Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Công tác thu hút nguồn lực trí thức người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.59 KB, 7 trang )

NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG NƯỚC
_____________________________________________________________________________________

CƠNG TÁC THU HÚT NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Mai Quốc Dũng
Trường Đại học Cơng nghiệp Thực phẩm Tp.HCM
Tóm tắt:
Kế thừa và phát huy truyền thống lâu đời, tốt đẹp của dân tộc coi “hiền tài là nguyên khí
của quốc gia”, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã có những chủ trương, chính
sách phù hợp để tập hợp, đoàn kết, xây dựng, phát huy mạnh mẽ vai trị của trí thức, trong đó có
trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện và động lực để họ tự do nghiên cứu, sáng
tạo và công hiến. Những kết quả đạt được trong công tác thu hút, phát huy nguồn lực trí thức
kiều bào trong thời gian qua đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tuy
nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế, rào cản. Thực trạng đó cần được nhìn nhận thẳng thắn, để
đề ra những chính sách phù hợp, phát huy hơn nữa kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế,
rào cản.
Từ khóa: nguồn lực, trí thức người Việt Nam ở nước ngồi, kiều bào
1. Thực tiễn cơng tác thu hút
nguồn lực trí thức người Việt Nam ở nước
ngồi
Về đề NVNONN nói chung và trí
thức NVNONN nói riêng là một vấn đề lớn,
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,
luôn xác định kiều bào là máu thịt, là nguồn
lực của dân tộc. Chính quan điểm nhất qn
đó, đã thu hút được sự đóng góp của kiều
bào vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ
quốc. Đặc biệt từ năm 1986, khi Nhà nước
ta bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới, mở
cửa, tri thức kiều bào đã tăng cường các mối


quan hệ làm ăn với trong nước. Công cuộc
đổi mới của Việt Nam thu được nhiều thành
tựu quan trọng đã làm tăng thêm lịng tin
của trí thức kiều bào đối với công cuộc phát
triển đất nước và tương lai của dân tộc, vì
thế đã tiếp tục thu hút được ngày càng nhiều
người trong tầng lớp trí thức gắn bó với đất
nước.
Bước ngoặt quan trong đối với cơng
tác NVNONN khi lần đầu tiên có một nghị
quyết riêng về cơng tác đối này, đó là Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 29-11-1993 của Bộ
Chính trị về Chính sách và cơng tác đối với
người Việt Nam ở nước ngoài, nghị quyết
xác định: “Tiềm lực của cộng đồng

NVNONN, đặc biệt là về khoa học và công
nghệ, về vốn, về khả năng tạo mối quan hệ
giữa các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài
với nước ta là một lợi thế và một nguồn lực
quan trọng cần phải phát huy để bổ sung và
hỗ trợ cho sự phát triển của đất nước” 2, từ
đó nghị quyết đề ra chính sách và biện pháp
lớn như sau: “Khuyến khích và tạo điều kiện
dễ dàng để kiều bào chuyển giao tri thức,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến”
2
.
Trên cơ sở tổng kết kết quả 10 năm
thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, lần đầu

tiên một nghị quyết công khai về cơng tác
này đó là Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày
26-3-2004 của Bộ Chính trị về Cơng tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài, nghị
quyết nêu nhiệm vụ chủ yếu sau: “Hồn
chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách
thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự
đóng góp của trí thức kiều bào vào cơng
cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ
đãi ngộ thỏa đáng đối với những chun
gia, trí thức NVNONN có trình độ chun
mơn cao, có khả năng tư vấn về quản lý,
điều hành, chuyển giao cơng nghệ, kỹ thuật
cao cho đất nước, góp phần phát triển nền
văn hóa, nghệ thuật của nước nhà; Xây
dựng và hồn thiện các chính sách tạo

