Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

CUOC DOI HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.49 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THI TÌM HIỂU VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH</b>
<b>Chủ tịch Hồ Chí Minh thời niên thiếu</b>


Chủ tịch Hồ Chí Minh (sinh ngày 19-5-1890), thời niên thiếu tên là Nguyễn Sinh Cung, ra đời tại quê mẹ là làng
Hoàng Trù (thường gọi là làng Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).


Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862, quê ở làng Kim Liên (thường gọi là làng Sen), cùng thuộc xã Chung
Cự, cách Hoàng Trù 2km (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Xuất thân từ gia đình nơng dân,
sớm mồ cơi cha, mẹ, từ nhỏ đã chịu khó lao động và ham học. Vì vậy, được cụ Hoàng Đường ở làng Hoàng Trù xin
họ Nguyễn Sinh đem về ni. Ơng vừa lao động vừa tiếp tục học tập. Khi trưởng thành ông thành hôn với người con
gái đầu của cụ.


Thân mẫu là Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868. Bà là một phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm
ruộng và dệt vải, hết lòng chăm lo cho chồng con ăn học.


Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình.


Chị là Nguyễn Thị Thanh, cịn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884.
Anh là Nguyễn Sinh Khiêm, cịn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888.


Gia đình Nguyễn Sinh Cung sống trong một căn nhà nhỏ ba gian, lợp tranh, trên đất vườn của ơng bà ngoại tại Hồng
Trù.


Năm 1890 - 1895, Nguyễn Sinh Cung sống ở làng Hoàng Trù trong tình thương u và chăm sóc của bố mẹ và ơng
bà ngoại. Ơng ngoại là Hồng Đường, dạy chữ Hán ngay tại nhà cho một số trẻ em trong làng. Bà ngoại là Nguyễn
Thị Kép, làm ruộng để ni gia đình.


Ngày 22 tháng 5 năm 1893, Nguyễn Sinh Cung chịu tang ông ngoại.


Khoảng tháng 6 năm 1894, Nguyễn Sinh Cung đón nhận tin vui: Cha đậu cử nhân, khoa thi giáp Ngọ năm thành Thái


thứ 6 tại trường thi Nghệ An.


Khoảng gần cuối năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha mẹ vào Huế. Thời kỳ này từ Nghệ An đi Huế
chưa có đường xe lửa và ô tô. Mọi người phải đi bộ, trẻ em thường ngồi trong quang gánh của người lớn. Tới Huế,
lúc đầu gia đình Nguyễn Sinh Cung phải ở nhờ những người quen, sau ở tạm trong một gian trại lính gần Viện đô sát
(ngày nay là nhà số 114, đường Mai Thúc Loan).


Gần cuối năm 1898, Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha đến ở nhà ông Nguyễn Sĩ Khuyến, làng Dương Nổ, xã
Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Lúc này, ông Nguyễn Sinh Sắc mở lớp dạy chữ Hán cho một số học
sinh trong làng, Nguyễn Sinh Cung cũng theo học.


Ngày 10 tháng 2 năm 1901, Nguyễn Sinh Cung chịu tang lớn trong tuổi thiếu niên: bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu
lâm bệnh qua đời tại Huế. Bà đã được những người láng giềng thân thiết lo việc mai táng, vì lúc này ơng Nguyễn
Sinh Sắc và Nguyễn Sinh Khiêm đang ở quê nhà.


Sau khi mẹ mất, Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Sinh Xin (em trai Nguyễn Sinh Cung, sinh vào cuối năm 1900 tại
Huế; sau khi bà Hồng Thị Loan mất, Nguyễn Sinh Xin được ơng Nguyễn Sinh Sắc đưa về Hồng Trù gửi bà ngoại
trơng nom, nhưng yếu sức nên mấy tháng sau thì chết) về quê.


Tại quê, Nguyễn Sinh Cung học chữ Hán với thầy Hồng Phan Quỳnh, lớp học mở tại xóm Vang, làng Hữu Biệt,
cách Hoàng Trù 3km (nay thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).


