Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------
NGUYỄN HOÀI THU
ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI
ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƢỜNG
THPT LƢƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thái Nguyên, 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------
NGUYỄN HOÀI THU
ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI
ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƢỜNG
THPT LƢƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN VĂN KHANG
Thái Nguyên, 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoài Thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS
Nguyễn Văn Khang. Nhân đây, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
GS.TS Nguyễn Văn Khang - Người Thầy đã tận tình giúp đỡ để tác giả hoàn
thành luận văn này .
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả các thầy, cô
giáo, những người đã trực tiếp giúp tác giả nâng cao vốn kiến thức ngôn ngữ
trong thời gian theo học chương trình thạc sĩ ngôn ngữ khoá 2007 - 2009 tại
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp, các em học sinh,
những người đã động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoài Thu
1
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT...................................................................... 7
1.1 Khái quát về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ............................................. 7
1.1.1 Ngôn ngữ nói ...................................................................................... 7
1.1.2 Ngôn ngữ viết ................................................................................... 11
1.1.3 Những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ...................... 14
1.1.4 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và viết ............................................ 16
1.2 Giới thiệu cảnh huống ngôn ngữ của trường THPT Lương Thế Vinh ..... 20
Tiểu kết ......................................................................................................... 21
Chƣơng 2. KHẢO SÁT NĂNG LỰC VIẾT TIẾNG VIỆT CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LƢƠNG THẾ VINH DƢỚI TÁC
ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ...................................................................... 23
2.1 Khái niệm về năng lực ngôn ngữ ............................................................. 23
2.1.1 Năng lực ngôn ngữ ............................................................................ 23
2.1.2 Năng lực giao tiếp ............................................................................. 24
2.2 Khảo sát thực tế về ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết
của học sinh THPT Lương Thế Vinh ............................................................. 25
2.2.1 Về phương diện chữ viết ................................................................... 25
2.2.2 Về phương diện từ vựng- ngữ nghĩa .................................................. 29
2.2.3 Về phương diện ngữ pháp ................................................................. 34
Tiểu kết ......................................................................................................... 43
2
Chƣơng 3. NHỮNG NHÂN TỐ TẠO RA ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN
NGỮ NÓI ĐỐI VỚI NGÔN NGỮ VIẾT VÀ CÁCH KHẮC PHỤC ............... 45
3.1 Những nhân tố tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết ..... 45
3.1.1 Học sinh không phân biệt được ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ....... 45
3.2.2 Môi trường giao tiếp.......................................................................... 48
3.2.3 Ảnh hưởng của ngôn ngữ chat ........................................................... 51
3.2 Cách khắc phục ....................................................................................... 53
3.2.1 Giúp học sinh nhận biết được sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và
viết ............................................................................................................. 53
3.2.3 Dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp ............................ 55
Tiểu kết ........................................................................................................ 57
KẾT LUẬN .................................................................................................. 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 62
PHỤ LỤC.........................................................................................................
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ giao tiếp của con người tồn tại ở hai dạng cơ bản là nói và
viết. Về mặt thuật ngữ, trước đây chúng ta vẫn thường gặp các tên gọi “phong
cách nói” hoặc “phong cách khẩu ngữ” đặt trong thế đối lập với “phong cách
viết” hoặc “phong cách sách vở”. Xét về mặt lịch sử, tình hình nghiên cứu về
ngôn ngữ nói bắt đầu có sự chuyển biến tích cực từ thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, một số nhà ngôn ngữ học đã đạt được sự nhất trí rằng, lời nói mới là sự
hoạt động chính của ngôn ngữ còn dạng viết chỉ là thứ cấp. Trên thực tế, ngôn
ngữ nói cũng từng bị xếp ở vị trí thứ yếu do bị quy vào bản chất không cố
định, không có hệ thống và không có cấu trúc.
Từ những tồn tại trong nghiên cứu ngôn ngữ cần thiết phải có cái nhìn
đầy đủ, toàn diện không thể áp đặt cái nhìn phiến diện đối với ngôn ngữ nói
hoặc ngôn ngữ viết. Việc nghiên cứu về ngôn ngữ nói và viết không chỉ giúp
xác định lại một cách đúng đắn những nhận định đã có về ngôn ngữ nói và
viết trong phạm vi ngôn ngữ học cơ bản và phân tích diễn ngôn, mà còn có ý
nghĩa thiết thực đối những bộ môn khoa học khác như phong cách khoa học
ngôn ngữ, lý thuyết dạy và học tiếng.
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, dù nói hay viết con người không chỉ
cần xác định nội dung giao tiếp tức nói, viết cái gì mà còn quan tâm đến việc
nói như thế nào, viết như thế nào. Sự lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ của
chủ thể giao tiếp không ngừng bị chi phối bởi các nhân tố như: mục đích giao
tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp và đối tượng giao tiếp hoặc kênh
giao tiếp. Sự lựa chọn này thể hiện năng lực giao tiếp ở mỗi người.
Nghiên cứu về ngôn ngữ nói và viết còn có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển ngôn ngữ của dân tộc. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà
việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt được đặt ra cấp thiết thì cần thiết
4
phải giáo dục cho thế hệ trẻ thói quen nói đúng và viết đúng tiếng Việt. Vấn
đề này được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm và một trong số đó là Cao
Xuân Hạo, người đã từng nhắc đến thực trạng này như sau:
“Đặc biệt những lỗi về tiếng Việt, những cách dùng từ sai, những câu
bất thành cú (thường là vì cách dịch sát từng chữ do tính cẩu thả của những
người dịch tin nước ngoài truyền bá), đã được nêu lên không biết bao nhiêu
lần từ hơn nửa thế kỷ nay mà các biên tập viên cũng cứ lặp lại hàng mấy chục
lần trong một buổi truyền hình hay phát thanh, và mỗi năm lại được bổ sung
thêm hàng chục kiểu lỗi mới phát minh. Những người lớn có văn hoá chỉ
khinh bỉ, nhún vai, nhưng thế hệ trẻ nhất là học sinh phổ thông lại tưởng đâu
đó lại là một kiểu nói “ hiện đại” hơn, vội vàng bắt chước hoặc tuy không cố
bắt chước nhưng nghe nhiều lần đâm quen, không thấy chướng tai nữa, và cứ
thế nói ẩu, viết ẩu dần dần phổ biến và rốt cục tiếng Việt trở thành một thứ
tiếng tạp nham không còn quy tắc ngữ pháp gì nữa.” [ 7, tr.340]
Nghiên cứu ngôn ngữ nói và viết sẽ góp phần vào việc phát triển, nâng
cao năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp của học sinh trong nhà trường.
