Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tìm hiểu về họa sĩ Pablo Picasso

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 19 trang )

CHƯƠNG 1: ĐÔI NÉT VỀ TIỂU SỬ CỦA PICASSO
Pablo Picasso là một trong những họa sỹ nổi tiếng nhất, có ảnh hưởng đối
với nền nghệ thuật thế giới hơn bất cứ một nghệ sỹ nào khác của thế kỷ 20. Ông
được coi là người đã tạo ra nền nghệ thuật hiện đại.

Pablo Picasso - Hoạ sĩ thiên tài của Thế kỷ 20
Pablo Ruiz Picasso (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881, mất ngày 8 tháng 4
năm 1973), thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso, là một họa
sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Picasso là con đầu lịng của ơng José

1


Ruiz y Blasco và bà María Picasso y López. Ơng được đặt tên thánh là Pablo,
Diego, José, Francisco de Paula, Juan Nepomuceno, Maria de los Remedios và
Cipriano de la Santísima Trinidad.
Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong
lĩnh vực hội họa, theo mẹ ơng kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được
chính là "piz", cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là
bút chì. Cha của Picasso là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện
thực, ơng José cịn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa
phương, trường Mỹ thuật cơng nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có
được những bài học đầu tiên về nghệ thuật chính từ cha mình
Vào Học viện mỹ thuật (Academia de San Fernando) tại Madrid được
chưa đầy một năm, năm 1900 Picasso đã bỏ học để sang Paris, trung tâm nghệ
thuật của Châu Âu thời kỳ đó. Tại thủ đơ nước Pháp, ông sống cùng Max Jacob,
một nhà báo và nhà thơ, người đã giúp Pablo học tiếng Pháp. Đây là giai đoạn
khó khăn của người họa sĩ trẻ khi ông phải sống trong cảnh nghèo túng, lạnh lẽo
và đôi khi tuyệt vọng, phần lớn tác phẩm của Pablo đã phải đốt để sưởi ấm cho
căn phòng nhỏ của hai người. Năm 1901, cùng với người bạn Soler, Picasso đã
thành lập tờ tạp chí Arte Joven ở Madrid. Số đầu tiên của tạp chí hồn tồn do


Pablo minh họa.
Trong những năm đầu của thế kỉ 20, Picasso thường xuyên qua lại giữa
hai thành phố Barcelona và Paris. Tại Paris, Picasso kết bạn với rất nhiều nghệ
sĩ nổi tiếng ở khu Montmartre và Montparnasse, trong đó có người sáng lập
trường phái siêu thực André Breton, nhà thơ Guillaume Apollinaire và nhà văn
Gertrude Stein. Năm 1911, Picasso và Apollinaire thậm chí đã từng bị bắt giữ vì
bị nghi ăn trộm bức tranh Mona Lisa khỏi Bảo tàng Louvre nhưng cuối cùng hai
người cũng được tha vì vơ tội.
Năm 1904, ơng bắt đầu mối quan hệ lâu dài với Fernande Olivier, người
phụ nữ xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm Thời kỳ Hồng của họa sĩ. Thời kỳ này

2


được gọi là Thời kỳ Hồng vì đây là thời kỳ ơng tồn dùng màu hồng nhạt mềm
mại để làm nền tranh cho mình, thời kỳ Hồng của ơng được tồn tại trong 3 năm.
Sau khi bắt đầu nổi tiếng và trở nên giàu có, Picasso đã bỏ Olivier để quan hệ
với Marcelle Humbert mà ông gọi đơn giản là Eva, chủ đề của rất nhiều bức
tranh theo trường phái lập thể của ơng. Sau đó ơng cịn đi lại với nhiều người
phụ nữ khác mặc dù đã có vợ và con.
Pablo Picasso từ trần ngày 8 tháng 4 năm 1973 tại Mougins, Pháp, thọ 92
tuổi. Ông đã để lại một tài sản Mỹ thuật đồ sộ gồm: 1800 bức tranh sơn dầu, 3
vạn bản tranh, 7000 bức ký họa phác thảo và có khá nhiều tác phẩm khó hiểu.
Picasso được an táng tại công viên Vauvenargues ở Vauvenargues, Bouches-duRhône.