1
THƠNG TIN KHOA HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - SỐ 5 (54)-2019


NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG NƯỚC
_____________________________________________________________________________________

thuận lợi và khuyến khích các ngành, các
trung tâm nghiên cứu khoa học - cơng nghệ,
văn hóa nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, y tế,
thể dục - thể thao, các cơ sở sản xuất, dịch
vụ... ở trong nước mở rộng hợp tác, thu hút
sử dụng chun gia, trí thức NVNONN tham

gia cơng việc ở trong nước, làm việc cho
các chương trình, dự án hợp tác đa phương
và song phương của Việt Nam với nước
ngồi hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ
tiêu dành cho người Việt Nam và tư vấn
trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác
nước ngoài” 3.
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-82008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
về Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tiếp tục khẳng định lại đường lối, chủ
trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước và đề
ra các giải pháp thực hiện trong bối cảnh
mới, trong đó có giải pháp thu hút và phát
huy vai trị của trí thức NVNONN, nghị
quyết khẳng định: “Trí thức Việt Nam xuất
thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất
là từ công nhân và nông dân; phần lớn
trưởng thành trong xã hội mới, được hình
thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và
ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau,
trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam
ở nước ngồi… Ða số trí thức Việt Nam ở
nước ngồi ln hướng về Tổ quốc; nhiều
người đã về nước làm việc, hoạt động trong
các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp
thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất
nước” 4. Từ vị trí, vai trị như vậy nghị quyết
đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng chính sách thu
hút, tập hợp trí thức Việt Nam ở trong và

ngồi nước tích cực tham gia hiến kế, hợp
tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ mới... Trọng dụng, tơn vinh
những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu
quả vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế” 5.
Ngày 19-5-2015, Bộ Chính trị ban
hành Chỉ thị số 45-CT/TW về việc Tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-

NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về cơng
tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi
trong tình hình mới, chỉ thị nêu nhiệm vụ và
giải pháp: “Rà sốt, bổ sung hồn thiện cơ
chế, chính sách và pháp luật tạo hành lang
pháp lý thuận lợi để NVNONN về đầu tư,
sản xuất kinh doanh, góp phần vào thu hút
đầu tư, chuyển giao công nghệ từ các nước
vào Việt Nam và thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ
đầu tư của Việt Nam ra nước ngồi. Có
chính sách thu hút, sử dụng chuyên gia, trí
thức NVNONN, nhất là trong các lĩnh vực
thiết yếu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 6.
Cụ thể hóa chủ trương, chính sách
của Đảng, Chính phủ ban hành các chương
trình hành động, nghị định thực hiện nghị
quyết của Đảng. Đặc biệt Nghị định số
87/2014/NĐ-CP ngày 22-9-2014 của Chính
phủ quy định về Thu hút cá nhân hoạt động

khoa học và cơng nghệ là người Việt Nam ở
nước ngồi và chuyên gia nước ngoài tham
gia hoạt động khoa học và công nghệ tại
Việt Nam, đây là nghị định đầu của Chính
phủ liên quan trực tiếp tới cơng tác thu hút
trí thức NVNONN. Nghị định đã nêu các
chính thu hút cụ thể như: Chính sách về xuất
nhập cảnh và cư trú; chính sách về tuyển
dụng, lao động, học tập; chính sách tiền
lương; chính sách về nhà ở; chính sách về
tiếp cận thơng tin; chính sách về khen
thưởng, vinh danhvaf một số chính sách
khác. Các chính sách đã đề cập cơ bản các
vấn đề mà trí thức NVNONN mong mỏi, tạo
hành lang pháp lý quan trọng cho các địa
phương, cơ quan mạnh dạn đề ra kế hoạch
thu hút trí thức kiều bào theo nhu cầu thực
tiễn.
Từ những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước hàng năm có khoảng 300
lượt trí thức người Việt Nam ở các nước
phát triển như Mỹ, Pháp, Cộng hòa Liên
bang Đức, Nhật, Australia... về nước làm
việc với các bộ ngành, địa phương, các cơ
quan nghiên cứu khoa học hoặc các cơ sở
sản xuất, chế biến sản phẩm; trong đó có

2
THƠNG TIN KHOA HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - SỐ 5 (54)-2019



NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG NƯỚC
_____________________________________________________________________________________