Thực trạng của học sinh phổ thông hiện nay là năng lực phân tích còn yếu
kém. Các em chỉ có thể mô tả lại sự vật, hiện tượng, còn khi được yêu cầu
phân tích, đánh giá lập tức các em sẽ gặp khó khăn và thường là không thể
làm được. Hơn thế nữa, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ của các em rất yếu. Tiếng
Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ của các em và đã được học rất nhiều năm qua, thế mà
khi sử dụng, các em vẫn mắc nhiều lỗi về dùng từ, viết câu, dựng đoạn, liên
kết ý, diễn đạt… Đa phần các em viết lung tung, lộn xộn, không có cấu trúc rõ
ràng, ý nghĩa tối tăm, nhiều khi không thể diễn đạt rõ ràng suy nghĩ của mình
khi được giáo viên hỏi…
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, luận văn này tiến hành khảo sát sự
ảnh hưởng của tiếng Việt nói tới tiếng Việt viết ở một trường học cụ thể - nơi
5
mà chúng tôi đang làm công tác giảng dạy, đó là trường trung học phổ thông
Lương Thế Vinh, thành phố Thái Nguyên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Thông qua khảo sát việc sử dụng tiếng Việt của
học sinh trường THPT Lương Thế Vinh, Thành Phố Thái Nguyên, luân văn
mong muốn góp phần vào làm rõ thêm mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và
ngôn ngữ viết, đặc biệt là những ảnh hưởng của ngôn ngữ nói tới ngôn ngữ
viết của học sinh phổ thông. Qua đó, luận văn đưa ra những ý kiến đóng góp
vào việc giảng dạy môn ngữ văn nói chung, tiếng Việt nói riêng trong nhà
trường nhằm nâng cao khả năng nói và viết tiếng Việt của học sinh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra
những nhiệm vụ như sau:
1). Nêu được cơ sở lý thuyết có liên quan đến đề tài, cụ thể là liên quan
đến ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
2). Giới thiệu những nét cơ bản về môi trường dạy học của trường
THPT Lương Thế Vinh, Thành Phố Thái Nguyên (Có tác động đến tiếng Việt
của học sinh).
3). Khảo sát đặc điểm sử dụng tiếng Việt của học sinh Trường THPT
Lương Thế Vinh khi viết, chú trọng tác động của ngôn ngữ nói tới ngôn
ngữ viết.
4) Chỉ ra những nhân tố tạo ra những ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến
ngôn ngữ viết và đề ra cách khắc phục.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là tiếng Việt học sinh sử dụng ở trường THPT
Lương Thế Vinh – nơi mà chúng tôi đang tham gia giảng dạy .
- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong các bài kiểm tra, các bài thi
của học sinh và quan sát tiếng Việt các em học sinh sử dụng khi phát biểu
trong lớp.
6
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là
phương pháp của ngôn ngữ học xã hội và phương pháp phân tích lỗi của dụng
học.
Phương pháp của ngôn ngữ học nhằm điều tra thực tế ảnh hưởng của
tiếng Việt nói đến tiếng Việt viết của học sinh.
Phương pháp phân tích lỗi của dụng học nhằm thống kê, phân loại
những lỗi xuất hiện trong bài văn của học sinh
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần chứng minh cho luận điểm: giữa ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết có sự tác động qua lại với nhau.
- Về mặt thực tiễn: Từ việc chỉ ra năng lực ngôn ngữ của học sinh
THPT hiện nay và năng lực vận dụng chúng như thế nào, luận văn bước đầu
khái quát hướng sử dụng ngôn ngữ của học sinh THPT, hy vọng sẽ giúp cho
việc dạy - học tiếng Việt có hiệu quả hơn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, luận văn gồm 03
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Khảo sát năng lực sử dụng tiếng Việt khi viết của học sinh
trường THPT Lương Thế Vinh dưới tác động của ngôn ngữ nói.
Chương 3: Những nhân tố tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn
ngữ viết của học sinh THPT Lương Thế Vinh và cách khắc phục.
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày đặc điểm cơ bản của ngôn
ngữ nói và viết như: tính tự nhiên và tính nhất thời, tính trực tiếp và tính
không gọt giũa của ngôn ngữ nói; tính hoàn chỉnh và tính cố định, tính không
đối mặt và vững bền, tính gọt giũa của ngôn ngữ viết.
1.1 Khái quát về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
1.1.1 Ngôn ngữ nói
Ngôn ngữ nói có vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân và cộng
đồng. Cuộc sống của các cá thể là một chuỗi nối tiếp của những hành động có
chủ ý (và không có chủ ý), với một hoặc một số người nghe xác định, nhằm
thỏa mãn nhu cầu giao tiếp trước mắt hoặc để đạt một mục đích nào đó.