Tháng 5 năm 1901, một tin vui đến với gia đình Nguyễn Sinh Cung và dân làng: Ơng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn
Sinh Sắc) đậu Phó bảng khoa thi Hội, Tân Sửu, năm Thành Thái thứ 13.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nhân dịp này, ông Nguyễn Sinh Sắc làm lễ "Vào làng" cho hai con trai, với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm)
và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).


Cũng như nhiều vùng khác ở nông thôn Nghệ An, Làng Sen vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm từ khi mất nước. Tại
đây, ngoài nghề làm ruộng, bà con nơng dân cịn làm nhiều nghề khác như dệt vải, đan lát hoặc nghề sơn tràng, kiếm


củi, đốt than...


Xưa kia, vùng này gọi là Trại Sen với những địa danh toàn sen: nào Đồng Sen Cạn, Đồng Sen Sâu, Giếng Sen, Đầm
Sen; nào Vực Sen, Bàu Sen, Chợ Sen, Cồn Sen...


Sen góp phần tạo nên cảnh trí thiên nhiên đặc sắc ở đây nên mới gọi là Làng Sen. Nhân dân Làng Sen tự hào vì làng
mình đẹp, lại có nhiều nho sĩ thường hay lui tới đàm đạo văn chương, thời thế.


Với tâm hồn thơ mộng, rất yêu thiên nhiên, Nguyễn Tất Thành tự hào với cảnh đẹp của làng quê mình. Nhưng điều
đáng tự hào hơn cả là làng Kim Liên có nhiều di tích lịch sử và anh hùng hào kiệt. Ngay trước ngõ nhà cậu, chếch về
phía phải là Giếng Cốc, nơi bọn thực dân Pháp đã ra lệnh tát cạn nước để tìm vũ khí của "chung nghĩa binh", khi
chúng đã đàn áp được cuộc khởi nghĩa Vương Thúc Mậu (năm 1886). Hình ảnh người anh hùng của quê hương,
người bạn dạy học của ông ngoại cậu đã hy sinh ngay tại làng để bảo tồn khí tiết đã từng gây xúc động mạnh trong
lòng Nguyễn Tất Thành.


Sau tháng 9 năm 1901, một vinh dự lớn cho Nguyễn Tất Thành là được cha gửi sang học chữ Hán với thầy Vương
Thúc Quý và thầy Trần Thân ở ngay trong làng Kim Liên. Thầy Vương Thúc Quý vốn là nhà nho, giàu lòng yêu
nước cho nên Nguyễn Tất Thành và bạn học đều chịu ảnh hưởng chí hướng của thầy. Nguyễn Tất Thành là một học
trị nhanh trí và có trí nhớ tốt, được thầy yêu mến. Học với thầy Vương Thúc Quý, Tất Thành cảm thấy thoải mái, dễ
hiểu vì thầy thức thời, khơng nệ cổ, khơng bắt học trị nhồi sọ cổ văn theo lối "tầm chương trích cú". Là tấm gương
sáng cho học trò noi theo, thầy gợi cho Nguyễn Tất Thành những vấn đề mà trong bước trưởng thành, anh còn phải
tìm hiểu cho đến nơi đến chốn.


Khoảng năm 1901-1902, Nguyễn Tất Thành bước đầu tiếp thu tư tưởng yêu nước của các bậc cha chú thông qua mối
quan hệ giữa cha với các sĩ phu trong vùng. Phan Bội Châu, trong tác phẩm <i>Phan Bội Châu niên biểu, kể lại rằng:</i>
Nguyễn Tất Thành thường nghe cụ ngâm hai câu thơ và sau này anh vẫn nhắc lại:


<i>Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch</i>
<i>Lập thân tối hạ thị văn chương</i>
Nghĩa là:



<i>Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách</i>
<i>Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương</i>


Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, Nghệ An và tiếp tục học
chữ Hán. Thời gian này, ông Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ) dạy tại nhà ông Nguyễn Thế Văn.