3


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA PICASSO
2.1, Khái quát về các tác phẩm

Các tác phẩm của Picasso thường được phân loại theo các thời kỳ khác
nhau. Tuy rằng tên gọi các thời kỳ sáng tác sau này của họa sĩ còn gây nhiều
tranh cãi, người ta phần lớn đều chấp nhận cách phân chia thời kỳ đầu sáng tác
của Picasso thành Thời kỳ Xanh (1901–1904), Thời kỳ Hồng (1904–1906), Thời
kỳ Ảnh hưởng Phi châu - điêu khắc (1908–1909), Thời kỳ Lập thể phân tích
(1909–1912) và Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919).
Trong suốt cuộc đời của mình, hơn 75 năm, ơng đã sáng tác hàng nghìn
tác phẩm không những phong phú về thể loại bao gồm tranh, điêu khắc, ảnh và
đồ gốm mà còn đa dạng về chất liệu.
Thời kỳ trước năm 1901
Picasso bắt đầu tập vẽ dưới sự hướng dẫn của cha ông từ năm 1890. Sự
tiến bộ trong kỹ thuật của họa sĩ có thể thấy trong bộ sưu tập các tác phẩm thời
kì đầu ở Bảo tàng Museu Picasso tại Barcelona. Có thể thấy chủ nghĩa hiện thực
hàn lâm trong các tác phẩm thời kì đầu này, tiêu biểu là bức The First
Communion (1896). Cũng năm 1896, khi mới 14 tuổi, Picasso đã hoàn thành tác
phẩm Portrait of Aunt Pepa (Chân dung dì Pepa), một bức chân dung gây ấn
tượng sâu sắc đến mức Juan-Eduardo Cirlot đã đánh giá rằng "khơng nghi ngờ
gì nữa, đây là một trong những tác phẩm lớn nhất trong lịch sử hội họa Tây Ban
Nha"[12].
Năm 1897, chủ nghĩa hiện thực của Picasso bắt đầu chịu ảnh hưởng của
chủ nghĩa tượng trưng, thể hiện qua một loạt các bức tranh phong cảnh sử dụng
tơng màu xanh lá cây và tím không tự nhiên.
Thời kỳ Xanh và Hồng.

4


Thời gian từ 1901 tới giữa năm 1904, khoảng thời gian ngắn hơn 3 năm là giai
đoạn Picasso sáng tác bằng “màu xanh“, một màu áp đảo trong các tác phẩm hội
họa và màu xanh thường được coi là màu phản ánh các hoàn cảnh vật chất của

Picasso thời bấy giờ.
Thời Kỳ Xanh (the Blue Period) của Picassso có lẽ bắt đầu khi họa sĩ sống
tại Madrid từ tháng 2 tới tháng 4 năm 1901, khi mà Picasso khởi đầu bằng màu
lạnh, đặc biệt với các sắc lục (green) và sắc xanh (blue tones) như trong các tác
phẫm “Người đàn bà mặc áo xanh“ (Woman in Blue), ký tên P. Ruiz Picassso,
và “Bà áo xanh“ (Lady in Blue), ký tên Picasso. Vào thời kỳ này, các chủ đề và
đường hướng vẽ (styles) khác hẳn với những thứ tương tự vài tháng sau. Picasso
thường hay vẽ các cô gái làng chơi đội chiếc mũ rộng vành. Vào lúc đầu của
Thời Kỳ Xanh, Picasso đã tiến vào môi trường hội họa như là một nghệ sĩ thiên
về đường nét (lines) và xây dựng (construction) hơn là thiên về màu sắc và
Picasso đã làm phát triển tài năng qua cách dùng nhiều sắc độ (tones) của cùng
một thể mầu.
Màu nóng là đặc tính của các bức họa của miền bắc châu Âu trong khi các
họa sĩ miền nam trong đó có họa sĩ Tây Ban Nha, lại ưa dùng màu lạnh và mặc
dù sống tại Paris, Picasso vẫn tưởng nhớ tới Málaga với biển xanh, với mặt trời
đỏ và khí hậu ấm áp còn Paris là nơi để học hỏi và làm việc, là ngã tư đường của
các tư tưởng mới.
Picasso đã đi qua lại giữa Barcelona và Paris, mang theo chất liệu để sáng
tác. Vào tháng 4/1901, Picasso đã trưng bày các họa phẩm bằng phấn tiên
(pastels) trong cuộc triển lãm đơn độc tại Sala Parés ở Barcelona rồi vào cuối
tháng 6 năm đó, phịng triển lãm Ambroise Vollard tại Paris cũng trình bày 64
họa phẩm của Picasso cùng với tác phẩm của Francisco Iturrino, môt họa sĩ
người miền Basque và cũng kể từ lúc này, Pablo Picasso chỉ ký tên là Picasso
mà không là P. Ruiz Picasso. Các cuộc triển lãm kể trên rất thành công, số tranh