một số người đã được mời làm tư vấn cho
Thủ tướng Chính phủ. Một số lĩnh vực đang
nghiên cứu hợp tác có hiệu quả như tin học
và ứng dụng tin học, điện tử, viễn thơng, y
học, vật liệu cơmposit, giáo dục-đào tạo, tài
chính-kế tốn, ngân hàng, xây dựng, cơng
nghệ in, chế biến và bảo quản thực phẩm,
giống cây, nuôi trồng thủy sản, xử lý chất
thải công nghiệp... Đặc biệt, giai đoạn 3 năm
2015, 2016 và 2017 đánh dấu q trình hợp
tác sơi động với mật độ liên tục, diễn ra trên
khắp các lĩnh vực giữa trí thức kiều bào với
trong nước với một số sự kiện tiêu biểu như:
Diễn đàn Chuyên gia trí thức NVNONN với
phát triển kinh tế và hội nhập của Việt Nam
giai đoạn 2016 – 2020 do Bộ Ngoại giao
phối hợp với Ban Kinh tế TW và Nhóm
Sáng kiến Việt Nam tổ chức, với sự tham dự
của hơn 100 đại biểu, trong đó hơn 30 người
là các chuyên gia kinh tế, tài chính, luật,
hành chính cơng đang làm việc tại các
trường đại học của Mỹ, Pháp, Úc, Nhật… và
các tổ chức quốc tế; Hội nghị NVNONN đã
thu hút khoảng 500 trí thức, doanh nhân, nhà
hoạt động xã hội là người Việt Nam đang
sinh sống tại 36 quốc gia và vùng lãnh thổ

trên thế giới, tham gia đóng góp ý kiến phát
triển kinh tế, khoa học, nhân lực cho thành
phố Hồ Chí Minh. Diễn đàn kết nối các
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo của
người Việt tại Mỹ và Việt Nam” tại San
Francisco và New York, Mỹ, tổ chức tháng
12-2017 thu hút sự tham dự của gần 150 đại
biểu bao gồm các cơ quan chức năng và
doanh nghiệp khởi nghiệp của Việt Nam, đại
diện một số quỹ đầu tư, vườn ươm khởi
nghiệp, chuyên gia khởi nghiệp của Mỹ và
các doanh nghiệp khởi nghiệp thành công
của người Việt tại Mỹ 7.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc huy
động chất xám của trí thức kiều bào còn tự
phát và manh mún, mới dừng ở việc mời các
nhà khoa học về nước làm tư vấn cho một số
dự án, tham gia giảng dạy tại các cơ sở giáo
dục. Việc động viên khuyến khích các nhà
khoa học kiều bào tầm cỡ tham gia vào các
lĩnh vực ưu tiên của đất nước vẫn chưa làm

được nhiều. Nhiều trí thức NVNONN mong
muốn đóng góp trí tuệ và tâm huyết của
mình cho đất nước, nhưng họ khơng biết
trong nước cần gì và làm thế nào để có thể
đóng góp, trong khi họ bị những ràng buộc
về pháp lý, về thời gian... Trong khi đó các
cơ quan chức năng trong nước chưa đưa ra
những kế hoạch dài hơi, yêu cầu cụ thể cũng

như những biện pháp, chính sách thỏa đáng
để tranh thủ sự đóng góp chất xám của trí
thức kiều bào. Quan trọng hơn là cịn thiếu
một cơ chế thơng thống để trí thức kiều bào
có nhiều cơ hội làm việc và phát triển, đóng
góp trí tuệ của mình cho đất nước. Việc tổng
kết, thống kê cơng tác thu hút trí thức
NVNONN cịn hạn chế, thậm chí con số
chính xác trí thức kiều bào về nước cũng
chưa có, các số liệu mới chỉ là ước chừng.
Nguyên nhân hạn chế
Một là, hiện nay đang thiếu một cơ
sở dữ liệu mở có khả năng liên kết mạng
lưới cộng đồng trí thức người Việt Nam
trên thế giới, vừa cập nhật hồ sơ của các cá
nhân và chia sẻ thông tin, vừa trở thành
diễn đàn tăng cường kết nối trí thức người
Việt ở trong cũng như ngồi nước. Đây
khơng chỉ là một cơ sở dữ liệu mà cịn là
một mạng lưới có sự điều phối cũng như có
các hoạt động để tăng cường hiệu quả liên
kết của các thành viên. Điều này đặc biệt
cần thiết vì hiện nay trong nước đang rất
cần kiến thức và kinh nghiệm của các
chuyên gia giỏi để hợp tác phát triển một số
lĩnh vực công nghệ cao đang ưu tiên như:
cơng nghệ điện hạt nhân, vũ trụ, tự động
hóa,...
Hai là, các bộ, ngành, địa phương,
các trường đại học, viện nghiên cứu đều có

nhu cầu thu hút chun gia trí thức kiều bào
về hợp tác, làm việc nhưng chưa có các
chương trình dự án khả thi; vai trị của trí
thức mới được đề cập chung chung trên
nhiều văn bản giấy tờ, kết quả của các cuộc
hội nghị, hội thảo mà không được triển khai
trong thực tế hoặc các kiến nghị của kiều

