền ngược rồi những vùng xa xôi hẻo lánh. Sự đổi mới
ấy tạo cơ hội cho tồn thể xã hội có điều kiện phát triển kinh tế, mở rộng quy mô
sản xuất, điều này đã tác động không nhỏ tới lĩnh vực văn hóa, trong đó có các nghi
lễ nơng nghiệp. Trên thực tế, các nghi lễ nói chung và nghi lễ nơng nghiệp do triều
Nguyễn tổ chức nói riêng đang dần bị mai một đi nét văn hóa truyền thống cổ
xưa,thậm chí nó cịn bị lãng qn. Sự phai nhạt này làm mất đi một phần không
nhỏ bản sắc, giá trị văn hóa Việt Nam vốn được xây dựng lên từ cái gốc nơng
nghiệp. Vấn đề nghiên cứu giữ gìn bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống của
nghi lễ nông nghiệp cần được quan tâm hơn bao giờ hết.
Từ những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Các nghi lễ nông
nghiệp do triều Nguyễn tổ chức(1802-1883)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những năm gần đây, đã có một số tác giả quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu về
nghi lễ nông nghiệp, bước đầu chú trọng tới một số nghi lễ, tế tự do triều Nguyễn tổ
chức. Tuy nhiên, việc nhìn nhận về nghi lễ này trong mối quan hệ biện chứng với
sự phát triển của lịch sử, văn hóa dân tộc thì vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì
vậy, việc tìm hiểu rõ hơn về các nghi lễ nông nghiệp do triều Nguyễn tổ chức từ
góc nhìn lịch sử là rất cần thiết, nhằm tìm hiểu nội dung và giá trị lịch sử của từng
nghi lễ. Qua đó, có thể rút ra một số đặc điểm của các nghi lễ nông nghiệp để thiết
thực phục vụ trở lại cho việc nghiên cứu văn hóa triều Nguyễn.
Khi chọn nghiên cứu đề tài này, tác giả khơng thể khơng tìm hiểu các cơng
trình nghiên cứu về lễ hội, nghi lễ, đặc biệt là lệ hội, nghi lễ nông nghiệp liên quan
đến cuộc sống của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên. Tác phẩm
“Việt Nam phong tục”của tác giả Phan Kế Bính nói về phong tục, tập quán, lễ hội,
nghi lễcủa người Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong đó, tác giả
2
đã đề cập khá chi tiết đến các giá trị tín ngưỡng dân gian và đưa ra những nhận xét
về lễ hội truyền thống. Cuốn “Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc bộ” của tác
giả Lê Trung Vũ đã trình bày khá chi tiết về các vấn đề liên quan trực tiếp đến lễ
hội cổ truyền như vị trí, nguồn gốc, lịch sử lễ hội của người Việt ở Bắc bộ, trong đó
có đề cập đến các lễ hội nơng nghiệp. Trong cuốn “Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng” và “Những giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống”, tác giả Ngơ Đức
Thịnh, đã có những phác họa chung về tín ngưỡng dân gian của các dân tộc ở Việt
Nam. Cơng trình này đã phác họa một số loại hình tín ngưỡng tiêu biểu và mối
quan hệ giữa văn hóa tín ngưỡng với văn hóa nghệ thuật dân gian, đồng thời chỉ ra
những giá trị của tín ngưỡng đối với văn hóa Việt Nam hiện nay.
Đề cập đến các nghi lễ nông nghiệp cụ thể được triều Nguyễn tổ chức, có thể
kể đến một số cơng trình sau:
Năm 1996, tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh công bố công trình“Tết Ngun
Đán và Lễ Nghênh Xn” trong đó cơng phu khai thác nguồn tư liệu gốc và của
VIệt Nam và của người phương Tây, cộng vớicác thành quả nghiên cứu trong và
ngoài nước để làm rõ các triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam đã đoán Tết
Nguyên Đán và tiến hành lễ Nghênh xuân như thế nào. Đặc biệt tác giả đã dành
một phần viết khá sâu sắc cho nội dung lễ Nghênh xuân dưới triều Nguyễn, trong
đó dựa trên nguồn sử liệu gốc để khôi phục lại việc tiến hành nghi lễ Nghênh xuân
ở Trung ương và địa phương dưới triều Nguyễn.
Năm 2010, tác giả Nguyễn Thu Hường với cơng trình “Nghi thức lễ tịch điền
triều Nguyễn” đã dựa trên nguồn tư liệu châu bản để khôi phục lại một cách tổng
quan việc tiến hành lễ Tịch điền dưới triều Nguyễn.
Năm 2015, tác giả Ngô Minh Khôi trong bài viết “Tết trong cung đình Huế
xưa” đã đề cập đến rất nhiều hoạt động văn hóa trong cung Nguyễn trong dịp Tết,
trong đó cũng dành một phần nội dung nói về lễ Tịch điền và Nghênh xuân - Tiến
xuân.
3
Năm 2019, tác giả Phan Khoan đăng tải trên website Tri thức Việt Nam bài
viết “Lễ Tiến Xuân - Nghênh Xuân dưới triều Nguyễn”, trên cơ sở khai thác nguồn
tư kiệu gốc trong Đại Nam thực lực đã làm rõ quá trình tổ chức lễ Nghênh xuân
- Tiến xuân ở trung ương và địa phương dưới triều Nguyễn.
Cùng năm, tác giả Bùi Thị Mai đã cho ra đời cơng trình “Lễ Tịch điền xưa
qua tài liệu Mộc bản triều Nguyễn”, tập trung làm rõ việc định lại điển lệ và thực
hiện nghi lễ Tịch điền dưới hai thời vua Minh Mệnh và Tự Đức.