5


bán được khá nhiều. Khi thăm viếng nhà tù Saint Lazare tại Paris trong năm
1901/02, Picasso đã vẽ các phụ nữ tội phạm như trong tác phẩm “Tô súp“ (the

Soup-1902). Tại Barcelona trong các năm 1901/03, họa sĩ cũng mô tả các người
ăn xin mù lịa hay cơ đơn, những kẻ lang bạt (Crouching Woman-1902, Blind
Man’s Meal-1903, Old Jew and a Boy-1903).
Cuối cùng Picasso quyết định di chuyển hẳn qua sống tại thành phố Paris
vào mùa xuân năm 1904 và từ nay, các tác phẩm của ông đã bộc lộ sự thay đổi
về tinh thần và đặc biệt, thay đổi về các đường hướng nghệ sĩ và trí thức.
Picasso đã cùng với một người bạn mới, một thi sĩ tên là Guillaume Apollinaire,
quan tâm tới những gánh xiếc dạo, những người làm trò và đây là những đề tài
với các tác phẩm như “Thiếu nữ giữ thăng bằng trên trái banh“ (Girl balancing
on a Ball-1905), “Người diễn viên“ (the Actor-1905).
Do trạng thái của tâm hồn, do sự gợi cảm, Picasso đã dùng màu Xanh để
diễn tả tình cảm bi quan của ông vào cuối thế kỷ, thời kỳ u ám sống với thiếu
thốn, đói khát và lạnh giá tại một nơi xa quê hương ấm áp. Nhưng cuối cùng vào
năm 1904, các hoàn cảnh cá nhân của Picasso đã thay đổi, nhất là khi nàng
Fernande Olivier trở nên người tình của họa sĩ. Cũng vào thời gian này, Picasso
có những bạn thân như Max Jacob, Gertrude và Leo Stein người Mỹ và nhất là
với Georges Braque mà sau đó, Picasso đã khởi đầu một lối vẽ cấp tiến trong thế
kỷ 20, đó là đường lối Lập Thể (cubist style). Sự có mặt của cơ nàng Fernande
Olivier đã gợi hứng cho họa sĩ vẽ các tác phẩm như “Người đàn bà với các ổ
bánh“ (Woman with Loaves-1909), “Đầu một người đàn bà“ (Head of a Woman1909) và “Người đàn bà với các trái lê“ (Woman with Pears-1909).
Vào khoảng cuối năm 1904, các sắc độ Xanh trong tác phẩm của Picasso
lại được thay thế bằng các ánh vẻ hồng, nâu và nâu đất. Đây là “Thời Kỳ Hồng“
với các đề tài di chuyển từ những quán cà phê, quán nhậu của thành phố sang
những người hát dạo, các kẻ làm xiếc của miền quê, những con người sinh hoạt

6


trên mọi nẻo đường với cách diễn tả khách quan hơn. Tác phẩm gây ấn tượng
nhất với thể loại màu mới, nhẹ nhàng, là tấm “Gia đình người làm xiếc“ (the