3
THƠNG TIN KHOA HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - SỐ 5 (54)-2019


NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG NƯỚC
_____________________________________________________________________________________

bào khơng được giải quyết. Các bộ, ngành,
địa phương chưa xác định được nhu cầu sử
dụng cũng như thiếu thông tin về chuyên
gia trí thức NVNONN nên rất khó khăn
trong việc tham khảo và sử dụng...
Ba là, một thực tế có thể thấy rõ là
việc ứng dụng các cơng trình nghiên cứu
khoa học cịn ít hiệu quả, việc trọng dụng
và trả lương cho người nghiên cứu chưa
thực sự xứng đáng,... cũng là những trở
ngại, là điểm không hấp dẫn đối với các
chuyên gia, trí thức NVNONN.
Bốn là, trong hoạt động khoa học,
sự khác biệt về tư duy và phong cách làm
việc,... cũng là rào cản đáng kể đối với các

chương trình hợp tác làm việc chung. Vai
trị của người trí thức Việt kiều ở các
trường đại học, viện nghiên cứu chưa được
đề cao. Ngồi ra, tình trạng thiếu thốn các
điều kiện nghiên cứu như phịng thí
nghiệm, mối liên hệ quốc tế, ê-kíp làm việc
mạnh... cũng được xem là những khó khăn
khơng nhỏ. Bên cạnh đó, vướng mắc trong
kinh phí xét – cấp cho các hoạt động nghiên
cứu khoa học cơng nghệ nói chung và thiếu
các chế độ đãi ngộ cụ thể đối với chuyên
gia trí thức kiều bào đã và đang là cản trở
lớn đối với việc huy động chuyên gia trí
thức NVNONN về nước làm việc.
Tiềm năng trí thức của kiều bào là
rất lớn, được đánh giá là một thế mạnh của
cộng đồng, nhưng hầu như chưa có chính
sách khai thác hiệu quả. Vì vậy, để xây
dựng một đội ngũ trí thức lớn mạnh, cần có
sự quan tâm hơn nữa của Đảng và Nhà
nước, đặc biệt phải xây dựng được một cơ
chế “đặc biệt” mang tính đột phá nhằm thu
hút hơn những nguồn lực cả về kinh tế và
chất xám của chuyên gia, trí thức kiều bào.
Cần xác định tiêu chí lựa chọn và thu hút
người tài, xây dựng các tiêu chuẩn, quy
định sàng lọc để lựa chọn được những cá
nhân xuất sắc nhất trong cộng đồng
NVNONN cũng như xây dựng chính sách
hỗ trợ tài chính cho họ. Mặt khác, Nhà


nước cũng cần dành ngân sách ưu tiên đầu
tư phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa
học, đầu tư đúng mức cho giáo dục đào tạo,
tập trung phát triển nhân lực trình độ cao.
Cần có những biện pháp để những chính
sách đã được ban hành được thực thi có
hiệu quả: tạo điều kiện thuận lợi để kiều
bào mua nhà ở, loại bỏ những thủ tục hành
chính khơng cần thiết, thực hiện cơ chế
“một cửa” trong giải quyết các thủ tục hành
chính đối với kiều bào, sửa đổi, bổ sung
một số quy định về tuyển dụng trí thức kiều
bào vào các vị trí quản lý tại các cơ quan
trong nước.
2. Một số kiến nghị, giải pháp
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, xây
dựng mô hình và phát triển kinh tế - xã hội,
lấy nền tảng kinh tế tri thức làm mục tiêu,
động lực để hội nhập sâu rộng rất cần sự
đóng góp trí tuệ hơn nữa của trí thức. Vì
vậy, tri thức của dân tộc, của nhân loại cần
được tham khảo một cách cầu thị, nghiêm
túc, chân thành. Với nguồn “tài nguyên” vô
giá từ trí thức NVNONN nếu khơng được sử
dụng sẽ là một sự lãng phí, đáng tiếc, nhưng
nếu sử dụng phù hợp sẽ góp phần quan trọng
đưa con đường chúng ta đã lựa chọn đi tới
thành cơng. Q trình sử dụng đó, cần một
giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ thể hiện trong

sự quyết liệt của chính sách là yếu tố then
chốt tạo nên hiệu ứng mạnh mẽ và hiệu quả.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách
Quyết tâm của Đảng đã được thể
hiện qua các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết
chuyên đề về công tác đối với NVNONN,
tiếp theo đó là cụ thể hóa qua Chương trình
hành động của Chính phủ là một bước
chuyển mạnh mẽ đi từ tuy duy đến hành
động của Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề
NVNONN. Tuy nhiên, chính sách, cơ chế
đặc thù nhằm thu hút trí thức NVNONN cịn
chung chung, chưa thật sát với tình hình
thực tiễn. Điều này dẫn tới một thực trạng là
các địa phương, cơ quan khi thực hiện chính

