Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TL DAY THEM VAN 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.24 KB, 32 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề : </b>

<b>Phân tích "Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính"</b>


<b>của Phạm Tiến Duật</b>



<b>DÀN Ý :</b>


I. Mở bài :


- Hoàn cảnh sáng tác : năm 1969, trong cuộc chiến đấu gian khổ của những chiến
sĩ lái xe đường Trường Sơn thời chống Mỹ.


- Bài thơ hay trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 -
1970, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật.


II. Thân bài :


1. Từ hình ảnh những chiếc xe khơng kính độc đáo, bài thơ khắc hoạ vẻ đẹp hình
ảnh, tính cách dũng cảm, lạc quan, u nước, giàu tình đồng chí đồng đội của
những người chiến sĩ lái xe.


2. Trên những chiếc xe bị bom đạn ác liệt của kẻ thù tàn phá, khơng cịn kính chắn
gió, khơng mui không đèn, thùng xe bị xước,...các chiến sĩ lái xe vẫn hiên ngang,
bất chấp gian khổ hy sinh, quyết tâm hồn thành nhiệm vụ để giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.


3. Bút pháp hiện thực, tả thực khơng cường điệu khơng mỹ lệ hóa. Ngơn ngữ thơ
mộc mạc như lời nói hàng ngày, như văn xi, nhưng giàu nghệ thuật, nhịp điệu,
nhạc điệu linh hoạt.


- Giọng điệu sơi nổi, tinh nghịch, vui tươi, có chút ngang tàng của chất lính.
- Lời thơ giàu suy tưởng, câu thơ cuối toả sáng chủ đề, đặc sắc với nhãn tự trái
tim.



III. Kết bài :


- Bài thơ tái hiện hành trình gian khổ nhưng rất anh hùng của các chiến sĩ vận tải
đoàn 559 trên tuyến lửa Trường Sơn những năm chống Mỹ.


- Kết hợp giữa hiện thực hào hùng với cảm hứng lãng mạn cách mạng, âm hưởng
sử thi chặng đường 30 năm chống xâm lược của dân tộc 1945 - 1975.


II. <b>DÀN Ý CHI TIẾT :</b>


I. Mở bài :


- Hoàn cảnh sáng tác : năm 1969, trong cuộc chiến đấu gian khổ của những chiến
sĩ lái xe đường Trường Sơn thời chống Mỹ.


- Bài thơ hay trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 -
1970, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật.


Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mỹ
"xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai"(Tố Hữu), Phạm
Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui
tươi, giàu suy tưởng. "Bài thơ về tiểu đội khơng kính" (trong chùm thơ được giải
nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm
1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.


II. Thân bài :


1. Cái độc đáo đã bộc lộ ngay từ nhan đề bài thơ .



- Hai chữ bài thơ nói lên cách khai thác hiện thực : không phải chỉ viết về những
chiếc xe khơng kính, chỉ viết về hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu khai
thác chất thơ vút lên từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam vượt lên
những khắc nghiệt của chiến tranh.


2. Sáng tạo độc đáo nhất là hình ảnh những chiếc xe khơng kính :


- "Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính" : câu thơ như một câu văn xi.
- Hình ảnh thơ cũng lạ :


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay


(Chiếc xe đưa Thuý Kiều ra đi với Mã Giám Sinh ; Truyện
Kiều - Nguyễn Du)


Tế Hanh trong bài Quê hương cũng tả con thuyền rất lãng mạn :


Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang


Và chính Phạm Tiến Duật trong bài thơ "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây" :


Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ.


+ Cịn hình ảnh những chiếc xe khơng kính là hình ảnh rất thực. Giọng thơ thản nhiên, chất
thơ rất đẹp từ hình ảnh ấy.


- Nguyên nhân : "Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi"



- Khơng có kính, khơng có đèn, khơng có mui xe, thùng xe có xước.
3. Vẻ đẹp của hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn:
- Tư thế ung dung mà hiên ngang :


+ Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.


+ Điệp từ "nhìn" như một niềm sảng khối bất tận ; "nhìn thẳng"- hiên ngang.
+ Diễn tả cụ thể cảm giác của người lính lái xe :


Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.


Ấn tượng thực, qua cảm nhận của tác giả trở thành hình ảnh lãng mạn.
- Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy :


Khơng có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già


Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.


Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn mưa xối như ngồi trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khơ thơi



+ "Khơng có kính, ừ thì...,"chưa cần ..." Những điệp khúc tạo nên giọng điệu ngang tàng, bất
chấp.


+ Niềm vui , lạc quan của người lính :
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi


Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy


"Lại đi, lại đi, trời xanh thêm" : Câu thơ với năm thanh bằng và điệp ngữ lại đi tạo âm điệu
thanh thản, nhẹ nhàng. Hình ảnh bầu trời xanh phơi phới một niềm lạc quan, yêu đời.
- Điều làm nên sức mạnh giúp người lính vượt qua khó khăn ấy chính là lịng u nước, là ý
chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc :


Khơng có kính, rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước :
Chỉ cần trong xe có một trái tim.


+ Nghệ thuật tương phản giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái
khơng có và cái có.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

* Liên hệ thơ Tố Hữu :
Tố Hữu đã ca ngợi :


Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng


Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo
III. Kết bài :


- Đánh giá bài thơ và phong cách thơ Phạm Tiến Duật:


"Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm
Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Lửa đèn, Trường Sơn Đông
Trường Sơn Tây v.v.. Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới
của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự
giản dị của ngơn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã
khắc hoạ, tôn vinh vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng
và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống Mĩ xâm lược
1945 - 1975.


<b>BÀI VIẾT THAM KHẢO :</b>


Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mỹ "xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai"(Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có
giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. "Bài
thơ về tiểu đội khơng kính" (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm
1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.


Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe khơng kính chắn gió - hình ảnh có sức hấp dẫn đặc
biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca
thường được mỹ lệ hố, tượng trưng ước lệ chứ khơng được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần
trụi như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả "anh bộ
đội cụ Hồ thời chống Pháp" của Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi
nhận, giải thích về "những chiếc xe khơng kính" thật đơn giản, tự nhiên :


Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính


Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi


Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở
thành hư hỏng : khơng cịn kính chắn gió, khơng mui khơng đèn, thùng xe bị xước. Hìmh ảnh
những chiếc xe khơng kính khơng hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn
lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến
đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để
đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực,
nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom
đạn giặc Mỹ.


Mục đích miêu tả những chiếc xe khơng kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là
những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Trong buồng lái
khơng kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên
ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ
nhân hoá, so sánh và điệp ngữ :


Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm
của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ "gió","con
đường" đến cả "sao trời", "cánh chim". Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng
mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào buồng
lái" thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh "con đường chạy thẳng vào tim" gợi liên tưởng về con


đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng.


Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe ln lạc quan tin tưởng chiến thắng.
Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp,
tự tin, có tính cách ngang tàng:


Khơng có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già


Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.


Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khơ, mau thơi.


Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất
lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước
gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại "tiếng hát át tiếng bom", họ xem đây là cơ hội để thử thách
sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ
"nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy.


Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của
chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng
một nhiệm vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình :


Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới


Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hồng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.


"Trời xanh thêm" vì lịng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang
đến. "Trời xanh thêm" vì lịng người ln có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những
người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng
đội, có lịng u nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải
phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc :


Khơng có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

"trái tim" gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ "chỉ cần
trong xe có một trái tim" là chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng
khơng phải là vũ khí, cơng cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có
thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, "con mắt của thơ", làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp
của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận
tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh
hùng như Tố Hữu đã ca ngợi :


Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo



"Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm
Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông
Trường Sơn Tây, Nhớ,...Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới
của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự
giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã
khắc hoạ, tơn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hồ nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng
và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945
- 1975.


<b>Đề bài </b>

<b>Cảm nhận về tình quê của nhân vật Nhĩ </b>



<b> trong truyện ngắn “Bến quê” - Nguyễn Minh Châu.</b>


<b>Bài làm: </b>


“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi


Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”


(trích Quê hương- Đỗ Trung Quân)


Quê hương vốn rất gần gũi, bình dị nhưng cũng rất đổi thiêng liêng trong tình cảm mỗi người
Việt Nam. Mn ngàn tình cảm của con người sẽ hội tụ trong tình yêu quê hương đất nước.
Bởi thế, quê hương đã trở thành đề tài muôn thuở trong thơ ca Việt Nam. Truyện ngắn “Bến
quê” của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm tiêu biểu đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lịng
đọc giả. Truyện là tình q của Nhĩ – nhân vật chính của truyện - một tình yêu quê hương, đất
nước mới lạ trong văn học Việt Nam.


“Bến quê” là tình cảm mà Nguyễn Minh Châu đã gởi gắm qua nhân vật Nhĩ - một người từng


đi đến khắp nơi tận cùng của Trái đất - nhưng đến cuối đời, căn bệnh hiểm nghèo đã cột chân
anh vào chiếc giường bệnh, không thể nhúc nhích được. Trong hồn cảnh đặc biệt này, anh
mới nhận ra những nét gần gũi, bình dị và đáng yêu của quê hương mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

hiện hữu bao lâu nay như thế đấy chứ? Đó chỉ là cái nhìn của một con người có dự cảm sắp
phải đi xa, đến một nơi rất xa, xa lắm…. Phải chăng Nhĩ đã nhận ra bằng trực giác của mình
một điều: mình khơng cịn sống được bao lâu nữa? Dự đoán của Nhĩ như thực hơn, rõ hơn
sau những câu hỏi anh đã hỏi Liên - vợ mình: “Hơm nay đã là ngày thứ mấy rồi nhỉ?”. (Hình
như Liên đã hiểu những gì Nhĩ đang nghĩ nên chị không trả lời ?) Không phải ngẫu nhiên mà
những bông hoa bằng lăng trong mắt Nhĩ trở nên đậm sắc hơn, tiếng đất lở ở bãi bồi bên kia
sông dội đến tai Nhĩ âm vang hơn, hay Nhĩ hỏi Liên những câu như thế … là dự báo về quãng
đời còn lại của Nhĩ một cách thật kín đáo, thầm lặng. Những hình ảnh mang tính biểu tượng
đã được Nguyễn Minh Châu sử dụng thành công.