Cũng trong năm 2019, tác giả Kim Chiến công bố bài viết “Lễ hội Tịch điền
và tư tưởng trọng nơng”, phân tích nguồn gốc của lễ Tịch điền ở nước ta, cũng
như ý nghĩa của nó đối với nền nơng nghiệp và văn hóa truyền thống dân tộc.
Như vậy, từ việc nghiên cứu các cơng trình trên đây, có thể thấy rằng,
trong ba nghi lễ nơng nghiệp do triều đình Nguyễn tiến hành, thì lễ Tịch điền và
lễ Nghênh xuân - Tiến xuân đã ít nhiều thu hút được sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu. Mặc dù các cơng trình này, tính khoa học khơng đồng đều nhau,
nhưng ở một mức độ nhất định đã cung cấp một cơ sở tư liệu để tác giả tiến
hành nghiên cứu sâu hơn về các nghi lễ nông nghiệp do triều Nguyễn tổ chức
trong giai đoạn 1802-1883.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm giúp tác giả tìm hiểu 3 nghi lễ nơng nghiệp
Tịch điền, Nghênh xuân - Tiến xuân và Cầu đảo do triềuNguyễn tổ chức cũng như
ý nghĩa của các nghi lễ đó đối với đời sống sinh hoạt của người Việt dưới triều
Nguyễn, đồng bảo tồn và phát huy giá trị của các nghi lễ nông nghiệp này trong
hiện tại và tương lai.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các nghi lễ nông nghiệp do triều
Nguyễn tổ chức, gồm lễ Tịch điền, Nghênh xuân - Tiến xuân và Cầu đảo.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian:Đề tài nghiên cứu các nghi lễ nông nghiệp do triều Nguyễn
tổ chức trong giai đoạn 1802-1883.
Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu các nghi lễ nông nghiệp do triều
Nguyễn tổ chức ở kinh thành và các địa phương trong nước.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tƣ liệu
Nghiên cứu đề tài “Các nghi lễ nông nghiệp do triều Nguyễn tổ chức (1802 –
1883)”, tác giả chủ yếu sử dụng các nguồn tư liệu sau:
Thứ nhất là nguồn tư liệu gốc. Để tiến hành nghiên cứu các nghi lễ nông
nghiệp do triều Nguyễn tổ chức(1802 – 1883), tác giả sử dụng nguồn thư tịch do cơ
quan viết sử của các nhà nước quân chủ Việt Nam, trong đó có vương triều Nguyễn
hoặc sử gia tư nhân ở các giai đoạn lịch sử khác nhau biên soạn như Đại Việt sử kí
tồn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thực lục,Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ…
Thứ hailà thành quả học thuật của giới nghiên cứu.Trong quá trình nghiên
cứu đề tài, những nội dung liên quan đến các nghi lễ nơng nghiệp do triều Nguyễn
tổ chức(1802-1883) ít nhiều được đề cập trong một số tác phẩm, bài báo, luận văn
đã có tác dụng gợi mở và đặt cơ sở để tác giả theo đuổi việc nghiên cứu vấn đề này.
Thứ ba là nguồn tư liệu trên mạng internet.Trong đề tài này, ngoài nguồn tư
liệu gốc và các ấn phẩm học thuật của các nhà nghiên cứu, tác giả còn sử dụng hệ
thống tư liệu mạng internet gồm một số bài viết về lễ Tịch điền, lễ Nghênh xuân Tiến xuân...
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng như các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để tiến hành nghiên cứu đề
5
tài này, tác giả sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ đạo của khoa học lịch sử
là phương pháp lịch sử và phương pháp lơgic. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng một số
phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh...
6. Đóng góp của đề tài
Khóa luận được nghiên cứu hồn thành sẽ có ý nghĩa sâu sắc trên phương diện
khoa học và thực tiễn với các đóng góp cụ thể và thiết thực sau đây:
Thứ nhất,tập hợp sử liệu có giá trị để nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ về
ba nghi lễ nông nghiệp là Tịch điền, Nghênh xuân - Tiến xuân và Cầu đảo được
triều Nguyễn tổ chức trong giai đoạn 1802 - 1883.
Thứ hai, việc hoàn thành nghiên cứu đề tài sẽ cơ bản sẽ cung cấp một tài liệu
khoa học phục vụ cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử triều
Nguyễn.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,nội dung khóa luận được chia
làm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình Việt Nam dƣới triều Nguyễn (1802-1883)
và các nghi lễ nông nghiệp
Chương 2: Triều Nguyễn với việc tổ chức các nghi lễ nông nghiệp (18021883)
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VIỆT NAM DƢỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1883)
VÀ CÁC NGHI LỄ NƠNG NGHIỆP
1.1. Tổng quan tình hình Việt Nam dƣới triều Nguyễn ( 1802-1883)
1.1.1. Tình hình chính trị
Sau giai đoạn đất nước rơi vào thời kỳ loạn lạc, chia cắt trong suốt hơn một
thế kỷ dưới thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, đến cuối thế kỷ XVIII, quân Tây
Sơn dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ đã đánh đổ cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh,
chấm dứt thời kỳ đất nước rơi vào nội chiến, chia cắt kéo dài suốt 150 năm giữa 2
tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Quét sạch được thù trong giặc ngoài, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là
Quang Trung bắt tay vào xây dựng đất nước, củng cố triều đại Tây Sơn. Tuy nhiên,
trong những năm 1787 - 1788, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai anh em Nguyễn Nhạc
và Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh đem quân từ Xiêm trở về, đánh bại Nguyễn Lữ, làm
chủ vùng Gia Định. Đến năm 1792, Quang Trung đột ngột qua đời, nội bộ triều
Tây Sơn bắt đầu lục đục và suy yếu dần. Đầu tháng 7 năm 1802, sau hơn 10 năm
chinh chiến, Nguyễn Ánh chiếm được toàn bộ đất nhà Tây Sơn, bắt được Nguyễn
Quang Toản, thống nhất đất nước.