4
THƠNG TIN KHOA HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - SỐ 5 (54)-2019


NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG NƯỚC
_____________________________________________________________________________________

sách cịn lúng túng, mang tính khẩu hiệu và
hình thức.
Điểm lưu ý trong chính sách cần xác
định những vướng mắc, cản trở sự đóng góp
của NVNONN nói chung và trí thức
NVNONN nói riêng từ đó đưa ra giải pháp
tháo gỡ, khơi thơng. Chính sách “khai thác”

và lợi ích chính đáng cần được xem xét thấu
đáo, hài hòa, tránh tư duy một chiều nặng về
“khai thác” nhẹ về lợi ích, làm như vậy bà
con mới khơng có cảm giác bị “lợi dụng”
mà sẵn sàng cống hiến hết mình cho cả hai
mục tiêu: ích nước - lợi nhà. Trong thời đại
số hóa, việc họ về nước hay khơng đều có
thể có những hình thức đóng góp cho đất
nước, vì vậy chính sách cần lưu ý điểm này,
để vấn đề địa lý, không gian không là rào
cản trong q trình thu hút.
Trí thức thường rất nhạy cảm và tự
trọng cao nên chính sách cũng cần phải đem
lại cho họ cảm giác được trân trọng, xóa bỏ
hồn tồn mặc cảm thành phần. Từ đó, đóng
góp của họ mới thực sự chân thành, hết
lòng, hết sức, hiệu quả.
Xây dựng cơ sở dữ liệu và thành
lập nhóm hoạt động
Hiện nay, Uỷ ban Nhà nước về
NVNONN đang xây dựng cơ sở dữ liệu về
trí thức NVNONN tập hơn danh sách trên
100.000 người có thơng tin từng ngành,
nghề và địa chỉ. Nhưng danh sách này còn
khá khiêm tốn so với tổng số trí thức kiều
bào, vì vậy cần đẩy nhanh tiến độ điều tra xã
hội học hơn nữa và khi có dữ liệu tương đối
cần giữ liên hệ thường xuyên với họ để nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng và sẵn
sàng đặt hàng những vấn đề trong nước đang

cần thiết.
Việc thành lập những nhóm hoạt
động theo từng vấn đề cần phải thực hiện
chun nghiệp, có tính định hướng, bên
cạnh những vấn đề hiện nay đang được chú
trọng như: giáo dục – đào tạo, khoa học –
công nghệ, kinh tế, văn hóa.., thì vấn đề

chính trị, chính sách chưa được quan tâm
nhiều. Bản thân trí thức NVNONN đang có
nhiều trăn trở, suy nghĩ, bàn luận về vấn đề
này, tuy nhiên chủ yếu mang tính tự phát, lẻ
tẻ, thiếu định hướng. Do đó, một nhóm hoạt
động nghiên cứu về chính trị, chính sách do
Nhà nước thành lập, bảo trợ sẽ tập hợp được
số lượng cũng như định hướng được nội
dung sinh hoạt, chủ điểm, chủ đề nghiên
cứu, bàn luận phù hợp với nhu cầu của đất
nước.
Tổ chức hội thảo, đặt hàng nghiên
cứu nội dung cụ thể, chuyên sâu
Hiện nay đã có nhiều hội thảo, gặp
gỡ, trao đổi, đối thoại giữa Chính phủ, tỉnh,
thành với NVNONN. Tuy nhiên, việc tổ
chức và nội dung hội thảo, trao đổi khá
rộng, vì vậy tính chun sâu, cụ thể chưa
được phát huy. Nghiên cứu cách thức, nội
dung phù hợp để giải quyết vấn đề này cần
phải tiếp tục thực hiện. Phát huy trí tuệ tổng
hợp của dân tộc có thêm những ý kiến, góp