Family of Saltimbanques-1905) trên đó từng nhân vật, được đặt trong một
khung cảnh thưa thớt, đủ nói lên nỗi cơ đơn cuả họ. Cũng vào thời gian này, do
nghiên cứu về ngành điêu khắc cổ sơ của bán đảo Iberian, Picasso đã làm phát
triển ảnh hưởng đó bằng các tác phẩm “Chân dung của Gertrude Stein“ (Portrait
of Gertrude Stein-1906) và “Chân dung tự họa“ (Self-Portrait with Palette1906).
Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu (1908–1909), Thời kỳ Ảnh hưởng Phi
châu bắt đầu với tác phẩm nổi tiếng Những cô nàng ở Avignon (Les Demoiselles
d'Avignon) lấy cảm hứng từ những đồ tạo tác Phi châu. Ông cho rằng mọi loại
nghệ thuật phải tự học được cái hay của nhau. Ông chọn châu Phi làm cản hứng
của mình bởi tính Lập thể rõ ràng của nó.
Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912), Chủ nghĩa Lập thể phân tích là
phong cách vẽ mà Picasso đã phát triển cùng Georges Braque theo đó sử dụng
những màu đơn sắc ngả nâu cho các tác phẩm. Các vật thể sẽ được hai họa sĩ
tách thành những bộ phận riêng biệt và "phân tích" chúng theo hình dạng bộ
phận này.
Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919), Đây là sự phát triển chủ nghĩa
lập thể của Picasso với việc sử dụng nghệ thuật cắt dán bằng các chất liệu vải,
giấy báo, giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật và nhân vật.
Chủ nghĩa cổ điển và siêu thực: Sau Thế chiến thứ nhất, Picasso bắt đầu
thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân cổ điển (neoclassicism). Một trong
những tác phẩm nổi tiếng nhất của Picasso, bức Guernica đã được sáng tác trong

7


thời kì này. Bức tranh mơ tả cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức trong
Nội chiến Tây Ban Nha.
Picasso là một trong 250 nhà điêu khắc tham gia Triển lãm điêu khắc quốc tế lần
thứ 3 tổ chức tại Bảo tàng mỹ thuật Philadelphia vào mùa hè năm 1949. Trong
thập niên 1950, họa sĩ một lần nữa thay đổi phong cách sáng tác, ông thực hiện

các bức tranh dựa trên phong cách của các bậc thầy cổ điển như Diego
Velázquez, Goya, Poussin, Édouard Manet, Courbet và Delacroix.
Khi Picasso qua đời, rất nhiều tác phẩm do họa sĩ sáng tác vẫn thuộc
quyền sở hữu của ơng vì Picasso cảm thấy khơng cần thiết phải bán chúng.
Thêm vào đó, ơng cịn có một bộ sưu tập rất giá trị các tác phẩm của những họa
sĩ yêu thích như Henri Matisse. Vì Picasso khơng để lại di chúc, một phần bộ
sưu tập này được dùng để trả thuế cho chính phủ Pháp và nó được trưng bày tại
Bảo tàng Musée Picasso tại Paris. Năm 2003, những người thân của họa sĩ đã
cho khánh thành một bảo tàng tại thành phố quê hương ơng, Málaga, đó là Bảo
tàng Museo Picasso Málaga. Picasso có một số bức tranh nằm trong danh sách
những tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất thế giới: Bức "Nude on a black
armchair" - được bán với giá 45,1 triệu USD năm 1999. Bức Les Noces de
Pierrette - được bán vi giỏ hn 51 triu USD nm 1999. Bc Garỗon à la pipe được bán với giá 104 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 4 tháng 5 năm
2004 đã lập kỉ lục thế giới về giá cho một tác phẩm nghệ thuật. Bức Dora Maar
au Chat - được bán với giá 95,2 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 3
tháng 5 năm 2006. Trong những năm 1960, ông đã tạo ra được một tác phẩm
điêu khắc cao 50 phút đặt ở trung tâm hành chính Chicago. Năm 1970, Picasso
đã tặng hơn 800 tác phẩm của mình cho viện bảo tàng cung điện Berenguer de
Aguilar ở Barcelona.