1.1.1.1 Tính tự nhiên và tính nhất thời
Lời nói thường trải ra một cách tự nhiên, ít gò bó. Người nói có khả
năng phát ra một tràng dài, thường là các ngữ đoạn ngắn hơn một câu, và các
ngữ đoạn này dường như thiếu liên kết bề mặt như cách tổ chức một văn bản
viết. Tính tự nhiên cũng có nguyên nhân từ tính tức thời, từ tính chất không
dàn dựng trước, hoặc không được lập trình trước. Cho rằng người nói có thể
chuẩn bị trước một số ý cơ bản trước khi gặp gỡ, trò chuyện với đối tượng mà
mình quan tâm, nhưng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày không ai có thể
chuẩn bị đến từng chi tiết như khi soạn thảo văn bản trên giấy hoặc bằng máy
vi tính. Trong tương tác mặt đối mặt, người nói và người nghe thường luân
phiên đưa ra và chấp nhận các lượt lời, luân phiên đổi vai cho nhau. Phát
ngôn kế tiếp của người nói thứ nhất không hoàn phụ thuộc vào ý chủ định của
người ấy, mà trái lại, phụ thuộc rất lớn vào hồi đáp tức thời của người nghe,
tức là người sẽ luân phiên đảm nhận vị trí người nói thứ hai. Nếu cuộc thoại
8
không diễn tiễn như dự kiến, người nói phải lựa chọn cách bổ sung sửa chữa
hoặc chuyển hướng đề tài.
Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ tự nhiên. Tuy vậy đặc tính tự nhiên của
ngôn ngữ nói không đồng nghĩa với “tự do”, “hồn nhiên” hoặc “phi nghệ
thuật”. Ngôn ngữ nói không chỉ có những ràng buộc thông thường tùy vào
mục đích và nội dung giao tiếp, nhất là những quy định mang màu sắc văn
hoá, phong cách ứng xử chung của cộng đồng người bản ngữ.
Ngôn ngữ nói tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên
thế giới được cấu thành bởi những yếu tố ngôn ngữ mang tính chất tuỳ chọn,
nhưng thực chất cũng bị ràng buộc một cách chặt chẽ: từ cách xưng hô đến
cách mở đầu, cách phát triển đề tài diễn ngôn, cho đến cách kết thúc cuộc
thoại. Những yếu tố này thuộc đặc trưng mang tính dân tộc, thể hiện thói quen
tiềm tàng trong cách nghĩ, trong tập tục đời sống văn hoá của cộng đồng suốt
chiều dài lịch sử.
Một trong những điểm nổi bật khác tạo nên sự khác biệt lớn giữa nói
và viết đó là bản chất nhất thời, tức là bản chất không cố định được trong
không gian của ngôn ngữ nói. Có thể thấy rằng người nghe phải xử lý nguồn
thông tin mà họ nghe được bằng cách ghi nhớ, tóm tắt nội dung được trình
bày hơn là tập trung ghi nhớ từng chữ từng lời. Họ phải lưu ý để nhận biết
phần ý mà người nói muốn truyền đạt, hơn là phần lời đã được nói ra. Một
mặt, tính nhất thời là điểm thuận lợi đối với người nói khi cần chuyển hướng
đề tài sửa chữa các phát ngôn, hoặc thậm chí phủ định lời nói đã được nói ra.
Mặt khác, bản chất nhất thời khiến lời nói miệng chỉ có hiệu lực tức thời và
có thể gây ra những khó khăn nhất định khi người nghe chỉ dựa trên
những “hợp đồng miệng” nhất là trong giao dịch mua bán, trong những mối
quan hệ tình cảm, …vv…
9
1.1.1.2 Tính trực tiếp
Khi người nói quyết định nói điều gì thì cũng là lúc người ấy phát đi
các tín hiệu ngôn ngữ bằng một chuỗi âm thanh. Đồng thời người nghe cũng
lập tức tiếp nhận và giải mã các tín hiệu âm thanh ấy. Khác với giao tiếp bằng
chữ viết, trong giao tiếp bằng lời nói người nghe có cơ hội để hỏi lại và có thể
được giải thích ngay tại chỗ. Điều này cũng có đóng góp đáng kể đến mức độ
thành công trong việc truyền đạt và nhận hiểu nội dung giao tiếp.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ nói khó có thể đạt hiệu quả nếu giữa hai phía
đối thoại không có hiểu biết chung, hoặc giả định chung về nhau. Điều này
cũng có nghĩa là trong những tình huống giao tiếp mặt đối mặt, các bên tham
gia hội thoại có được những thuận lợi nhất định như biết được khi nào nên nói
hay nên dừng, đều nhận thức được về môi trường vật lý xung quanh, về các
mối quan hệ xã hội và văn hoá giữa họ với nhau và do đó có thể điều chỉnh
được tác động của những điều họ nói ra đối với người nghe.
Tóm lại, nhờ vào tính chất trực tiếp của tình huống giao tiếp cụ thể mà
người nói có thể tạo ra những phát ngôn để người nghe có thể hiểu được một
cách dễ dàng. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, người đọc chỉ có thể có
thêm các tín hiệu ngoài văn bản như tranh ảnh, sơ đồ (nếu có), chữ viết tay
hoặc hình thức của chữ in, hoặc xuất xứ của văn bản (từ sách, tạp chí,…vv..).
Trong khi đó, người nghe với tư cách là người thụ ngôn hoàn toàn có thể dựa
vào nét mặt, ánh mắt, cử chỉ cũng như giọng điệu của người nói để hiểu đúng
ý định chức năng mà người nói muốn thể hiện. Nhờ có thể quan sát trực tiếp
trong giao tiếp mặt đối mặt mà hai phía người nói và người nghe có thể cùng
thương lượng nghĩa, thậm chí họ có thể sửa chữa kịp thời để làm tăng hoặc
giảm tác động phát ngôn đối với bên còn lại, điều mà người viết trong những
điều kiện thông thường khó có thể thực hiện được.
10
1.1.1.3 Tính không gọt giũa
Ngay cả người nói ngôn ngữ thứ nhất đôi khi cũng có một số khó khăn
do phải tổ chức các phát ngôn trong một thời gian tương đối ngắn. Các lỗi
thường gặp khi nói là: những lỗi về từ ngữ, cú pháp, việc bỏ lửng những ý
định mình định nói lúc đầu hoặc quên đi phần mình vừa phát biểu xong và lặp
lại cùng một ý.