ý, phản biện, đề xuất từ trí thức kiều bào sẽ
góp một phần vào thành cơng trong q
trình xây dựng, phát triển đất nước.
Về tổ chức, có thể linh hoạt tổ chức
trong nước hoặc nước ngồi, nhưng cần đa
dạng trí thức người Việt Nam ở nhiều nước
khác nhau. Thực tiễn không hẳn chỉ những
cường quốc lớn mới có những thế mạnh, mà
mỗi nước nhỏ hay yếu thế hơn đều có thế
mạnh riêng của mình. Với phương châm cầu
thị, việc tiếp nhận những điểm mạnh, điểm
yếu của nhiều nước giúp các cấp lãnh đạo có
cái nhìn đa dạng, tổng thể, cụ thể, từ đó làm
kinh nghiệm quý báu để có nhưng chủ
trương phù hợp, tránh phiến diện, nơn nóng
làm nhanh, làm gấp hoặc trì trệ, quá thận
trọng làm lỡ cơ hội.
Tăng cường thông tin, tuyên
truyền
Luận điệu của các thế lực thù địch
mặc dù hiện nay đã yếu ớt, khơng cịn nhiều
uy tín trong cộng đồng NVNONN, nhưng lại

5
THƠNG TIN KHOA HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - SỐ 5 (54)-2019


NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG NƯỚC
_____________________________________________________________________________________


có những thủ đoạn khó lường và đa dạng
hình thức tun truyền. Vì thế, cần cảnh giác
và có sự tuyên truyền mạnh mẽ hơn của Nhà
nước để đập tan luận điệu phản động, xuyên
tạc.
Trong thời gian tới, cần tăng cường
thông tin, tuyên truyền đa dạng hình thức,
nội dung, để trí thức NVNONN hiểu đúng
tình hình đất nước, chính sách của Đảng và
Nhà nước, tránh hoang mang, dao động. Trí
thức người Việt Nam ở nước ngồi hiểu
đúng, hiểu đủ tình hình đất nước, chính sách
của Đảng và Nhà nước thì lúc đó họ mới sẵn
sàng đóng góp trí tuệ một cách vơ tư, khách
quan, thực chất.
2. Kết luận
Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ
Chính trị đã khẳng định NVNONN là một
bộ phận, một nguồn lực của đất nước và yêu
cầu cả hệ thống chính trị và tồn dân có
trách nhiệm, kết hợp việc xây dựng đồng bộ
các cơ chế, chính sách với cơng tác vận
động, kết hợp các hoạt động trong nước và
ngoài nước, bằng nhiều loại hình và biện
pháp khác nhau phù hợp với các đối tượng
và địa bàn khác nhau. Tuy nhiên đến nay
vẫn cịn q ít các chính sách thu hút, tạo
mơi trường, điều kiện để trí thức kiều bào về
đóng góp xây dựng đất nước. Nhiều cấp
chính quyền chưa thực sự quan tâm đến việc

thu hút và tạo điều kiện, mời chuyên gia,
chưa xác định được nhu cầu hợp tác cụ thể.
Phần lớn những nơi đã và đang thực hiện
các chương trình hợp tác với trí thức
NVNONN vẫn chỉ dừng ở mức cung cấp

thông tin về giảng dạy ngắn ngày, tổ chức
trao đổi, toạ đàm v.v… Các bộ ngành, địa
phương cũng chưa xây dựng được những cơ
chế cụ thể, thiết thực cũng như dành những
khoản kinh phí thích đáng để thu hút chuyên
gia, trí thức NVNONN. Chúng ta cần xây
dựng các cơ chế, chính sách, các giải pháp
đồng bộ từ vi mơ đến vĩ mô, tăng cường
nhận thức và phối hợp của các ngành, các
cấp để tạo ra bước chuyển mạnh mẽ, tiếp
thêm động lực cho kiều bào ta nói chung và
trí thức NVNONN nói riêng, hướng về đất
nước, tích cực tham gia đóng góp xây dựng
q hương./.
___________________
1,2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08
NQ/TW về công tác vận động người Việt
Nam ở nước ngồi, ngày 29-11-1993.
3. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 36NQ/TW về công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngoài, ngày 26-3-2004.
45. Ban chấp hành Trung ương
Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW về Xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, ngày 6-8-2008.
6. Bộ Chính trị, Chỉ thị số 45CT/TW, Về việc tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị
khóa IX về cơng tác đối với người Việt
Nam ở nước ngồi trong tình hình mới,
ngày 19-5-2015.
7. Phát huy vai
trị của trí thức người Việt Nam ở nước
ngồi.

6
THƠNG TIN KHOA HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - SỐ 5 (54)-2019




×