Một con người luôn đi đến những nơi xa lạ như Nhĩ mà lại bị bó chân trên giường bệnh thì
khơng đau khổ nào bằng. Nhưng chính những ngày đó Nhĩ mới được sống bởi lẽ anh đã nhìn
rõ được hình ảnh của quê hương. Đó là những bơng hoa bằng lăng, là con sơng, là bãi bồi, là
vòm trời quê hương… Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên mặc áo vá. Người vợ mà mà bấy lâu nay anh
chưa quan tâm hết mực nay mới thật sự hiện hữu trước mắt anh… một hình dáng dịu hiền,
một dáng dấp tần tảo, chịu đựng và giàu đức hy sinh. Mọi sinh hoạt của Nhĩ đều nhờ vào sự
chăm sóc của Liên. Đến lúc này anh mới thấy thương và yêu vợ hơn bao giờ hết. Dù bao năm
tháng đã qua đi nhưng nét đẹp của Liên không hề thay đổi ,cũng như quê hương vậy, vẫn
chan chứa nghĩa tình.


Quê hương mình sao đẹp thế? Nhĩ càng ngắm càng yêu quê hương, yêu thương những gì gần
gũi, bình dị của quê mình. Khát khao cuối cùng của Nhĩ là được đặt chân lên bãi bồi bên kia
sông Hồng nhưng anh biết điều này không thể. Anh đã nhờ con anh - Tuấn , thực hiện ước
nguyện này giúp anh. Nhưng nghịch lý thay! Con anh cũng không làm được điều mà cha mình
mong muốn. Tuấn chưa hiểu được ước muốn của cha và ra đi một cách miễn cưỡng. Và anh
đã sa vào đám cờ thế trên đường để thoả mãn nhu cầu ham chơi, thích khám phá của mình.


Nhĩ khơng trách Tuấn bởi lẽ anh cũng từng như thế. Hoạ chăng chỉ có những người từng trải
như anh mới hiểu hết được sự đời, mới thấy được những gì mình cần phải làm? Lúc này, Nhĩ
mới nhận ra một triết lý. Con người ta thật khó tránh khỏi những cái “vịng vèo”, “chùng
chình” trên đường đời để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Những nghịch lý
trong cuộc đời mỗi người khơng ai có thể lường hết được. Và hai tình huống nghịch lý trong
truyện này cũng là một minh chứng để mỗi người biết cách sống tốt hơn, sống đẹp hơn.
Mong ước cuối cùng của Nhĩ khơng thể thực hiện được. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ một cách xa
xăm, đầy mê say. Anh mải mê hướng mắt theo cánh buồm. Hành động cuối cùng của Nhĩ:


“đu mình ra ngồi cửa sổ, đưa bàn tay ra ngoài vẫy vẫy như đang ra hiệu cho một ai đó” có
vẻ kỳ quặc. Nhưng có thể Nhĩ đang nơn nóng thúc giục con trai mình hãy nhanh chóng để
khỏi lỡ chuyến đị; hay đó là một sự đánh thức con người hãy sống khẩn trương, sống có ích,
đừng sống vơ bổ và tránh xa những cái “vịng vèo”, “chùng chình” trong cuộc đời kia.


Nhưng rồi con đò cũng cập bến và Nhĩ cũng ra đi trong nỗi niềm tiếc nuối, ân hận.
“Bến quê”- nơi neo đậu cuối cùng của mỗi con người. Nhĩ đã mãi mãi đi vào cõi vĩnh hằng
nhưng trong anh cịn bao nuối tiếc. Hồn cảnh đặc biệt đã đánh thức Nhĩ để anh nhận ra
được những giá trị gần gũi, bình dị của quê hương, để anh thêm yêu quê hương mình. Con
người ta ai cũng thế, bao lần vấp ngã trên đường đời nhưng chủ yếu là họ có vực dậy mà đi
tiếp hay không. Nhân vật Nhĩ trong truyện đã theo đuổi những ước mơ xa vời nơi chân trời
tươi đẹp nhưng anh lại đánh mất hình ảnh của quê hương, của người thân. Đến lúc nhận ra
mọi việc thì đã quá muộn màng. Dù mãi mãi lìa xa quê hương nhưng anh được nằm dưới
khoảng đất yêu thương của quê mình, được đất mẹ che chở đến ngàn thu, đây cũng là một
niềm hạnh phúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i><b> </b></i>

<i><b>Đề</b></i>

<i><b> </b></i>

<i><b> </b></i>

<b>Suy nghĩ về nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa </b>



<b>Pa” </b>



Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa ”của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn


vương trước vẻ đẹp của những con người ,trước những tình cảm chân thành, nồng hậu
trong một cuộc sống đầy tin yêu .Dù được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của “Lặng
lẽ Sa pa” cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục.Trong đó anh thanh niên làm
cơng tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai
mờ .


Trước tiên anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời,yêu nghề ,ở tinh thần trách nhiệm
cao với công việc lắm gian khổ của mình.Trong lời giới thiệu với ơng hoạ sỹ già và cô
gái,bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”.Đã mấy năm nay anh “sống một
mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”.Cơng
việc hàng ngày của anh là“đo gió,đo mưa ,đo chấn động mặt đất”rồi ghi chép,gọi vào
máy bộ đàm báo về trung tâm.Nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im
đáng sợ”.Vậy mà anh rất yêu công việc của mình.Anh quan niệm:“khi ta làm việc ta với
cơng việc là đơi,sao gọi là một mình được?”Anh hiểu rõ : “Công việc của cháu gian khổ
thế đấy,chứ cất nó đi,cháu buồn đến chết mất”.Sống một mình nhưng anh khơng đơn
độc bởi “lúc nào tơi cũng có người để trị chuyện.Nghĩa là có sách ấy mà ”.Tuy sống
trong điều kiện thiếu thốn nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc,biết sắp
xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định.Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách,thỉnh
thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt
nỗi nhớ nhà.


Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cơ đơn.Nhưng anh
thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “ thèm người ”,lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự
quan tâm đến người khác một cách chu đáo.Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu ,lòng
mến khách ,nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sỹ già
và cô kỹ sư trẻ.Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh,tốt lên qua nét mặt,cử
chỉ:anh biếu bác lái xe củ tam thất,mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ,hồ hởi đón
mọi người lên thăm “nhà”,hồn nhiên kể về công việc,đồng nghiệp và cuộc sống của
mình nơi Sa pa lặng lẽ.Khó người đọc nào có thể quên,việc làm đầu tiên của anh khi có
khách lên thăm nơi ở của mình là:hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần


đầu quen biết.Bó hoa cho cơ gái ,nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho
hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà cịn là kỷ niệm
của một tấm lòng sốt sắng , tận tình đáng q .


Cơng việc vất vả ,có những đóng góp quan trọng cho đất nước nhưng người thanh niên
hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn.Anh cảm thấy đóng góp của mình bình
thường,nhỏ bé so với bao ngừơi khác.Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sỹ già
phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay. Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu
cho ông hoạ sỹ những người khác đáng vẽ hơn mình:“Khơng,khơng ,bác đừng mất cơng
vẽ cháu,để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn.”Đó là ơng kỹ sư ở
vườn rau vượt qua bao vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn,to hơn.Đó là “người cán bộ
nghiên cứu sét,11 năm không xa cơ quan lấy một ngày”…Dù cịn trẻ tuổi,anh thấm thía
cái nghiã,cái tình của mảnh đất Sa pa,thấm thía sự hy sinh lặng thầm của những con
người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước .


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình khơng bao giờ thể hiện hết được và cịn làm cơ kỹ sư
trẻ lòng bao cảm mến bâng khuâng …Với truyện ngắn này ,phải chăng nhà văn muốn
khẳng định:Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu,hy sinh lớn lao và
thầm lặng? Những con người cần mẫn,nhiệt thành như anh thanh niên ấy khiến cuộc
sống này thật đáng trân trọng, thật đáng tin yêu .


<i><b>Phân tích bài thơ Ánh Trăng - Nguyễn Duy</b></i>



<i><b>Bài làm</b></i>


Có nhiều tác phẩm vừa mới được ra đời đã bị chết yểu . Có nhiều tác phẩm gây
dư luận xôn xao một thời rồi bị độc giả quên lãng cùng thời gian . Nhưng cũng có
những bài thơ , truyện ngắn để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc .
Bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy chính là tiêu biểu cho điều đó



Tác phẩm ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh , 3 năm sau ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng . Bài thơ như một lời tâm sự chân thành : Vầng trăng
không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà nó cịn gắn bó với tuổi thơ , với
những ngày kháng chiến gian khổ . Vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao
giờ có thể quên bởi nó là một kỷ niệm thiêng liêng. Nó đem lại ánh sáng xua tan
đêm tối . Nó là tri kỉ. Và khổ thơ đầu hiện lên nhằm khắc họa điều đó:


<i>Hồi nhỏ sống với đồng</i>
<i> Với sống và với bể</i>
<i> Hồi chiến tranh ở rừng</i>


<i>Vầng trăng thành tri kỉ</i>


Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không giản bao la : với đồng với sông và
với bể . Trăng rất gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu . Trăng gần với đồng
ruộng, trăng gắn với sông xanh biển cả . Dù ở đâu đi đâu trăng cũng cạnh bên.
Nhưng phải đến khi chiến tranh loạn lạc, rừng trở thành nơi ở, nơi che chở cho
người lính thì mới nhận ra rằng cái vai trị lớn lao của vầng trăng ấy . Trăng đã soi
sáng đường ta đi . Vầng trăng đã thành tri kỉ, thành đôi bạn không thể thiếu nhau .
Trăng chia ngọt sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ:


<i>Trần trụi với thiên nhiên</i>
<i> Hồn nhiên như cây cỏ</i>
<i> Ngỡ không bao giờ quên</i>
<i> Cái vầng trăng tình nghĩa</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

văn . Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên, trăng hóa vào thiên nhiên và hòa
tan vào cây cỏ . Vầng trăng chính là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy , đã
trở thành " vầng trăng tri kỉ " " vầng trăng tình nghĩa " ngỡ khơng bao giờ quên .
Ấy thế mà có những thời gian tác giả đã lãng quên cái vầng trăng tình nghĩa


đó ...