Trong tương tác mặt đối mặt, người phát ngôn tổ chức lời nói của
mình một cách nhanh chóng. Do thời gian cho phép để vừa tổ chức phát ngôn,
vừa thao tác để sản sinh phát ngôn bị hạn chế, và do người nói và người nghe
thường có những hiểu biết chung nên người nói thường không nói hết và
nhường phần tham chiếu lại cho người nghe. Sự thiếu hụt về thời gian nêu
trên được đền bù bằng cách người nói có điều kiện để vừa suy nghĩ vừa diễn
tả ngay những hình ảnh, ý nghĩ trong đầu thành những sản phẩm lời nói có
tính tự phát. Kết quả là những sản phẩm nói tức thời thường ít trau chuốt và
không hoàn chỉnh (theo cách đánh giá đối với văn bản viết), bởi vì một người
bình thường khó có thể làm cả hai việc một lúc là vừa nói tự nhiên vừa nói
trau chuốt được.
Tính không gọt giũa của ngôn ngữ nói được thể hiện ở những nét đặc
thù mà người viết có xu hướng loại bỏ khi tạo lập diễn ngôn viết.
Trong ngôn ngữ nói tiếng Việt, thường sử dụng rất nhiều trợ từ tình thái
như: à, á, đấy, ứ, ừ, chớ, nhớ, nhá, nhỉ…v.v..; các trợ từ nhấn mạnh: chính,
cái, cóc, đích, mới, hẳn…vv.. Một mặt, trợ từ là cái thêm vào, là bộ phận lời
nói có thể bị lược bỏ khi văn bản được trình bày lại ở dạng viết. Mặt khác, trợ
từ là phương tiện ngôn ngữ có tầm quan trọng đặc biệt. Trợ từ tiếng Việt vừa
là những từ công cụ chuyển tải một số ý nghĩa ngữ pháp nhất định, vừa góp
phần diễn đạt tư tưởng, tình cảm một cách tinh tế, nhẹ nhàng. Ngoài ra trợ từ
còn có chức năng “đánh dấu” (hoặc làm đầy) văn bản nói. Trợ từ là những
yếu tố làm cho ngôn ngữ nói không bao giờ bị đồng nhất với ngôn ngữ viết.
11
Có ý kiến cho rằng chính những yếu tố dư này là những yếu tố làm cho ngôn
ngữ nói luôn biến đổi một cách sinh động, mới mẻ và truyền cảm.
Có thể nói rằng sự phong phú, đa dạng của trợ từ tình thái xuất phát
từ đặc thù ngữ âm của tiếng Việt và sự phân biệt nghĩa rất tinh tế trong cảm
quan ngôn ngữ của người bản ngữ.
Ngoài ra, cũng như hầu hết các ngôn ngữ khác, “tính thô” trong văn nói
tiếng Việt cũng được thể hiện ở những chỗ ngắt quãng trong lời nói, chỗ
ngập ngừng lúc bắt đầu, những từ ngữ thiếu chính xác, những
từ ngữ có ý nghĩa chung chung không cụ thể như: Hổng chừng, đại khái như,
kiểu như, đại thể là, phải không nào; và ở những điệp từ, điệp ngữ không có
chủ ý.
1.1.2 Ngôn ngữ viết
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không chỉ khác nhau ở hình thức tồn
tại trong môi trường vật lý (âm thanh – chữ viết), mà còn ở cách chúng tái
hiện thực tại khách quan. Ngôn ngữ viết trình bày sự vật và hiện tượng dưới
dạng những sản phẩm hoàn chỉnh hơn là những quá trình. Trong khi ngôn ngữ
nói xác định lĩnh vực sáng tạo chủ yếu của nó là những quá trình, những hình
ảnh sinh động của hiện thực khách quan, thì ngôn ngữ viết được dàn trải trên
trang giấy hoặc màn ảnh, màn hình.
Ngoài những đặc điểm chung có thể quan sát được ở cả hai biến
thể nói và viết, ngôn ngữ viết còn thể hiện những điểm khác biệt chính
như sau:
1.1.2.1 Tính hoàn chỉnh và tính cố định
Tính cố định được trong không gian là một trong những ưu thế của
hệ thống chữ viết. Bản chất cố định này cho phép các thế hệ sau nghiên
cứu văn bản từ các thế hệ trước một cách thấu đáo và xem xét các ý tưởng
hoặc bình phẩm về các mối quan hệ bên trong và bên ngoài văn bản một
cách dễ dàng.
12
Ngoài ra việc lưu trữ thông tin bằng chữ viết cho phép con người phát
triển cách nhìn phê phán đối với kiến thức và những tư tưởng của các xã hội
trước và do đó giúp xã hội không ngừng phát triển. Và cũng chính nhờ đặc
trưng tĩnh trạng này mà việc nghiên cứu ngôn ngữ viết có nhiều thuận lợi hơn,
và do đó đã đạt được những thành tựu có tính tiên phong so với việc nghiên
cứu ngôn ngữ nói.