Năm 1802, sau khi đánh bại được triều Tây Sơn, làm chủ đất nước, Nguyễn Ánh
đặt niên hiệu là Gia Long, mở đầu cho triều đại nhà Nguyễn. Vua Gia Long bắt đầu tổ
chức lại bộ máy nhà nước, ban hành các chính sách, củng cố quân đội nhằm ổn định
xã hội, ổn định quyền thống trị của giai cấp phong kiến và đối phó từ những tác động
từ bên ngoài.
7
Chính quyền trung ương được tổ chức như các triều đại trước. Đứng đầu là
vua, nắm mọi quyền hành. Để tập trung hơn nữa quyền lực vào tay mình, các vua
Nguyễn đặt ra lệ “tứ bất” (khơng đặt hồng hậu, không đặt tể tướng, không lấy
trạng nguyên, không phong vương cho người ngồi họ). Nhà Nguyễn tiếp tục tái
độc tơn Nho giáo nhằm củng cố và bảo vệ địa vị, quyền lợi của triều đại phong kiến
thống trị. Thực chất của đường lối, chủ trương chính trị triều Nguyễn là loại bỏ các
âm mưu bạo loạn và trừng trị các cuộc khởi nghĩa chống phá triều đình của nhân
dân và các thế lực cát cứ, phản loạn khác. Đường lối chính trị của triều Nguyễn có
nguồn gốc bắt nguồn từ các học thuyết Nho giáo. Với mong muốn duy trì lâu dài sự
tồn tại của nền quân chủ chuyên chế, nhà Nguyễn tìm mọi cách thực thi đường lối
đức trị, vận dụng các nguyên tắc đạo đức tam cương, ngũ thường, ngun tắc chính
danh, tơn qn quyền,...
Thời Gia Long, nước ta chia làm 3 vùng: Bắc Thành (từ Ninh Bình trở ra
Bắc), Gia Định Thành (từ Bình Thuận trở vào Nam) và các Trực Doanh (Trung Bộ)
do triều đình trực tiếp cai quản. Chính quyền Trung ương quản lý trực tiếp từ
Thanh Hóa đến Bình Thuận. Cịn lại hai khu tự trị Tổng trấn tồn quyền. Đó là giải
pháp tình thế của vua Gia Long trong bối cảnh thời gian đầu lên ngôi. Trong năm
1831 - 1832, vua Minh Mệnh thực hiện cuộc cải cách hành chính, chia cả nước
thành 30 tỉnh và một Phủ Thừa Thiên. Đứng đầu là Tổng đốc, Tuần phủ hoạt động
theo sự điều hành của triều đình. Sự phân chia hành chính này của Minh Mệnhđược
xem là dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp về mặt địa lý, dân cư, phong tục tập quán
địa phương phù hợp với phạm vi quản lý của một tỉnh; đồng thời là cơ sở để phân
chia các tỉnh như ngày nay. Vì vậy, cải cách hành chính của Minh Mệnhđược các
nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.
Triều Nguyễn xác định rất rõ đường lối trị nước kết hợp giữa giáo hóa và hình
pháp, tuy nhiên hình pháp chỉ là giải pháp nhất thời, trong một giai đoạn và bối cảnh
lịch sử nhất định, cịn giáo hóa được coi là phương tiện tư tưởng căn bản để thu phục
8
nhân tâm, cai trị đất nước.Với mục đích tập trung tất cả quyền lực vào tay, các vua
Nguyễn đã dần dần xây dựng một hệ thống chính quyền phục vụ cho quyền lợi tập
đồn phong kiến của mình. Trên tinh thần trị nước kết hợp Nho và Pháp, triều Nguyễn
đã tổ chức triều đình gồm 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Cơng) chịu trách nhiệm chỉ
đạo cơng việc chung của Nhà nước và Ngũ quân đô thống phủ phụ trách. Ngồi ra có
Đơ sát viện (Ngự sử đài cũ) phụ trách thanh tra quan lại; Hàn lâm Viện phụ trách sắc
dụ, công văn; Tôn nhân phủ là cơ quan quản lý cơng việc của Hồng tộc, Quốc tử
giám phụ trách giáo dục, Nội vụ phủ phụ trách kho tàng,... Giúp vua cịn có văn thư
phịng, đến thời Minh Mệnhđặt thêm Nội các, chuyên lo việc công văn giấy tờ và đi
theo vua. Sang đời Minh Mạng, tính chất chuyên chế chính trị phát triển cao độ song
song với việc hạn chế quyền hành của các cấp địa phương. Vua Minh Mệnhcũng đặt
thêm Viện cơ mật gồm 4 viên đại thần chuyên bàn với vua các việc “quân quốc trọng
sự”. Những quy định để quan dân cùng thực hiện (về quan chế, hành chính, phép trị
an,...).
Có thể thấy rằng bộ máy nhà nước phong kiến được nhà Nguyễn tổ chức theo
thiết chế quân chủ chuyên chế, tập trung mọi quyền hành vào tay nhà vua. Đây là
sự tiếp tục thiết chế quân chủ thời Lê, nhưng được nâng lên mức tập trung cao hơn.