<i>Từ hồi về thành phố </i>
<i> Quen ánh điện cửa gương</i>
<i> Vầng trăng đi qua ngõ</i>
<i> Như người dưng qua đường</i>


Trước giây tác giả sống gần gũi với thiên nhiên , với sông, với bể, với rừng. Bây
giờ thời gian dần trôi, môi trương sống thay đổi nên lòng người đã đổi thay. Tác
giả đã quen với cái nếp sống có “ánh điện cửa gương” ấy rồi. Quen “ánh điện cửa
gương” cũng như đã quen sống trong một môi trường đầy đủ tiện nghi vật chất ....
Cho nên dần dần cái vầng trăng ngày nào đã bị niềm vui hưởng thụ cuộc sống
sung túc che khuất mất . Đúng như vậy! Vầng trăng tượng trưng cho những tháng
năm gian khổ, là tình đồng chí được hình thành trong những năm tháng chiến
tranh . Nhưng giờ đây hịa bình lập lại lịng người đổi thay là chuyện thường tình .
Bởi thế người đời thường nhắc nhau:


<i>Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay</i>


<i>Qua sơng nhớ suối, có ngày nhớ đêm…</i>


Vầng trăng đã khơng cịn vị trí nào trong tim tác giả nữa. Bút pháp nhân hóa
“vầng trăng đi qua ngõ " đã làm nỗi bật điều đó. Hằng đêm trăng vẫn cứ đi, vẫn
mang chút ánh sáng nhỏ nhoi chiếu sáng bầu trời đêm tối . Vậy mà tác giả đã bị
cuộc sống xa hoa làm mờ mắt . Khơng cịn nhớ đến trăng nữa. Giọng thơ như giãi
bày tâm sự, nhà thơ như tự trò chuyện với mình. Chất trữ tình trong lời thơ trờ
nên sâu lắng chân thành… Rồi bất chợt duyên số đến. Tác giả đã gặp lại cái vầng
trăng tình nghĩa đó:


<i>Thình lình đèn điện tắt</i>


<i> Phịng buyn đinh tối om</i>
<i> Vội bật tung cửa sổ</i>
<i> Đột ngột vầng trăng tròn</i>


Vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong cái khoánh khắc ấy, giây phút ấy ... Tác giả
bàng hoàng trước vẻ đẹp huyền diệu của vầng trăng. Bởi đã quen với ánh điện cửa
gương rồi, bây giờ bỗng gặp lại ánh sáng của vầng trăng, bao kỉ niệm xưa bỗng ùa
về làm tác giả rưng rưng nước mắt…


<i>Ngửa mặt lên nhin mặt</i>
<i> Có cái gì rưng rưng</i>
<i> Như là đồng là bể</i>
<i> Như là sông là rừng?</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>sông là rừng".</i> Đoạn thơ hay ở chỗ chất bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ở
tính hình tượng hàm súc và ngơn ngữ hình ảnh thơ giản dị đi vào lòng người ,
khắc sâu được điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta 1 cách nhẹ nhàng mà thấm
thía.


Khổ cuối bài thơ hàm nghĩa độc đáo, mang lại chiều sâu tư tưởng triết lí nhân
sinh:


<i>Trăng cứ trịn vành vạnh</i>
<i>Kể chi người vơ tình</i>


<i>Vầng trăng im phăng phắc</i>
<i>Đủ cho ta giật mình</i>


Bao nhiêu năm tháng đã và sẽ trôi qua … Con người sẽ già đi, nhưng vầng trăng
thì bất tử! Trăng vẫn cứ vậy không chút đổi thay. Trăng cũng giống như trái đất


bao la này. Vầng trăng vẫn cứ tròn- tròn 1 cách tự nhiên , tròn như quả đất "
chúng mình " , trịn vành vạnh! Đó chỉ là nghĩa thực . Ngịi bút của Nguyễn Duy
tài hoa , những tư tưởng thầm nhuần chất nhân văn được tác giả hàm ý vào câu
thơ giản dị và gần gũi ấy. Tác giả muốn nói lên đức tính cao thượng của vầng
trăng . Dù lịng người có đổi thay , dù ai có bạc tình bạc nghĩa , khơng ghi nhớ
đến công lao của trăng " Nhưng vầng trăng sẽ không màng đến , sẽ khoan dung độ
lượng bỏ qua tất cả . Ta thấy quan niệm của vầng trăng và của Lục Vân Tiên có
điểm tương đồng :


<i> Làm ơn há dễ trông người trả ơn</i>


Và như ông ngư nữa


<i>Một câu danh lợi chi sờn lòng đây</i>


Lục vân Tiên từng cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi bọn cướp Phong Lai , chàng cướp
chỉ vì " thấy chuyện bất bình chẳng tha " chớ khơng vì lợi lộc gì cả. Chàng là 1
thư sinh nho nhã vậy mà vẫn khơng cầm lịng trước chuyện bất bình, ra tay diệt
bọn ác cứu người hiền. Ơng Ngư thì gia cảnh nghèo khó nhưng khi gặp Vân Tiên
sa cơ đã ra sức cứu giúp , cho dù thân thể Vân Tiên như " trái mùi trên cây ". Cả 3
hình tượng ấy đều giống nhau . Đều ra sức giúp ích cho đời mà khơng mong lợi
lộc gì cho riêng mình. Và trăng cịn mãi sự chung thủy , khơng bao giờ đổi thay.
Dù lịng người thay đổi thì trăng vẫn vậy . Trăng sẽ khơng chấp người vơ tình , sẽ
im phăng phắc ... Hành động đó là 1 nghĩa cử cao đẹp, là tấm gương sáng để thế
hệ trẻ noi theo . Nhưng chính điều đó đã làm cho người lính - vốn bị lạc vào lối
sống phồn hoa đô thị , quên 1 thời gắn bó chia ngọt sẻ bùi với vầng trăng phải "
giật mình " . Giật mình vì tính chung thủy của vầng trăng , giật mình vì sự khoan
dung độ lượng . Chắc hẳn người lính trẻ này sẽ có 1 bài học q giá về đạo lí làm
người . Ln ln ghi nhớ công ơn người đi trước và những người làm ơn với
mình <i>. " ăn quả nhớ kẻ trồng cây ", " ng nước nhớ nguồn "</i> chính là những đạo lí


đã vang lên từ những bài thơ như thế này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

thơi gian kỉ niệm ? Và ông muốn đền đáp lỗi lầm của mình đối với vầng trăng tình
nghĩa bằng giọng thơ bộc bạch nhỏ nhẹ mà lắng sâu này?


<b>Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em </b>


<b>về nhân vật Phương Định</b>



Hình ảnh Phương Định-một trong ba cô gái của "tổ trinh sát mặt đường" trong
truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" đã được nhà văn Lê Minh Khuê khắc họa
rất thành cơng.Thật vậy,hình ảnh Phương Định hiện lên vơ cùng đáng yêu đáng
mến, một cô gái Hà Nội xinh xắn nhưng chỉ khiêm tốn nhận mình là "khá" với
"hai bím tóc dày, tương đối mềm" , "cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn",
cịn đơi mắt, đôi mắt tuyệt đẹp-đôi mắt mà các anh lái xe vẫn hết lời khen ngợi
"Cơ có cái nhìn sao mà xa xăm!".Một vẻ đẹp thật nữ tính và có chiều sâu! Bước
chân vào chiến trường,hành trang duy nhất mang theo là những kỉ niệm về những
ngày tháng hồn nhiên của thời thiếu nữ bên gia đình trong "một căn nhà nhỏ" để
rồi cô chợt nhớ nhà, nhớ mẹ,"nhớ những ngôi sao to trên bầu trời thành phố",nhớ
"cái vòm tròn nhà hát" hoặc "bà bán kem..."...Tất cả như ùa về trong giây lát. Phải
chăng chính những kỉ niệm hồn nhiên,trong sáng của thời thiếu nữ nơi quê nhà
thân thương ấy đã làm dịu mát lịng cơ ngay giữa chiến trường bom đạn ác liệt?
Phương Định cịn rất thích hát, cơ thích "dân ca quan họ mềm mại dịu


dàng","thích Ca-chiu-sa của Hồng Quân Liên Xơ", thích "dân ca Ý trữ tình giàu
có" , cô hát với một niềm lạc quan , yêu đời tha thiết , tiếng hát át tiếng bom, và
cái ác liệt của chiến tranh cũng đâu thể ngăn cản được niềm vui thích rất đỗi ngây
thơ đến trẻ con của Định , cơ "vui thích cuống cuồng" khi bắt gặp một trận mưa
đá trên cao điểm. Chao ơi, có ai ngờ rằng ở người con gái tưởng chừng như kiêu
kì ấy lại có một tình đồng chí , đồng đội gắn bó keo sơn ruột thịt như chị em hơn
bao giờ hết , và "thực tình trong suy nghĩ của cơ những người đẹp nhất , thông


minh , can đảm và cao thượng nhất là những người mặc qn phục có ngơi sao
trên mũ".Chẳng những Phương Định là một cơ gái có tâm hồn trong sáng, nhiều
mơ ước,nhiều xúc cảm mà cơ cịn là một nữ thanh niên xung phong hết sức can
trường quả cảm nữa.Đáng khâm phục biết bao khi người con gái đất Hà thành ấy
đã rời chiếc ghế nhà trường xung phong vào phục vụ tuyến đường Trường Sơn
máu lửa để rồi từng ngày chạy trên cao điểm,từng giờ từng phút đếm bom


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

tóc dày" đang "ngồi bó gối mơ màng" bên khung cửa sổ vẫn còn mãi trong lòng
người đọc.