8


2.2, Một số tác phẩm tiêu biểu
2.2.1, Bức tranh “Giấc mơ”
2.2.1.1, Nguồn gốc của bức tranh
Le Rêve (tên tiếng Pháp, tạm dịch: “Giấc mơ”) là bức tranh sơn dầu (130
x 97 cm) được họa sĩ lừng danh Pablo Picasso vẽ năm ơng 50 tuổi mơ tả tình
nhân 22 tuổi của mình – Marie-Thérèse Walter. Bức tranh này được cho là vẽ
vào buổi chiều, ngày 24/1/1932.

Bức tranh Le Rêve thuộc về giai đoạn với những miêu tả méo mó của
Picasso với cấu trúc đơn giản và màu sắc tương phản đặc trưng của thời kì đầu
của trường phái dã thú. Nội dung khiêu dâm của bức tranh đã được tranh luận
nhiều lần, các nhà phê bình đã chỉ ra rằng Picasso vẽ trong lúc cảm hứng dâng
trào khi đối mặt với người tình của mình.

9


Bức tranh Le Rêve - Picasso

2.2.1.2, Gía cả của bức tranh

10


Ở từng thời điểm giá cả của bức tranh này lại có sự thay đổi vượt bậc cụ thể như
sau:
Năm 1941, bức tranh Le Rêve được bán với giá 7000 USD cho hai nhà
sưu tập tranh nổi tiếng tại New York là Victor và Sally Ganz. Vụ mua bán này
mở màn cho bộ sưu tập 50 năm các tác phẩm của 5 danh họa nổi tiếng: Picasso,
Jasper Johns, Robert Rauschenberg, Frank Stella và Eva Hesse. Sau cái chết của
hai nhà sưu tập (Victor năm 1987 và Sally năm 1997), bộ sưu tập của họ, bao
gồm cả bức tranh đắt giá Le Rêve được đem ra đấu giá tại nhà đấu giá Christie’s
vào ngày 11/11/1997 như là một cách để giải quyết hóa đơn thuế của họ. Bức
tranh Le Rêve đã được bán với giá cao ngất ngưởng 48.4 triệu USD, trở thành
bức tranh đắt giá thứ 6 trên thế giới tại thời điểm đấy. Toàn bộ bộ sưu tập đã lập
kỉ lục mới cho việc mua bán một bộ sưu tập cá nhân, giá trị lên tới 206.5 triệu
USD. Số lượng tiền mà hai nhà sưu tập phải trả trong suốt cuộc đời sưu tập của
họ khoảng 2 triệu USD.

Người chủ sở hữu mới của bức tranh đắt giá Le Rêve là một nhà đầu tư
quỹ người Australia Wolfgang Flöttl, người đã sở hữu bức tranh “Chân dung bác
sĩ Gachet” của Van Gogh trong một thời gian ngắn cuối những năm 1990. Năm
2001, dưới áp lực về tài chính, ơng đã bán bức tranh Le Rêve cho ơng trùm sịng
bạc Steve Wynn với một số tiền không được tiết lộ, ước tính vào khoảng 60 triệu
USD.

11


Chân dung bác sĩ Gachet - Van Gogh

2.2.1.3, Tình trạng, mức độ ảnh hưởng của bức tranh
Bức tranh Le Rêve là bức quý nhất trong bộ sưu tập của Wynn và ơng đã
có ý tưởng đặt tên khu nghỉ dưỡng Las Vegas Wynn theo bức tranh này. Tuy
nhiên, tháng 10 năm 2006, ơng đã trao đổi với nhóm bạn của mình (bao gồm các