Đường lối vương đạo Nho gia mà các vua triều Nguyễn sử dụng làm tư tưởng trị
nước vừa là phương tiện giáo hóa dân chúng, vừa là mục đích xây dựng thái hịa
trên cơ sở đạo đức, phân biệt với đường lôi bá đạo lấy sức mạnh, pháp luật để cai
trị, chinh phục như Gia Long đã từng nói “Đạo trị dân, giáo hóa vẫn nên làm
trước” [14,tr.518].
Với tu tưởng nhận thức đánh giá Nho giáo như một công cụ thống trị về tư
tưởng trong nhân dân điều này gây ra một hệ quả tiêu cực đó là làm cho giai cấp
thống trị ngày càng chuyên quyền. Cũng như ở thế kỷ XVIII, quan lại thời Nguyễn
luôn tìm cách hạch sách nhân dân, chiếm đoạt tiền của. Nạn quan lại tham nhũng là
một trong những nguyên nhân chính của phong trào nơng dân rầm rộ. Trước tình
9
trạng xã tắc đầy rẫy những rối ren như vậy, năm 1815 nhà Nguyễn ban hành bộ luật
“Hoàng triều luật lệ”. Bộ luật hầu như sao chép lại bộ luật nhà Thanh đương thời,
gồm tất cả 398 điều chia thành 7 chương và 30 điều “tạp tụng”. Đây là một bộ luật
hà khắc, phản ánh rõ nét tư tưởng chuyên chế của giai cấp phong kiến thống trị trên
bước đường suy vong. Mọi tội phạm liên quan đến việc chống đối triều đình đều bị
trừng trị tàn bạo.
Trong quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, sau khi đánh bại được triều
Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã sai người sang hỏi Tổng đốc Lưỡng Quảng về cách bang
giao. Tiếp đó vua cử sứ đoàn Lê Quang Định dẫn đầu sang nhà Thanh xin cầu
phong quốc ấn và niên hiệu. Từ đó cứ 4 năm một lần, triều Nguyễn cử sứ bộ sang
nộp 2 lần lễ cống. Thái độ của nhà Nguyễn trong quan hệ với nhà Thanh là thần
phục một cách mù quáng. Trong lúc đó nhà Nguyễn lại dùng lực lượng quân sự
khống chế Cao Miên, đặt thành Trấn Tây, bắt Lào thần phục. Quan hệ với Xiêm
cũng thất thường, lúc thân thiện, hịa hỗn, lúc tranh chấp.
Chính sách hạn chế giao thương trong thời kỳ đầu của triều Nguyễn là một
phần nhỏ trong tồn bộ chính sách “trọng nơng ức thương”. Rõ ràng về mặt thực tế
chính sách này đã kìm hãm nền cơng thương nghiệp của nhà Nguyễn và hệ quả là
Việt Nam trở thành một nước phong kiến cơ lập, khép kín về thương mại, ngoại
giao và trở nên lạc hậu. Về đối nội, điều này đã làm cho đất nước thâm hụt nguồn
lợi nhuận thông qua việc trao đổi, mua bán hàng hóa với các nước láng giềng,
nguồn thu nhập của nhà nước và của những tư nhân sản xuất đều sút giảm, mâu
thuẫn giữa triều đình và nhân dân ngày càng tăng cao, gây ra sự chia rẽ dân tộc. Từ
đây cũng đặt ra những vấn đề của nhà Nguyễn với quan hệ các nước phương Tây.
Từ thế kỷ XVIII, chủ nghĩa thực dân phương Tây ngày càng phát triển, các nước
Anh, Pháp, Hà Lan đua nhau, tranh chấp nhau xâm chiếm các nước nhỏ yêu ở châu
Phi, châu Á làm thuộc địa. Trước tình hình chung của các nước châu Á, thái độ của
nhà Nguyễn đối với Pháp ln đề phịng và có sự dè chừng. Trước khi nhắm mắt
10
Gia Long đã từng căn dặn Minh Mệnh“việc khủng bố tín ngưỡng bao giờ cũng tạo
cơ hội cho những cuộc biến động và gây thù oán trong dân gian lại thường khi làm
sụp đổ ngơi vua” [4,tr.233]. “Đóng cửa” cự tuyệt với các nước phương Tây trở
thành quốc sách của triều Nguyễn. Điều này càng thúc đẩy Pháp xâm lược nước ta,
làm đất nước ngày càng lún sâu vào tình trạng trì trệ, lạc hậu đến nỗi suy kiệt khả
năng tự vệ.
Chính sách đối ngoại bảo thủ, khép kín được các vua Nguyễn duy trì thực hiện
trong đường lối trị nước. Một phần xuất phát từ quan niệm cho rằng việc giao thiệp
với các nước phương Tây ở bên ngoài có thể làm nhân dân suy đồi về đạo đức,
nhận thức, đi ngược với mục đích chính trị của Nho giáo và có thể dẫn tới phản
loạn bất cứ lúc nào nên triều đình Nguyễn hạn chế việc thiết lập quan hệ thương
mại chính thức với bất cứ một quốc gia nào. Phần còn lại xuất phát từ tư tưởng của
đất nước chuyên chế phong kiến tập quyền, nơi mà giai cấp thống trị mà đứng đầu
là vua luôn muốn duy trì quyền lực của mình mà khơng muốn có sự tác động nào từ
bên ngoài vào, tư tưởng lạc hậu, khơng muốn tiếp nhận cái mới. Tư tưởng phịng
thủ thụ động, tiêu cực đối với sự xâm nhập của văn hóa, văn minh phương Tây
nhằm phịng tránh nguy cơ xâm lược, chính quyền bị lật đổ, lo sợ mất quyền lợi của
dòng tộc đã cho thấy được sự bất cập và yếu kém của giai cấp thống trị triều
Nguyễn trong chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước. Như vậy có thể thấy rằng
“Vì lợi ích của bản thân, triều Nguyễn đã thi hành chính sách nhằm một mặt thì đè
bẹp sự phản kháng của các thế lực tàn dư của các vương triều Tây Sơn và Lê Trịnh, đàn áp các cuộc nổi dậy khác, một mặt thì ổn định xã hội và bảo vệ chủ
quyền trên tồn bộ lãnh thổ” [3, tr.28]. Điều đó khiến nước ta suy yếu, khơng đủ
sức đương đầu với những khó khăn, thách thức mới của thời đại.