<b>Phân tích bài thơ:</b>

<b>MÙA XUÂN NHO NHỎ</b>



<i><b> Thanh Hải</b></i>



<i><b>Bài làm:</b></i>


Mùa xuân nho nhỏ của tác giả Thanh Hải viết vào 11-1980. Đấy là khoảng thời
gian một tháng trước khi nhà thơ vĩnh biệt cõi đời. Bài thơ bộc lộ cảm xúc dâng
trào trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước và, xúc động hơn, nó cịn thể hiện
ước nguyện bình dị, khiêm nhường mà tha thiết mãnh liệt của nhà thơ<i>: Muốn làm </i>
<i>một mùa xuân nho nhỏ để góp phần vào mùa xn lớn của q hương đất nước.</i>


Đó chính là khát vọng được hòa nhập - cống hiến của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ là bức tranh xuân nơi xứ Huế thơ mộng:


<i>Mọc giữa giịng sơng xanh</i>
<i>Một bơng hoa tím biếc</i>
<i>Ơi con chim chiền chiện</i>
<i>Hót chi mà vang trời</i>
<i>Từng giọt long lanh rơi</i>


<i>Tôi đưa tay tôi hứng</i>


Sáu câu thơ với mấy nét chấm phá thôi mà bức tranh mùa xn thiên nhiên có đủ
cả khơng gian cao rộng của bầu trời, có cái rộng dài mênh mang của dịng sơng,
có sắc màu của bơng hoa tím biếc và cả âm thanh rộn rã tươi vui của con chim
chiền chiện hót vang trời. Tiếng chim lan tỏa khắp bầu trời như đọng thành “từng
giọt long lanh rơi”.


Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "giọt long lanh". Đó khơng chỉ đơn thuần là
giọt sương, giọt mưa xuân, mà trên hết nó là giọt âm thanh . Dường như tiếng hót
ấy khơng tan ra, khơng lỗng ra mà đọng lại kết tụ thành hình thành khối thành
từng giọt rơi trong không trung và trong sâu thẳm tấm lịng nhà thơ


Nhà thơ khơng chỉ cảm nhận mùa xuân bằng thị giác, thính giác, mà cịn bằng cả
xúc giác "tơi đưa tay tơi hứng"… từng giọt , từng giọt. Nhà thơ đón nhận vẻ đẹp
của mx = tất cả sự nâng niu, trân trọng.


Từ cảm hứng về mùa xuân của thiên nhiên, nhà thơ cảm nghĩ về mùa xuân của
đất nước:


<i>Mùa xuân người cầm súng</i>
<i>Lộc giắt đầy trên lưng</i>
<i>Mùa xuân người ra đồng</i>
<i>Lộc trải dài nương mạ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Tất cả như hối hả</i>
<i>Tất cả như xôn xao</i>
<i>Đất nước bốn ngàn năm</i>
<i>Vất vả và gian lao</i>



<i>Đất nước như vì sao</i>
<i>Cứ đi lên phía trước</i>


Thanh Hải có sự cảm nhận thật sâu sắc về đất nước: "đất nước như vì sao" bay
lên ngời sáng, lung linh. Nhịp thơ nhanh, dồn dập hối hả như khơng khí khẩn
trương của đất nước ta trong giai đoạn đó. Nghệ thuật so sánh đất nước như
người mẹ hiền, tần tảo, bao dung, "vất vả và gian lao", đất nước như vì sao đạp
bằng mọi chơng gai, tiến lên phía trước và trường tồn bất diệt theo thời gian. Khổ
thơ thể hiện niềm tin sáng ngời và niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về đất nước và
con người VN


Từ cảm xúc về mùa xuân, tác giả chuyển mạch thơ một cách tự nhiên để bày tỏ
những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống và giá trị cuộc đời mỗi con
người:


<i>Ta làm con chim hót</i>
<i>Ta làm một cành hoa</i>
<i>Ta nhập vào hịa ca</i>
<i>Một nốt trầm xao xuyến</i>


Nhà thơ muốn làm một con chim để góp tiếng hót trong mn ngàn tiếng hót;
Một cành hoa đẻ tô điểm cho vườn hoa xuân đầy hương sắc;


Và một nốt trầm trong bản hịa tấu mn điệu. Chỉ một nốt trầm thôi nhưng xao
xuyến lắng sâu trong lòng người … Những ước nguyện nho nhỏ, khiêm nhường và
bình dị quá:


<i>Một mùa xuân nho nhỏ</i>
<i>Lặng lẽ dâng cho đời</i>
<i>Dù là tuổi hai mươi</i>


<i>Dù là khi tóc bạc.</i>


Đó là khát vọng được hịa nhập, được cống hiến cho đất nước. Ước nguyện đó đã
dâng lên thành một lẽ sống cao đẹp: mỗi người hãy cống hiến cho cuộc đời chung
một nét riêng, cống hiến phần tinh túy nhất dù là nhỏ bé, khiêm nhường. Ước
nguyện ấy bất chấp thời gian, tuổi tác "Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc" lúc
nào cũng tha thiết, mãnh liệt. Điệp từ "dù là…dù là” là lời tự nhắc trong hoàn cảnh
nào cũng cống hiến hết mình. Ước muốn ấy được nhà thơ thể hiện bằng một hình
ảnh thơ sáng đẹp, một giọng thơ thủ thỉ tâm tình tha thiết . Điều tâm niệm ấy thật
cao đẹp, chân thành và là sự phát triển tự nhiên trong mạch cảm xúc của bài thơ.
Sự chuyển đổi đại từ "tôi" sang đại từ "ta" không phải ngẫu nhiên mà là dụng ý
của tác giả.


“Tơi” là số ít, là cá nhân, còn "ta" là số nhiều, là của chung mọi người . “Ta” tạo
được sắc thái trang trọng thiêng liêng như một lời nguyện ước. Tuy vậy trong cái
"ta" ấy vẫn có một giọng điệu nhỏ bé, khiêm nhường của cái "tôi" Thanh Hải.
Độc giả bắt gặp ở đây một nhân sinh quan đầy ý nghĩa mà nhà thơ Tố Hữu đã
từng viết:


<i>"Nếu là con chim,chiếc lá</i>


<i> Con chim phải hót,chiếc lá phải xanh</i>
<i> Lẽ nào vay mà khơng có trả </i>


<i> Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

"Mùa Xuân nho nhỏ" chính là sự cống hiến đẹp đẽ nhất của Thanh Hải trước khi
ông trở về với cát bụi.


Đoạn kết của bài thơ như là tiếng lòng nhà thơ trở về đất Mẹ - xứ Huế thân yêu:



<i>Mùa xuân ta xin hát</i>
<i>Câu Nam ai, Nam bình</i>
<i>Nước non ngàn dặm mình</i>
<i>Nước non ngàn dặm tình</i>
<i>Nhịp phách tiền đất Huế.</i>


Khúc Nam Ai- Nam Bình đem lại nét thi vị trìu mến tha thiết mang đậm chất Huế.
Bài thơ được sáng tác vào những ngày mùa đông giá lạnh, mùa xuân ở đây chỉ là
mùa xuân trong tâm tưởng của nhà thơ. Vậy mà mùa xuân và khúc hát dân ca quê
hương vẫn ngân lên tha thiết trong sâu thẳm tấc lịng của nhà thơ, điều đó chỉ có
ở một người con yêu quê hương và gắn bó máu thịt với quê hương


Khúc Nam Ai-Nam Bình cùng với "nhịp phách tiền đất Huế" đã khép lại bài thơ
nhưng lại mở ra một chân trời cảm xúc , thoáng buồn thương ngậm ngùi nhưng
tha thiết máu thịt. Âm thanh đó khơng chỉ ngân mãi trong tâm trí nhà thơ mà cịn
ngân mãi trong lòng độc giả yêu "Mùa xuân nho nhỏ".


<b>Thuyết minh: </b>

<i><b>Chiếc Nón Lá </b></i>



Nón lá có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào
Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị,
đoan trang, yêu kiều, duyên dáng cho người con gái Việt Nam và thực tiễn với đời
sống nơng nghiệp, một nắng hai sương,. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác
nhau qua từng giai đoạn lịch sử:


Nón dấu : nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa


Nón gị găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi
ngựa



Nón rơm : Nón làm bằng cộng rơm ép cứng


Nón quai thao : người miền Bắc thường dùng trong lễ hội
Nón Gõ : Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa
Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp


Nón thúng: thứ nón lá trịn bầu giống cái thúng.
Nón khua :Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa


Nón chảo : thứ nón mo trịn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan cịn dùng
Nón cạp: Nón xn lơi đại dành cho người có tang


Nón bài thơ : ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ v.
……..


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

quan tâm đến nón có bao nhiêu vành,đường kính rộng bao nhiêu?.Nón lá tuy giản
dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón phải khéo tay.Với cây mác sắc,họ chuốt từng
sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu rồi uốn thành vịng trịn trịa bóng
bẩy.Có được khung nón,người ta cịn phải mua lá hay chặt lá non cịn búp ,cành lá
có hình nan quạt nhiều là đơn chưa xịe ra hẳn đem phơi khơ.Lá non lúc khơ có
màu trắng xanh,người mua phải phơi lá vào sương đêm cho bớt độ giòn.người ta
mở lá từ đầu đến cuống lá ,cắt bỏ phần cuối cùng,rồi dùng lưỡi cày nóng và búi
giẻ hơ trên thanh hồng kéo lên lá nón thành tờ giấy dài và mỏng,nổi lên những
đường gân nhỏ,lựa những lá đẹp nhất để làm vành ngịai của nón.Sau đó người ta
dùng cái klhung hình chóp ,có 6 cây sườn chínhđể gài 16 cái vành nón lớn nhỏ
khác nhau lên khung.lọai khung này thường do người chun mơn làm để kích
thước khi lợp lá và chằm nón xong co thể tháo nón ra dễ dàng.Những lá nón làm
xong được xếp lên khung,giữa 2 lóp lá lót một lượt mo nang thật mỏng và được
buộc cho chắc.Tiếp là công đọan khâu, bàn tay người thợ thoăn thoắt kluồn mũi


kijm len xuống sao cho lỗ khâu thật kín .nguời thợ khéo cịn có tài lẩn chỉ,khéo
léo giấu những nút nổi vào trong.Chiếc nón khi hịan chỉnh vừa bền vừa đẹp ,soi
lên ánh mặt trời thấy kín đều.Nón rộng đường kính 41cm,người ta phết phía ngịai
lớp sơn dầu mỏng để nước mưa không qua các lỗ kim mà vào trong.Để có mơt
chiếc nón như thế phải trải qua 15 khâu,từ lên rừng hái lá,sấy lá,mở,ủi,chọn
lá,chắm ,cắt lá v,,,v,,,