Ngôn ngữ viết đòi hỏi sự thống nhất về chuẩn mực chính tả cũng như
những quy tắc về cách viết, cách trình bày văn bản. Thực tế lịch sử đã chứng
minh rằng kể từ khi hệ thống chữ viết đảm nhận các chức năng xã hội của
mình, nó có xu hướng tạo ra sự nhất quán trong hệ thống để thuận tiện cho
việc sử dụng, và bởi vì sự tiến hóa của hệ thống chữ viết luôn gắn liền với các
quá trình chuẩn hóa. Ý kiến sau đây góp phần giải thích vì sao ngôn ngữ viết
có được ưu thế vượt trội với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh như đã nhắc
đến ở trên:
“Ngày xưa, trong truyền thống ngữ văn học thì văn bản là đối tượng
nghiên cứu và lời nói, tức là ngôn ngữ nói, không thể coi là có giá trị để
nghiên cứu như ngôn ngữ viết được. Quan niệm ấy có lý do: Ngôn ngữ viết
tức là ngôn ngữ đã thành văn chương, thành những tác phẩm biểu hiện cái
hay, cái đẹp, cái tinh hoa đã có giá trị định hình của một ngôn ngữ; ngôn ngữ
nói thì biến động, cho nên rất dễ trở thành “pha tạp”, “hư hỏng”. Vì thế trước
đây, sự chuẩn mực hóa cũng dựa trên ngôn ngữ viết để quy định cái đúng, cái
sai. Như vậy mặt chữ có ưu thế hơn hẳn mặt âm. Vả lại trong đời sống trước
đây thì ở đâu sách cũng là công cụ chủ yếu của sự truyền đạt tư tưởng văn
hóa. Vai trò quan trọng như vậy của sách cũng là vai trò quan trọng của mặt
chữ” [23 ]
Các sản phẩm bằng ngôn ngữ viết tồn tại lâu bền và cố định hơn các
sản phẩm lời nói, do đó chúng phù hợp hơn để lưu giữ các sự kiện thông tin.
Người Việt ta xưa đã nhận thức rõ về tính nhất thời và không cố định được
13
của ngôn ngữ nói (lời nói gió bay). Từ trước đến nay, tất cả các loại giấy tờ
quan trọng như văn bản pháp lý, giấy chứng nhận, bằng cấp, thư từ giao dịch
đều phải ghi lại bằng văn bản viết. Đó chính là bằng chứng về tính ưu việt và
tính đặc thù của ngôn ngữ viết mà lời nói miệng không thể thay thế được.
1.1.2.2 Tính không đối mặt và tính vững bền
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không chỉ khác nhau ở hoàn cảnh
và phương thức tạo lập văn bản của người phát ngôn, mà còn khác nhau về
các yêu cầu mà chúng đòi hỏi đối với người thụ ngôn. Trước hết, ngôn
ngữ viết không theo nguyên tắc “ở đây” và “bây giờ”. Điều này cũng góp
phần tạo ra những ý nghĩa khác biệt của giao tiếp bằng chữ viết.
Khi phát triển ngôn từ, hiển nhiên rằng con người đã biết kết hợp với
một số kiểu âm thanh thường xuất hiện trong tự nhiên, với những tiếng kêu do
cảm xúc, biết dùng điệu bộ để diễn tả kèm theo lời nói của họ. Về sau này, khi
xã hội loài người phát triển đến một độ nhất định, con người không chỉ sử
dụng ngôn ngữ âm thanh để thể hiện những mối quan hệ tâm lý, tình cảm,
những đòi hỏi thiết yếu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, mà còn có nhu
cầu truyền đạt kiến thức, kỹ năng, thông tin giữa họ với nhau và với các thế
hệ sau. Cuối cùng chữ viết xuất hiện cùng với sự phát triển của các hệ thống
dấu hiệu và văn tự của ngôn ngữ viết và cùng với sự chuyển tiếp từ nói sang
viết, chữ viết đã trở thành phương tiện hữu hiệu để chuyển giao kiến thức và
kinh nghiệm. Trong suốt tiến trình phát triển của xã hội loài người, cũng
chính nhờ vào việc ghi chép, lưu trữ thông tin bằng chữ viết mà thế hệ đi sau
có thể biết được những kinh nghiệm mà các bậc tiền bối của mình đã trải qua
và muốn truyền đạt lại cho họ. Việc ghi chép bằng ngôn ngữ viết giúp con
người lưu trữ những tư tưởng, những kiến thức lâu bền và chính xác. Do bản
chất của giao tiếp là một chiều và không trực tiếp nên người viết có thể tiến
hành giao tiếp với những người ở cách xa cả về không gian và thời gian.
14
Trong những điều kiện thông thường, khi viết, tác giả thường bị tách
biệt khỏi người đọc trong môi trường làm việc của mình. Do không có điều
kiện tương tác trực tiếp với người đọc, do không chịu sức ép về mặt thời gian,
về tâm lí mà người viết có điều kiện tổ chức các cấu trúc dày đặc thông tin,
điều mà người nói khó thực hiện trong điều kiện tiếp xúc trực tiếp và không
được chuẩn bị trước.
1.1.2.3 Tính gọt giũa
Khi sử dụng ngôn ngữ viết, người tạo lập văn bản có đầy đủ điều
kiện để chủ động tổ chức sắp xếp thông tin, thực hiện các kiểu quan hệ nghĩa
- logic giữa các câu theo một trình tự mong muốn. Khác với việc sử dụng lời
nói miệng, trong đó người nói dành nhiều thời gian để lựa chọn các chiến
lược giao tiếp và lựa chọn từ ngữ và mặt âm thanh của ngôn ngữ, người viết
thường chú ý nhiều hơn đến việc tổ chức các phương tiện ngôn ngữ sao cho
việc diễn đạt được tốt nhất. Tính gọt giũa của ngôn ngữ viết được thể hiện ở
việc kết hợp các phương tiện ngôn từ một cách công phu và sáng tạo để tạo ra
những tác phẩm có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật.
Ngoài việc sắp xếp, tổ chức các phát ngôn theo một trật tự cú pháp hợp
lí để văn bản viết trở nên hoàn chỉnh và có thể hiểu được, tính gọt giũa của
ngôn ngữ viết cũng được thể hiện ở việc lựa chọn ngôn từ phù hợp nhất với
nội dung cần biểu đạt để tạo nên xúc cảm thẩm mỹ cao nhất ở người đọc.
1.1.3 Những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
Nghiên cứu của nhiều tác giả đã chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Theo P.M.Clanay, sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có
nguồn gốc từ những nhu cầu nhận thức và xã hội khác nhau trong những cảnh
huống riêng biệt khi nói hoặc khi viết.