1.1.1. Tình hình chính trị
Bức tranh kinh tế - xã hội dưới triều Nguyễn mang rất nhiều những sắc thái
khác nhau. Nhắc đến kinh tế triều Nguyễn, bên cạnh màu sắc ảm đạm của một nền
11
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, hạn chế thương nghiệp và kìm kẹp thủ cơng
nghiệp, ruộng đất phần lớn tập trung trong tay địa chủ thì dưới triều Nguyễn kinh tế
cũng có những bước tiến nhất định trong nông nghiệp, thương nghiệp và sự tinh
xảo trong thủ công nghiệp, mở mang khai hoang nhiều vùng đất, xúc tiến nội
thương trên cơ sở thống nhất đất nước. Trước tình hình kinh tế có những biến đổi
nhất định, tình hình xã hội dưới triều Nguyễn cũng khá phức tạp, vẫn với sự mâu
thuẫn chính yếu giữa địa chủ phong kiến (giai cấp thống trị) và nông dân (giai cấp
bị trị), trong thời gian này dưới những tác động của những yếu tố khác nhau về lịch
sử, tự nhiên, các tác nhân chủ quan đã đẩy những mâu thuẫn xã hội dần lên đến
đỉnh cao đến mức khó có thể dung hòa được, thổi bùng lên một loạt các cuộc khởi
nghĩa nông dân.
Về kinh tế, nền kinh tế triều Nguyễn được thể hiện rõ nét thông qua các ngành
nông nghiệp, thủ cơng nghiệp và thương nghiệp, tình hình kinh tế trong từng lĩnh
vực có những chuyển biến riêng đặc thù xuyên suốt thời gian tồn tại của triều
Nguyễn.
Thứ nhất là trong nơng nghiệp. Bước sang đầu thế kỉ XIX, tình hình ruộng đất
đặt ra cho triều Nguyễn những bất cập cần có phương án giải quyết thích hợp. Những
khó khăn đó xuất phát từ diện tích ruộng đất cơng cịn rất ít. Theo thống kê của bộ Hộ
năm 1840, tổng diện tích đất thực canh là 6.063.893 mẫu, trong đó tổng diện tích
ruộng là 3.396.584 mẫu cơng tư, trong số này có 2.816.221 mẫu ruộng tư và 580.363
mẫu ruộng cơng (tức 17%) [23, tr.443]. Qua những con số biết nói này, tình hình
ruộng đất đã được phản ánh một cách rõ nét, đó là sự tập trung phần lớn ruộng đất vào
tay địa chủ, sự suy sụp của chế độ chiếm hữu ruộng đất công và sự phát triển mạnh mẽ
của chế độ tư hữu về ruộng đất, nông dân phiêu tán, trơng chờ mịn mỏi vào số ruộng
cơng ít ỏi. Tình hình này thể hiện qua lời nhận xét của Phan Huy Chú: “Nước ta duy
có trấn Sơn Nam Hạ là rất nhiều ruộng đất và bãi công, phép quân cấp chỉ nên làm ở
chỗ ấy là phải, còn các xứ khác thì hạng ruộng cơng khơng có mấy, dù xứ nào đi nữa
12
thì cũng chỉ đủ cung cấp binh lương và ngụ lộc không thể san chia cho các hạng” [4,
tr.70].
Để giải quyết tình trạng này, năm 1804, Gia Long ban hành phép quân điền,
theo đó tất cả mọi người đều được chia ruộng đất công ở xã, trừ các quý tộc vương
tôn được cấp 18 phần, quan lại nhất phầm được cấp 15 phần, cứ tuần tự hạ mức cho
đến dân nghèo được 3 phần. Chính sách quân điền vẫn tiếp tục được tiến hành đến
cuối thời Minh Mạng, không những ở miền Bắc mà miền Nam cũng được áp dụng
tuy nhiên chính sách qn điền nhìn chung là khơng có tác dụng đáng kể.
Không những vậy, dưới tác động của thiên tai như lũ lụt hạn hán đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Năm 1803, trận lụt lớn
làm vỡ đê ở Bắc Thành, liên tiếp sau đó từ 1802 - 1858 cả nước đã phải gánh chịu
38 lần mưa bão, lụt lội lớn kéo theo đó là mất mùa, đói kém, 16 lần vỡ đê
[23,tr.446].
Chính những tác động trên đã khiến cho hàng loạt nông dân phiêu tán, hàng
trăm ngàn mẫu ruộng đất bị bỏ hoang, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông
nghiệp và làm thất thu ngân quỹ nhà nước. Những khó khăn phẫn uất trước cuộc
sống khó khăn, khơng có kế sinh nhai là cội nguồn phát sinh các cuộc khởi nghĩa
nông dân, tăng thêm mâu thuẫn xã hội. Nền kinh tế nông nghiệp bị khủng hoảng
nghiêm trọng.