Cũng chính vì mang đầy tính nghệ thuật mà con người ln biết trân trọng sản vật
văn hóa này.Ngay trog thời đại thơng tin,tuy có số lượng khơng đơng nhưng vẫn
cịn có những con người u văn hóa truyền thống mà bám trụ với nghề làm nón
khó thì nhiều mà lời thì ít này.Họ đã cùng chung tay lập ra những làng nón truyền
thống,nơi cung cấp số lượng lớn nón cho các tỉnh thành.Có thể kể đến làng Phú
Cam còn gọi là phường Phước Vĩnh ,Ngay ở trung tâm thành phố Huế ,Trên bờ
nam sông An Cựu.Làng Phú Cam nổi tiếng với nón bài thơ Huế đã xinh ở dáng
lại nhã ở màu,mỏng nhẹ,soi lên ánh sáng thấy rõ những hình trổ giấy về phong
cảnh Huếkèm theo lới thơ cài ở hai lớp lá.Hay xã Nghĩa Châu(Nghĩa Hưng) từ lâu
nổi tiếng với nghề làm nón thanh thóat ,bền đẹp.Rồi nón Gị Găng ở Bình


Định,Nón lá ở làng Chng (Thanh Oai,Hà Tây), tất cả tơ đẹp thêm cho nét văn
hóa nón độc đáo của Việt Nam.


Và rồi, tất nhiên,chiếc nón lá đi vào thơ ca nhẹ nhàng như mặc nhiên phải
vậy.Nhà thơ Bích Lan đã từng miêu tả chịếc nón bài thơ Huế rằng:


Ngưới xứ Huế yêu thơ và nhạc Huế
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay


Thầm lặng bước những khi trời dịu nắng
Và ngay cả trong ca dao:



Nón này che nắng che mưa
Nón này để đội cho vừa đơi ta
Cịn dun nón cụ quai tơ


Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

ruộng q hương,của những mối tình thầm kín gửi qua bài thơ dấu trong nón lá.
Mỗi chiếc nón có một linh hồn riêng ,một ý nghĩa riêng.hiện nay ,Việt Nam ta có
đến hàng chục lọai nón cổ truyền khác nhau,chứng minh cho nền văn hóa và đậm
sắc nghệ thuật.Đời sống văn minh,phát triển nhung nón lá Việt Nam vẫn thuần
túy ngun hình của nó :giản dị,duyên dáng.Ở bvất cứ nơi đâu,từ rừng sâu hẻo
lánh,trên đồng ruộng mênh mông,dọc theo sông dài biển cả,đều thấy chiếc nón lá
ngàn đời khơng đổi thay.


<b>Thuyết minh: </b>

<i><b>Cây tre Việt Nam</b></i>



Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các nẻo đường đất nước và gắn bó
thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt,
cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả - được xem như là biểu tượng của
người Việt đất Việt,...Từ hồi bé tẹo tôi vẫn nhớ bài Cây tre VN: Nước việt nam
xanh muôn vàn cây lá khác nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý,nhưng thân
thuộc nhất vẫn là tre nứa. Tre,nứa, trúc, mai, vầu… mấy chục loại khác


nhau,nhưng cũng một mầm măng non mọc thẳng..."
“Tre xanh, xanh tự bao giờ


Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh...”


Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,... và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ


Lúa. Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân có thể
cao đến 10 -18m , ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,... Cả đời cây tre chỉ
ra hoa một lần và vịng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”.


Cùng với cây đa, bến nước, sân đình_một hinh ảnh quen thuộc, thân thương của
làng Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh,
cộng cảm đối với người Việt. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẳn sàng hy sinh
tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều
góp phần xây dựng cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ
thù xâm lược lớn mạnh. Mặt khác, hình tượng của cậu bé Thánh Gióng vươn vai
hóa thân thành người khổng lồ rất có thể liên quan đến khả năng sinh trưởng rất
nhanh của cây tre ( theo các nhà Thực vật học, thì cây tre phát triển điều kiện lý
tưởng, có thể cao thêm từ 15 -20cm mỗi ngày). Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các
lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống
thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu vô tận để
chế tạo vũ khí tấn cơng trong các cuộc chiến. Chính những cọc tre trên sơng Bạch
Đằng, Ngơ Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Chính ngọn tầm vơng góp phần rất
lớn trong việc đánh đuổi qn xâm lược để giành Độc lập, Tự do cho Tổ Quốc. “
Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín...”


Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận
trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích (Nàng Út ống tre, cây tre
trăm đốt,...) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có khơng ít tác phẩm
nổi tiếng viết về tre : “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của
thi sỹ Nguyễn Duy,... Tre cịn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp
phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng
trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như : đàn tơ tưng, sáo, kèn,... Tre đi vào
cuộc sống của mỗi người, ăn sâu vào tâm khảm người dân Việt. Mỗi khi xa quê


hương, lữ khách khó lịng qn được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những
nhịp cầu tre êm đềm... Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt nam
mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.


Trong q trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre ngày nay lại trở thành
những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách mước ngồi ưa
thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi sang trọng : đèn chụp
bằng tre, đĩa đan bằng tre.


Có thể thấy rằng bản lĩnh bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét
tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẽ
mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính
cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở
mọi vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng
năng, bám đất bám làng : “Rễ sinh không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy
nhiêu cần cù”. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua
bao cuộc chiến tranh giữ nước.


Tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên cường, bất khuất của người
Việt Nam, là cái đẹp Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>PHÂN TÍCH BÀI THƠ CON CỊ - CỦA CHẾ LAN VIÊN</b>



<i><b>Đ</b></i>ã là người Việt nam, ai lớn lên mà chẳng mang theo, dù ít, dù nhiều hơi ấm của
những lời ru, những lời yêu thương êm đềm khi xưa mẹ hát. Đã mang trong mình
dịng máu Việt, ai mà chẳng có một góc tuổi thơ trong sang, hồn nhiên, chập chờn
theo đơi cánh cị trắng ở nơi sâu thẳm hoài niệm, tâm hồn. Chế Lan Viên cũng
vậy, ông cũng là người Việt Nam, dòng máu chảy trong huyết quản ơng cũng
mang tên Lạc Hồng, có lẽ vì thế, trong thơ ơng, dù là suy ngẫm, dù là triết lí, ta
vẫn gặp lời ru ầu ơ của mẹ, ta vẫn thấy kỉ niệm tuổi thơ nồng cháy, ta vẫn nghe


trong gió thong thả nhịp vỗ cánh cò. Và “Con cò” là bài thơ tiêu biểu cho một hồn
thơ như thế, một bài thơ mà chất triết lí, suy tưởng đã hồ làm một với những lời
ca đẹp đẽ nhất ca ngợi tình mẹ, ca ngợi ý nghĩa của những lời hát ru với cuộc đời
mỗi con người.


Trong trang thơ, cánh cị khơng tự có, khơng tự hiện hữu bất di bất dịch như
mn vàn câu chữ của thi ca, nó phải bay ra từ một miền xa xôi lắm. Chế Lan
Viên đã đánh thức cánh cò yên ngủ, gọi cò về với những lời ru ấp ủ trong tâm hồn
thi nhân để rồi, qua lời ru của mẹ trên trang thơ, con cò bắt đầu đến với tuổi thơ
diệu kì của đứa trẻ. Dịu dàng, êm ái, người mẹ bắt đầu thủ thỉ, tâm tình với niềm
yêu thương tha thiết:


<i>“Con còn bế trên tay</i>
<i> Con chưa biết cánh cị</i>
<i> Nhưng trong lời mẹ hát</i>
<i> Có cánh cị đang bay”</i>


Rất tự nhiên, mẹ thấy con vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn phải bế trên tay mẹ. Con
đã biết cánh cị trắng là gì đâu, con đã biết cuộc đời xung quanh là gì đâu, con chỉ
đón nhận cuộc đời một cách vơ thức. Vơ thhức thôi nhưng dường như đứa trẻ đã
cảm nhận được cánh cị trắng đang bay đến bên mình, đã nghe thấy âm điệu ngọt
ngào trong trẻo của lời ru. Em chưa hiểu tình mẹ, nhưng mơ hồ, em đã thấy bên
em một sự che chở, vỗ về thiêng liêng, một tình yêu thương êm đềm, trìu mến. Và
cánh cò, cánh cò bắt đầu chao lượn trong lời hát ru con:


<i>Con cò bay la</i>
<i> Con cò bay lả</i>
<i> Con cò cổng phủ</i>
<i> Con cò Đồng Đăng</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

cho đàn con nhỏ. Dẫu rằng đó là lời hát ru, lời ca dao cách tân trong thơ hiên đại,
cánh cị vẫn mang theo cả nỗi buồn, niềm vui hồ lẫn, khiến người đọc phải nghĩ,
phải suy. Người mẹ ru con trong vất vả, nhọc nhằn càng gieo thêm đắng cay, cái
vị đắng cay mà Xuân Quỳnh từng không giấu nổi xúc động khi nghe câu hát ấy
trong “gió Lào” và “cát trắng” miền Trung:


<i>“Trong gió nóng những trưa hè ngột ngạt</i>
<i> Mẹ ru tôi hạt cát sạn hàm răng”</i>


Lời ru của mẹ có đứa con bé bỏng, có cánh cị yếu đuối, nó khơng cịn là lời hát
ru nữa, nó là lời tâm tình của trái tim người mẹ nhân từ, bao dung. Khi thì mẹ
thương con, khi thì mẹ thương cánh cị cả cuộc đời yếu đuối. Dù rằng lời ru có
mang theo bao điều như thế, em bé vẫn say ngủ ngon lành. Tình mẹ hồ vào lời ru
vẫn vỗ về tâm hồn non nớt, vẫn cho con niềm yêu thương và che chở tuyệt vời.
Bầu khơng khí của hoài niệm quá khứ dần dần khép lại, đưa con người trở về với
thực tại, với mẹ, với em:


<i>Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!</i>
<i> Cánh cò mềm mẹ đã sẵn tay nâng</i>


Lời mẹ trước kia còn trầm, buồn vang lên trong cái âm điệu dài, xa vắng vậy mà
giờ đây sao trìu mến, sao tha thiết đến lạ lung, vỗ về, nâng giấc tình yêu, thi nhân
bước đến khoảng trời vời vợi chân lí, nơi ấy có một sự thực mà cả đời người kiếm
tìm mới chợt hiểu, nó ở bên ta, nó ở giữa cuộc đời:


<i>Con dù lớn vẫn là con của mẹ</i>
<i> Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.</i>


“Dù” “vẫn” là sự khẳng định chắc chắn hơn bao giờ hết. Nó hiển nhiên như chính
cuộc đời. Con dù lớn khơn, dù trưởng thành đến đâu, trước long mẹ bao la con


vẫn luôn bé bỏng. Mặt trời con luôn sưởi ấm trái tim mẹ, còn mẹ, mẹ mãi yêu
con, yêu con bằng tình yêu theo bé bước đi mãi mãi. Tình mẹ là thế, bao la, lời ru
của mẹ là thế, êm đềm, tha thiết, suốt đời con được hưởng, suốt đời con tìm thấy,
nhưng chắc gì con đã thấu hiểu, cả cuộc đời mẹ đã gửi vào trong đó tất cả tình
cảm, tất cả sự chở che, tất cả tình yêu thương êm đềm tha thiết:


<i>Ta đi trọn kiếp con người</i>


<i> Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru</i>


( Nguyễn Duy )


Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết những vần thơ như thế vì bằng trải ngiệm ơng đã
hiểu cái bao la bất tận của tình mẹ u con. Cịn Chế Lan Viên, thi sĩ tìm thấy
trong cánh cò yêu thương bay ra từ câu hát, một triết lí thiêng liêng đủ soi rọi mọi
tâm hồn tận ngóc ngách sâu thẳm nhất. Có lẽ phút hiểu ra cái điều cả đời mình tìm
kiếm, nhà thơ phải nén lại niềm xúc động đến rưng rưng trực tuôn trào ra khoé
mắt để viết lên cái điều ấp ủ bấy lâu, rằng tình mẹ là vĩnh hằng, bất diệt, ln tìm
thấy bên cuộc đời chúng ta, rằng long mẹ là bao la, vô bờ bến, luôn ôm ấp tâm
hồn mỗi con người. Với mẹ, con là hơi ấm nồng nàn, là sự sinh tồn, sự sống, con
đem lại cho mẹ hơi sống, niềm hạnh phúc yêu thương lớn nhất cuộc đời. Ta chỉ có
thể nói như vậy về cái quy luật bất biến ấy, vì tự nó đã nói lên tất cả những điều
thấm thía nhất trong cuộc đời. Biểu tượng của lịng mẹ thì thiêng liêng, biểu
tượng của cuộc đời thì ấm áp:


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i> Một con cị thơi</i>
<i> Con cò mẹ hát</i>
<i> Cũng là cuộc đời</i>
<i> Vỗ cánh qua nơi</i>



Đúng như lời nhà phê bình Phạm Thu Yến viết:


“Sau lời à ơi ban đầu, người hát quên mình đang trị chuyện với đứa con, …
Người mẹ dường như đang đối thoại với chính lịng mình”, lời hát chỉ là lời ru
qua cái “à ơi” quen thuộc, còn tất cả, chúng đã thuộc về tâm sự của cả đời người
mẹ, nghĩa là thuộc về cái thế giới nội tâm trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ ru con từ
lúc tóc cịn xanh đến khi đầu bạc, nào ai đếm được nỗi buồn vui cuộc đời mẹ đã
gửi vào lời hát. Cánh cò cũng thế, nó mang theo sự phát triển cuối cùng, trở thành
cuộc đời, cũng buồn, cũng vui, cịng nơng sâu như lßng mẹ, mẹ mang cả vào giấc
ngủ của con. Nó là tiếng lịng của một người phụ nữ mà cũng là tất cả những
người phụ nữ trên dất nước Việt Nam. Nó là âm thanh của một cuộc đời khắc
khổ, một kiếp sống nghèo nhưng chan chứa niềm hạnh phúc, yêu thương chân
thành mộc mạc con người Việt Nam đã ôm ấp từ muôn thủa ngày xưa, sau lũy tre
làng, bên cây đa, bến nước, mái đình thân thuộc. khi con cị “vỗ cánh qua nơi’ em
bé đâu có biết, cị đã chở theo cả một đời người về bên câu hát, đời người như mẹ,
như chị, như cuộc đời tất cả những người phụ nữ Việt Nam chỉ biết sống và hi
sinh hết thảy, trong lặng lẽ, âm thầm. Cuộc đời ấy, dù đắng, dù cay, dù khổ đau,
dù mất mát vẫn muôn đời là vậy. son sắt, thuỷ chung, cho đến khi nhắm mắt xuôi
tay, cho đến khi ngọn gió cuộc đời ngừng thổi vào cái kiếp người đã thuộc về yêu
thương và nước mắt:


<i>Cánh của cò hai đứa đắp chung đơi</i>


Có bao giờ cánh cị đẹp và thân thiết đến vậy khơng? Có bao giờ sự liên tưởng
của con người lại trong và tinh khôi đến vậy khơng? để một cánh cị bay ra từ câu
hát gợi lên cả niềm yêu thương và tấm lịng của con người? Cị và em bé như đơi
bạn thân thiết, nghĩa là cũng trong sáng cũng hồn nhiên cũng chan chứa biết bao
ước mơ và hi vọng như màu cánh cò trắng, thong thả nhịp bay trên bầu trời xanh
thẳm tương lai. Hai người bạn hai tâm hồn non nớt, Đắp chung đôi cánh ấm áp
của cị. Hình ảnh thơ có cái hiện thực của cuộc đời quanh em bé vừa có cái huyền


ảo, lấp lánh của một thế giới cổ tích xa xăm, gợi lên sự gắn bó thân thiết, cùng
chia ngọt sẻ bùi, cùng bên nhau dù là trong giấc ngủ tuổi thơ, dù là trên con
đường tương lai rộng bước. cánh cò bay ra từ câu hát ru con cũng như lời ru, cũng
như tình mẹ sẽ theo con dù hết cuộc đời. Ôi, với mỗi người, đâu có niềm hạnh
phúc nào bằng niềm hạnh phúc được che chở u thương trong tình mẹ bao la, vơ
bờ bến, đâu có sự chuẩn bị quý giá nào bằnh tâm hồn trong s¸ng, tinh khơi mẹ ấp
ủ cho con bằng cả trái tim mình. Từ tuổi thơ, mẹ trông thấy trên bước đường con
đi , những buổi cắp sách đến trường đầy niềm vui, hi vọng. Ở nơi ấy vẫn có cánh
cị tuổi thơ, vẫn có tình mẹ đi theo dìu dắt. Tình mẹ cứ theo con đi suốt năm
tháng, trở thành hành trang cho đứa con bé bỏng bước vào đời. Con sẽ bước đi
trong niềm tin mạnh mẽ vì:


<i> Cánh cị trắng bay theo gót đơi chân</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

“ Cánh cị trắng khiêng nắng qua sơng…”


Cánh cị của Chế Lan Viên biết đánh thức cả bầu trời lấp lánh hi vọng những vì
sao mơ ước, cho em thơ tương lai đẹp đẽ, sáng rực lên muôn vạn sắc màu. Và
trong muôn vàn sắc màu rực rỡ ấy, rất nhẹ nhàng đọng lại một thứ màu dìu dịu
yêu thương, màu của tình mẫu tử, để rồi cho con. Đâu rồi cái cánh cò trắc trở,
hiểm nguy trong câu hát thủa xưa, chỉ còn cánh cò em, ngủ ngon trong vòng tay
mẹ. Em và cò hố thân vào nhau trong vịng tay ấm áp u thương. Cứ như vậy,
em bé ngủ yên trong tình mẹ dạt dào, trong sự che chở, chăm sóc, nâng niu ẩn
chứa yêu thương vô bờ bến. Đứa bé đón nhận tình u, đón nhận lời ru vơ thức để
rồi mang hơi ấm của lời ru vô thức ấy đi theo suốt cuộc đời. Lời ru - giọt mật đầu
tiên mẹ rót cho em bé trong cuộc đời nó sóng sánh tình mẹ, sóng sánh khơng khí
của đất trời thấm vào lời ru. Em ngủ say, ngủ say trong tình mẹ, ngủ say trong
tình yêu thương của đất trời bao la ban cho những thiên thần cho những tâm hồn
bé nhỏ. Và khi ấy, dù:



<i> “ Con chưa biết con cò, con vạc</i>


<i> Con chưa biết những cành mềm mẹ hát</i>
<i> Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”</i>


Mẹ vẫn gọi con, mẹ vẫn nhắc tên con, sự lặp lại những lời yêu thương ấy là lời
nhắn nhủ, lời giãi tỏ tâm tình, tràn đầy tình u con. Cánh cị, cánh vạc bay, ngân
xa mãi tình u vơ tận ấy. Em bé có hiểu tình mẹ khơng nhỉ? Nhưng thơi, cứ ngủ
đi em ạ, vì cịn gì êm ả, thanh bình bằng giấc ngủ của em trong lời ru ầu ơ tha
thiết.