Tác giả W.L.Chafe lại nghiên cứu sự khác nhau trong các quá trình
tạo lập văn bản viết và văn bản nói đã dẫn đến các kết quả khác biệt trong
15
các sản phẩm lời nói (lời nói và chữ viết) như thế nào. Ông chú ý đến hai
khía cạnh chính:
1. Nói thì nhanh hơn viết (và chậm hơn đọc);
2. Người nói tương tác trực tiếp với người nghe, còn người viết thì
không.
Chafe tìm thấy các cấu trúc ngôn ngữ khác nhau giữa ngôn ngữ hội
thoại hàng ngày với văn xuôi có tính học thuật trong ngôn ngữ của cùng đối
tượng nghiên cứu. Tác giả cũng thấy rằng các cứ liệu của ngôn ngữ nói mà
ông thu thập được thường bị ngắt quãng do nhịp độ nhanh của ngôn ngữ nói.
Trong khi đó các cứ liệu của ngôn ngữ viết thì được tổ chức chặt chẽ hơn.
Chafe chứng minh rằng ngôn ngữ viết có khuynh hướng không lệ thuộc bởi
tương tác trực tiếp giữa người viết và người đọc nhờ việc sử dụng các cấu trúc
bị động và danh hóa. Trái lại, trong ngôn ngữ nói có thể tìm thấy nhiều cách
thể hiện tương tác liên cá nhân giữa người nói và người nghe bao gồm các
quy chiếu về người nói và các quá trình tạo lập văn bản của người nói, các
phương tiện tổ chức thông tin, việc sử dụng các tiểu từ để nhấn mạnh, và các
lời dẫn trực tiếp.
Nói đến sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không thể
không nhắc đến các ý kiến của nhà nghiên cứu M.K.Hallyday. Ông cho rằng
sự khác biệt này không nằm trong bản thân hệ thống ngôn ngữ mà là ở
phương tiện diễn đạt, ở ngữ cảnh và ở cách tổ chức kinh nghiệm. Cụ thể là:
ngôn ngữ viết không thu được vào trong mình những ý nghĩa tiềm tàng của
lời nói miệng, đó là những đóng góp có ngôn điệu và các phương tiện kèm
ngôn ngữ. Còn ngôn ngữ nói thì lại không chỉ ra được đường biên giới của
câu và của đoạn văn.
Theo Halliday, trong ngôn ngữ luôn có những biến thể. Các biến thể
này gồm có biến thể có tính chất xã hội, tức là phương ngữ, và các biến thể
thuộc về chức năng ngôn ngữ, tức là ngữ vực. Biến thể thuộc về chức năng là
16
cái làm cho ngôn ngữ nói và viết không bao giờ bị đồng nhất. Trong khi
phương ngữ là cái mà người nói sử dụng như một thói quen ngôn ngữ, và
được xác định tùy vào người nói là ai, thì biến thể chức năng của ngôn ngữ
được sử dụng là cái mà người nói thực sự nói ra (hoặc viết ra) lúc đó.
Với quan điểm: “Nói và viết không chỉ đơn thuần là những cách thức
để làm những việc như nhau. Nói đúng đúng hơn, chúng là những cách thức
để làm những việc khác nhau” [ 2, tr.42], Halliday đã di đến kết luận rằng hai
hình thức ngôn ngữ này khai thác những đặc điểm khác nhau của cùng một hệ
thống ngôn ngữ, và cả hai đều đạt được những thế mạnh khác nhau.
1.1.4 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và viết
Tuy có nhiều ý kiến không thống nhất về vấn đề sự khác biệt có tính
cấu trúc giữa ngôn ngữ nói và viết, song cũng không ít tác giả nhận ra mối
liên hệ chặt chẽ giữa hai biến thể có tính chức năng (nói và viết) của cùng hệ
thống ngôn ngữ. Halliday, một nhà nghiên cứu đã tìm ra rất nhiều điểm khác
biệt giữa ngôn ngữ nói và viết, cũng đã thừa nhận rằng: nói và viết đều là “sự
nói ra những cái như nhau” (nói miệng và viết là hai cách khác nhau của việc
nói ra).[2, tr.38]
Theo tác giả A.N.Morohovski, đối với những ngôn ngữ phát triển
chẳng mấy ai còn đơn giản nghĩ rằng viết chẳng qua là ghi lại lời nói miệng.
Ở đấy, chữ viết với hệ thống kí tự khác hẳn về chất liệu – chất liệu đồ hình
khác với chất liệu âm thanh – thời gian của lời miệng – đã có đời sống riêng
của mình ở những khu vực nhất định trong hệ thống của mình (như hệ thống
dấu câu, quy tắc viết hoa, viết xuống dòng…) và do đó lời viết vừa chịu tác
động của lời miệng vừa tác động trở lại lời miệng, hai bên dựa vào nhau và
nâng đỡ giúp ngôn ngữ phát triển lên hơn nữa.
Những khảo sát của các tác giả khác cũng chỉ ra rằng những cái được
cho là có liên quan đến phương thức nói có thể tìm thấy trong diễn ngôn theo
17
phương thức viết và ngược lại. G.M.Green đã có nhận xét rằng, những đặc
trưng thường được gán cho là của văn bản viết với phong cách ngôn ngữ văn
hóa gọt giũa cũng được tìm thấy trong cả hai ngữ cảnh nói và viết.
Không có lí do gì để cho rằng ngôn ngữ viết hiện nay chỉ đơn thuần là
ngôn ngữ nói được ghi chép lại. Kể từ bước đầu phát triển, ngôn ngữ viết đã
xây dựng cho mình một hệ thống hoàn chỉnh, và hệ thống này liên tục được
bổ sung bởi các hiện tượng của ngôn ngữ nói. Ngược lại, ngôn ngữ viết cũng
có sự tác động tích cực ngược trở lại đối với ngôn ngữ nói, như nâng cao địa
vị của ngôn ngữ nói theo các chuẩn mực của mình. Trong một nghiên cứu
khác, tác giả D. Biber cho rằng năng lực ngôn ngữ có liên quan đến cấu trúc
ngôn ngữ của các phát ngôn “đúng ngữ pháp”; còn năng lực giao tiếp thì có
quan hệ với hình thức và việc sử dụng của cả hai phương thức nói và viết.