12


chuyên gia mỹ thuật) rằng ông đã đồng ý bán bức tranh Le Rêve cho Steven A.
Cohen với giá 139 triệu USD khiến bức họa này trở thành bức họa đắt nhất thế
giới thời bấy giờ. Trong khi chỉ cho bạn bức tranh, ơng đã vơ tình làm thủng vải
bằng khuỷu tay của mình, tạo ra một lỗ hình giọt nước mắt 6 inch. Sau đó, Wynn
đã khơng bán bức tranh và phải tốn kém một khoản chi phí lên tới 90,000 USD
để sửa lại bức tranh.
Ông Steve A. Cohen đã mua bức tranh sơn dầu của Piacsso từ ông trùm
casino Steve Wynn mang tên Le Reve - có nghĩa là Giấc mơ, bức tranh vẽ hình
Marie -Therese Walter, người tình của danh họa nổi tiếng này.
Cả người mua và người bán đều là các tỷ phú và nhà sưu tập hội họa có

tiếng, cả hai đều liên quan mật thiết đến bức Le Reve.
Vào năm 2006, Steve Wynn đã làm rách một đường trên bức tranh khi
đang giới thiệu đến bạn bè của mình, một ngày sau khi đồng ý bán cho Steve
Cohen với giá 139 triệu USD. Ngay sau đó, ơng đã hủy việc mua bán bức tranh
vì coi đó là một điềm xấu.
Tuy nhiên, dường như Steve Cohen cũng không thể cưỡng lại nổi vẻ đẹp
của người tình Picasso và đã tiếp tục theo đuổi, Steve Cohen đã bỏ ra 155 triệu
USD để mua lại bức tranh. Bức tranh được cho là hoàn thành vào năm 1932 khi
Picasso tròn 50 tuổi.
Mức giá 155 triệu USD đã biến bức tranh trở thành tác phẩm đắt giá nhất
của Picasso. Đây cũng là bức tranh thứ 3 của danh họa được bán với giá trên 100
triệu USD. Hai tác phẩm trước bao gồm Khỏa thân và Lá xanh và bầu ngực
được bán với giá 106.5 triệu USD cho một người giấu tên hồi năm 2010 và Cậu
bé với ống điếu với giá 104.2 triệu USD vào năm 2004.

13


2.2.2, Bức tranh “ Cậu bé bên ống điếu”
2.2.2.1, Nguồn gc ca bc tranh
Garỗon la pipe (tm dch: Cu bé với ống điếu) là một trong những bức
tranh nổi tiếng nhất của danh họa Pablo Picasso. Kích thước 100 x 81.3cm, 39.4
x 32.0 in. Bức tranh được vẽ khi ông 24 tuổi. Bức tranh này mô tả một cậu bé
người Paris đang cầm một tẩu thuốc hút bằng tay trái. Khi bức tranh được trình
trước cơng chúng, ai nấy đều ngạc nhiên vì khơng ngờ được rằng một họa sĩ
theo trường phái lập thể lại có thể vẽ một bức tranh xuất thần như vậy.

14



2.2.2.2, Gía của bức tranh
Lúc đầu, bức tranh được mua lại bởi John Hay Whitney vào năm 1950 với
giá $30.000
Vào tháng 5, 2004, bức tranh được đấu giá với hơn $104.000.000 ở đấu
giá Sotheby's ở New York, Mỹ. Sotheby's không tiết lộ về việc ai đã mua bức
tranh ấy. Tuy nhiên, một số nguồn tin cho biết người sở hữu bức tranh đó là

15


Guido Barilla, chủ Tập đoàn Barilla ở Italia. Bức tranh này đã đạt kỉ lục về tranh
đắt nhất. Về phía các nhà phê bình nghệ thuật, họ khơng hài lịng về cái giá
$104.000.000 vì Picasso là một đại danh họa nổi tiếng bậc nhất ở thế kỉ XX. Họ
nói rằng, cái giá của bức tranh phải cao hơn nhiều so với giá gốc. (Theo The
Washington Post)
2.2.3, Bức tranh “ Người phụ nữ đang tắm”
2.2.3.1, Nguồn gốc của bức tranh
Bức Blue Room mô tả một người phụ nữ đang tắm, được Picasso vẽ trong
giai đoạn đầu Thời kỳ Xanh của ông, giai đoạn ông làm việc ở Paris, Pháp. Họa
phẩm này nằm trong bộ sưu tập của bảo tàng nghệ thuật Phillips Collection từ
năm 1927.