Cánh cò đến, trong lời ru tuổi thơ, dịu dàng, êm ái là vậy mà theo ta đi mãi, đi
suốt những chặng đường dài, gắn bó bền bỉ, thân thương cho con người điểm tựa
vững chắc nhất


<i> “ Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!”</i>


Lời ru của mẹ vỗ về cho em ngon giấc, nó ngọt lịm, thanh bình như tình mẹ bao
thủa vẫn vậy, vẫn nhẹ nhàng nâng đỡ đời con. Và cánh cò, từ một miền xa xăm
nào đó, lại đến cùng lời mẹ hát ru, chở theo cả niềm yêu thương ấm áp về cùng
giấc ngủ trẻ thơ:


<i>Cho cò trắng đến làm quen</i>


<i> Cị đứng ở quanh nơi, rồi cị vào trong tổ</i>
<i> Con ngủ n thì cị cũng ngủ</i>


Lý mn đời của tình mẹ, của lời hát ru con. Chẳng cần phải rút ra một châm
nghiệm to tát, chẳng cần phải trau chuốt lời văn, ý thơ đâu, nhẹ nhàng thôi, giản
đơn thôi, thi sĩ làm xao xác tận sâu thẳm tâm hồn người đọc;



<i>“ Dù ở gần con</i>
<i> Dù ở xa con</i>


<i> Lên rừng xuống bể</i>
<i> Cị sẽ tìm con</i>
<i> Cị mãi u con”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Lặp cấu trúc ngữ pháp ư? đối ư? Và còn cả điệp từ nữa? Đừng hỏi vỉ sao thi sĩ lại
viết như thế, vì đâu cịn cách nào khác diễn tả hết sự thiêng liêng cao quý của tình
mẹ, của tấm lịng ăm ắp nhân hậu đầy u thương trong trái tim người mẹ dành
cho con. Con có thể ngủ yên, có thể vui sướng cắp sách đến trường, có thể vững
bước chắc trên đường đời sóng gió, tất cả vì đã có tình mẹ chở che, nâng bước
con đi. Dù ở đâu, dù ở trong bất cứ hồn cảnh nào, lịng mẹ cũng như cánh cị kia,
vẫn bên con, vẫn lặn lội đi tìm, lặn lội sưởi ấm trái tim con, cho con sức mạnh,
cho con niềm tin vào cuộc sống. Mẹ có thể làm tất cả vì con như cánh cị kia một
đời hi sinh không mệt mỏi. Lời thơ ẩn chứa một sức mạnh tiềm tàng, một sự
khẳng định chắc chắn: tình mẹ bền chặt sẽ theo con đi suốt cuộc đời, sẽ trở thành
một phần tâm hồn không thể thiếu, soi rọi mọi nẻo đường con sẽ bước chân qua.
Tình mẹ, lịng u thương bao la của mẹ sẽ gửi trọn vào cuộc đời con mãi mãi, vì
với mẹ đâu cịn thứ gì thiêng liêng và gần gũi hơn con, hơn vầng mặt trời ấm áp
nhất của mẹ, hơn lẽ sống mà vì nó mẹ có thể dâng trọn cuộc đời? Gấp lại trang
sách, em bé sẽ theo cò bước thẳng vào cuộc đời mai sau. Kì thực em bé vẫn cịn
bé bỏng lắm, vẫn còn đang ngủ ngon lành trong cánh nôi tuổi thơ nhưng ước mơ
của mẹ về một tương lai tốt đẹp ngày mai cứ theo tình yêu cháy lên mãi. mẹ độc
thoại với chính lịng mình, tự soi lịng mình trong tình cảm u con tha thiết:


<i>“ Lớn lên, lớn lên, lớn lên…</i>
<i> Con làm gì?</i>



<i> Con làm thi sĩ </i>


<i> Cánh cò trắng lại bay hồi khơng nghỉ</i>
<i> Trước hiên nhà</i>


<i> Và trong hơi mát câu văn…”</i>


Chưa bao giờ ước mơ cháy bỏng, tha thiết đến như thế, mẹ ước mơ và gửi trọn
ước mơ ấy vào đôi chân con mai này sẽ bước trên đường đời, sẽ vươn tới những
khát khao mẹ ấp ủ bằng cả niềm tin. mẹ hỏi lòng và tự trả lời cho câu hỏi: mẹ
muốn con làm thi sĩ, mang cái đẹp đến cho cuộc đời qua những vần thơ về mẹ, về
con, về cuộc sống xung quanh đang từng ngày nuôi con lớn khôn. Mẹ muốn cuộc
đời con mãi mãi đẹp. mãi mãi trong sáng như bài thơ đẹp đẽ nhất. Và bên con,
cánh cị vẫn cịn đó, vẫn bền bỉ chở ý thơ theo đơi cánh bay bổng. cị mãi mãi hồn
nhiên trong sáng, mãi mãi đem theo ý thơ gắn kết cuộc đời, cò sẽ còn mãi mãi dịu
nhẹ, khẽ lướt trong hơi mát câu văn tô điểm thêm giá trị tinh thần của cuộc sống,
nuôi lớn những tâm hồn đẹp đẽ biết ước mơ. Cánh cò cứ lớn dần, cứ đẹp dần
trong lời ru của mẹ, chở yêu thương đi khắp nẻo thế gian. Cánh cò đã đuợc hình
tượng hố thành tình mẹ, u thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn con. Phải
sống trong cái nôi yêu thương ấy, phải để lời ru thấm vào từng hơi thở, ta mới
chợt hiểu tình mẹ cao đẹp, bao la quý giá biết nhường nào. Mẹ ru con đó là sự n
ổn thanh bình. <i>Từ lời ru rất đỗi bình dị, từ cánh cị rất đỗi thân quen, thi sĩ</i> <i>đã </i>
<i>khái quát thành triết lí về tình mẫu tử, về ý nghĩa thiêng liêng của lời ru đối với </i>
<i>cuộc đời mỗi con người…</i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i><b>Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về bài thơ Con cị</b></i>


Từ hình ảnh con cị,nhà thơ Chế Lan Viên đã suy ngẫm và triết lý về lời ru và
lòng mẹ đối với cuộc đời mỗi con người. Thật vậy,tình yêu thương bao la ,sâu

thẳm nơi trái tim người mẹ đã cất thành lời hát "Dù ở gần con/Dù ở xa con",câu
thơ ngắn mà sao tha thiết thế ,lại đan xen nhuần nhuyễn với thành ngữ "lên rừng
xuống bể".Con dù ở đâu,ở bất cứ nơi nào trên trái đất,"dù ở gần" hay "ở xa",và
trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời,có thể con sẽ gặp những khó khăn thử
thách,những biến cố thăng trầm,phải "lên rừng xuống bể" nhưng "cị sẽ tìm


con","cị mãi u con".Hình ảnh con cị biểu tượng cho tấm lịng người mẹ suốt
đời này mẹ vẫn "sẽ" và "mãi" ở bên con,việc sử dụng từ ngữ trên đã góp phần
khẳng định,nhấn mạnh quy luật,chân lý bất biến,vĩnh hằng của tình mẹ,lịng
mẹ.Theo thời gian ,con sẽ dần khơn lớn,trưởng thành,có thể một ngày nào đó con
sẽ khơng ở bên mẹ nữa nhưng có một điều khơng bao giờ thay đổi như chân lý
cuộc đời "Con dù lớn vẫn là con của mẹ/Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con",dù thế
nào thì con vẫn mãi là con của mẹ,,con dù khôn lớn trưởng thành đến mức nào đi
chăng nữa thì trong ánh mắt dịu hiền,chan chứa tình yêu thương của mẹ,con mãi
là đứa con yêu bé bỏng cần được chở che nâng đỡ.Và mẹ bao giờ cũng ở bên
con,chở che cho con như thuở con cịn nằm trong nơi.Mẹ dù khơng cịn trên thế
gian này đi chăng nữa nhưng tình mẹ,lịng mẹ thì "vẫn mãi theo con",mẹ vẫn dõi
theo từng bước con đi,luôn theo sát con trên mọi nẻo đường đời bởi con là bến
bờ,là lẽ sống sinh tồn là mặt trờ mang hơi ấm cho cuộc đời mẹ.Bằng sự lặp lại của
điệp từ "dù",một lần nữa nhà thơ những cảm xúc yêu thương trào dâng trong lòng
người mẹ.Từ sự thấu hiểu mà khái quát thành một quy luật tình mẫu tử thiêng
liêng,phải chăng điều đó đã làm nên cái hay,cái rất riêng ở thơ Chế Lan Viên? Và
quy luật tình cảm ấy cũng từng được Nguyễn Duy khái quát "Ta đi trọn kiếp con
người/Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru".Tình mẹ,lịng mẹ cùng lời ru ngọt ngào
êm đềm nơi trái tim người mẹ yêu thương sẽ theo ta đi suốt cuộc đời như một
hành trang tinh thần của tình mẫu tử


<b> </b>

<i><b>Đề</b></i>

<b> </b>

<i><b> </b></i>

<b>Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác – Viễn Phương</b>



<b>S</b>inh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

ngày giải phóng để được gặp Bác kính u. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum
họp một nhà thì Bác khơng cịn nữa. Lịng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của
đồng bào và chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn
Phương thể hiện trong bài Viếng lăng Bác. Bài thơ khơng những chỉ thể hiện
dịng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà cịn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí
Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh
gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói
hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.


Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn
phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo
nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc
chân thành, tha thiết.


Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của


mình bằng câu thơ giản dị: <i>Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác. </i>


Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ ln ln là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ
miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là
tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự
đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền
Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong
tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự
hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ
Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam
để đến với Bác.


Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:


<i>Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát</i>


<i>Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam</i>
<i>Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng</i>


Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen
thuộc tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân
tộc. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là
hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Hàng tre
xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình
ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre
kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố,
như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do
của dân tộc.


Hồ vào dịng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt
dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:


<i>Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng </i>
<i>Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ</i>


<i>Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ</i>
<i>Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời
cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con
đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời
để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt
trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác
dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất


đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng
rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn
toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam.


Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ.
Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng,
bao trùm một một khơng khí thương nhớ Bác khơng ngi, thành kính kết tràng
hoa tình u dâng bảy mươi chín mùa xn của Người. “Người ta là hoa của đất”,
nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tơn q nhân dân. Mỗi người dân là một bơng
hoa và dịng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.


Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lịng người Việt Nam
khơng bao giờ ngi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ,
nghẹn ngào, đau đớn:


<i>Bác nằm trong giấc ngủ bình yên</i>
<i>Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,</i>
<i>Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,</i>
<i>Mà sao nghe nhói ở trong tim</i>


Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình n sau bảy mươi chín mùa xn
khơng hề nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh
rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới
huyền diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên,
yêu trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người.
Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm
nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu
trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”,
“trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác


nằm đó, trong giấc ngủ bình n, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng
Bác như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim
nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim,
chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ khơng gì bù đắp được
vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.