Tuy nhiên, triều Nguyễn cũng đã có những nỗ lực và giải pháp để giải quyết
những khó khăn trong nơng nghiệp. Triều Nguyễn rất quan tâm đến nơng nghiệp,
chú trọng mở rộng diện tích đất canh tác, quan tâm đến hệ thống thủy lợi, đê điều
được xây dựng và củng cố.Vì vậy, so với những triều đại phong kiến trước đó,
nơng nghiệp cũng có những bước tiến nhất định. Để mở mang diện tích đất canh
tác, triều Nguyễn đã khuyến khích khai hoang bằng hình thức doanh điền, bên cạnh
đó là khai hoang bằng hình thức đồn điền và khai hoang tự do. Hình thức doanh
điền là một việc làm đúng đắn của triều Nguyễn trong việc giải quyết vấn đề ruộng
13
đất, ở đây sẽ có sự kết hợp giữa nhà nước và nhân dân, nhà nước sẽ hỗ trợ các
phương tiện cộng với sức dân để khai hoang. Và nhân vật có cơng lớn trong việc đề
xướng “vỡ ruộng khai hoang cho dân nghèo” năm 1828 đó là Nguyễn Cơng Trứ
(Doanh điền sứ), và một nhân vật cũng có cơng lớn trong việc tổ chức doanh điền ở
miền Nam đó chính là Nguyễn Tri Phương. Bằng hình thức doanh điền, một diện
tích ruộng đất lớn đã được khai hoang, thành lập nên những làng, xã, và huyện mới,
tiêu biểu là huyện Kim Sơn và huyện Tiền Hải. Đến năm 1847, tổng diện tích
ruộng đất thực canh.Hình thức đồn điền cũng được đẩy mạnh, nhất là ở Nam kì,
nhiều đồn điền sau khi khai phá xong thì được chuyển thành ruộng đất làng xã do
xã quản và nộp thuế.
Bên cạnh việc đẩy mạnh khai hoang, nhà Nguyễn cũng rất quan tâm đến việc
củng cố hệ thống thủy lợi bao gồm việc đào sông, nạo vét kênh mương, củng cố và
xây dựng đê điều. Đã có 60 lần các vua triều Nguyễn ban chỉ dụ về việc đào sơng,
nạo vét sơng ngịi, kênh rạch ở 15 tỉnh trong cả nước. Năm 1809, Gia Long cho đặt
các chức Tổng lí và Tham lí đê chính lo việc đê điều ở Bắc Thành, hơn 47 km đê
được tu sửa, đến năm 1828, vua Minh Mệnhcho bỏ Nha đê sứ, giao việc cho tỉnh
với bản Điều lệ chống lụt 4 điểm. Nhà nước cũng chia thành hai loại đê đó là đê
cơng ở các sơng lớn do nhà nước kiểm soát và đê tư ở các sơng nhánh do địa
phương quản lí cùng với sự hình thành của các chức vụ phụ trách thủy lợi giống
nhau.Năm 1809, hệ thống đê điều ở Bắc Thành tổng cộng là 239.933 trượng tương
đương 960 km. Sau 21 năm dưới thời nhà Nguyễn, chiều dài các con đê ở Bắc Kỳ
đã tăng lên 303.616 trượng, tương đương 1.215 km. Tới cuối thế kỷ XIX, hệ thống
đê này đã dài tới 2.400 km [2, tr.122].
Bên cạnh sự chỉ đạo của nhà nước, người nơng dân Việt Nam cũng đã tích
cực, tận dụng những kinh nghiệm trong việc sản xuất nông nghiệp, sử dụng nhiều
giống cây mới đáp ứng nhu cầu lương thực cho cuộc sống.
14
Tuy nhiên, sau khi bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị, tình hình nơng
nghiệp dần sa sút, nhà nước dần khơng cịn duy trì vai trị của mình trong việc tổ
chức nhân dân đánh giặc cũng như ít nhiều bỏ qua những đề nghị canh tân về kinh
tế và dưới tác động của thiên nhiên, sự ảnh hưởng của cuộc tấn công xâm lược,
kinh tế nông nghiệp nước ta ngày càng lạc hậu và khủng hoảng.
Như vậy nhìn chung, nông nghiệp nước ta dưới triều Nguyễn bên cạnh những
bất cập nội tại của một nền nông nghiệp lạc hậu theo phương thức sản xuất phong
kiến thì cũng có những bước tiến và phát triển nhất định nhất là trong việc khai
hoang và củng cố thủy lợi nhằm đối phó với những đợt thiên tai dữ dội.
Thứ hai là về thủ công nghiệp và công nghiệp. Đối với thủ cơng nghiệp thì các
vua Nguyễn tổ chức các quan xưởng. Đây chính là các xưởng sản xuất thủ cơng do
nhà nước trưng tập những thợ giỏi trên khắp cả nước về kinh đô để sản xuất ra các
vật phẩm đáp ứng nhu cầu của triều đình phong kiến như mọi thứ cần dùng cho bộ
máy vua quan, đóng thuyền, đúc tiền, đúc súng… Thợ làm việc trong các công
xưởng phải là những người thợ giỏi ở các tỉnh, được tổ chức theo chế độ công
tượng, hưởng lương theo công việc nặng, nhẹ gồm gạo và tiền. Chính việc bắt ép
thợ thủ công vào làm việc ở các công xưởng đã tạo nên sự kìm kẹp và từ đó là kìm
hãm sự sáng tạo trong tay nghề của họ.