Kiệt tác The Blue Room của Picasso.

16


2.2.3.2, Những phát hiện mới trong bức tranh
Trong 5 năm qua, các chuyên gia tại tại bảo tàng nghệ thuật Phillips
Collection, Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia, trường Đại học Cornell và

Bảo tàng Winterthur đã thu được các hình ảnh rõ nét hơn về bức tranh bí ẩn nằm
dưới Blue Room.
Từ lâu, các chun gia nghi ngờ có gì đó nằm dưới bức tranh. Những nhát
cọ trong tranh khơng ăn khớp với hình ảnh phác họa mơ tả một người phụ nữ
đang tắm tại xưởng vẽ của Picasso.
Năm 2008, lần đầu tiên các chuyên gia đã sử dụng công nghệ kiểm tra
tranh bằng tia hồng ngoại và nhìn thấy gương mặt một người đàn ơng có râu, với
bàn tay đeo 3 chiếc nhẫn chống lên mặt. Ơng cịn mặc một chiếc áo vest và thắt
nơ ở cổ.
“Khi nảy sinh ra một ý tưởng gì mới, Picasso liền vội vã vẽ đè lên ngay một bức
tranh đã hoàn chỉnh khác. Và khơng phải lúc nào có ý tưởng mới, ơng cũng sử
dụng toan vẽ sạch. Nhiều khi Picasso còn vẽ lên cả tấm bìa cứng, vì toan vẽ đắt
giá hơn nhiều” – giám tuyển Susan Behrends Frank cho biết.
Giờ đây, các nhà bảo tồn tại bảo tàng nghệ thuật Phillips Collection đang
hy vọng giải mã được câu hỏi: Người đàn ông trong tranh là ai và tại sao Picasso
lại vẽ ông ta?
Theo họ, đây có lẽ là một nhà buôn nghệ thuật ở Paris tên Ambrose
Villard, người đã tổ chức triển lãm đầu tiên của Picasso hồi năm 1901. Tuy
nhiên, khơng có bất cứ tư liệu hay thơng tin nào để lại trên toan vẽ nên cuộc
nghiên cứu vẫn đang được tiến hành.

17


Nhà bảo tồn Patricia Favero đang hợp tác với nhiều chuyên gia khác để
kiểm tra bức tranh ẩn kỹ càng hơn, thơng qua cơng nghệ hình ảnh đa quang phổ
và vẽ bản đồ huỳnh quang bằng tia X. Họ cố gắng xác định và lập bản đồ màu
sắc của bức tranh ẩn, qua đó tái tạo hình ảnh kỹ thuật số có màu sắc gần tương
đương với màu sắc mà Picasso đã sử dụng.


Hình ảnh bên dưới kiệt tác The Blue Room của Picasso.

18


2.2.3.3, Đánh giá về ý nghĩa mức độ ảnh hưởng của bức tranh trong giai
đoạn hiện nay
Các giám tuyển đang có kế hoạch triển lãm bức tranh Blue Room vào năm
2017, coi đây là tác phẩm đầy ảnh hưởng trong sự nghiệp của Picasso. Triển lãm
sẽ kể lại quá trình phát hiện ra bức chân dung bên dưới bức tranh, cũng như giới
thiệu các họa phẩm khác của Picasso, bên cạnh mối liên kết của ông với các họa
sĩ khác.
Thời gian này, Blue Room được trưng bày ở Hàn Quốc đến đầu năm 2015,
khi quá trình nghiên cứu vẫn đang tiếp diễn.
Ông Dorothy Kosinski, Giám đốc bảo tàng nghệ thuật Phillips Collection,
nói rằng những hiểu biết mới về Picasso và q trình sáng tạo của ơng sẽ tiếp tục
được phát hiện, nhờ sự phối hợp giữa các bảo tàng.
“Khán giả của chúng ta đang mong muốn được biết những điều này. Càng
hiểu thì chúng ta lại càng có thể đánh giá được sâu hơn về ý nghĩa của những
việc này trong cuộc đời Picasso” - Kosinski nói.

19



×