Ngày 13 tháng 4 năm 1904, Nguyễn Tất Thành chịu tang bà ngoại. Đây là cái tang lớn của cả gia đình. Sở dĩ ơng
Nguyễn Sinh Sắc học hành và đỗ đạt được chủ yếu là nhờ sự bù trì, giúp đỡ của gia đình phía vợ. Bà ngoại cũng đã
giành cho Thành và những người cháu sớm mồ cơi mẹ lịng u thương sâu sắc. Bà mất, Tất Thành đau xót, nghẹn
ngào. Hình ảnh ơng ngoại, mẹ và em Xin lại hiện lên rõ nét trong trí nhớ của Tất Thành. Thế là trong tuổi thiếu niên,
Tất Thành phải chịu bốn cái tang của gia đình. Nhìn lên bàn thờ bà ngoại, Tất Thành xót xa, nhớ tiếc với bao kỷ niệm
thân thương của hai bà cháu quanh góc sân, mảnh vườn.


Sau kỳ đại tang đó, Nguyễn Tất Thành theo cha sang làng Du Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã
Đức Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Thời gian này, ông Nguyễn Sinh Sắc dạy học ở nhà ơng Nguyễn Bá Uy.
Ngồi giờ học tập, Nguyễn Tất Thành thường theo cha đến các vùng trong tỉnh thăm các nhân sĩ yêu nước (đến làng
Đơng Thái - q hương của Phan Đình Phùng, làng Trung Lễ - quê hương của của Lê Ninh, v.v...) hoặc thăm các di
tích lịch sử như thành Lục Niên, miếu thờ La Sơn phu tử, v.v...


Tháng 7 năm 1905, Nguyễn Tất Thành theo cha đến huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình trong dịp ơng Nguyễn Sinh
Sắc đi gặp các sĩ phu ở vùng đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thấy đâu đâu cảnh nghèo đó cũng phơi bày ra trước mắt. Nhan nhản người ăn xin ở khắp mọi nơi. Hầu như làng quê
nào cũng chỉ nổi lên vài ba ngôi nhà đồ sộ bên cạnh hàng trăm túp lều xơ xác, tiêu điều. Mùa đông giá lạnh càng
nhiều cảnh thê thảm hơn. Không đủ manh áo che thân, nhiều người phải quấn tơi, chiếu hoặc bao tải rách. Bọn đế
quốc và địa chủ phong kiến đang hút tủy, rút xương dân chúng bằng hàng trăm thứ thuế nặng nề và phu đài, tạp dịch.
Từ người lớn đến trẻ con ai ai cũng sợ "ông Tây". Anh Thành cảm thấy nỗi nhục mất nước hằn rõ trên gương mặt
mỗi người Việt Nam.



Tháng 9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân phụ xin cho theo học lớp dự bị Trường tiểu học
Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh, cách Kim Liên khoảng 14 km.


Hai anh em trọ ở một gia đình nghèo mạn Cầu Rầm (Vinh) và thường thường chiều thứ bảy đi bộ về thăm nhà, sáng
thứ hai lại xuống Vinh.


Chính tại Trường tiểu học này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên tiếp xúc với khẩu hiệu TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC
ÁI.


Cái nơi q hương giàu truyền thống bất khuất với bản sắc riêng của xứ Nghệ đã tạo cho Nguyễn Tất Thành sớm có
lịng u nước, thương dân, căm thù giặc và ý chí "Làm trai cho đáng nên trai". Những tấm gương của các thầy giáo
và những hoạt động sôi nổi của các bậc cha chú như Phan Bội Châu... đã kích thích cao độ chí làm trai của anh. Thái
độ bất hợp tác, ngầm chống đối thực dân, phong kiến và nhận thức được thời cuộc, lòng thương dân, yêu nước của
thân phụ có ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành nhân cách của anh.


<b>THI TÌM HIỂU VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH</b>
<b>Con đường Bác Hồ ra đi cứu nước</b>


Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn là người thiếu niên 15 tuổi. Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước
cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia
cơng tác bí mật, nhận cơng việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Phan Chu
Trinh và Phan Bội Châu, nhưng khơng hồn tồn tán thành cách làm của một người nào. Vì:


Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì xin giặc
rủ lòng thương.


Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước,
rước beo cửa sau".


Cụ Hồng Hoa Thám cịn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng


cốt cách phong kiến.