Và nỗi đau khơng cịn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay
với Bác:


<i>Mai về miền Nam, thương trào nước mắt</i>
<i>Muốn làm con chim hót quanh lăng</i>
<i>Muốn làm bơng hoa toả hương đâu đây</i>
<i>Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

trong tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương
nhớ Bác-một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta,
một con người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại
trong lăng? Nhà thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành
con chim, bơng hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho
trọn niềm trung hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha,
cùng với hình ảnh cây tre trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc
động nghẹn ngào.


Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ
mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp
mưa sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân,
vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn
hình tượng Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngồi ra, nó cịn
gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi
sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời


xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như
vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả
ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp.
Cịn hình ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của
Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của
Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta.
Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.


Viếng lăng Bác khơng những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi
của Bác, là lịng thương nhớ khơng ngi, lịng kính phục vơ hạn của nhà thơ
Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành
cơng hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm
xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người
đọc. Bài thơ được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng
triệu trái tim Việt Nam từ 1976 đến nay.


<i><b>Đề:</b></i>

<b>PHÂN TÍCH 2 KHỔ ĐẦU BÀI THƠ SANG THU </b>



<b> CỦA HỮU THỈNH</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

một miền quê nhỏ :


<i>“Bỗng nhận ra hương ổi</i>
<i>Phả vào trong gió se</i>


<i>Sương chùng chình qua ngõ</i>
<i>Hình như thu đã về.</i>


<i>Sơng được nước dềnh dàng</i>
<i>Chim bắt đầu vội vã</i>



<i>Có đám mây mùa hạ</i>
<i>Vắt nửa mình sang thu”</i>


Mùa thu của Hữu Thỉnh được mở ra không phải với sắc vàng tươi của hoa cúc,
cũng không phải với vị thơm ngon của cốm làng Vòng, mà là với hương ổi thơm
giòn ngọt phả vào trong gió thu. Dường như cái hương thơm dịu ấy chỉ thoang
thoảng quanh quất đâu đây. Nó khơng mang cái mùi thơm hăng hắc như hoa sữa,
cũng không quá nhẹ để người ta dễ lãng quên. Hương thơm ấy nhẹ nhàng thoảng
qua theo gió, đề người ta chợt xốn xang trong lịng. Làn gió se se lạnh của mùa
thu cũng rất khác với cái gió tê tái của mùa đơng. Nó chỉ khiến ta hơi co người lại
một chút và để rồi thảnh thơi đón nhận cả một lưồng khí thu mát rượt trong lịng.
Có lẽ, sẽ chẳng ở đâu có cái gió se lạnh ấy ngoài mùa thu của đất Bắc – cái gió se
mà từ lâu vẫn được coi là hồn thu Bắc Bộ- Một hương thơm thu, một làn heo may
thu đã làm nên cái mở độc đáo cho bài thơ, thậm chí dường như cịn độc đáo đến
bất ngờ cho cả nhà thơ : <i>“Bỗng nhận ra hương ổi”. </i>Thu đến chẳng hề báo trước!
Thu sang từ bao giờ Hữu Thỉnh cũng khơng biết nữa! Ơng chỉ nhận ra một sự bất
ngờ mà như đã đợi từ lâu lắm. Thu sang mang theo hơi thửo của mình và mang
theo cả cái vẻ thu mơ màng mờ ảo:


<i>“Sương chùng chình qua ngõ</i>”


Sương thu cũng có cái nét đặc biệt riêng của nó. Nó khơng tan nhanh như sương
mùa hạ, cũng chẳng dày đặc như sương mùa đơng. Sương thu là những làn khói
mong manh bay vờn nhẹ trên những mái nhà, ngoài vườn. Sương thu khơng vơ
cảm, nó cũng mang hồn người . Sương đang đợi ai, sương đang chờ ai mà sao lưu
luyến thế? Từ láy <i>“chùng chình”</i> tạo cho ta cảm giác “dùng dằng nửa ở nửa về”.
Đến sương lúc này cũng là sương thu mà Hữu Thỉnh vẫn cịn ngẩn ngơ mãi:


<i>“Hình như thu đã về”</i>



Ơng thờ ơ q chăng hay bởi lịng ơng đang bối rối? Thu về tự bao giờ? Từ hương
ổi hay từ làn gió heo may? Thu làm lòng người xao xuyến quá chừng để đến nỗi
không biết thu đến thực hay mơ!


Sau một thoáng bỡ ngỡ, nhà thơ như chợt bừng tỉnh- thu đã về thật rồi! Khép lại
những hoài nghi, Hữu Thỉnh chẳng cịn nghĩ gì ngồi cảm xúc đang dâng trào:


<i>“Sông được nước dềnh dàng,</i>
<i>Chim bắt đầu vội vã”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

hạ cũng thấy sốt ruột, phải <i>“Vắt nửa mình sang thu”</i>. Phải chăng đám mây kia có
hai nửa thì một nửa nằm bên mùa hạ, nửa kia thuộc về mùa thu? Không biết ở đây
là mùa thu lưu luyến mùa thạ hay nhà thơ đang mong chờ mùa hạ mà vẫn lưu
luyến mùa thu đây? Điêu này thì Hữu Thỉnh thật khác với các nhà thơ khác. Cũng
viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến viết: <i>“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”</i> – có
nghĩa là thu của Nguyễn Khuyến đã thực là thu, nó khơng cịn vương vấn chút gì
của mùa hè rực lửa. Cịn Hữu Thỉnh, ông viết mùa thu nhưng lại là vào <i>lúc giao </i>
<i>mùa</i>. Chắc hản phải yêu mùa thu lắm Hữu Thỉnh mới vẽ ra được một bức tranh
thu nồng đượm hơi ấm đất trời, nồng đượm hơi ấm quê nhà như thế.


Trong làng thơ dân tộc, đã và sẽ có nhiều bài thơ thu hay. Nhưng có lẽ sẽ chẳng ai
biết mà lại quên được một chớm <i>“Thu sang”</i> của Hữu Thỉnh - một mùa thu nhẹ
nhàng, nữ tính, trơng qua như một cơ thơn nữ mộc mạc mà sao lại đằm thắm khó
quên đến thế!


<i><b>Phân tích bài thơ:</b></i>

<i><b> BÕp lưa</b></i>



<b>T</b>rong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn
nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất,


nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của
cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ơng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm
sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in
đậm trong tâm trí của Bằng Việt cịn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng
ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ơng.


Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ
“ Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.
Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng
thời thể hiện lịng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia
đình, quê hương, đất nước.


Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất
khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:


“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm


Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình u thương bà
vơ hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dịng sơng với con thuyền
nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao
giờ qn được vàcung chính t? đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như
của bếp lửa lan toả toàn bài thơ.


Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm
tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như
thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích
tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có


bá tiên, có phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa. Trong
những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt
đi cái khơng khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào
cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót
từng củ khoai, đào từng củ sắn đểâ cháu ăn cho khỏi đói:


“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mịn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi cịn cay!”


Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái
mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trơi
qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi
nghĩ lại lại thấy “sống mũi cịn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu
hay chính là tấm lịng của người bà làm đứa cháu khơng cầm được nước mắt?
“ Tám năm rịng cháu cùng bà nhóm bếp


Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà cịn nhớ khơng bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”


“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy
bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh
bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác,
một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu
hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nơng dân mau thốt khỏi cái đói, và
dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi,


đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm
cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng
tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc
văng vẳng từ nững cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu
hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái
không gian xa thẳng của nỗi nhớ thương.


Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác
giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm rịng của cuộc kháng chiến
chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:


“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà


Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của
cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con
vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo
thì đoiá với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừalà mẹ, vừa là cách chim, là một
cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vơ cùng thiêng liêng và quý giá
đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho
cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho
cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Khơng chỉ thế, bà còn dạy cháu
những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Nững bài học đó sẽ là hành
trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà
dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho


đứa cháu be bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà
hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà
chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Thi sĩ bổng tự hỏi lịng mình: “Tu
hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc
của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được
nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đơi, gắn bó, quấn qúit
khơng rời.


Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vơ
cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ
cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt
cháy rụi...


“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“ Bố ở chiến khu bố còn việc bố


Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình n!’


Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền
vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mơng. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà
cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà
cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có
đau khổ thế nào cũng khơng dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo
buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận
việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà:
“Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn đươc bình n!”. Lới dăn của


bà nơm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi
nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến.
Hình ảnh người bà khơng chỉ cịn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu
tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy
cháu.


Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn,
một ngọn lửa:


“Một ngọn lửa lịng bà ln ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.


Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn
lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà
cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng:
nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ ln ở cạnh cháu.


Những dịng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà
thớ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là nh74ngbài học sâu sắc từ cơng việc nhó,
lửa tưởng chừng đơn giản:


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài
thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.


“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”


Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương
những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm
tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau,
những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.


“Nhóm nồi xơi gạo mới sẻ chung vui”


“Nồi xơi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu ln phải mở lịng
ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối
sống ích kỉ.


“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.


Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà còn là người làm
cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái
tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm
hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy,
rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà
như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:


“Tiếng gà trưa


Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”


Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới
bà.Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ
vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người
quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một
người không thể thiếu trong trái tim cháu.


Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vịng trái đất, Bằng Việt vẫn ln hướng lịng mình
về bà:



“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả


Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”


Xa vịng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai bà
chẳ đã sươỉ ấm lịng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu
nhỏ cuả bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lịng vần ln đinh ninh nhớ
về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên
và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả đưá
chẳ đã được ni dưỡng để lớn lên từ đó.


“ Đọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tưởng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình
ảnh bếp lưả hồng và dáng ngươì bà lặng lẽ ngồi bên.. Bài thơ Bếp lưả sẽ sống maĩ
trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dậy trong
lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những ngươì đã tơ màu
lên tuổi thơ trong sáng cuả ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×