Dưới triều Nguyễn, nhà nước đã trưng tập và phiên chế thợ thủ công theo từng
nghề gọi là tượng cục và nhiều tượng cục gần gũi nhau về chuyên môn được tập
trung lại trong các ty, cục để quản lí, điều phối đến các xưởng, các cơng trường sản
xuất. Tượng cục có hai chức trách chính là sản xuất các vật dụng thuộc nghề tại các
công sở và thỉnh thoảng được điều động đến các tỉnh với tư cách là cố vấn. Còn đối
với các tổ chức ty thì có Ty chế tạo là cơ quan quản lí thủ cơng các loại, gồm 57
tượng cục với quy mô lớn và được chia làm 3 nhóm (nhóm thợ gắn liền với nguồn
nguyên liệu kim khí, nhóm thợ gắn với các cơng trình xây dựng, nhóm thợ trực tiếp
phục vụ cung đình), Ty Tiết thận (trang phục của vua và cung đình), Ty Doanh
15
thiện (quản lí thợ mộc, thợ đóng thuyền, tính giá nhân công, nguyên vật liệu), Ty tu
tạo (chuyên việc sửa chữa,tu sửa các cơng trình), Ty Thương bác hỏa dược (chuyên
về súng, thuốc súng), Ty thuyền (đóng các loại thuyền chiến, thuyền công)… Năm
1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền “Bắc Thành tiền cục” ở Thăng Long. Có
thể thấy rằng tổ chức quan xưởng của nhà Nguyễn như thế là chặt chẽ và hoàn
thiện, rất đa dạng và phong phú, và phân loại các quan xưởng theo chủng loại sản
phẩm.
Thủ cơng nghiệp dưới triều Nguyễn có những chuyển biến mới thông qua việc
tiếp xúc với kĩ thuật phương Tây. Năm 1834, Nguyễn Viết Túy đã chế tạo thành
công xe “Thủy hỏa kí tế” dùng sức nước nghiền thuốc súng, thợ thủ công đã làm
được máy cưa văn gỗ, máy xẻ gỗ bằng sức nước, máy hút nước tưới ruộng trong
những năm 1837-1838, Hoàng Văn Lịch, Vũ Huy Trinh cùng thợ cơng xưởng đóng
xong chiếc thuyền máy chạy bằng hơi nước.
Ngồi thủ cơng nghiệp nhà nước, thủ cơng nghiệp ở nông thôn và thành thị
tiếp tục phát triển, số người làm nghề thủ công tăng lên. Các nghề làm đồ gốm,
sành sứ, dệt vải, lụa, làm đồ vàng bạc, làm đường cũng phát triển ở khắp nơi như
làng Bát Tràng, làng Yên Thái, làng Đồng Kị, làng Bình Đà…. Tuy nhiên, chính
sách của nhà nước cũng thiếu tính chất khuyến khích, nhà nước giữ độc quyền mua
một số sản phẩm như sa, lượt, lụa, người thợ thủ công vừa phải đóng thuế thân vừa
phải nộp thuế sản phẩm.
Như vậy, thủ công nghiệp dưới triều Nguyễn cũng bao gồm thủ công nghiệp
nhà nước và thủ công nghiệp dân gian. Tuy thủ công nghiệp nhà nước được tổ chức
chặt chẽ, phong phú nhưng lại dựa trên sự cưỡng bức, bắt ép các thợ thủ cơng, song
song với đó thủ cơng nghiệp dân gian tiếp tục phát triển với nhiều ngành nghề nổi
tiếng.
Dưới triều Nguyễn, cơng nghiệp manh nha được hình thành, đặc biệt là ngành
đóng tàu và khai mỏ. Các xưởng đóng tàu phát triển với quy mô lớn, sản xuất các
16
loại tàu chiến, tàu hơi nước, nếu so với các triều đại phong kiến trước đó thì đó là
những bước tiến lớn. Một bộ phận quan trọng do nhà nước quản lí là khai mỏ. Trải
qua nửa thế kỉ đầu, nhà nước Nguyễn đã quản lí 139 mỏ, trong đó có 39 mỏ vàng,
32 mỏ sắt, 15 mỏ bạc, 9 mỏ đồng… [23, tr.448]. Việc khai thác mỏ được phân
thành 4 lực lượng, việc khai thác mỏ được tổ chức theo cơng đoạn, mang tính chất
tư bản chủ nghĩa. Như vậy, dưới triều Nguyễn, công nghiệp theo đường hướng chủ
nghĩa tư bản đã manh nha hình thành từ trong lịng của xã hội phong kiến thời
Nguyễn.
Thứ ba là về thương nghiệp. Thương nghiệp dưới triều Nguyễn bao gồm
những hoạt động ngoại thương và nội thương. Nhìn chung, thương nghiệp triều
Nguyễn có chiều hướng giảm sút, sự lưu thơng hàng hóa, tiền tệ và thơng thương
với bên ngồi có sự hạn chế và bị thu hẹp.
Đối với nội thương, trong hoàn cảnh đất nước thống nhất, yên bình đã tạo điều
kiện thuận lợi cho nội thương phát triển. Theo đó cùng với hệ thống giao thông được
củng cố, việc buôn bán vượt qua ranh giới của làng xã, mở rộng buôn bán đến chợ
huyện, chợ tỉnh. Buôn bán bằng nhiều phương tiện, nhất là buôn bán bằng thuyền,
các mặt hàng buôn bán cũng rất phong phú, đa dạng. Tiền trong thời kỳ này được
đúc bằng đồng, kẽm, chì, vàng, bạc dưới hình dạng là đồng xu hay nén. Tuy nhiên,
chính sách ức thương của nhà nước đã hạn chế sự phát triển của thương nghiệp. Nhà
nước đặt lệ trưng dụng thuyền buôn tư nhân, theo quy định năm 1807: “Phàm thuyền
vận tải, cứ một năm chở của cơng thì một năm đi buôn” [23, tr.450]. Năm 1816, quy
định lại: “thuyền đi bn thì phải chịu thuế” [23, tr.450], chở cho nhà nước thì được
miễn. Đến năm 1834, để hạn chế phong trào nông dân, triều Nguyễn đã ra lệnh cấm
nhân dân họp chợ. Bên cạnh đó do xuất phát từ nguồn gốc là một nước nông nghiệp
nên nội thương nước ta rất nhỏ lẻ, tổ chức thương mại sơ sài và chủ yếu là trong
phạm vi gia đình, họ bn bán lẻ hàng hóa của người Hoa để kiếm lời. Các tổ chức
17
buôn bán lớn ở nước ta chủ yếu là người Hoa Kiều và có khi độc quyền cung cấp các
mặt hàng khác cho triều đình.