Nghiên cứu những bài học lịch sử của các bậc cha, anh và khảo nghiệm trong thực tiễn, anh Nguyễn Tất Thành thấy
rằng mọi cách thức tiến hành ở trong nước, hay đi ra nước ngồi, sang Trung Quốc, hay Nhật Bản đều khơng thể
thành công. Những con đường mà các bậc sĩ phu đã đi đều bị kết thúc bằng những thất bại đau đớn. Phải tìm con
đường khác, con đường mới; phải đi ra nước ngồi nhưng theo một hướng khác. Đó là kết luận rất quan trọng của
anh thanh niên Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước mãnh liệt và một cách suy nghĩ táo bạo, một trí tuệ hết sức
minh mẫn quyết khám phá bằng được con đường đi đến giải phóng cho đồng bào.


Tư tưởng quyết hướng sang nước Pháp tìm đường cứu nước sớm nảy sinh ở anh Nguyễn Tất Thành. Nhưng anh cần
có thời gian chuẩn bị, suy nghĩ chín chắn hơn, để phác họa con đường sẽ đi, ít ra là chặng đầu.


Tháng 5 năm 1909, Nguyễn Tất Thành từ giã Huế theo cha vào huyện Bình Khê thuộc tỉnh Bình Định (nay là huyện
Tây Sơn, tỉnh Bình Định) nhân ơng Nguyễn Sinh Sắc được cử nhận chức tri huyện ở đó. Để tiếp tục việc học tập, từ
tháng 9 năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi đến Quy Nhơn để học thêm tiếng Pháp với thầy giáo Phạm Ngọc
Thọ dạy tại Trường tiểu học Pháp - bản xứ Quy Nhơn theo chương trình lớp cao đẳng. Ơng Phạm Ngọc Thọ kính
trọng quan thừa biện Nguyễn Sinh Huy và rất mến Tất Đạt, Tất Thành. Tất Thành rất yêu quý Phạm Ngọc Thạch,
con trai ông Thọ. (Trên đường từ Huế vào Sài Gòn, để đáp tàu ra nước ngồi tìm "con đường giúp đồng bào thốt
khỏi ách thống trị của Pháp", Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc, tức là Chủ tịch Hồ Chí Minh mn
vàn kính u, đã dừng chân lại tỉnh Bình Định một thời gian đáng kể. Khoảng thời gian đó nếu tính đến đầu tháng
8-1910 là hơn 12 tháng, từ 18-5-1909 đến 30-7-8-1910).


Vào một ngày đầu thu (tháng 8-1910), Nguyễn Tất Thành tạm biệt Quy Nhơn, đi vào Sài Gòn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

rưới.


Lần theo ven biển đi đến Phan Rang, anh thấy một cảnh tượng đau lòng mà mấy năm sau, anh còn nhắc lại với một
người bạn: Những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo.
Ở đâu chúng nó cũng thế. Ở ta, tơi cũng thấy chuyện như thế xảy ra ở Phan Rang. Bọn Pháp cười sặc sụa trong khi
đồng bào ta chết đuối vì chúng nó. Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa da vàng hay da đen cũng


không đáng một đồng xu.


Từ nửa sau tháng 9-1910 đến trước tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành dạy học ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết).
Thời gian đầu, thầy Thành ở nhờ nhà cụ Hồ Tá Bang, sau chuyển ra ở cùng với học sinh nội trú của trường tại nhà
Ngư trong vườn cụ Nguyễn Thông.


Thầy Thành được phân công dạy chữ Hán và chữ quốc ngữ cho học sinh lớp nhì. Thầy dạy rất tận tâm, hết lịng
thương u, chăm sóc học sinh. Thầy đã trao đổi tâm tư về thân phận người dân mất nước nhiệm vụ cứu nước của
mỗi người dân Việt Nam, trước hết là thanh niên có học thức với các thầy giáo và học sinh. Vấn đề thầy Thành đặt ra
cũng là nỗi băn khoăn chung của thầy và trị, nên đã có ngay được sự đồng cảm sâu sắc, cùng nhau đào sâu chí căm
thù và bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc, bày mưu tính kế đánh đuổi quân thù.


Sau mấy tháng dạy học ở Trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành rời trường đi vào Sài Gịn, thực hiện hồi bão từng
nung nấu là tìm cách đi sang Pháp và các nước phương Tây để xem "họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào
chúng ta".