Trong cơ cấu này, không nhất thiết phải xem nói hay viết là dạng nguyên cấp,
là cái chủ đạo và loại bỏ cái còn lại. Cũng theo Biber, cả nói và viết cần được
đầu tư nghiên cứu và việc phân tích đối chiếu về mặt ngôn ngữ của cả hai
phương thức trở thành một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Cách nhìn tiến
bộ của Biber đã góp phần đem lại một hướng đi đúng đắn cho những nghiên
cứu về ngôn ngữ nói và viết.
Xét cho cùng, “Nói miệng và viết là hai cách khác nhau của việc nói
ra”. Nói và viết là hai dạng tồn tại của một ngôn ngữ, trong đó dạng nói là
dạng nguyên cấp, dạng viết là dạng thứ cấp, là cái xuất hiện về sau. Trong quá
trình phát triển, chữ viết đã dần dần hình thành cho mình một hệ thống riêng
có phần khác biệt so với ngôn ngữ nói và ảnh hưởng tích cực đến dạng nói,
nâng ngôn ngữ nói cao dần trên cái thang của văn hóa ngôn ngữ. Mặt khác,
ngôn ngữ nói vẫn sống động và phát triển, là nguồn sinh lực dồi dào cung cấp
“năng lượng” sống và sáng tạo của nhân dân cho ngôn ngữ viết.
18
Như vậy, tuy có nhiều ý kiến thống nhất về sự khác biệt có tính cấu
trúc giữa ngôn ngữ nói và viết, cũng không ít tác giả nhận ra mối liên hệ chặt
chẽ giữa hai biến thể có tính chức năng (nói và viết) của cùng hệ thống ngôn
ngữ. Nhiều khảo sát về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết đã
chỉ ra rằng những cái được cho là có liên quan đến phương thức nói có thể tìm
thấy trong diễn ngôn theo phương thức viết và ngược lại. Những đặc trưng
thường được gán cho là của văn bản viết với phong cách ngôn ngữ văn hóa
gọt giũa cũng được tìm thấy trong cả hai ngữ cảnh nói và viết.
Không có lí do gì để cho rằng ngôn ngữ viết hiện nay chỉ đơn thuần
là ngôn ngữ nói được ghi chép lại. Kể từ bước đầu phát triển, ngôn ngữ viết
đã xây dựng cho mình một hệ thống hoàn chỉnh và hệ thống này liên tục được
bổ sung bởi các hiện tượng của ngôn ngữ nói. Đồng thời ngôn ngữ viết cũng
có tác động tích cực đối với ngôn ngữ nói, ví dụ như nâng cao địa vị của ngôn
ngữ nói theo các chuẩn mực của mình. Không có chữ viết thì các khái niệm
khoa học không thể được hiện thực hóa theo tư duy logic tuyến tính và chúng
ta có thể không biết suy nghĩ một cách logic và có thể đã trở lại với thời kỳ
mông muội sơ khai.
Nếu chúng ta thừa nhận – và có cơ sở để thừa nhận như vậy – rằng
ngôn ngữ viết phản ánh rõ nét hơn tính hệ thống của ngôn ngữ, còn ngôn
ngữ nói phản ánh rõ nét hơn sự hoạt động của ngôn ngữ trong tương tác
(nói như thế không có nghĩa là ngôn ngữ nói có cấu trúc kém hơn ngôn ngữ
viết), thì mối quan hệ giữa chúng có thể thấy rõ trong cách nói của F.de
Sausure: “…về phương diện lịch sử, sự kiện của lời nói bao giờ cũng đi
trước”. Và ngày nay, không mấy ai còn giản đơn nghĩ rằng viết chẳng qua
là ghi lại lời nói miệng. Ở đấy, chữ viết với hệ thống ký tự khác hẳn về
chất liệu – chất liệu đồ hình – không gian – khác với chất liệu âm thanh –
thời gian của lời nói miệng – đã có đời sống riêng của mình ở những khu
19
vực nhất định trong hệ thống của mình (như hệ thống dấu câu, quy tắc viết
hoa, viết xuống dòng..vv..) và do đó chữ viết vừa chịu tác động của lời
miệng vừa tác động trở lại lời miệng, hai bên dựa vào nhau và nâng đỡ
nhau, giúp ngôn ngữ phát triển.
Ở Việt Nam, liên quan đến những khảo sát về ngôn ngữ nói và viết
thuộc lĩnh vực phong cách học tiếng Việt có thể kể đến những đóng góp to
lớn của các tác giả như Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái
Hòa,…với sự phân biệt giữa các nhóm phong cách chức năng (phong cách
khẩu ngữ và các phong cách ngôn ngữ văn hóa gọt giũa) tồn tại ở hai dạng
thức (dạng nói và dạng viết).
Trong “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt”, tác giả đã trình bày vấn
đề phân biệt ngôn ngữ nói và viết dưới dạng thức: hình thức thứ nhất là hình
thức cụ thể, trực quan đối lập với hình thức thứ hai là hình thức khái quát.