Đối với ngoại thương, triều Nguyễn do tiếp xúc với các nước Phương Tây từ
rất sớm nên phần nào đó hiểu được sự nguy hiểm của chủ nghĩa thực dân phương
Tây. Do đó, triều Nguyễn đã chủ trương hạn chế giao thương khiến cho ngoại
thương có chiều hướng giảm sút và suy giảm. Đối với các nước phương Tây, triều
Nguyễn có một thái độ rất cẩn trọng, tàu thuyền Anh, Mỹ mấy lần đến xin thông
thương nhưng đều bị khước từ, đến thời Minh Mạng, việc buôn bán với Pháp cũng
chấm dứt. Nước ta dưới thời nhà Nguyễn tiến hành buôn bán với các nước trong
khu vực như Xiêm, Mã Lai và đặc biệt là với Trung Quốc thông qua cửa biển Đà
Nẵng. Nhà Nguyễn nắm độc quyền ngoại thương, tổ chức các chuyến buôn và cơng
cán nước ngồi như ở Quảng Đơng, Lữ Tống, Hạ Châu…
Có thể thấy rằng dưới thời Nguyễn, “trọng nơng ức thương” vẫn là chủ trương
chủ đạo của triều Nguyễn, vì vậy trong một chừng mực nào đó nó đã cản trở sự tự
do của một nền thương mại trong một bối cảnh giao lưu với thế giới bên ngoài.
Mặc dù có nhiều điều kiện thuận lợi và cũng tiến hành buôn bán với các nước trong
khu vực nhưng sự hạn chế trong giao thương với phương Tây cũng như hạn chế và
quản lí thương mại đã kéo đất nước bước lùi trong tiến trình phát triển, và tệ hại
hơn nữa là nguyên nhân, là cái cớ cho sự xâm lược của Pháp.
Tình hình kinh tế đã có những tác động rất lớn đối với tình hình xã hội. Những
tác động từ kinh tế cùng với hàng loạt các yếu tố khác đã làm cho tình hình xã hội
nước ta dưới thời Nguyễn không đạt được sự ổn định. Nhà Nguyễn được hình
thành trên sự sụp đổ cùa nhà Tây Sơn mà nịng cốt là phong trào nơng dân, và hình
thành sau một quá trình chia cắt đất nước lâu dài, đó chính là ngun nhân làm nảy
sinh nhiều mâu thuẫn.
Cũng giống như các triều đại phong kiến trước đó, trong xã hội cũng có hai giai
cấp đó là giai cấp thống trị (vua, quan, giai cấp địa chủ) và giai cấp bị trị (tồn bộ nơng
18
dân, thợ thủ công, thương nhân, một số dân nghèo thành thị, lớp người bị lưu đày, nơ
tì). Đời sống của nhân dân dưới sự áp bức của giai cấp địa chủ phong kiến, vừa phải
chịu những hậu quả của thiên tai, cộng với chế độ binh dịch, thuế khóa và cơng tượng
của nhà nước rất nặng nề. Theo đó, người dân phải nộp thuế ruộng và cả thuế nhân
đinh, nhưng nhà nước cũng giảm thuế khi gặp mất mùa, mỗi năm một dân đinh phải
chịu 60 ngày lao dịch và công việc khá nặng. Triều Nguyễn cũng thi hành nhiều chính
sách để cứu đói cho nhân dân như tổ chức khai hoang, lập đồn điền… Thông qua công
cuộc khai hoang nhiều người đã có một cuộc sống mới sung túc hơn, có ruộng đất để
cày cấy, nhưng vẫn cịn một bộ phận nông dân ngày càng bị đẩy vào đường cùng.
Chính sách cai trị của triều Nguyễn cộng với những sự khác biệt về tư tưởng đã làm
bùng nổ rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nơng dân. Theo tính tốn dưới thời Nguyễn có
khoảng 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ các loại, riêng thời Gia Long có khoảng 90 cuộc,
con số này tăng lên đến 250 cuộc vào thời Ming Mạng, và 50 cuộc thời Thiệu Trị
[23, tr.454].
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội nước ta dưới triều Nguyễn đã có những
điểm sáng và tiến bộ rõ rệt, đặc biệt là trong thời vua Gia Long và Minh Mạng, góp
phần ổn định xã hội, củng cố và phát triển kinh tế. Chính sự ổn định xã hội và
những bước tiến nhất định về kinh tế đã tạo điều kiện để nhà nước tổ chức thi cử
nhằm đào tạo và tuyển chọn nhân tài, xây dựng những luật lệ nghiêm minh trong
việc phòng chống những tiêu cực trong thi cử. Tuy nhiên, càng về sau dưới sự tác
động của những chính sách sai lầm trong kinh tế, xã hội và những mầm mống mâu
thuẫn ngầm trong xã hội đang ngày càng gay gắt đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng của các khoa thi, làm phân tán sự quan tâm của triều Nguyễn đối với
vấn đề thi cử, làm nảy sinh những tiêu cực trong các kỳ thi và những vụ bất ổn
trong quan trường cũng từ đó mà hình thành.
1.1.2. Tình hình văn hóa - tƣ tƣởng
19