Trước ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bàn với một số người bạn thân về chuyến đi ra nước ngoài. Anh
nói: tơi muốn đi ra ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp
đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi
không?


Khi người bạn hỏi lấy đâu ra tiền mà đi, anh Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay:
- Đây, tiền đây... chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi.


Ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, một tàu lớn vừa chở hàng
vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị rời Cảng Sài Gòn đi Mác Xây, Pháp.


Ngày 3 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc ở tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, nhận thẻ nhân viên của
tàu với tên mới: Văn Ba.



Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành từ cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gịn (nay là thành phố Hồ Chí Minh)
rời Tổ quốc. Người thanh niên 21 tuổi ấy ra đi với mục đích gì? Để kiếm kế sinh nhai, hay để thỏa mãn một ước mơ
xa lạ nào đó của tuổi trẻ. Điều đó, hơn mười năm sau chính anh đã trả lời nhà báo, nhà thơ Nga ÔXip Mandenstan
rằng: Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI. Đối với chúng
tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy.


Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ Anna luy Xtirơng, Người nói: Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra
tôi, lúc này thường hỏi nhau ai là người giúp mình thốt khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người
khác nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tơi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra
sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tơi.


Sau 30 năm bơn ba tìm đường cứu nước, trước yêu cầu mới của tình hình và được Quốc tế Cộng sản chấp nhận, ngày
28 tháng 1 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về nước. Khi bước tới cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung
(thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), Người đứng lặng hồi lâu, xúc động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

ghi rõ: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn
thể dân tộc thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng khơng địi lại được". Đồng thời, Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết mọi lực lượng yêu nước, chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, không
phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo... Nhằm phát huy sức mạnh của ba dân tộc Việt, Miên, Lào dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, theo sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Hội nghị chủ trương: ở Lào và ở
Campuchia thành lập mặt trận thống nhất riêng của hai dân tộc: Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng
minh. Sau khi cách mạng thắng lợi, mỗi quốc gia sẽ thành lập một chính phủ riêng và độc lập. Đối với nước ta, Hội
nghị chủ trương thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cánh ở giữa làm quốc
kỳ. Để đoàn kết toàn dân một cách rộng rãi, thực hiện chủ trương cứu nước do Hội nghị Trung ương lần thứ tám nêu
ra, trong bản Chương trình hành động, Việt Minh đã đề ra những chính sách cụ thể nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân
dân, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.


Cùng với Kính cáo đồng bào của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), ngày 6 tháng 6 năm 1941, những chính sách cụ


thể, hợp lòng dân của Việt Minh đã quy tụ tồn dân dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa Cách
mạng tháng Tám 1945 đến thắng lợi.


Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng Trường Ba Đình
(Hà Nội), tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam và
là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến.


Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí
Minh được tồn dân bầu làm Chủ tịch của nước Việt Nam mới. Với cương vị cao quý ấy, tư tưởng cách mạng và
khoa học của Người được thể chế bằng Hiến pháp và pháp luật hiện hành của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(1946).


Nhưng nhân dân Việt Nam giành được độc lập chưa bao lâu thì thù trong giặc ngồi câu kết với nhau đẩy nước lâm
vào cảnh "nghìn cân treo sợi tóc". Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai.


Đường lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu, lập lại hịa bình ở Đơng Dương.


Hịa bình được lập lại, nhưng đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã
sớm xác định rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là đế quốc Mỹ, và vạch ra đường lối cùng
một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ; miền
Bắc đã được hồn tồn giải phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước
thuộc địa, nửa phong kiến, được một Đảng Cộng sản lãnh đạo đã cùng một lúc tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược và
quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng phát triển và thấm sâu vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.


Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng.
Trong Di chúc, Người đã nói lên niềm tin tất thắng ở sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; tổng kết sâu sắc những bài học


đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước
sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: "Xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và
giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".


Bản Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy tâm huyết, thắm đượm tình người của Chủ tịch Hồ Chí Minh; một di
sản vô cùng quý báu của dân tộc và nhân loại.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×