Hình thức cụ thể phân biệt ngôn ngữ nói theo nghĩa kép (ngôn ngữ âm thanh
dùng trong hội thoại tự nhiên và ngôn ngữ viết bao gồm cả lời phát biểu trên
cơ sở bài viết sẵn), còn hình thức khái quát thì phân biệt ngôn ngữ viết trong
mọi lĩnh vực xã hội (trong mọi phong cách chức năng). Tác giả cũng cho rằng
nói và viết là hai dạng tồn tại của ngôn ngữ, trong đó dạng nói là dạng nguyên
cấp, dạng viết là dạng thứ cấp, là cái xuất hiện về sau. Trong quá trình phát
triển, chữ viết đã dần dần hình thành cho mình mộ hệ thống riêng có phần
khác biệt so với ngôn ngữ nói và ảnh hưởng tích cực đến dạng nói, nâng ngôn
ngữ nói cao dần trên từng bậc thang của văn hóa ngôn ngữ. Mặt khác ngôn
ngữ nói sống động và phát triền là nguồn sinh lực dồi dào cung cấp “năng
lượng” sống và sáng tạo của nhân dân cho ngôn ngữ viết. Nhận định này góp
phần khẳng định một cách nhìn đúng đắn về vị trí, chức năng của ngôn ngữ
nói và viết, tránh được xu hướng cực đoan chỉ đề cao ngôn ngữ nói hoặc ngôn
ngữ viết đã từng tồn tại một thời gian dài trong lịch sử.
20
1.2 Giới thiệu cảnh huống ngôn ngữ của trƣờng THPT Lƣơng
Thế Vinh
Như đã biết, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không chỉ tồn tại những
điểm khác biệt mà giữa chúng còn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ở luận
văn này, chúng tôi đi tìm hiểu mối quan hệ ấy, cụ thể là những tác động của
ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh phổ thông ở một địa chỉ cụ thể,
đó là trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh, Thành phố Thái Nguyên.
Trường Trung học phổ thông Lương Thế Vinh Từ khi ra đời đến nay đã
trải qua mười năm xây dựng và trưởng thành. Trường đóng trên địa bàn thành
phố Thái Nguyên. Hiện nay trường có ba cơ sở đào tạo với hơn 600 học sinh
trong đó số học sinh nam là 493 em ( chiếm tỉ lệ: 77,4% ), số học sinh nữ là
107 ( 22,6%). Về thành phần dân tộc, cũng như các trường trung học phổ
thông khác của thành phố, các em chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm khoảng
96%), số còn lại là các dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu (chiếm 4%). Đáng chú ý
là số các em thuộc dân tộc khác đều sinh ra và lớn lên ở thành phố cho nên
ảnh hưởng của ngôn ngữ dân tộc đối với tiếng Việt của các em là không còn.
Như vậy, 100% các em sử dụng tiếng Việt phương ngữ Bắc Bộ từ khi thơ ấu
đến khi học tiếng Việt một cách có ý thức trong nhà trường phổ thông.
Với đặc điểm của lứa tuổi trung học phổ thông, các em đại đa số đang ở
độ tuổi 16, 17, 18. Đây là độ tuổi vị thành niên rất nhạy bén với cái mới, thích
bắt chước những điều mới lạ. Đặc điểm này vừa có mặt tốt lại vừa có mặt tiêu
cực. Với ngôn ngữ, các em dễ học theo và học rất nhanh cách nói, cách viết
mà các em cho là độc đáo, gây được sự chú ý của người khác. Đây chính là cơ
hội để những yếu tố phi chuẩn mực xâm nhập vào trong cách viết, cách nói
của học sinh. Qua tìm hiểu chúng tôi cũng nhận thấy rằng, về gia đình của các
em, phần lớn bố mẹ làm nghề buôn bán tự do nên không có thời gian và ý
thức rèn luyện, phát triển ngôn ngữ cho con cái. Điều này ảnh hưởng rất nhiều
đến năng lực ngôn ngữ của các em.
21
Về năng lực tiếng Việt của học sinh trong trường, qua quá trình giảng
dạy các em chúng tôi thấy, phần đông các em sử dụng tiếng Việt khi nói và
đặc biệt khi viết còn rất non yếu. Có thể do đây là một trường dân lập, chất
lượng đầu vào không cao, kiến thức tiếng Việt của các em ở lớp dưới bị hổng
rất nặng nề. Đây cũng là thực trạng chung của học sinh trung học phổ thông.
Sự yếu kém trong nói, viết tiếng Việt làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt
cần lưu ý là do sự thiếu hiểu biết về những quy tắc chung của tiếng Việt chứ
không phải do các em cố tình nói, viết như vậy. Chính vì thế trong giáo dục
ngôn ngữ, cần chú ý cung cấp những tri thức này cho các em.
Về thái độ của học sinh đối với tiếng Việt, cấp học trung học phổ
thông là cấp học mang tính hướng nghiệp cao, hầu hết học sinh đều đã có
định hướng nghề nghiệp cho mình sau này. Xu thế chung là các em thường
chọn các ngành học như kinh tế, ngân hàng, tài chính, kế toán… cho nên học
sinh chỉ chú trọng các môn liên quan đến khối thi của mình còn đối với môn
văn cũng như tiếng Việt, các em thường không mấy hào hứng và chỉ học với
mục đích để thi đỗ tốt nghiệp. Điều này lí giải vì sao kết quả học tập của môn
học này không cao.
Đội ngũ giáo viên dạy ngữ văn của trường gồm 8 thầy cô giáo trong đó
có 4 người là giáo viên thỉnh giảng. Các thầy cô đều được đào tạo bài bản
trong các trường sư phạm, đều rất yêu thích môn văn và nhiệt tình trong giảng
dạy. Tuy nhiên có thể nhận thấy do đặc thù của trường, đội ngũ giáo viên
thỉnh giang thiếu sự quan tâm sát sao đối với học sinh (có thể do đây không
phải là trường chính của họ). Điều này phần nào ảnh hưởng đến việc dạy –
học tiếng Việt của học sinh.
Tiểu kết
Chương 1 cho thấy sự khác biệt lớn giữa ngôn ngữ nói và viết, cũng
như mối liên hệ không tách rời giữa hai mặt nói và viết. Như đã phân tích ở
trên, sự khác biệt giữa các sản phẩm nói và viết không chỉ giới hạn ở những