Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Dau quanh vai chua the nao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.66 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Đau quanh vai chữa thế nào?


Đau vùng quanh vai là triệu chứng do nhiều nguyên nhân gây nên trong đó hội
chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai là nguyên nhân tương đối thường gặp, đặc biệt ở
bệnh nhân tuổi trung niên và quan trọng hơn là có thể điều trị có hiệu quả. Hội
chứng này là tình trạng khoang giữa mỏm cùng vai và các gân cơ chóp xoay bị thu
hẹp, tình trạng này dẫn đến các bệnh lý vùng vai như: viêm túi hoạt dịch, viêm gân,
viêm khớp và tổn thương gân cơ chóp xoay.


<b>Triệu chứng của hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai</b>


Khi bị hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai, bệnh nhân có biểu hiện đau ở khớp
vai khi dang tay hay đưa trước cánh tay. Hầu hết bệnh nhân than phiền bị khó ngủ
do bị đau khi nằm nghiêng qua bên vai bị đau. Khi có cơn đau chói xuất hiện khi cố
gắng xoay tay ra túi quần phía sau là dấu hiệu khá rõ ràng của hội chứng chèn ép
dưới mỏm cùng vai. Dần dần các cơn đau trở nên nặng hơn, bệnh nhân không dám
cử động vai dẫn đến khớp vai bị cứng. Nếu vai trở nên yếu và bệnh nhân không thể
tự dang tay được thì có thể gân chóp xoay đã bị rách.


Chụp X quang khớp vai là cần thiết để tìm các dấu hiệu bất thường của cấu trúc
xương hay viêm khớp. Một số người có tình trạng mỏm cùng hạ thấp hơn so với
bình thường làm hẹp khoang dưới mỏm cùng được xác định trên Xquang. Gai
xương nếu có cũng sẽ thấy rõ trên X quang.


Chụp MRI được chỉ định khi nghi ngờ có tổn thương rách chóp xoay, viêm gân hay
bệnh lý ở sụn viền. Đôi khi siêu âm vùng vai cũng cho thấy được hình ảnh rách
chóp xoay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hội chứng hẹp khoang dưới mỏm cùng vai, do đâu?


Các động tác của khớp vai, đặc biệt là động tác đưa tay quá đầu được thực hiện bởi


2 nhóm cơ chính là: cơ delta và nhóm các cơ chóp xoay (gồm có 4 cơ là cơ trên gai,
cơ dưới gai, cơ dưới vai và cơ tròn bé). Nhóm các cơ chóp xoay hợp với nhau tạo
thành một gân rất chắc bám vào đầu trên xương cánh tay gọi là gân cơ chóp xoay.
Khi thực hiện động tác dạng cánh tay quá đầu, các cơ này trượt trong khoang dưới
mỏm cùng vai. Khoang này nằm dưới mỏm cùng vai, trong khoang có gân chóp
xoay và các túi hoạt dịch có tác dụng bơi trơn khi gân cơ chóp xoay di chuyển. Khi
khoang này bị hẹp lại, thường do nguyên nhân thoái hoá hoặc chấn thương, gân cơ
chóp xoay và các túi hoạt dịch bị chèn ép, từ đó sẽ dẫn đến viêm túi hoạt dịch, viêm
gân chóp xoay. Nặng hơn sẽ dẫn đến rách chóp xoay.


Các nguyên nhân dẫn đến hẹp khoang dưới mỏm cùng vai có thể là chấn thương,
các động tác lặp đi lặp lại (thường gặp ở những người chơi các môn thể thao phải
đưa tay quá đầu hoặc người lao động thường xuyên phải có các động tác dang tay
quá đầu). Một nguyên nhân khác cũng tương đối thường gặp là sự hình thành các
chồi xương trong tổn thương của bệnh lý thoái hoá.


<b>Khi nào cần phải phẫu thuật? </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nếu các biện pháp trên không mang lại hiệu quả, bác sĩ có thể tiêm steroid trực tiếp
vào khoang dưới mỏm cùng. Tuy nhiên steroid có thể gây đứt gân cũng như các tác
dụng phụ về lâu dài nên nó khơng phải là phương pháp điều trị lâu dài cho hội
chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai cũng như các bệnh lý khác ở vùng khớp vai.
Phẫu thuật được chỉ định khi khơng có cải thiện nào sau 6 tháng đến 1 năm điều trị
bảo tồn. Có hai phương pháp hiện đang được sử dụng là mổ mở và mổ nội soi, cả
hai phương pháp đều có thể sửa chữa các tổn thương và làm giảm áp lực đè ép lên
túi hoạt dịch và chóp xoay. Ngày nay, phẫu thuật với kỹ thuật nội soi phổ biến hơn
do những ưu việt trong việc cải thiện các triệu chứng đau và tính thẩm mỹ. Mục
tiêu của phẫu thuật là nhằm làm rộng khoảng cách giữa mỏm cùng và gân chóp
xoay bằng cách làm sạch các tổn thương thoái hoá, các chồi xương và một phần
của mỏm cùng vai. Nếu có tổn thương rách chóp xoay có thể sẽ được phục hồi


đồng thời. Sau mổ cánh tay sẽ được treo hay mang nẹp để bất động. Hầu hết các
trường hợp sẽ được tập vật lý trị liệu nhằm tránh cứng khớp, hạn chế phù nề sau
mổ. Chườm lạnh sau mổ giúp co mạch máu làm hạn chế phản ứng viêm đau sau
mổ. Giai đoạn sau là tập mạnh gân cơ chóp xoay. Cần tập phục hồi chức năng theo
sự hướng dẫn của kỹ thuật viên vật lý trị liệu.


<b>Điều trị phục hồi chức năng</b>


Điều trị phục hồi chức năng đóng vai trị rất quan trọng, khơng chỉ trong các trường
hợp không phẫu thuật mà ngay cả trong trường hợp sau phẫu thuật. Phục hồi chức
năng nhằm mục đích tránh teo cơ và cứng khớp đồng thời phục hồi sức mạnh của
các cơ sau một thời gian bị bệnh đã bị kém đi. Đối với phục hồi chức năng khớp
vai, quá trình này sẽ diễn ra rất chậm, bắt đầu là những bài tập vận động thụ động
kéo dài trong vài tuần, sau đó mới là những bài tập chủ động. Q trình tập này có
thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng tuỳ theo việc có thực hiện phẫu thuật tạo hình
lại gân chóp xoay hay khơng.


Trong một số trường hợp, tổn thương của chóp xoay lớn hoặc là diễn biến đã lâu,
tình trạng cơ yếu kéo dài, việc phục hồi chức năng có thể chỉ cải thiện một phần,
đơi khi bệnh nhân phải tập để thay đổi thói quen sử dụng cánh tay bị tổn thương.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×